Cổ Điển Nho Lâm Ngoại Sử - Ngô Kính Tử

  1. Riochan

    Riochan Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    20/12/14
    Bài viết:
    60
    Được thích:
    0
    Hồi 45​


    Dày hữu nghị thay anh chịu tội lỗi,

    Bàn địa lý về quán táng song thân

    Dư Hữu Đạt đưa bức thư nhà cho Đỗ Thiếu Khanh xem. Đại khái bức thư viết: “Ở nhà vừa xảy ra một việc, em đang lo liệu. Anh nhất thiết nhớ có về. Nghe tin anh ở đấy với chú. Thiếu Khanh, em rất yên tâm. Anh cứ ở đấy và đừng có bận tâm gì hết. Khi nào thu xếp công việc xong, em sẽ đến đón anh về”.

    Dư Hữu Đạt hỏi:

    – Có việc gì xảy ra?

    Đỗ nói:

    – Nếu em anh không muốn nói ra thì anh cũng không có cách gì biết được. Anh cứ ở đây rồi sẽ biết.

    Dư Hữu Đạt viết thư cho em: “Có việc gì thế? Em viết tất cả cho anh biết thì anh mới yên tâm được. Em không nói chỉ càng làm anh thêm lo lắng mà thôi”.

    Người bán vịt mang bức thư về cho Dư Hữu Trọng. Lúc đó Hữu Trọng đang nói chuyện với một tên sai nhân ở nha môn phái đến. Hữu Trọng cầm bức thư và bảo người bán vịt về. Hữu Trọng nói với tên sai nhân:

    – Tờ công văn này là để bắt tên phạm tội Dư Hữu Trọng. Nhưng tôi không bao giờ ở Vô Vi cả. Như vậy tôi đến nha môn để làm gì?

    – Ai biết ông đến hay không? Tất cả công việc của bọn sai nhân chúng tôi là cứ chiếu theo công văn mà bắt người. Trong nha môn chúng tôi, khi bắt bọn ăn cắp thì đời nào chúng lại thú nhận, ngay lúc bị kìm kẹp gần chết chúng cũng chẳng nói thực bao giờ!Hữu Trọng đành phải lên nha môn với hắn. Y đến công đường gặp tri huyện, quỳ và bẩm:

    – Con không bao giờ đến Vô Vi. Con không biết gì về việc này hết.

    – Ta không biết anh có ở đấy hay không! Nhưng ta có một tờ công văn ở châu Vô Vi gửi đến. Anh nói không bao giờ ở châu Vô Vi hết thì hãy nhìn đây.

    Tri huyện lấy một công văn có dấu son đỏ, bảo sai nhân đưa cho Hữu Trọng. Hữu Trọng đọc: “Về việc quan tri châu ở châu Vô Vi ăn hối lộ. Dự cống sinh người Ngũ Hà đã nhận của hối lộ…”.

    Hữu Trọng nói:

    – Việc này thì ngài thấy rất rõ: Tờ công văn này nói “cống sinh Hữu Trọng”. Nhưng con là tú tài, ít nhất cũng phải mười năm nữa mời là cống sinh.

    Hữu Trọng nói xong trả tờ công văn và định quay đi ra. Tri huyện nói:

    – Ông Dư! Đợi một lát đã! Tôi hiểu lời của ông! Cái đó có thể rõ ngay.

    Và quay hỏi người thơ lại:

    – Trong huyện có ai là cống sinh Dư Hữu Trọng không?

    – Gia đình ông Dư có một người đỗ cống sinh nhưng không phải tên là Hữu Trọng.

    Hữu Trọng nói:

    – Như thế thật là tờ công văn này nói vu vơ không vào đâu! Hữu Trọng lại đứng dậy định đi ra. Tri huyện nói:

    – Ông Dư! Ông về nhà viết một tờ trình nói rõ mình vô tôi. Sau đó tôi sẽ trả lời hộ ông.

    Hữu Trọng vâng dạ đi ra. Y cùng với tên sai nhân ra khỏi nha môn vào một tiệm trà để uống trà. Hữu Trọng đứng dậy định đi thì sai nhân nói:

    – Ông đi đâu thế? Tôi theo ông từ nhà đến nha môn suốt cả buổi sáng mà chưa hề có cơm nước gì cả. Mặc dầu đấy là việc của triều đình, nhưng ông cũng phải nể tôi thế nào chứ? Tôi giờ hơi sức đâu đi mãi với ông được nữa.

    – Quan huyện bảo tôi về nhà viết một tờ trần tình.

    – Ở công đường, ông vừa nói rằng ông là tú tài. Nhưng tú tài thì suốt năm viết đơn hộ người khác, còn về đơn của mình lại phải nhờ người khác viết hộ. Bên kia đường sau tiệm trà là chỗ cho các ông tú tài viết đơn. Ông vào đấy mà nhờ người ta viết.

    Hữu Trọng và tên sai nhân vào một cái nhà sau tiệm trà. Tên sai nhân nói với một người ngồi đấy:

    – Ông Dư muốn viết một cái đơn, anh viết giúp, ông Dư sẽ viết bản nháp và anh chép lại. Nếu ông ta mà không trả tiền cho anh thì thật lại nguy cho tôi. Tôi còn phải đến hàng cơm tìm cái thằng bị nhốt hôm qua, rồi tôi sẽ trở lại đây.

    Hữu Trọng vái chào người viết hộ.

    Người kia ngồi cái ghế ở bên bàn, đầu đội mũ rách, mặc áo cánh rách, đi đôi giày long cả đế. Hữu Trọng nhận ra là Đường Tam Đàm, một người bạn ở trong huyện, vốn là một người gây kiện tụng, lừa đảo. Đường Tam Đàm thấy Hữu Trọng liền nói:

    – Ông Dư! Mời ông ngồi!

    – Ông Đường! Ông đến đây sớm thế?

    – Nào có sớm gì đâu! Sáng sớm tinh mơ, tôi ăn miến ở nhà ông Phương thứ sáu. Sau khi tiễn ông ta ra khỏi thành tôi mới đến đây. Việc ấy tôi biết cả rồi.

    Y kéo Hữu Trọng ra một phía và nói thầm:

    – Này ông hai! Việc này tuy không phải là án quan trên đưa xuống, nhưng cũng gần như là án quan trên đưa xuống. Ai lại không biết ông anh của ông hiện nay đang ở Nam Kinh sao? Nhưng trong những việc như thế này, điều quan trọng nhất vẫn là việc xét xử của quan huyện ở đây.

    Mà quan huyện ở đây thì họ Bành nói gì là quan làm nấy. Như vậy, ông nên mau mau đến gặp ông Bành thứ ba để bàn bạc. Tất cả gia đình họ Bành đều dữ tợn như sói như cọp cả. Chỉ có ông Bành thứ ba là người tốt mà thôi. Nếu nhờ ông ta giúp đỡ trong lúc nguy cấp thì có lẽ ông ta cũng chẳng nghĩ gì đến việc trước đây anh không đi lại với ông ta. Ông ta là người nhân đức độ lượng, anh không sợ gì hết. Nếu như anh muốn, tôi sẽ cùng đi với anh. Thực ra hằng ngày phải năng lui tới với những người thân sĩ như thế. Tất cả chỉ vì ông anh của anh quá kiêu ngạo. Bây giờ, gặp phải việc này, anh biết nhờ vả vào ai.

    – Cám ơn anh có lòng săn sóc đến tôi. Nhưng vừa rồi quan huyện bảo tôi viết tờ trình để cho ngài trả lời hộ. Còn việc kia xin cho tôi suy nghĩ sau.

    – Cũng được! Tôi xem anh viết như thế nào.

    Dư viết ngay tờ trình và nộp cho tri huyện, tri huyện bảo thư biện căn cứ vào đó viết công văn trả lời cho châu Vô Vi. Và cố nhiên thư biện không quên đòi tiền giấy bút. Nửa tháng sau, một công văn khác lại đến. Lần này viết rõ ràng hơn: “Phạm nhân Dư Hữu Trọng là cống sinh ở Ngũ Hà, người tầm thước, mặt trắng và lún phún râu trạc độ năm mươi tuổi. Ngày mồng tám tháng tư, hắn đến châu Vô Vi gặp Phong Ảnh trong miếu Thành Hoàng để dập tắt một vụ án mạng. Ngày mười một, hắn đến nha môn Vô Vi để xin xỏ, ngày mười sáu sau khi thẩm cung ở châu, Phong Ảnh sửa soạn một bữa tiệc đưa đến miếu Thành Hoàng, Phong Ảnh đưa ra bốn trăm lạng chia cho ba người. Dư Hữu Trọng lấy một trăm ba mươi ba lạng về phần mình. Ngày hai mươi hắn rời khỏi nha môn đi Ngũ Hà theo đường qua Nam Kinh. Chúng tôi có những chứng cớ rõ ràng về việc hắn đã nhận số tiền hối lộ. Tại sao lại nói không có người như thế? Đây là một vụ án mạng và luật pháp bị vi phạm. Phiền quí huyện tra xét việc này và giải ngay phạm nhân đến châu chúng tôi để có thể xét xử cho ra manh mối. Việc gấp”.

    Tri huyện lại bảo sai nhân đến tìm Hữu Trọng. Hữu Trọng nói:

    – Việc này rõ ràng lắm rồi. Để tôi viết một cái đơn khác, xin quan xét giúp cho.

    Sau đó, Hữu Trọng về nhà viết một cái đơn khác. Người em vợ là Triệu Lâm Thư nói:

    – Anh không nên làm thế. Rõ ràng là ông anh của anh can vào việc ấy! Ngày nay công văn về tới tấp. Anh còn chuốc lấy tội vào thân làm gì? Anh nên trình bày sự thực đi, và nói toạc ra rằng người anh của anh hiện nay ở Nam Kinh, để họ viết công văn đến đó bắt. Như thế là anh vô sự “Con nít không khóc thì bao giờ mẹ cho bú”. Rước quan tài người ta về khóc lóc để làm gì?

    – Việc của anh em tôi, tôi sẽ có cách, cậu không phải lo.

    – Nếu không phải tôi thì ai nói thế làm gì! Anh xem, tính khí ông anh của anh thật là ngang ngược, cứ sinh sự với người ta. Ông Phương thứ ba ở hiệu “Nhân xương” và ông Phương thứ sáu ở hiệu “Nhân đại” là hai hương thân khét tiếng ở Ngũ Hà. Họ chơi với quan huyện Vương thân nhau như ruột thịt. Thế mà ông anh của anh lại gây chuyện với họ. Cách đây một hai ngày, con ông Phương thứ hai kết hôn với con gái ông Bành thứ năm. Ông Bành thứ năm lại vừa đỗ tiến sĩ. Tôi nghe nói ông huyện Vương làm mối và đám cưới định vào ngày mồng ba tháng sau. Trong đám cưới thế nào người ta cũng bàn chuyện này. Ông Bành thứ năm không cần nói nhiều về những tật xấu của ông anh anh. Ông chỉ cần nói bóng một câu là quan huyện hiểu. Lúc ấy quan huyện nổi giận cho là anh đã giấu ông ta thế là anh đủ chết. Anh phải nghe tôi mới được.

    – Tôi hãy viết tờ trình một lần nữa, nếu quan thúc bách riết lắm, tôi sẽ nói thật cũng chưa muộn.

    – Anh có thể nhờ ông Bành thứ năm giúp cho.

    – Cái đó hãy khoan!

    Triệu Lâm Thư thấy Hữu Trọng không nghe mình, liền bỏ đi. Hữu Trọng viết một tờ trình khác đưa lên huyện. Quan huyện căn cứ theo tờ trình, viết công văn trả lời như sau: “Tờ công văn của quí châu bảo phải bắt phạm nhân Dư Hữu Trọng, cống sinh ở Ngũ Hà, dáng người tấm thước, có râu lún phún, năm mươi tuổi, da mặt trắng, mồng tám tháng tư hắn ở Vô Vi, gặp Phong Ảnh trong miếu Thành Hoàng bàn việc dìm vụ án mạng. Ngày mười một, hắn đến nha môn châu Vô Vi để xin xỏ. Sau khi vụ án đã xét xong, ngày mười sáu Phong Ảnh có làm một bữa tiệc đưa đến miếu Thành Hoàng. Phong Ảnh đưa ra bốn trăm lạng bạc chia đều cho ba người. Hữu Trọng được một trăm ba mươi ba lạng. Ngày hai mươi tám, hắn rời khỏi Vô Vi về Ngũ Hà theo đường qua Nam Kinh. Có những chứng cớ rõ ràng về việc hắn nhận số tiền hối lộ. Sao lại nói là không có con người nào như thế? Đay là vụ án mạng và luật pháp bị vi phạm… Khi chúng tôi nhận được công văn thì lập tức cho người bắt Hữu Trọng. Theo trong lời khai: Hữu Trọng dáng người tầm thước, mặt rỗ, râu lún phún, bốn mươi tư tuổi là một lẫm sinh chưa phải là cống sinh. Ngày mồng tám tháng tư; quan chủ khảo đến Phụng Dương, mồng chín quan hành hương, mồng mười treo bảng, mười một thí sinh tám huyện đều thi. Dư Hữu Trọng cũng đi thi. Ngày mười lăm, công bố kết quả. Hữu Trọng đỗ. Ngày mười sáu Hữu Trọng thi Phúc Thí, đỗ thứ hai trong hàng thứ nhất. Ngày hai mươi tư, Hữu Trọng tiễn quan chấm thi lên đường rồi trở về nhà. Như vậy làm thế nào một người đồng thời thi ở Phụng Dương, đồng thời lấy tiền hối lộ ở Vô Vi? Huyện tôi sau khi hỏi, có đem sổ sách nhà trường ra xem thì quả là y có thi ở Phụng Dương, vì vậy không thể nào đến Vô Vi lấy tiền hối lộ cho nên không thể bắt y được. Chúng tôi nghĩ rằng có tên vô lại nào mạo danh Dư Hữu Trọng báo với ngài như vậy để trốn tránh tội của mình”.

    Sau khi tờ công văn gửi đi, không thấy hỏi han gì nữa. Hữu Trọng như người cất được gánh nặng, viết thư cho anh về nhà. Hữu Đạt về nhà hỏi tỉ mỉ xem công việc như thế nào, nói:

    – Tất cả thật là đều nhờ ở em hết. Và nói:

    – Em tiêu ở nha môn mất bao nhiêu tiền?

    – Việc đó anh hỏi làm gì? Nay anh có tiền đem về đây, chúng ta lo việc chôn cất cho cha mẹ.

    Vài ngày sau, hai người bàn với nhau đến nhà thầy phong thủy là Trương Vân Phong. Vừa lúc ấy có một người bà con mời hai người đến nhà uống rượu. Sau khi đến thăm Trương Vân Phong, hai người đến nhà người bà con. Ở đấy không có người khách nào, ngoài hai người anh họ là Dư Phu và Dư Ân. Thấy Hữu Đạt và Hữu Trọng đến, hai người ra chào. Mọi người ngồi nói chuyện. Dư Phu nói:

    – Hôm nay quan huyện Vương uống rượu ở nhà ông Bành thứ hai.

    Người chú nói:

    – Quan huyện Vương chưa đến đâu, quan vừa sai thầy bói cầm danh thiếp đến đây.

    Dư Ân nói:

    – Ông Bành thứ tư lần này làm chủ khảo. Hôm trước tôi nghe nói khi ông ta ở triều ra đi, ông có một câu gì sai nên bị nhà vua tát một cái.

    Hữu Đạt cười, nói:

    – Không biết ông ấy có nói gì sai không? Nhưng nếu ông ta có nói sai thì nhà vua ở xa làm sao mà tát được?

    Dư Ân đỏ mặt nói:

    – Không phải thế! Nay ông ta làm quan to, làm hàn lâm viện đại học sĩ. ngày nào ông ta cũng ở trong nội các bàn bạc. Nếu ông ta có nói cái gì sai thì chắc là bị nhà vua đánh. Không có lẽ nhà vua lại sợ ông ta?

    Ngưủ nói:

    – Anh Hữu Đạt, trước đây ở Nam Kinh, anh có nghe quan phủ Ứng Thiên đổi về kinh không?

    Dư Ân chưa trả lời, thì Dư Phu đã nói:

    – Việc này cũng do ông Bành thứ tư đấy. Một hôm nhà vua hỏi ông ta có nên thay người khác làm tri phủ Ứng Thiên không? Ông Bành muốn tiến cử người bạn học của mình là Thang Tấu liền tâu với vua xin đổi. Ông lại muốn tránh tiếng nên viết một bức thư dặn quan Phủ Doãn lên kinh bệ kiến. Vì vậy cho nên quan Phủ Doãn phải lên kinh.

    Hữu Trọng nói:

    – Viện hàn lâm không lo việc thuyên chuyển quan lại. Chưa chắc việc này đã đúng!

    Dư Ân nói:

    – Đó là chính miệng quan huyện Vương hôm trước nói ở bữa tiệc trong hiệu Nhân Đại, không đúng sao được?

    Đang nói chuyện thì tiệc rượu bưng lên. Có chín đĩa: thịt xào rau, cá chiên, gà nấu miến, trứng, tôm xào hành, một đĩa hạt dưa, một đĩa sâm, một đĩa lựu, một đĩa đậu phụ khô. Lại có một vò rượu nóng đậy kín mít. Họ uống rượu một lát, người chủ vào phòng lấy ra một cái bao bằng vải đỏ, ngoài buộc sợi dây đỏ, có mấy cục đất. Y hỏi Dư Phu và Dư Ân:

    – Hôm nay tôi mời hai ông đến muốn nhờ hai ông xem hộ cái đất này ở trên núi có thể dùng được không?

    Hữu Trọng hỏi:

    – Đất này lấy lúc nào?

    – Lấy hôm kia.

    Dư Phu muốn mở túi ra xem hòn đất thế nào. Dư Ân tranh lấy và nói:

    – Để tôi xem đã.

    Y giật lấy móc hòn đất ra đặt trước mặt, hết nghiêng đầu về bên phải, lại ngả đầu về bên trái để nhìn, cuối cùng bẻ hòn đất ra, bỏ vào miệng nhai lấy nhai để. Nhai một hồi, Dư Ân đưa hòn đất cho Dư Phu và nói:

    – Anh Bốn, anh xem đất này như thế nào?

    Dư Phu cầm hòn đất để dưới đèn hết quay bên nọ lại quay bên kia rồi bỏ một miếng vào miệng nhai chầm chậm, mắt nhắm tít, miệng ngậm lại[183]. Nhai một hồi lâu mới mở mắt ra và hít cục đất một lát rồi nói:

    – Đất này không ra gì thực!

    Người chủ hoảng hốt:

    – Có thể chôn cất được không?

    Dư Ân nói:

    – Đất này không thể chôn cất được. Nếu chôn vào đấy thì gia đình nghèo đói ngay lập tức.

    Dư Hữu Đạt nói:

    – Tôi xa nhà đã mười mấy năm, không ngờ ngày nay hai em lại tinh thông phong thủy như vậy.

    Dư Phu nói:

    – Không giấu gì anh, đất nào hai anh em tôi đã xem thì không có ai trách vào đâu được nữa.

    Dư Hữu Đạt hỏi:

    – Đất này lấy ở núi nào?

    Dư Hữu Trọng chỉ người chủ nhà nói:

    – Đây là đất lấy ở mộ chú Tư. Họ đang làm việc dời mả đấy.

    Dư Hữu Đạt tính đốt ngón tay nói:

    – Chú Tư chết đến nay đã hai mươi năm, cả gia đình đều bình yên, dời đi làm gì?

    Dư Ân nói:

    – Sao anh lại nói như vậy? Đất này nước ngấm vào, lại bị mối ăn, làm con cháu mà để cha nằm ở nơi nước ngấm vào, bị mối ăn không dời đi sao còn là người được?

    Dư Hữu Đạt nói:

    – Bây giờ tìm đất mới ở đâu?

    Dư Ân nói:

    – Đất này không phải tôi tìm, đất chúng tôi tìm là ở đỉnh núi Tam Tiên. Để tôi nói cho anh biết kiểu đất ấy như thế nào?

    Bèn cất hai đĩa ở trên bàn đi, chấm ngón tay vào rượu, vẽ một vòng lên bàn và nói:

    “Này anh xem, đây là đỉnh Tam Tiêm mạch bắt đầu từ núi Phố Khẩu chạy xuống, cứ một cồn to lại một cồn nhỏ, ngoằn ngoèo quanh lượn đi mãi, dồn đến gò Chu Gia Cương trong huyện, ”long thần” uốn khúc đi qua, rồi lại một cồn to, một cồn nhỏ, lô nhô mấy mươi cái cồn đi thẳng xuống, kết thành một cái huyệt tình. Huyệt tình này gọi là “hoa sen mặt nước”.

    Đang nói chuyện thì người đầy tớ đem vào năm bát miến. Chủ nhà đổ đĩa thịt xào vào bát miến, tưới dấm, rồi mời mấy người ăn, mọi người cầm đũa, bắt đầu ăn. Dư Ân ăn xong lấy ra hai sợ miến đặt nằm ngoằn ngoèo trên bàn giống như con rồng rồi mở tròn đôi mắt mà nói:

    – Đất tôi chọn thì phải đỗ trạng nguyên. Nếu đã chôn vào đấy mà đỗ bảng nhãn thì cứ móc mắt tôi đi.

    Người chủ hỏi:

    – Ông có chắc là chôn ở đây thì phát không?

    Dư Phu nói:

    – Sao lại không? Phát chứ lỵ! Không phải đợi đến ba bốn năm đâu!

    Dư Ân nói:

    – Chôn cất xong là phát liền. Ông cứ đem đến đấy thì biết ngay.

    Dư Hữu Đạt nói:

    – Trước đây, ở Nam Kinh, tôi nghe mấy người bạn nói việc chôn cất chỉ cốt yên lòng cha mẹ, còn việc con cháu phát đạt là việc hoang đường.

    Dư Phu nói:

    – Không phải thế đâu! Cha mẹ được yên thì con cháu sẽ phát đạt chứ!

    Dư Ân nói:

    – Đúng thế! Cứ xem mộ của nhà họ Bành thì biết! Móng con rồng vừa nằm ngay vào phía tay trái của ông thân sinh ra ông Bành, vì vậy, nên ông Bành thứ tư bị vua tát đ. Ông có thể chối không phải là móng con rồng được không? Này anh! Nếu anh không tin, ngày mai tôi sẽ đưa đến mộ xem thì anh thấy ngay.

    Uống vài chén rượu nữa, mọi người đứng dậy ra về. Một người đầy tớ mang đèn lồng đưa họ về đường Dư Gia. Mọi người về nhà ngủ.

    Hôm sau Hữu Đạt nói với em:

    – Theo ý em thì hai người em họ của chúng ta nói như thế nào?

    – Nói thì hay lắm nhưng học không đúng thầy. Chúng ta đến mời ông Trương Vân Phong thì hơn.

    – Nói như vậy đúng đấy.

    Hôm say hai người sửa soạn bữa cơm, mời Trương Vân Phong đến. Trương Vân Phong nói:

    – Ngày thường tôi nhờ vả các ông rất nhiều. Bây giờ các ông có việc đại sự tôi xin hết lòng.

    Dư Hữu Đạt nói:

    – Anh em tôi là học trò nghèo, được ông thương đến, có việc gì thất lễ xin ông bỏ qua cho.

    Hữu Trọng nói:

    – Chúng tôi chỉ muốn chôn cất cha mẹ cho phải phép, nên đến đây nhờ ông. Chúng tôi không mong phú quí, chỉ mong có chỗ đất khô ráo, ấm áp, không có gió, không có mối như thế là chúng tôi cám ơn ông hết sức.

    Trương nhận lời, vài hôm sau Trương tìm được một miếng đất ở bên cạnh mộ tổ. Hữu Đạt và Hữu Trọng cùng Trương Vân Phong đến đây xem. Hữu Đạt đưa ra hai mươi lạng bạc để mua miếng đất, nhờ Trương Vân Phong chọn ngày tốt. Hôm ấy, trước khi chọn được ngày tốt Hữu Đạt ở nhà sảnh, mua hai chai rượu, làm sáu, bảy đĩa nhắm định mời em đến nói chuyện. Vừa lúc ấy vào buổi chiều có tờ danh thiếp đưa đến, viết:

    “Chiều nay ở nhà em có bữa cơm rau, mời hai Anh đến chơi, nói chuyện, xin đừng chối từ.

    – Ngu Lương”.

    Hữu Đạt xem danh thiếp, nói với người đầy tớ.

    – Tôi biết rồi, về nói với ông chủ rằng chúng tôi sẽ lại.

    Người đầy tớ vừa đi khỏi, thì có một người ở Tô Châu mở hàng rượu cho người mời Hữu Đạt và Hữu Trọng đến nhà để tắm. Hữu Đạt nói với Hữu Trọng:

    – Thế nào ông Lăng Phong cũng mời chúng ta đến uống rượu. Chúng ta đến đó trước rồi hãy đến nhà ông Ngu.

    Hai anh em đến nhà Lăng Phong. Vừa mới bước vào cửa thì đã nghe thấy tiếng ồn ào. Vì gia đình Lăng Phong không ở đấy nên y có thuê hai cô gái chân to làm việc. Đàn ông ở Ngũ Hà đều thường ngủ với hai cô này. Ngay trong những bữa tiệc của những gia đình lớn, mọi nười đều đem việc này ra nói, cười lăn cười lóc, cho đó là vui và chẳng lấy thế làm xấu hổ gì cả. Hai cô gái này ở nhà họ Lăng, ngờ vực lẫn nhau. Người này nghi người kia, lấy được nhiều tiền của chủ, nên mắng mỏ nhau và đánh lẫn nhau. Trong lúc mắng nhau, hai người lại bới móc nhau rằng họ ngủ cả với người thư ký trong hiệu, cho nên người thư ký chạy vào cãi nhau với hai người này. Sau khi đã đập vỡ cả chén đĩa, họ đập vỡ luôn cả thùng nước tắm. Hai anh em họ Dư đến đấy đã không được uống rượu, không được tắm lại phải dàn xếp đến nửa ngày mới xong. hai người cáo từ chủ nhà ra về. Chủ nhà bẽ mặt, cứ xin lỗi hoài và mời hôm sau đến. Hai người ra khỏi nhà Lăng đến nhà Ngu, thì thấy tiệc rượu đã tàn, cổng đã đóng. Hữu Đạt cười, nói với em:

    – Thôi chúng ta về nhà ăn tiệc của chúng ta đi.

    Dư Hữu Trọng cười, cùng anh về nhà bảo lấy rượu ra uống không ngờ hai chai rượu và sáu bảy đĩa nhắm đã được hai bà vợ dùng hết, giờ chỉ còn trơ lại có chai không, và mấy đĩa không. Dư Hữu Đạt nói:

    – Hôm nay chúng ta có ba bữa rượu, rốt cục chả còn bữa nào. Mới biết đến cả việc ăn uống cũng là do trời định trước!

    Hai người cười vang, lấy cơm rau ra ăn. Ăn xong, uống vài chén trà, hai người lại trở về phòng ngủ.

    Đến canh tư, ở ngoài cửa có tiếng ồn ào. Hai người kinh ngạc nhìn ra thì thấy cửa sổ đỏ rực, mới biết nhà trước mặt bị cháy, hai người vội vàng mang quần áo chạy ra, gọi người láng giềng mang giúp quan tài của cha mẹ ra ngoài đường. Hai cái nhà bị cháy mãi đến sáng mới dập tắt được ngọn lửa. Quan tài vẫn để ngoài đường. Theo như tục lệ Ngũ Hà, nếu quan tài đưa vào nhà thì nhà sẽ nghèo túng. Vì vậy bạn hữu giục Hữu Đạt và Hữu Trọng mang đi và chọn ngày để chôn cất. Hữu Đạt nói với em:

    – Theo ý anh thì ta cứ khiêng quan tài vào nhà rồi chọn ngày chôn cất sau.

    – Anh nói thế là phải, nếu có nghèo thì cũng chỉ trong hai anh em ta thôi.

    Mọi người đều khuyên bảo nhưng họ không nghe, gọi người khiêng quan tài vào nhà, đợi Trương Vân Phong chọn ngày tốt đem chôn theo đúng nghi lễ. Hôm ấy cũng có nhiều người ở Ngũ Hà đi đưa. Gia đình họ Đỗ ở Thiên Trường cũng có mấy người đi. Từ đấy đâu đâu cũng nghe nói đến câu chuyện ấy. Họ cho là anh em họ Dư càng ngày càng ngu ngốc toàn gây những việc rắc rối.

    Chỉ nhân phen này khiến cho:

    Trong nơi thói xấu phong trần, cũng còn người giỏi;

    Ngoài việc tính cơm lường củi, lại có kinh luân.

    Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
     
  2. Riochan

    Riochan Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    20/12/14
    Bài viết:
    60
    Được thích:
    0
    Hồi 46

    Cửa Tam Sơn người hiền tiễn biệt

    Huyện Ngũ Hà thế lợi nức lòng

    Sau khi đã chôn cất cha mẹ, Dư Hữu Đạt bàn với em rằng mình muốn trở lại Nam Kinh để cảm ơn Đỗ Thiếu Khanh và tìm một chỗ dạy học vì tiền bạc đã hết. Hữu Đạt thu xếp hành lý quan sông Dương Tử đến nhà Thiếu Khanh ở bên bờ sông, Thiếu Khanh hỏi về vụ án, Hữu Đạt kể lại tỉ mỉ mọi việc xảy ra, Thiếu Khanh hết sức thán phục Dư Hữu Trọng. Hai người đang nói chuyện thì ở ngoài có người vào báo rằng cụ Thang ở Nghi Trưng đến chơi. Dư hỏi cụ Thang là ai. Thiếu Khanh nói:

    – Cụ chính là người đã nhờ anh dạy con học. Anh cũng nên gặp cụ một chút.

    Hai người đang nói chuyện thì Thang tổng trấn vào, vái chào rồi ngồi xuống. Thang nói:

    – Ông Thiếu Khanh! Ngày tôi được hân hạnh gặp ông ở nhà ông Ngu, bỗng nhiên, bao nhiêu thói xấu xa quê mùa của tôi đều tiêu tan hết. Tôi liền đến nhà ông, nhưng không được gặp làm cho tôi chờ đợi suốt ngày. Vị này là ai?

    – Đó là người anh họ của tôi là Dư Hữu Đạt, năm ngoái bác có mời anh ấy đến dạy học.

    Thang cười vang mà rằng:

    – May mắn quá, không ngờ lại được gặp một vị hiền sĩ ở đây. Thật là hân hạnh.

    Thang đứng dậy vái chào một lần nữa rồi ngồi xuống. Dư Hữu Đạt nói:

    – Ngài đã khó nhọc đối với xã tắc, nay lại về nhà ở ẩn, không hề nhắc đến công lao của mình. Thực là phong thái của những vị tướng ngày xưa.

    Thang đáp:

    – Đó chẳng qua là tình thế bắt buộc, không thể nào làm khác. Ngày nay nghĩ lại, thấy mình không quá nóng nảy chưa làm được việc gì có ích cho triều đình chỉ làm cho các quan trường thêm tổ ghét. Nhưng nay hối cũng muộn rồi.

    Dư Hữu Đạt nói:

    – Ngài làm việc như thế nào thiên hạ đều biết cả. Ngài không cần phải khiêm tốn quá đáng như vậy.

    Đỗ Thiếu Khanh nói:

    – Bác đến Nam Kinh lần này có việc gì? Hiện nay bác ở đâu?

    – Ở nhà không có việc gì tôi mới lên Nam Kinh để được gặp các vị danh sĩ. Hiện nay tôi ở nhà Thừa Ân. Tôi định đến chào Ngu bác sĩ, Trang thiệu Quang và người cháu của ông.

    Uống trà xong, Thang từ biệt đi ra, hai người tiễn Thang lên kiệu, Dư Hữu Đạt ở tạm tại nhà Đỗ Thiếu Khanh. Nhưng khi Thang tổng trấn đến trường Quốc Tử Giám và đưa danh thiếp vào thi Ngu bác sĩ không ở nhà. Thang lại đến cầu Bắc Môn thăm Trang Trạc Giang. Trang liền mời vào. Thang xuống kiệu và đi vào nhà khách. Chủ nhân đi ra, hai người vái chào ngồi xuống, đều nói mình mấy lâu ngưỡng mộ nay mới gặp. Thang nói ý định muốn đến thăm Trang Thiệu Quang ở Hậu Hồ.

    Trang Trạc Giang nói:

    – Chú tôi hiện nay ở đây. Ông có muốn gặp không?

    – Thế thì còn gì hơn nữa!

    Trang Trạc Giang bảo người nhà mời Trang thiệu Quang ra. Trang Thiệu Quang ra chào Thang tổng trấn rồi ngồi xuống. Mấy người lại uống một lượt trà, Trang Thiệu Quang nói:

    – Lần này cụ đến đây vừa đúng lúc ông Ngu sắp đi nơi khác. Ngày trùng cửu gần đến, tại sao chúng ta không hội họp một buổi nhân tiện tiễn ông Ngu, lại vui chơi được một ngày tròn.

    Trang Trạc Giang nói:

    – Hay lắm! Đến ngày ấy chúng ta có thể gặp nhau ở đây.

    Thang tổng trấn ngồi một lát rồi đứng dậy ra về, nói:

    – Vài hôm nữa vào ngày họp, tôi sẽ đến. Chúng ta sẽ nói chuyện suốt cả ngày.

    Hai người tiễn Thang ra cửa. Thang lại đến thăm Trì Hành Sơn và Vũ Thư. Trang Trạc Giang sai đầy tớ đem năm lạng bạc đến nhà trọ của Thang để thay cho bữa tiệc. Ba ngày sau người quản gia của Trang Trạc Giang mang giấy mời các vị khách đến sớm. Trạc Giang ngồi ở nhà đợi. Thiệu Quang cũng đã ở đấy. Một lát sau, Vũ Thư, Trì Hành Sơn và Đỗ Thiếu Khanh đều đến. Trang Trach Giang sai dọn dẹp một gian phòng rộng, bốn phía đều trồng hoa cúc. Bấy giờ là mồng năm tháng chín, trời trong sáng, mọi người mặc áo kép, vừa ngồi nói chuyện vừa uống trà. Một lát sau, Thang đô đốc, Tiêu thủ bị và Ngu bác sĩ đến. Mọi người đón chào. Thi lễ xong, tất cả ngồi xuống Thang nói:

    – Chúng ta đều là những kẻ chân trời góc bể, nay may mắn được chủ nhân mời đến gặp nhau ở đây, thực là duyên nợ ba sinh! Chỉ tiếc rằng ông Ngu chẳng bao lâu nữa sẽ đi. Cuộc gặp gỡ như thế này chẳng biết bao giờ lại có.

    Trang Trạc Giang nói:

    – Các vị là những bậc kỳ tài, hôm nay đến đây thực là vinh dự cho nhà chúng tôi. Quả thực những người hiền nhân năm trăm dặm xung quanh bây giờ đều ở đây cả!

    Mấy người ngồi xuống, người nhà bưng trà lên. Nhìn nước trà trong như nước lã, nhưng hương đặc biệt thơm, váng trắng nổi trên mặt nước. Sau đó lại uống trà Thiên Đô. Trà này tuy cất đã một năm nay nhưng hương lại càng thơm hơn. Ngu bác sĩ uống trà, mỉm cười hỏi:

    Lúc ở trong quân ngũ, tôi chắc hai vị không bao giờ thấy thứ trà như thế này.

    Tiêu Vân Tiên nói:

    – Không những ở trong quân ngũ mà thôi, suốt cả sáu năm ở thành Thanh Phong, tôi cho được uống nước lã đã là may mắn rồi. Nó còn hơn nước đái ngựa.

    Thang tổng trấn nói:

    – Bấy giờ ở thành Thanh Phong có đủ nước và cỏ cho quan sĩ sống mấy năm.

    Trang Thiệu Quang nói:

    – Ông Tiêu có thể sánh với Thôi Hạo thời Bắc Ngụy[184] được.

    Trì Hành Sơn nói:

    – Mỗi thời mỗi khác! Ngày nay hoàn cảnh khác trước.

    Đỗ Thiếu Khanh nói:

    – Những người tế tướng phải là những người đọc sách đã đành, nhưng tướng soái cũng cần phải là những người đọc sách. Nếu không có học thức, Tiêu tiên sinh làm gì có được những công lao to tát như vậy!

    Vũ Thư cười mà rằng:

    – Tôi thấy cái này rất buồn cười: vị tướng ở biên cương không biết có nước và có thể mà hạng thư biện khi tính đến việc đó lại biết là có. Vậy thì đó là quan thượng thư có học vấn hay là hạng thư biện có học vấn?

    Nếu các quan thượng thư có học vấn thì triều đình trọng văn khinh võ cũng là phải. Nhưng nếu việc này lại chính là do bọn thư biện tính toán, thì cũng thấy rõ phép tắc tính toán không thể thay đổi được.

    Nói đến đây, tất cả đều cười rộ. Nhạc dừng lại, mọi người ngồi vào bàn tiệc. Những người diễn tuồng đến chào. Trang Phi Hùng đứng dậy.

    – Hôm nay các vị đến đây, con có thuê mười chín người hát tuồng nổi danh ở trong bảng “Lê Viên”. Xin các vị mỗi người chọn một đoạn để diễn.

    Ngu bác sĩ hỏi:

    – Bảng “Lê Viên” là bảng gì?

    Dư Hữu Đạt kể lại câu chuyện phong lưu năm xưa của Đỗ Thận Khanh. Mọi người cười vang. Thang hỏi Đỗ Thiếu Khanh:

    – Người anh họ của ông đã được tuyển vào bộ chưa?

    Đỗ Thiếu Khanh trả lời:

    – Đã!

    Vũ Thư nói:

    – Sự đánh giá của ông Thận Khanh có thể nói bao giờ cũng công bình và đúng đắn. Nhưng tôi chỉ sợ sau khi làm quan, làm chủ khảo, biết đâu ông ta sẽ quáng mắt trước những màu sắc chói lọi cũng nên.

    Mọi người lại cười. Họ ăn tiệc suốt cả ngày, khi tất cả các vở tuồng đều diễn xong, đến hoàng hôn tiệc mới tan. Trang Trạc Giang nhờ một họa sĩ vẽ một bức tranh “Đăng cao tống biệt”[185] ghi lại cuộc tiễn biệt hôm ấy và tất cả mọi người đều đề thơ. Sau đó mọi người lần lượt đến nhà Ngu bác sĩ để tiễn biệt.

    Hơn một ngàn gia đình ở Nam Kinh đã đến tiễn Ngu bác sĩ. Ngu cảm thấy mệt quá, cho nên không để ai tiễn mình xuống thuyền. Hôm ấy, Ngu thuê một chiếc thuyền con, cắm sào ở Thủy Tây chỉ để một mình Đỗ Thiếu Khanh tiễn xuống thuyền. Thiếu Khanh bái biệt và nói:

    – Chú đi rồi, cháu sẽ không còn có ai nương tựa.

    Ngu bác sĩ cũng buồn rầu khôn xiết, mời Đỗ vào khoang thuyền, nói:

    – Anh Thiếu Khanh, tôi không giấu gì anh, tuy tôi là anh học trò nghèo nhưng sáu bảy năm nay làm bác sĩ ở Nam Kinh, tôi đã để dành mỗi năm được mấy lạng bạc đủ để mua một thửa ruộng, một năm kiếm được ba mươi gánh gạo. Lần này tôi có thể được bổ vào bộ, hoặc bổ đi các châu các huyện. Tôi sẽ làm nhiều là ba năm, ít là hai năm, để dành một ít tiền, mua thêm một thửa ruộng, một năm được thêm hai chục gánh gạo. Như thế vợ con tôi không phải chết đói là đủ lắm rồi. Còn về việc con cháu, tôi cũng không để ý đến. Hiện nay, ngoài việc dạy chữ cho con, tôi còn dạy thuốc cho nó để nó kiếm ăn sau này. Tôi thích gì làm quan? Anh ở Nam Kinh, tôi sẽ gửi thư cho anh luôn.

    Hai người gạt lệ chia tay. Đỗ lên bờ chờ cho thuyền của Ngu bác sĩ đi khuất, mới quay về nhà. Dư Hữu Đạt đang ngồi ở đó. Đỗ kể lại những câu Ngu bác sĩ vừa dặn. Dư Hữu Đạt thở dài mà rằng:

    – Không thích làm quan, chỉ thích rút lui, ông Ngu thực là một người quân tử. Nếu chúng ta có ra làm quan chúng ta phải bắt chước ông ta.

    Hai người tán thưởng một hồi. Chiều hôm ấy. Hữu Đạt nhận được thư của em, thư viết:

    “Thầy học ở nhà Ngu Lương em họ của chúng ta này đã đi nơi khác. Ông ta muốn nhờ anh dạy con ông ta. Xin anh về ngay”.

    Dư Hữu Đạt nói cho Đỗ Thiếu Khanh biết rồi từ biệt. Hôm sau Hữu Đạt mang hành lý qua sông, Đỗ Thiếu Khanh tiễn Hữu Đạt sang sông mới trở về.

    Hữu Đạt qua sông về nhà. Người em ra đón và đưa cho anh xem bức thư viết:

    “Em họ là Ngu Lương kính mời anh Dư đến dạy cho đứa con của em, mỗi năm tiền công bốn mươi lạng bạc lễ tết không kể.

    Dư Hữu Đạt xem xong, hôm sau đến nhà Ngu Lương, Ngu ra đón trong lòng mừng rỡ. Hai người vái chào và ngồi xuống. Người đầy tớ mang trà ra. Ngu Lương nói:

    – Cháu nó ngu ngốc, thất học từ nhỏ. Mấy năm nay, em muốn nhờ anh dạy cho cháu, nhưng anh cứ ở xa. Nay anh về đây thực là may mắn cho cháu. Gia đình anh và gia đình em, người thi đỗ ở tỉnh và ở kinh chở hàng xe không hết chẳng phải hiếm hoi gì. Em chỉ mong cháu học được phẩm hạnh của anh, mới là có ích hơn nhiều.

    – Anh vốn già và vụng. Hai gia đình ta mấy đời họ hàng với nhau nhưng chỉ có em là tâm đầu ý hợp với anh. Con của em cũng như con của anh cố nhiên anh phải hết lòng dạy dỗ. Về việc nó có đỗ cử nhân tiến sĩ hay không thì ngay bản thân anh cũng chưa đỗ bao giờ, chưa chắc anh đã làm được. Còn về phẩm hạnh và văn chương thì cháu vẫn có nề nếp gia giáo, anh cũng không phải lo đến việc đó.

    Hai người đều cười, định ngày tốt mời thầy đến khai trường. Sáng hôm ấy Hữu Đạt dậy thật sớm, đứa con của Ngu Lương ra chào. Nó rất thông minh. Chào xong Ngu đưa nó đến lớp học, Hữu Đạt ngồi ghế thầy. Ngu Lương cáo từ và vào thư phòng. Ngu đang ngồi thì người giữ cửa đưa một người khách đến. Người này là anh ruột của Đường Tam Đàm, tên là Đường Nhị Bồng Thuỳ. Trong khoa thi trước y đỗ cử nhân văn và trước đây cũng vào trường một năm với Ngu Lương. Nhân hôm ấy trong nhà mới nuôi thầy, Đường cũng đến để tiếp thầy học. Ngu Lương giữ Đường Nhị ngồi lại uống trà. Đường Nhị hỏi:

    – Hôm nay cháu bắt đầu học phải không?

    – Vâng.

    – Ông thầy này học rất giỏi, nhưng thiếu kiên nhẫn, lại thích những thứ học nhảm, mà sao lãng việc chính. Còn về việc thi cử, tuy ông không bắt chước thói xấu của bọn học trò ngày nay, nhưng lại muốn theo đòi những nho sĩ thời khai quốc. Như thế cũng đều là quá đáng!

    – Cháu nó còn nhỏ quá chưa lo việc thi cử được. Tôi mời anh Dư đến cốt để dạy cho cháu đạo đức, đừng bắt chước bọn tiểu nhân, chạy theo thế lợi, như thế là đủ.

    Một lát sau Đường Nhị nói:

    – Anh Ngu, tôi có một điều muốn hỏi con người thông thạo cổ học như anh.

    – Tôi nào có thông thạo cổ học gì đâu? Anh đùa tôi đấy phải không?

    – Không phải đùa đâu. Tôi muốn hỏi thực anh đấy mà! Trong kỳ thi trước đây tôi may mắn đỗ. Tôi có một người cháu, nhà ở phủ Phụng Dương, anh ta cũng thi đỗ ở phủ Phụng Dương. Như thế là cùng đỗ một bảng lại là bạn học. Từ khi anh ta đỗ rồi, chưa bao giờ anh ta đến huyện. Nhưng nhân việc tế tổ, nên hôm qua anh đến nhà tôi, đưa tờ danh thiếp viết: “cháu và bạn học”. Nay tôi đến thăm lại, có nên viết “Chú và bạn học” hay không?

    – Anh muốn nói gì vậy?

    – Anh không nghe sao? Người cháu cùng đỗ một bảng với tôi, cũng do một quan chấm thi lấy đỗ, viết: “Cháu và bạn học” bây giờ tôi nên viết danh thiếp thế nào?

    – Cố nhiên hai người cùng được một quan giám khảo lấy đỗ cả thì gọi nhau là “bạn học”. Nhưng viết chữ “cháu và bạn học” thì nó quái gở, ngớ ngẩn thế nào ấy?

    – Tại sao lại ngớ ngẩn?

    Ngu ngẩng mặt lên trời cười mà rằng:

    – Từ xưa đến nay tôi chưa bao giờ nghe một việc lạ như thế này.

    Đường Nhị biến sắc mặt nói:

    – Anh không nên giận tôi! Mặc dầu anh là con nhà gia thế, nhà anh có nhiều người thi đỗ, nhưng anh chưa thi đỗ. Có lẽ anh không rõ những nghi lễ trong quan trường. Người cháu của tôi đã gặp nhiều cụ lớn ở kinh, anh ta viết như vậy chắc là có duyên cớ, không thể nói là viết bừa được.

    – Nếu anh đã cho như thế là đúng thì anh hỏi tôi làm gì?

    – Anh không hiểu. Đợi ông Dư ra đây ăn cơm, tôi sẽ hỏi.

    Đang nói chuyện thì người đầy tớ vào bẩm:

    – Ông Diêu thứ năm vào thăm.

    Cả hai đứng dậy, Diêu bước vào vài chào và ngồi xuống. Ngu Lương nói:

    – Anh Năm, hôm qua sau bữa cơm anh đi đâu? Buổi chiều rượu đã sẵn sàng cả nhưng anh không tới.

    Đường Nhị nói:

    – Ông Năm, hôm qua ông ăn cơm ở đây sao? Chiều qua tôi gặp ông thì nói rằng ông vừa ăn cơm với cụ Phương thứ sáu ở hiệu “Nhân xương”. Tại sao ông lại nói dối như vậy?

    Người đầy tớ đem cơm ra, mời Dư Hữu Đạt ăn. Dư ngồi ghế đầu. Đường Nhị ngồi đối diện, Diêu ngồi ghế khách, chủ nhân ngồi tiếp. Ăn cơm xong, Ngu cười đem chuyện danh thiếp ra kể lại với Dư Hữu Đạt. Dư mặt đỏ gay, gân cổ nổi lên nói:

    – Ai dám nói như vậy? Tôi hỏi ở trên đời việc tổ tiên, cha ông quan trọng hơn hay việc công danh quan trọng hơn?

    Ngu nói:

    – Cố nhiên là việc tổ tiên quan trọng hơn. Cái đó không cần bàn nữa!

    Dư Hữu Đạt nói:

    – Nếu vậy tại sao vừa mới đỗ cử nhân lại vứt tổ tiên đi, gọi chú là bạn học? Như thế là có tội với đạo đức luân lý. Cả đời tôi chưa bao giờ thấy điều đó. Ông ta có đỗ cử nhân cũng là một anh dốt đặc cán mai. Nếu cháu tôi mà như vậy thì tôi lôi ra trước bàn thờ tổ tiên đánh cho mấy chục gậy!

    Đường Nhị và Diêu thấy Dư Hữu Đạt nóng mặt, biết rằng Dư nổi giận nên nói lảng sang chuyện khác.

    Một lát sau uống trà xong, Dư trở lại lớp học. Diêu đứng dậy nói:

    – Tôi đi chơi một lát rồi sẽ trở lại.

    Đường Nhị nói:

    – Hôm nay đi ra chắc ông sẽ nói vừa ăn cơm với cụ Bành thứ hai.

    Diêu cười mà nói:

    – Hôm nay tôi ngồi tiếp thầy học ở đây, ai mà chẳng biết, không thể nói tôi ăn cơm đâu được.

    Diêu cười và đi ra, một lát quay trở lại nói:

    – Ông Ngu, ở ngoài sảnh có người khách đến thăm. Ông ta nói ở nha môn quan phủ đến. Hiện nay ông ta đang ngồi đợi ngoài nhà khách. Ông mau ra mà tiếp.

    – Ông ta ở đâu? Tôi chẳng quen biết bao giờ. Đang lúc phân vân thì người đầy tớ đưa danh thiếp vào. Danh thiếp đề: “Bà con và bạn học là Quí Vi Tiểu đến thăm

    Ngu Lương ra ngoài sảnh tiếp. Quý Vi Tiêu vái chào ngồi xuống rồi đưa ra một bức thư mà rằng:

    – Tôi ở Bắc Kinh lại. Tôi nhân cùng quan phủ đến huyện này, người anh họ của ông là ông Đỗ Thận Khanh có nhờ tôi mang bức thư cho ông. Hôm nay được gặp ông đây, thực là hân hạnh.

    Ngu Lương cầm bức thư giở ra xem, hỏi:

    – Ông có phải là bạn với Lệ tri phủ ở phủ tôi không?

    – Lệ tri phủ là học trò của bác tôi là cụ Tuân. Vì vậy ông ta mời tôi đến làm việc trong nha môn.

    – Ông đến đây có việc gì?

    – Ở đây chẳng có ai, tôi có thể nói cho ông biết. Lệ tri phủ nhận thấy những hiệu cầm đồ ở đây cho vay nặng lãi quá, bóc lột dân, cho nên bảo tôi đến đây xem xét. Nếu quả thực như vậy thì phải làm thế nào để trừ bỏ cái tệ ấy đi.

    Ngu Lương kéo ghế lại gần Quý Vi Tiêu và nói thầm:

    – Như thế đủ thấy rõ việc cai trị của quan phủ thực là nhân đức. Trong huyện tôi không ai cho vay nặng lãi trừ hai hiệu cầm đồ của họ Phương là hiệu “Nhân Xương” và hiệu “Nhân Đại”. Họ đều là bậc hương thân, lo việc buôn muối đồng thời lại quen biết các quan phủ, huyện, cho nên họ muốn làm gì thì làm. Nhân dân rất căm ghét nhưng không ai dám nói ra. Muốn trừ cái tệ này thì chỉ cần trị hai nhà kia. Nay cụ lớn đường đường là một ông phủ cần gì phải đi lại với những người như thế! Tôi nói như vậy để ông nghe thôi ông đừng cho ai biết tôi nói đấy nhé!

    – Tôi xin lĩnh giáo.

    – Được ông đến thăm, tôi cũng muốn mời ông ăn một bữa cơm xoàng để cùng nói chuyện. Nhưng tôi sợ làm không ra gì. Ở đây tai vách mạch rừng, ông ăn không tiện.

    Ngày mai tôi sẽ đưa một bữa ăn đến nhà ông. Xin ông đừng chối từ.

    – Tôi đâu dám thế!

    Nói xong Vi Tiêu từ biệt đi ra. Ngu quay vào thư phòng. Diêu đón hỏi:

    – Có phải ông ta ở nha môn quan phủ lại đây không?

    – Chứ gì nữa!

    Diêu lắc đầu, cười mà nói:

    – Tôi không tin.

    Đường Nhị trầm ngâm:

    – Ông Diêu nói có lẽ đúng, khi nào ông ta lại ở nha môn đến đây? Quan phủ không phải là chỗ quen biết với ông. Quan phủ chỉ có đi lại thân thiết với cụ Bành thứ ba và cụ Phương thứ sáu mà thôi. Nghe nói ông kia đến, trong bụng tôi cũng lấy làm ngờ. Nếu ông ta quả ở nha môn quan phủ đến thì ông ta nhất định đã đến nhà cụ Bành, cụ Phương trước, chứ đến nhà anh để làm gì? Nói ra khó tin lắm! Tôi sợ rằng anh chàng kia là một tên lường gạt, tự cho rằng mình ở nha môn quan phủ đến để lừa người ta lấy tiền thôi. Anh phải đề phòng mới được.

    Ngu nói:

    – Có lẽ ông ta chưa đến nhà hai người kia.

    Diêu cười và nói:

    – Cố nhiên là chưa đến. Nếu đã đến nhà họ thì còn đến nhà anh làm gì?

    Ngu nói:

    – Không phải quan phủ bảo ông ta đến đây. Người anh họ của tôi là Đỗ Thận Khanh người Thiên Trường, hiện nay ở Bắc Kinh có nhờ ông ta đưa cho tôi một bức thư. Ông ta là Quý Vi Tiêu, một danh sĩ nổi tiếng.

    Đường Nhị hoa tay nói:

    – Thế lại càng khó tin nữa! Quý Vi Tiêu là một nhà danh sĩ đã chấm thi ở trong cuộc thi những người hát tuồng. Là một danh sĩ như vậy, chắc chắn ông ta biết các nha môn và các viện hàn lâm ở kinh. Hơn nữa, Đỗ Thận Khanh người Thiên Trường lại rất thân với ông Bành thứ tư. Nếu ông Vi Tiêu mang thư ở Bắc Kinh về cho anh, có lẽ nào lại không mang thư đến cho ông Bành! Nhất định không thể là Quý vi Tiêu được.

    Ngu nói:

    – Chuyện ấy bây giờ không cần bàn đến. Ta nói sang chuyện khác.

    Và quay lại mắng đầy tớ:

    – Tại sao tiệc rượu mãi đến giờ vẫn chưa xong?

    Một người đầy tớ khác bước vào, vai mang hành lý, nói:

    – Cụ Thành ở nhà quê lên.

    Một người bước vào, đầu lốm đốm bạc, trông mặt ra vẻ một tay bợm rượu, đội mũ vuông, mặc áo vải xanh, đi giầy vải đế mỏng. Y vào vái chào và nói:

    – May quá! Tôi đến vừa đúng lúc ông mới mời thầy dạy học, nhân tiện vào uống vài chén rượu để chúc mừng.

    Ngu bảo đầy tớ đem nước ra để cho cụ Thành rửa mặt, kỳ cọ sạch bùn trên quần áo và bắp chân. Sau đó Ngu mời tất cả mọi người vào phòng khách. Trong phòng khách, tiệc đã dọn. Dư ngồi ghế đầu, mọi người ngồi tiếp. Trời đã tối, Ngu bảo thắp một cặp đèn. Cặp đèn này là do hoàng đế lấy ở điện “Vũ Anh” ra tặng người cố của Ngu xưa kia làm thượng thư, đến nay đã hơn sáu mươi năm nhưng vẫn hoàn toàn như mới. Dư nói:

    – Cổ nhân có câu: “Nhà xưa, cây cao”. Câu ấy thực là đúng. Tôi không thấy gia đình nào trong huyện ta lại có những cái đèn như thế này.

    Cụ Thành nói:

    – Ông Dư, “cứ ba mươi năm thì nhân dân ở phía đông bờ sông phát đạt, rồi lại đến lượt nhân dân ở phía tây”. Cách đây ba mươi năm, hai gia đình của hai ông thịnh vượng biết là dường nào! Chính mắt tôi trông thấy điều ấy. Nhưng ngày nay gia đình họ Bành và họ Phương mỗi năm làm ăn một khá hơn. Không nói gì khác cứ xem quan phủ và quan huyện Vương đi lại với họ thân mật như thế nào, có chuyện gì cũng sai thơ lại trong nha đến bảo họ. Như vậy dân đen ai mà chả sợ họ. Đấy cứ xem những người thơ lại kia chẳng vào nhà ai bao giờ đâu!

    Đường Nhị hỏi:

    – Gần đây có người thơ lại nào ở nha môn quan phủ đến đây không?

    Cụ Thành nói:

    – Gần đây có một người họ “Cát”[186] đến có việc gì đấy. Ông ta ở với vị tăng trong chùa Bảo Lâm. Sáng hôm nay, ông ta đến hiệu Nhân Xương của cụ Phương thứ sáu. Cụ Phương thứ sáu lại mời cụ Bành thứ hai đến nhà để tiếp khách. Cả ba người vào thư phòng nói chuyện một ngày trời. Không biết trong nhà quan phủ làm việc gì không hay nên mới sai ông Cát kia đến đây hỏi.

    Đường Nhị liếc mắt nhìn Diêu và cười nhạt:

    – Thấy không!

    Dư Hữu Đạt nghe vậy lấy làm chán ngán, bèn hỏi cụ Thành:

    – Năm ngoái cụ có nhận được áo và mũ tú tài không?[187]

    Cụ Thành đáp:

    – Có, may quá, người giám khảo lại là bạn học với cụ Bành thứ tư. Tôi nhờ cụ Bành viết cho một bức thư nên nhận được áo mũ ngay.

    Dư cười và nói:

    – Khi quan giám khảo thấy bộ mặt đỏ gay của cụ thì chắc gì ông ta đã cho?

    Cụ Thành nói:

    – Tôi nói là cái mặt tôi nó bị sưng lên đấy.

    Mọi người đều cười rộ và cùng uống rượu. Cụ Thành nói:

    – Ông Dư, tôi với ông đều là những người già cả bỏ đi rồi. Bây giờ hạng anh hùng là thuộc những người trẻ. Tôi mong rằng anh Ngu đến kỳ thi tới đây sẽ đỗ cao, cùng với ông Đường cả hai đều đỗ tiến sĩ. Như vậy, tuy không làm quan to như cụ Bành thứ tư, thì hai ông cũng được làm quan huyện như cụ Bành thứ ba, thứ hai, như thế cũng làm vinh hiển cho tổ tiên và chúng tôi cũng được mở mày mở mặt.

    Câu nói ấy lại càng làm cho Dư Hữu Đạt chán ngấy.

    Dư nói:

    – Thôi chúng ta đừng bàn chuyện ấy nữa, chúng ta hãy chơi trò uống rượu đi.

    Mọi người bèn chơi trò gọi là “trò uống rượu vui”. Họ cười mãi đến nửa đêm, tất cả mọi người đều say mềm. Cụ Thành được đưa vào phòng ngủ. Người nhà Ngu mang đèn lồng dẫn Dư Hữu Đạt, Đường Nhị, Diêu về nhà. Cụ Thành ngủ, nửa đêm tỉnh dậy vừa mửa vừa đi đồng. Không đợi đến trời sáng, cụ gọi một người đầy tớ vào để quét tước. Sau lại bảo nhỏ một đứa đầy tớ gọi hai người quản gia lo về việc thu tô vào để bàn bạc. Mấy người thì thầm với nhau một lúc, không biết nói chuyện gì. Sau đó mời Ngu Lương vào.

    Chỉ nhân phen này khiến cho:

    “Ở chốn làng quê, thói mộ thế nghĩ mà chán ngắt;

    Trước nơi trường học, việc lăng nhăng lại thấy xảy ra”.

    Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
     
  3. Riochan

    Riochan Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    20/12/14
    Bài viết:
    60
    Được thích:
    0
    Hồi 47​


    Gác Huyền Vũ, Ngu tú tài tu lý,

    Đền Tiết Hiếu, Phương diêm thương làm ồn

    Ngu Lương không phải là hạng người vừa. Từ năm lên bảy, lên tám, Ngu đã là thần đồng. Về sau, Ngu đọc tất cả kinh sử, bách gia chư tử, không có cái gì là không đọc, không có cái gì là không tinh và không có cái gì là không thông suốt. Năm hai mươi tuổi, học vấn toàn tài, tất cả mọi việc từ binh pháp, canh nông, nghi lễ, âm nhạc, thủ công, săn bắn, thủy lợi… đều biết. Văn chương hay như Mai Cao, Tư Mã Tương Như[188]. Thi phú như Lý Bạch, Đỗ Phủ. Người cố làm thượng thư, ông làm hàn lâm, cha làm tri phủ, thực là một nhà nổi tiếng. Mặc dầu Ngu học vấn sâu rộng, người ở Ngũ Hà đều không coi Ngu ra gì. Phong tục ở Ngũ Hà nghe nói ai có phẩm hạnh là họ cười méo cả miệng. Nghe nói người nào là dòng dõi thế gia mấy chục năm trước đây thì họ khịt mũi chế nhạo. Ai đi làm thơ phú cổ văn thì họ cau mày mà cười. Hỏi họ ở huyện Ngũ Hà có phong cảnh núi non gì thì họ nói: “Cụ Bành”. Hỏi họ ở Ngũ Hà có sản vật gì kỳ lạ, họ nói “Cụ Bành”. Hỏi họ ở Ngũ Hà có ai có tài năng và đạo đức, họ nói “Cụ Bành”. Hỏi họ ở Ngũ Hà có ai được mọi người kính trọng, họ cũng nói “Cụ Bành”. Lại còn một việc làm cho họ phục nhất là việc gia đình họ Phương ở Huy Châu kết hôn với gia đình họ Bành. Mọi người để ý nhất đến việc họ Bành bỏ số bạc lớn ra để mua ruộng. Ngu Lương sống trong cái nơi phong tục hủ bại này, lại vì có mấy mẫu ruộng vườn, không đi đâu được, cho nên càng thêm bực tức. Người cha làm tri phủ thanh liêm ngay lúc làm quan, gia đình cũng sống một cách thanh bạch. Ở nhà, Ngu Lương ăn tiêu tiết kiệm nên để dành được một ít tiền. Bấy giờ người cha về hưu không lo gì việc nhà. Mỗi năm Ngu Lương dành dụm được vài lạng bạc, nhờ anh em mua giúp mảnh ruộng hay một cái nhà. Nhưng khi bàn bạc gần xong thì Ngu lại mắng anh em một trận và không chịu mua nữa. Cả huyện đều cho Ngu là một người điên, nhưng họ thèm mấy lạng bạc của y, cho nên cũng làm quen.

    Cụ Thành là người cầm đầu việc mối lái về ruộng đất. Hôm ấy cụ bảo những người quản gia mời Ngu vào thư phòng và nói:

    – Hiện nay có một thửa ruộng ở bên trái nhà tôi. Ruộng này không phải lo gì hạn hán và nước lụt, mỗi năm có thể thu về được sáu trăm đấu gạo. Họ đòi hai ngàn lạng bạc. Hôm kia, ông Phương thứ sáu đã muốn mua, người chủ đã định bán cho ông ấy; nhưng người ở trại đấy không bằng lòng.

    – Tại sao họ không bằng lòng?

    – Bởi vì hôm ông Phương xuống thăm ruộng, chủ ruộng đòi người ở trại đó phải bày “hương án” đón tiếp ông ta. Nếu như tô nộp không đủ thì họ sợ bị đánh cho nên họ không chịu bán!

    – Đã không bán cho ông ta thì còn bán cho tôi làm gì? Tôi xuống thăm ruộng họ có bày “xú án”[189] ra đón tiếp không? Tôi không đánh họ thì họ có đánh tôi không?

    – Không phải vậy! Người ta biết rằng ông là người rộng rãi nhân đức, chứ không phải ác nghiệt như người khác, cho nên tôi đến đây bàn với ông. Không biết ông có sẵn tiền không?

    – Tiền thì tôi có đấy, để tôi bảo đầy tớ mang ra cho cụ xem.

    Ngu bảo đầy tớ mang ra ba mươi đĩnh bạc đặt lên trên bàn. Bạc lăn long lóc. Cặp mắt của cụ Thành cũng nhấp nháy theo những đĩnh bạc. Ngu bảo đem bạc vào nhà cất đi và nói với cụ Thành:

    – Tôi không phải lừa cụ đâu, cụ cứ về làng thu xếp công việc cho xong, thế nào tôi cũng mua.

    – Tôi còn phải ở lại đây mấy hôm chưa về làng được.

    – Có việc gì thế!

    Ngày mai tôi phải đến thăm quan huyện Vương để lĩnh tiền làm một cái “nhà bia” cho người thím của tôi đã chết được khen là có tiết hạnh. Đồng thời tôi muốn nộp thuế luôn. Ngày kia tôi phải đến chúc thọ người con gái cụ Bành đúng mười tuổi. Ngày kia lại là ngày ông Phương thứ sáu mời tôi đến ăn cơm trưa. Tôi phải đến đấy rồi mới về qu được.

    Ngu khịt mũi cười, giữ cụ Thành ở lại ăn cơm trưa. Khi cụ Thành đến Nha Môn, Ngu sai một người đầy tớ mời Đường Tam Đàm đến. Vì họ Phương hàng ngày chỉ mời Đường Nhị đã đỗ cử nhân đến ăn tiệc, mà không mời Tam Đàm, cho nên Đường Tam Đàm luôn luôn dò la tin tức họ Phương: Ông ta biết hôm nào gia đình họ Phương mời khách, mời bao nhiêu người và cách dò la của ông ta bao giờ cũng đúng. Ngu biết ông ta có cái tật ấy nên mới đến nhà hỏi:

    – Ông làm ơn hỏi xem ông Phương thứ sáu ở hiệu “Nhân Xương” chừng ba hôm nữa có mời cụ Thành đến ăn tiệc không? Nếu ông hỏi dò đúng thì hôm ấy tôi mời ông ăn một bữa cơm.

    Đường Tam Đàm nhận lời, đi một lát rồi trở về nói:

    – Không có việc ấy đâu. Ba ngày nữa ông Phương thứ sáu không mời ai hết.

    – Tốt! Tốt lắm! Ba ngày nữa ông đến đây từ sáng sớm và chúng ta ăn tiệc suốt ngày.

    Đường Tam Đàm đi rồi, Ngu bảo đầy tớ đến hiệu buôn hương, sáp nhờ người làm công ở đấy viết giúp một tờ thiếp đỏ, trên đề mấy chữ: “Trưa mười tám mời ông đến nhà tôi ăn cơm”. Dưới đề: “Phương thược”. Tờ thiếp được bỏ vào phong bì và dán lại. Ngu sai bỏ trên án thư trong phòng cụ Thành ngủ. Sau khi đã nộp thuế xong, cụ Thành trở về thấy tờ danh thiếp mời, mừng quýnh, nghĩ bụng:

    – Ta thế mà gặp may! Nói liều một cái mà lại hóa đúng.

    Cụ Thành vui vẻ đi ngủ.

    Đến ngày mười tám, Đường Tam Đàm đến từ sáng sớm. Ngu mời cụ Thành vào nhà khách cụ Thành thấy đầy tớ lần lượt đi qua cổng xuống nhà bếp. Người thì mang rượu, người thì mang gà vịt, người lại mang cá, dò lợn, người mang bốn gói mứt, người mang một đĩa bánh nướng. Cụ biết là có bữa tiệc nhưng không hỏi gì. Ngu hỏi Đường:

    – Anh có nói với những người thợ nề và thợ mộc về việc sửa nhà Nguyên Vũ không?

    – Tôi đã nói rồi. Cần rất nhiều vật liệu. Tường ngoài đã đổ, cần phải xây lại, lại phải làm một cái nền mới. Như thế, thợ lợp nhà phải làm mất ba tháng. Cột nhà kèo cần phải thay và xà nhà phải đóng đinh. Cần nhiều thợ mộc. Nhưng trong việc sửa chữa nhà, thợ mộc, thợ nề chỉ làm nửa ngày thôi. Họ nói mất ba trăm lạng nhưng tôi sợ phải mất đến năm trăm lạng mới chữa xong.

    – Tổ tiên ông ngày xưa đã dựng nên nhà Nguyên Vũ, nó đã làm cho nhiều người ở trong huyện này thi đỗ. Nhưng nay lại phát về họ Bành. Như vậy họ Bành phải xuất tiền ra chữa mới phải. Việc đó có liên quan gì đến ông, tại sao ông lại chịu mất nhiều tiền như vậy?

    Ngu nói:

    – Đúng đấy! Nhờ cụ làm ơn nói hộ với họ Bành để họ giúp tôi ít tiền. Tôi sẽ trả ơn cụ sau.

    – Khi tôi gặp họ, tôi sẽ nói việc đó. Mặc dầu trong gia đình ấy có nhiều người làm quan, tự phụ và khinh người, nhưng họ vẫn tin nhưng điều lão già này nói lắm.

    Người đầy tớ của Ngu thì thầm với một người bán cỏ ở cửa sau, đưa cho người kia bốn đồng tiền bảo vào trước cổng gọi:

    – Cụ Thành, tôi ở nhà ông Phương thứ sáu lại đây, ông Phương mời cụ đến chơi. Ông đang đợi cụ ở nhà.

    – Cụ Thành nói:

    – Về bẩm với cụ tôi sẽ lại ngay.

    Người bán cỏ ra ngay. Cụ Thành chào Ngu Lương đi thẳng đến hiệu Nhân Xương. Người giữ cổng đưa vào, chủ nhân là ông Phương thứ sáu ra đón. Hai bên thì lễ rồi ngồi xuống. Phương hỏi:

    – Cụ đến đây bao giờ?

    Cụ Thành kinh ngạc đáp:

    – Đến đây hôm kia.

    – Cụ ở đâu?

    Cụ Thành lại càng hoảng sợ trả lời:

    – Ở nhà ông Ngu Lương.

    Đầy tớ bưng trà vào. Cụ Thành nói:

    – Hôm nay tốt trời!

    – Phải.

    – Cụ đã gặp quan phụ mẫu chưa?

    – Tôi đã gặp hôm kia.

    Hai người ngồi không biết nói gì, chỉ uống trà. Cụ thành nói:

    – Quan phủ mấy lâu nay không xuống huyện. Nếu quan phủ xuống huyện thì thế nào cũng đến nhà cụ trước. Ngài thân với cụ nhất. Thực ra cụ là người nhà ngài kính trọng nhất chẳng ai có thể sánh được!

    – Quan án sát mới đã đến. Tôi chắc quan phủ thế nào cũng xuống huyện.

    – Phải đấy!

    Hai người ngồi, uống một lượt trà nữa nhưng không thấy có khách nào đến và cũng không thấy tiệc tùng gì bày ra. Cụ Thành rất phân vân, trong bụng lại đói, đành phải cáo từ một tiếng để xem cụ Phương nói thế nào. Bèn đứng dậy nói:

    – Tôi xin chào cụ.

    Phương cũng đứng dậy nói:

    – Cụ ngồi chơi lát nữa.

    – Không, tôi bận phải đi.

    Cụ Thành từ biệt, Phương tiễn ra cổng. Cụ Thành ra khỏi cổng vò đầu, gãi tai, trong lòng suy nghĩ:

    – Hay là ta đến sớm quá chăng?

    Lại nghĩ:

    – Hay là ta đã làm phật ý ông ta chăng? Lại nghĩ:

    – Hay là ta đọc tờ danh thiếp sai chăng? Cụ chỉ suy nghĩ mãi nhưng không sao hiểu được. Rồi lại sức nhớ:

    – Ở nhà ông Ngu hiện nay có bữa tiệc. Mình phải về ăn ngay, rồi sau hẵng hay.

    Cụ Thành đi một mạch về nhà Ngu. Ngu đang ngồi ăn với Đường Tam Đàm, Diêu và hai người nhà ở trong thư phòng. Trước mặt là năm sáu bát đổ ăn, hơi bốc nghi ngút. Họ đang ăn uống vui vẻ thì thấy cụ Thành vào. Tất cả đứng dậy.

    Ngu nói:

    – Cụ Thành bỏ chúng ta đến nhà cụ Phương ăn một bữa tiệc ngon hơn.

    Rồi lại thêm:

    – Mau mau đưa một cái ghế ra đây cho cụ ngồi. Rót một chén trà lâu năm cụ uống cho tiêu cơm.

    Đầy tớ đem ra một cái ghế đặt trước mặt mời cụ Thành ngồi. Lại rót trà liên tiếp cho cụ uống, hết chén này đến chén khác. Cụ Thành càng uống càng đói, cực quá nói không ra lời. Mắt nhìn thấy người ta xới thịt lợn, thịt vịt, cá, ba ba, mà thèm chảy nước dãi tức phát điên lên được. Họ ăn mãi đến tối mà cụ Thành thì phải nhịn đói tràn. Đợi cho Ngu tiễn khách ra cửa, cụ Thành mới gọi quản gia vào phòng xin một bát cơm rang qua rồi ăn. Sau đó cụ vào buồng ngủ, nhưng giận quá không sao ngủ được. Hôm sau, cụ Thành từ biệt Ngu Lương về làng. Ngu Lương nói:

    – Bao giờ cụ trở lại?

    – Khi nào việc ruộng kia thu xếp xong xuôi tôi sẽ trở lại. Nếu chưa xong, tôi phải đợi cho đến khi bà thím của tôi được vào đền thờ tiết hạnh tôi mới trở lại.

    Nói xong cụ từ biệt ra về.

    Một hôm Ngu Lương ở nhà không có việc gì. Đường Nhị đến chơi, hỏi:

    – Anh Ngu, ông họ Quý hôm trước quả thật là ở nhà quan phủ đến đây. Ông ta ở chùa Bảo Lâm. Ông Phương thứ sáu và ông Bành thứ hai đều gặp ông ta rồi. Anh nói đúng thực!

    – Hôm trước chính anh nói là không đúng, hôm nay lại chính anh nói là đúng. Nhưng thôi, đúng hay không ta cũng không cần bàn chuyện đó nữa.

    Đường Nhị cười và nói:

    – Tôi chưa bao giờ gặp quan phủ. Thế nào anh cũng đến phủ thăm ông Quý vậy cho tôi cùng đi để được gặp quan phủ có được không?

    – Như thế cũng được.

    Mấy hôm sau, hai người thuê hai cái kiệu đến phủ Phụng Dương. Đến nha môn, họ đưa danh thiếp. Ngu lại đưa một danh thiếp khác gửi cho Quý Vi Tiêu. Sau khi nhận danh thiếp, một người ra nói:

    – Ông Quý đã đi Dương Châu rồi. Cụ mời các ông vào. Hai người vào, tri phủ tiếp ở thư phòng. Sau khi đi ra, hai người vào trọ trong một gian phòng ở phía đông thành phố. Tri phủ viết thiếp mời họ ăn cơm. Đường Nhị nói với Ngu Lương:

    – Quan phủ mời chúng ta đến mai ăn cơm nhưng nếu chúng ta cứ ngồi đây đợi cho quan phủ cho người đến tìm thì không tiện. Ngày mai chúng ta cứ vào chùa Long Hưng ở trước cổng phủ, hễ thấy quan sai người đến mời là chúng ta vào luôn.

    Ngu cười mà nói:

    – Cũng được!

    Hôm sau, ăn cơm trưa xong, hai người đến ngồi đợi trong nhà một vị hòa thượng ở chùa Long Hưng. Nghe ở nhà một vị hòa thượng bên cạnh có tiếng đàn, tiếng hát rất hay. Đường Nhị nói:

    – Hát hay lắm. Tôi phải sang xem mới được. Đường đi xem nhưng quay trở lại ngay, mặt mày giận dữ trách Ngu Lương:

    – Anh chơi tôi một vố cay quá. Anh có biết ai hát ở đấy không? Đó là cụ Phương thứ sáu chủ hiệu Nhân Xương ở huyện ta với công tử con quan phủ. bữa tiệc hết sức sang trọng. Mỗi người lại ôm một con hát tuồng. Quả thực họ ăn chơi sung sướng quá. Nếu tôi biết họ thân thiết với nhau như vậy thì hôm qua tôi đã cùng cụ Phương thứ sáu đến thăm quan phủ rồi. Nếu tôi cùng đến với ông ta thì nay tôi đã cùng ngồi một chỗ với công tử. Còn tôi đi với anh thì tuy được gặp mặt quan phủ đấy nhưng không sao thân mật như đi với cụ Phương được. Quả thực là tiếc!

    – Đó là anh nói với tôi đấy chứ! Tôi có ép anh đâu. Bây giờ cụ Phương ở đây, anh cứ việc vào nhập bọn với ông ta cũng được chứ sao!

    – Đã cùng đi với nhau thì phải đi cho trót. Tôi đã cùng anh đến thăm quan phủ, thì cùng phải đến ăn tiệc ở đấy chứ.

    Vừa lúc ấy, trong nha môn có người ra mời, hai người đi vào. Tri phủ ra tiếp nói rằng mình ngưỡng mộ đã lâu, lại hỏi:

    – Khi nào những người tiết hạnh ở trong huyện được đưa vào đền thờ, tôi sẽ phải xuống huyện để dự lễ.

    Hai người đáp:

    – Lúc trở về chúng tôi sẽ định ngày, thế nào cũng xin mời ngài đến.

    Ăn cơm xong họ từ biệt ra về. Hôm sau, họ lại viết thiếp cáo từ và trở về huyện. Ngu Lương về nhà được một ngày thì Dư Hữu Đạt đến nói:

    – Ngày mồng ba sắp đến sẽ làm lễ đưa những người tiết hạnh vào đền thờ. Hai gia đình chúng ta có nhiều bà bác và bà thím được đưa vào đền thờ. Chúng ta phải sắm đồ tế lễ, tất cả họ hàng đều phải ra để rước vào nhà thờ.

    Chúng ta phải sắm đồ tế lễ, tất cả họ hàng đều phải ra để rước vào nhà thờ.

    Chúng ta nên đi báo mọi người.

    – Cố nhiên, gia đình em có một người, gia đình anh có hai người được phong tiết hạnh. Hai gia đình chúng ta có tất cả non một trăm năm mươi người, chúng ta phải ăn mặc đồ lễ phục để rước vào nhà thờ, như thế mới gọi là làm theo lối một gia đình lớn chứ.

    – Tôi sẽ đi báo với gia đình và họ hàng tôi, anh sẽ đi báo với gia đình và họ hàng anh.

    Ngu đi thăm họ hàng một lượt, bực bội vô cùng, về nhà cả đêm không sao ngủ được. Sáng hôm sau Dư đến, cặp mắt tròn xoe nói một cách giận dữ:

    – Họ hàng của em nói như thế nào?

    – Còn họ anh thì sao? Tại sao anh có vẻ tức tối như vậy.

    – Em đừng hỏi anh nữa! Anh đem việc ấy nói với họ hàng anh, không ai đi cả, cái đó không cần nói. Nhưng họ lại nói rằng bà cụ Phương được đưa vào đền thờ, thế nào họ cũng phải đi rước và họ lại kéo anh cùng đi. Anh không nghe, họ chế nhạo bảo anh không hiểu gì thời thế hết. Em thấy như thế có tức không?

    Ngu cười và nói:

    – Họ hàng em cũng thế. Cả đêm em không sao ngủ được. Đến mai em sẽ sắm sửa đồ tế lễ và rước bà thím, không cần gì đến họ.

    – Anh cũng phải làm như thế mới được.

    Bàn định như thế là xong.

    Đến ngày mồng ba Ngu mặc áo, đội mũ mới sai đầy tớ mang một bàn lễ vật đến nhà người em họ thứ tám. Vào cửa, Ngu thấy vắng tanh không có một người khách nào. Người em họ là một anh tú tài xác, áo quần rách rưới ra vái chào. Ngu vào nhà đến trước bàn thờ bà thím vái lạy đưa bài vị lên xe. Họ thuê một cái long đình[190] nhờ bốn người khiêng. Bốn người nhà quê thất thểu khiêng đi. Đằng sau không có một ai đi theo, chỉ có bốn người thổi sáo đi trước thổi lung tung trong khi khiêng long đình đi qua phố. Ngu Lương và em họ đi theo sau. Từ cửa từ đường nhìn ra, hai anh em Ngu Lương nhìn thấy hai cái long đình đã rách, lại không có người thổi sáo, theo sau chỉ có hai anh em Dư Hữu Đạt và Dư Hữu Trọng. Đến trước cửa từ đường bốn người gặp nhau vái chào. Nhìn thấy ở lầu Tôn Kinh trước nhà thờ đã treo đèn, treo cờ bày tiệc rượu. Lầu này rất cao lớn, lại ở ngay giữa đường, đứng ở đâu cũng nhìn thấy. Nhưng người hát tuồng đang mang rương hòm đến. Những người khiêng long đình nói:

    – Những người hát tuồng của cụ Phương đã đến rồi.

    Họ đứng đấy một lát thì nghe tiếng súng ở cửa tây. Những người khiêng long đình nói:

    – Bà cụ Phương đã ra!

    Lát sau nghe tiếng thanh la và tiếng trống. Hai cái dù vàng, tám cái cờ, và bốn đội cưỡi ngựa mang theo những cái biển đề: “Thượng thư bộ lễ”, “hàn lâm học sĩ”, “Đô đốc học viện”, “Trạng nguyên cập đệ”. Những cái biển này đều do gia đình họ Dư và họ Ngu đưa đến cả. Khi đám rước đi qua, tiếng thanh la, tiếng kèn vang lên, khói trầm nghi ngút, đoàn người rước bài vị của bà cụ Phương đến. Bài vị này được tám người đàn bà chân to khiêng đi. Cụ Phương thứ sáu đầu đội mũ sa tròn đi theo sau bài vị. Đằng sau, là hai hàng quan khách, hương thân và tú tài. Trong đám hương thân có ông Bành thứ hai, thứ ba, thứ năm, thứ bảy. Ngoài ra, những người đỗ cử nhân, tiến sĩ, cống sinh, giám sinh trong hai gia đình của Dư Hữu Đạt và Ngu Lương, tất cả đến sáu bảy mươi người đều đội mũ sa mặc áo cổ tròn, ra vẻ cung kính lắm. Lại đến sáu bảy mươi người tú tài của hai gia đình Ngu và Dư mặc áo dài, đội mũ vội vàng chạy theo sau. Người hương thân đi cuối cùng là Đường Nhị, tay cầm một quyển sổ đang ghi chép. Người tú tài cuối cùng là Đường Tam Đàm, tay cũng cầm một quyển sổ đang ghi chép. Bởi vì gia đình họ Ngu và họ Dư là gia đình thi lễ và cũng còn biết tự trọng cho nên khi đến trước bàn thờ, nhìn thấy long đình của người trong họ mình ở đây, cũng có bảy, tám người đến vái lạy. Sau đó tất cả đoàn người xô nhau đưa long đình của bà cụ Phương vào nhà thờ. Đằng sau là tri huyện, đốc học, thơ lại, bá tổng có đủ các đồ chắp sự, kèn trống. Quan huyện, quan học đạo, thơ lại, hương thân, tú tài, nhà chủ lần lượt vào lạy. Lạy xong, mọi người kéo nhau ra, đến lầu “Tôn kinh” ăn uống. Đợi cho mọi người đi hết, Dư và Ngu mang long đình đặt vào đúng chỗ. Trong họ Ngu, thì Ngu Lương soạn một bàn lễ tế, trong họ Dư thì Dư Hữu Đạt sửa lễ tam sinh. Lễ xong, họ khiêng bàn tế ra ngoài. Nhưng không có nơi nào ăn, họ định mượn nhà người giữ trường thi. Dư Hữu Đạt ngẩng đẩu lên nhìn lầu “Tôn Kinh” thấy khách khứa mặc áo gấm đi giày đỏ đang rót rượu chúc nhau. Cụ Phương thứ sáu sau buổi lễ thấy gò bó nên cất cái mũ sa và áo cổ tròn, đội một cái mũ vuông, mặc quần áo thường, đi đi lại lại, ngoài hành lang. Có một người đàn bà bán hoa họ Quyền, có đôi bàn chân to, bước lên lầu vừa cười vừa nói:

    – Tôi đến đây để xem đưa bà cụ vào đền thờ. Vẻ mặt cụ Phương thứ sáu vui mừng hớn hở. Cụ đứng dựa vào lan can nhìn những ngọn cờ và những người chơi nhạc, chỉ vào vật này, vật kia và cắt nghĩa cho bà kia nghe. Bà Quyền thì một tay vịn vào lan can, một tay sờ vào lưng bắt rận. Bắt được con nào lại bỏ vào miệng cắn. Nhìn thấy thế, Dư Hữu Đạt chịu không nổi, nói:

    – Này em, chúng ta không uống rượu ở đây làm gì, hãy khiêng bàn về nhà chúng ta. Hai anh sẽ đến nhà em ăn. Như thế còn hơn ngồi nhìn cái cảnh tượng này.

    Mọi người bèn khiêng bàn thờ về nhà, bốn năm người theo sau. Trên đường cái, Hữu Đạt nói với Ngu Lương:

    – Này em! Trong cái huyện này không còn biết lễ nghĩa, liêm sỉ gì nữa, cũng vì ở đây chẳng còn một ông thầy nào ra hồn. Nếu ở Nam Kinh chỗ Ngu bác sĩ thì làm gì có những việc như thế này!

    Dư Hữu Trọng nói:

    – Ngu bác sĩ không ngăn cấm ai việc gì. Nhưng nhìn những hành động của ông mọi người đều cảm hóa nên không ai làm những việc trái lễ.

    Mấy người thở dài, cùng về nhà uống rượu rồi ai về nhà nấy.

    Lúc này đã bắt đầu sửa chữa lầu Nguyên Vũ. Ngày nào Ngu Lương cũng đến đôn đốc công việc. Hôm ấy Ngu trở về nhà thì thấy cụ Thành đã ngồi trong thư phòng. Ngu vái chào, sai đem trà ra uống và hỏi:

    – Tại sao trong ngày lễ trước đây không thấy cụ đến?

    – Hôm ấy tôi cũng muốn đến lắm nhưng còn mắc bệnh không thể đến được. Em tôi về làng nói buổi lễ thật là náo nhiệt, người đi đưa đám nhà cụ Phương chật mất nửa đường, quan huyện Vương và nhà cụ Bành cũng đều đi đưa. Ở trên lầu “Tôn Kinh” có ăn uống, hát xướng. Người các nơi đều kéo nhau đến xem, họ nói rằng: Ngoài gia đình cụ Phương ra, không có ai làm được một cái lễ như vậy. Thế nào? Ông cũng có mặt và uống rượu ở trên lầu có phải không?

    – Cụ không biết hôm ấy tôi cũng phải đưa bà thím của tôi.

    Cụ Thành cười nhạt nói:

    – Ông em họ của ông nghèo quá không có tiền mua quần áo mà mặc, còn ai chịu đưa đám làm gì? Chắc ông đùa với tôi đấy thôi. Thế nào ông cũng đưa đám bà cụ Phương.

    – Thôi, việc ấy đã qua rồi, nói làm gì nữa.

    Ăn cơm chiều xong, cụ Thành nói:

    – Người chủ ruộng và người mách mối đều lên đây. Hiện nay họ ở trong chùa Bảo Lâm. Nếu ông muốn mua ruộng thì đến mai là có thể xong.

    – Như thế cũng được.

    – Lại còn một việc nữa. Tôi chính là người nói cho ông biết về thửa ruộng ấy. Tôi muốn được năm mười lạng về tiền công. Ông phải trả cho tôi số tiền ấy, tôi lại sẽ lấy tiền ở người mách mối nữa.

    – Cái đó chẳng cần phải bàn.

    Cụ Thành mới kể lại tất cả tô, giá tiền mua ruộng, cân để cân, sổ bạ, giá tiền về gà, cỏ, tiền tô, tiền rượu, tiền chữ ký, tiền biếu nghiệp chủ vân vân… Cụ Thành đem người chủ ruộng, người mách mối đến nhà Ngu Lương từ sáng sớm. Cụ Thành đến, bảo viết khế cho xong. Nhưng khi bước vào thư phòng bảo Ngu Lương ký vào khế bán ruộng thì cụ Thành thấy những người thợ nề, thợ mộc đang lĩnh tiền ở đây. Ngu Lương đem tiền ra phân phát từng đỉnh năm mươi lạng một, một lát phát hết mấy trăm lạng. Chờ cho họ đi hết, cụ Thành đến bảo ký vào khế bán ruộng. Ngu Lương trợn mắt nói:

    – Ruộng đắt quá, tôi không muốn mua.

    Cụ Thành giật mình không biết nói gì. Ngu Lương nói:

    – Thưa cụ, quả thật tôi không muốn.

    Và quay lại bảo đầy tớ:

    – Mày ra bảo những người nhà quê ở ngoài sảnh đi cho rảnh mắt.

    Cụ Thành cau mày nhăn mặt đành phải đi ra.

    Chỉ nhân phen này khiến cho:

    Lìa nơi ác tục, thói nhà nho lại rạng môn tường;

    Đến chốn danh bang, người hiền triết tiếc không gặp mặt.

    Muốn biết việc sau như thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
     
  4. Riochan

    Riochan Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    20/12/14
    Bài viết:
    60
    Được thích:
    0
    Hồi 48​


    Phủ Huy Châu liệt phu chết theo chồng

    Đền Thái Bá hiền xưa ghi việc cũ

    Dư Hữu Đạt dạy học ở nhà Ngu Lương, theo thường lệ cứ sáng đi chiều về. Hôm ấy Hữu Đạt dậy sớm, rửa mặt xong, uống trà định sang lớp học. Nhưng vừa ra đến cửa thì thấy ba người cưỡi ngựa đến. Tất cả xuống ngựa chào mừng Dư Hữu Đạt, Hữu Đạt hỏi:

    – Có việc gì mà chúc mừng thế?

    Những người báo tin đưa ra một tờ giấy báo rằng Dư Hữu Đạt đã được bổ làm huấn đạo ở Huy Châu, Dư rất mừng rỡ, mời họ ăn cơm, uống rượu rồi cho tiền để họ về. Sau đó, Ngu Lương và bà con, bạn bè cũng đến mừng. Dư Hữu Đạt lo bận việc tiếp khách mất mấy ngày, rồi thu xếp để đến An Ninh lính bằng. Lĩnh bằng xong, Hữu Đạt đem gia đình đến nơi làm việc. Hữu Đạt mời Hữu Trọng cùng đi với mình. Hữu Trọng nói:

    – Lương anh chẳng bao nhiêu. Khi anh đến đấy sợ không đủ chi dùng. Em ở nhà thôi.

    Hữu Đạt nói:

    – Hai anh em ta gặp được nhau ngày nào là quí ngày ấy. Trước đây, hai ta đều phải đi dạy học các nơi, có khi hàng năm không gặp mặt nhau. Nay chúng ta đã già rồi, chỉ mong anh em được sống với nhau cho lâu dài chứ việc no hay đói thì ta sẽ bàn sau. Làm quan lẽ nào chẳng hơn dạy học ở nhà riêng sao! Em cứ đi với anh.

    Dư Hữu Trọng bằng lòng thu xếp hành lý, cùng đến Huy Châu. Vì Hữu Đạt là một nhà văn rất nổi tiếng, mọi người ở Huy Châu đều biết, cho nên ông đến đấy làm quan, nhân dân Huy Châu nghe tin đều mừng rỡ. Sau khi đến nhậm chức, mọi người thấy Hữu Đạt tính tình rộng rãi, ăn nói tỏ thông suốt, cho nên những người tú tài nào chưa đến gặp cũng đều muốn đến. Họ đều thấy mình được một vì thầy sáng suốt. Đến lúc nói chuyện với Hữu Trọng thấy lời nói nào của Hữu Trọng cũng là lời của con người có học vấn, mọi người lại càng thêm kính trọng. Ngày nào cũng có mấy người tú tài đến thăm. Hôm ấy, Hữu Đạt đang ngồi ngoài nhà sảnh bỗng thấy ở bên ngoài có một người tú tài bước vào. Y đầu đội mũ vuông, mình mặc áo màu lam, da mặt đen sạm, râu lốm đốm bạc, tuổi trạc sáu mươi. Người này cầm trên tay một tờ danh thiếp đưa cho Hữu Đạt. Hữu Đạt xem tờ danh thiếp đề: “Học trò là Vương Uẩn”. Sau khi đưa danh thiếp, Vương vái chào. Hữu Đạt đáp lễ và hỏi:

    – Có phải tên tự của ông là Ngọc Huy phải không?

    – Vâng chính tôi.

    – Anh Ngọc Huy! Tôi mong anh đã hai mươi năm nay, ngày nay mới được gặp mặt. Chúng ta chỉ nên xem nhau là anh em, không cần phải theo lệ tục làm gì.

    Hữu Đạt mời Vương vào thư phòng sai đầy tớ mời Hữu Trọng ra. Hữu Trọng ra gặp Vương Ngọc Huy. Cả hai đều nói mình mấy lâu khao khát nay mới được gặp nhau. Sau đó, cả ba ngồi xuống. Vương ngọc Huy nói:

    – Con là tú tài ở trường này đã ba mươi năm nay. Con vốn là một con người ngông cuồng, mấy năm trước đối với thầy học chẳng qua chỉ gặp qua một lần ở công đường mà thôi, nhưng nay được tin thầy và chú ở đây là hai người nổi tiếng, con sẽ xin đến luôn để được thầy và chú dạy bảo. Mong thầy không xem con như mọi người môn sinh khác mà xem con như đứa học trò mới học.

    Hữu Đạt nói:

    – Sao anh nói như vậy? Chúng ta là bạn bè từ lâu.

    Hữu Trọng nói:

    – Trước đây tôi có nghe nói ông gia thế thanh bần. Độ này ông có dạy học ở nhà không. Mấy lâu nay ông làm nghề gì để sống?

    – Chẳng giấu gì chú, sính bình tôi, có một chí hướng. Tôi muốn viết ba bộ sách để giúp đời.

    Hữu Đạt hỏi:

    – Ba bộ sách gì vậy?

    – Một bộ sách về lễ, một bộ sách về văn tự, một bộ sách về hương ước.

    Hữu Trọng hỏi:

    – Bộ sách về lễ nói gì?

    – Bộ sách về lễ nói đến ba thứ lễ lớn như nói về lễ với cha mẹ, lễ với người lớn, bậc huynh trưởng chẳng hạn. Những chữ lấy trong kinh ra thì viết lớn ở dưới có chú thích thêm lời bàn của các nhà và lấy những việc trong sử để dẫn chứng. Như vậy học sinh từ bé có thể học tập được.

    Hữu Đạt nói:

    – Một bộ sách như vậy cần phải được bộ học cho lưu hành khắp thiên hạ. Còn bộ sách về văn tự nói gì?

    – Bộ này con làm mất bảy năm. Nay đã xong, con sẽ đưa lên để thầy xem.

    Hữu Đạt nói:

    – Việc học về văn tự mấy lâu nay người ta đã bỏ. Nay có quyển sách này thực là công lao không phải nhỏ. Còn quyển về hương ước thì nói gì?

    – Quyền hương ước chẳng qua là ghi thêm những lễ nghi để dạy cho nhân dân.

    Ba bộ sách này làm cho con bận rộn suốt ngày cho nên không có thì giờ dạy học.

    Hữu Đạt hỏi:

    – Ông có mấy người con trai?

    – Con chỉ có một cháu trai, bốn cháu gái! Cháu gái đầu góa chồng ở nhà. Mấy cháu gái nhỏ cũng vừa lấy chồng một năm nay.

    Dư Hữu Đạt giữ Vương ở lại ăn cơm, trả lại Vương tờ danh thiếp, mà rằng:

    – Hai anh em tôi mời ông thỉnh thoảng đến chơi, xin ông đừng nề hà gì cái cảnh cơm rau của chúng tôi.

    Sau đó, hai người tiễn Vương ra cửa. Vương bước thủng thỉnh về nhà. Nhà ở cách thành phố đến mười lăm dặm.

    Vương Ngọc Huy trở về nhà nói với vợ và con về việc Dư huấn đạo đối đãi mình tốt như thế nào. Hôm sau, Dư Hữu Đạt đi kiệu xuống làng thăm và ngồi trong gian nhà tranh nói chuyện. Một lát rồi về. Hôm sau nữa, Dư Hữu Trọng lại thân hành đến mang theo một người đầy tớ quảy một đấu gạo. Hữu Trọng bước vào chào Vương Ngọc Huy, hai người cùng ngồi. Hữu Trọng nói:

    – Đấu gạo này là bổng lộc của anh tôi.

    Và lấy trong tay áo ra một gói bạc nói:

    – Đây là một lạng bạc tiền lương của anh tôi, chúng tôi đưa đến cho ông mong để góp phần vào việc củi nước vài ngày.

    Vương Ngọc Huy nhận lấy bạc và nói:

    – Tôi không có chút gì kính biếu thầy và chú nay lại được thầy săn sóc đến thật là quá đáng.

    Hữu Trọng cười mà rằng:

    – Nói làm gì cái việc ấy! Lương huấn đạo vốn chẳng bao nhiêu, anh tôi lại mới đến nhậm chức. Ngu bác sĩ ở Nam Kinh vẫn thường biếu những người danh sĩ hàng chục lạng bạc. Anh tôi cũng muốn bắt chước ông ta.

    – Đây là vật tặng của bậc trưởng giả, tôi dám đâu không nhận, vậy xin bái lĩnh.

    Ngọc Huy giữ Hữu Trọng ở lại ăn cơm rồi đưa ra bản thảo của cả ba quyển sách cho Hữu Trọng xem, Hữu Trọng xem rất kỹ, trong lòng khôn xiết thán phục.

    Hữu Trọng ngồi mãi đến chiều, chợt thấy một người vào bảo với Ngọc Huy:

    – Thưa ông, anh ấy ở nhà bệnh rất nặng, chỉ bảo tôi đến mời ông về thăm. Xin mời ông đi gấp cho.

    Vương Ngọc Huy bảo Dư Hữu Trọng:

    – Đó là người nhà của đứa con gái thứ ba của tôi. Vì thằng con rể của tôi mắc bệnh cho nên nó bảo tôi về thăm.

    Hữu Trọng nói:

    – Như vậy tôi cũng xin từ biệt. Tôi xin đem bản thảo của ông về cho anh tôi xem. Xem xong tôi sẽ trả lại.

    Nói xong Hữu Trọng ra về. Người đầy tớ đã ăn xong bữa cơm cùng bỏ mấy quyển sách vào cái thúng không gánh về thành.

    Vương đi được hai mươi dặm đến nhà con rể. Quả nhiên thấy con rể mắc bệnh rất nặng. Thầy thuốc ở ngay đấy nhưng cũng vô hiệu. Sau mấy hôm người con rể qua đời. Vương Ngọc Huy khóc rống. Con gái của Ngọc Huy kêu trời gào đất thảm thiết đợi đến khi khâm liệm chồng xong mới ra lạy cha mẹ chồng và cha mình rồi nói:

    – Thưa cha, chị cả của con đã góa chồng, ở nhà bắt cha mẹ phải nuôi. Ngày nay đến lượt chồng con cũng mất. Có lẽ nào con lại bắt cha mẹ nuôi nữa. Nghèo như cha nuôi làm sao được bấy nhiêu đứa con gái!

    Vương Ngọc Huy nói:

    – Bây giờ con định làm gì?

    – Nay con muốn xin từ biệt cha mẹ chồng, từ biệt cha và xin xuống suối vàng với chồng con.

    Cha mẹ chồng của nàng nghe vậy kinh hoảng, nước mắt như mưa và nói:

    – Con ơi! Con điên rồi sao? Từ xưa đến nay con sâu con kiến còn tham sống kia mà! Tại sao con ăn nói như vậy? Con sống là người nhà của ta, chết là ma của gia đình ta. Ta sẽ nuối nấng con, không cần đến cha mẹ đẻ con đâu. Con không nên nghĩ như vậy!

    Người con gái nói:

    – Cha mẹ nay đã già rồi. Con làm dâu không hiếu thuận với cha mẹ lại làm cho cha mẹ phải lo lắng về con, như thế lòng con thật không yên. Cha mẹ cứ để con làm theo ý của con. Vài hôm nữa thì con chết, xin cha về nhà nói với mẹ con, đến đây để con gặp mặt, từ biệt trước khi chết. Con tha thiết mong việc đó.

    Vương Ngọc Huy nói:

    – Tôi đã nghĩ kỹ việc đó rồi. Đứa con gái của tôi thiết tha muốn chết theo chồng, đó là ý muốn của con tôi. Ta cứ để cho nó làm theo ý nó. Từ xưa đã có câu: “Lòng đã muốn làm sao mà cản được”.

    Bèn quay lại nói với con gái:

    – Con ơi! Con đã muốn thì đó là một việc lưu danh sử sách. Cha ngăn cản con làm gì! Con đã biết điều hay lẽ phải. Cha sẽ về nhà nói với mẹ con đến đây để từ biệt con.

    Bên cha mẹ chồng không chịu nghe, nhưng Vương Ngọc Huy vẫn cứ giữ ý của mình, bước một mạch về nhà, đem việc ấy nói với vợ. Bà vợ nói:

    – Ông càng già lại càng điên rồi sao? Con gái ông muốn chết, ông không khuyên nó thôi đi lại giục nó chết. Như thế là nghĩa làm sao?

    – Bà làm gì mà hiểu được những việc như thế!

    Người vợ nghe vậy, nước mắt nước mũi ròng ròng vội vàng lên kiệu đến nhà con gái để khuyên bảo con. Trong lúc ấy Vương Ngọc Huy ở nhà vẫn cứ điềm nhiên xem sách như trước chờ đợi tin tức con gáiBà mẹ đến khuyên bảo con, nhưng người con vẫn không lay chuyển. Mỗi ngày nàng chải đầu rửa mặt ngồi hầu cạnh mẹ chồng nhưng không hề húp qua một thìa cháo. Mẹ chồng và mẹ đẻ cố ra sức khuyên lơn. Mặc dầu trăm phương nghìn kế nàng vẫn không ăn. Nhịn được sáu ngày, yếu quá không dậy nổi. Bà mẹ đẻ đến nhìn thấy đau lòng xót ruột nên cũng mắc bệnh phải khiêng về nhà nằm. Ở nhà, được ba ngày, chừng canh hai, có mấy người cầm mấy bó đuốc đến nhà, gõ cửa báo tin.

    – Cô ba nhịn đói đã tám ngày và đã mất vào trưa hôm qua.

    Ba mẹ nghe vậy khóc ngất đi, phải múc nước tưới vào mắt mới tỉnh dậy. Tỉnh dậy lại khóc mãi không thôi. Vương Ngọc Huy đến trước giường nói:

    – Bà mày thật là ngốc! Con bà nay đã thành tiên rồi. Bà khóc mà làm gì? Chết như thế là giỏi! Chỉ sợ sau này ta muốn chết cho có một đề tài hay như thế mà không chết được thôi!

    Bèn ngẩng lên trời cười khanh khách:

    – Chết như thế là giỏi! Chết như thế là giỏi!

    Và cứ cười khanh khách bước từng bước dài ra khỏi phòng.

    Hôm sau Dư Hữu Đạt biết tin, kinh ngạc khôn xiết. Bèn đem hương hoa, đồ tam sinh đến trước quan tài làm lễ. Làm lễ xong trở về nha môn, lập tức bảo người thư lại làm công văn xin cho nàng được sắc phong làm liệt nữ. Dư Hữu Trọng cũng giúp đỡ trong việc làm công văn gửi đi ngay đêm đó. Sau đó, Hữu Trọng cũng đem đồ lễ vật đến viếng. Học trò thấy thầy học của mình kính trọng người đàn bà mới mất như vậy nên cũng kéo nhau đến viếng không biết bao nhiêu mà kể. Hai tháng sau, quan trên chuẩn y cho phép đưa vào đền thờ. Ở ngoài cổng đền làm một cái cổng chào. Đến ngày đưa vào đền thờ, Dư Hữu Đạt mời tri huyện đưa người liệt nữ vào đền. Các quan thân trong huyện cũng đều mặc lễ phục rước vào đền thờ. Sau khi đã đưa bài vị vào đền thờ, tri huyện, các quan thân, Dư Hữu Đạt và bà con hai gia đình tất cả đều vào làm lễ. Lễ kéo dài một ngày. Người ta bày tiệc ở nhà Minh Luân và mời Vương Ngọc Huy vào, nói rằng Vương Ngọc Huy đẻ một người con gái quí như vậy làm nổi tiếng cho cả họ. Nhưng Vương Ngọc Huy bây giờ cảm thấy đau đớn từ chối không vào dự tiệc. Mọi người ở Minh Luân Đường uống rượu xong rồi về.

    Hôm sau Vương Ngọc Huy đến tường học cảm tạ Dư Hữu Đạt. Dư Hữu Đạt và Dư Hữu Trọng tiếp và giữ lại ăn cơm. Vương Ngọc Huy nói:

    – Ở nhà, tôi thấy nhà tôi luôn luôn khóc lóc, trong lòng không chịu được cho nên muốn đi chơi xa ít lâu. Tôi nghĩ rằng nơi đi chơi thích nhất là Nam Kinh. Ở đây có những nơi in sách rất lớn, tôi có thể in được ba bộ sách này.

    Dư Hữu Đạt nói:

    – Ông muốn đến Nam Kinh nhưng tiếc rằng Ngu bác sĩ đã đi rồi. Nếu Ngu bác sĩ còn ở Nam Kinh thì chỉ cần ông ta xem một lần và khen một tiếng là các hiệu in tranh nhau in.

    Dư Hữu Trọng nói:

    – Nếu ông đi Nam Kinh thì anh có thể viết một bức thư cho ông Thiếu Khanh là em họ, và ông Thiệu Quang. Lời nói của những người này rất có giá trị.

    Hữu Đạt vui lòng viết mấy bức thư cho Trang Thiệu Quang, Đỗ Thiếu Khanh, Trì Hành Sơn, Vũ Thư.

    Vương Ngọc Huy già nên không thể đi bộ, xuống thuyền đi từ Nghiêm Châu tới Tây Hồ. Trên đường nhìn phong cảnh nước non xinh đẹp lại chạnh nhớ đến con gái, Vương càng buồn rầu. Đến Tô Châu phải chuyển sang thuyền khác. Vương nghĩ bụng. Ta có một người bạn cũ ở núi Đặng Uý, ông ta rất thích sách của ta, nhân tiện ta cũng đến thăm một thể.

    Vương bèn để hành lý trong một cái quán ở hồ Sơn Đường, rồi thuê thuyền đến núi Đặng Uý. Bây giờ trời còn sớm, đến chiều thuyền này mới bắt đầu đi. Vương Ngọc Huy hỏi chủ quán:

    – Ở đây, nơi nào xinh đẹp có thể du ngoạn?

    – Cách đây chỉ độ sáu bảy dặm là gò Hổ Khâu. Đó là một nơi rất xinh đẹp.

    Vương khóa trái cửa rồi ra. Đường đi lúc đầu còn hẹp. Đi được độ hai ba dặm, đường dần dần rộng. Bên đường có một quán trà, Vương vào uống một chén trà rồi nhìn những chiếc thuyền đi qua. Có những chiếc thuyền rất lớn, cột kèo làm bằng gỗ, chạm trổ tinh vi. Ở trong người ta đốt hương, bày tiệc rượu, Vương đi thẳng đến gò Hổ Khâu. Hết những thuyền của các du khách đi qua, lại đến những chiếc thuyền không treo rèm, ở trong có những người đàn bà ăn mặc rất xinh đẹp, ngồi uống rượu. Vương nghĩ bụng:

    – Phong tục ở Tô Châu đây không ra gì, đàn bà thì phải ở trong chốn buồng the, có lẽ nào lại chơi thuyền xuôi ngược trên dòng sông như thế này!

    Nhìn một lát, lại thấy một người đàn bà trẻ làm Vương sực nhớ đến con gái mình. Lòng Vương nghẹn ngào nước mắt lã chã tuôn rơi. Vương Ngọc Huy lau nước mắt bước ra, đi thẳng đến gò Hổ Khâu. Trên đường chỉ thấy người bán đậu phụ, bán chiếu, bán đồ chơi, bán hoa bốn mùa rất là náo nhiệt. Cũng có những người bán rượu, bán đồ điểm tâm. Vì Vương đã già, đi không được nhanh nên phải đi thủng thỉnh mất một lúc mới đến cửa chùa Hổ Khâu. Bước lên mấy bực tam cấp rồi đi quanh thì đến cái bia “Thiên nhân bi” ở đấy người ta đã bày một bàn trà. Vương ngồi xuống uống một chén trà, nhìn quanh bốn phía, phong cảnh thực là hoa lệ. Bấy giờ sắc trời u ám, hình như sắp có trận mưa. Vương không dám ngồi lâu, đứng dậy bước ra cửa chùa. Đi được nửa đường cảm thấy đói, Vương vào quán ăn mấy cái bánh, mỗi cái sáu đồng tiền, trả tiền rồi đi ra, thủng thỉnh về quán trọ. Khi ấy trời đã tối sẫm, chủ thuyền giục Vương mang hành lý xuống thuyền. Cũng may mưa không to nên đêm ấy thuyền đi suốt đêm, đến núi Đặng Uý. Vương đến nhà người bạn thì thấy cái nhà lụp xụp, ngoài cổng có mấy cây liễu rủ, hai cánh cổng đóng kín, ở ngoài dán giấy trắng. Vương giật mình, vội vàng gõ cửa. Chỉ thấy người con của bạn mình mặc đồ tang đi ra cửa. Thấy Vương Ngọc Huy, y liền hỏi:

    – Tại sao mãi đến bây giờ bác mới đến? Cha cháu ngày nào cũng mong gặp bác. Ngay đến lúc nằm trên giường bệnh hấp hối cha cháu còn muốn gặp bác một lần nữa, trong lòng cứ tiếc không sao được đọc hết sách của bác.

    Vương Ngọc Huy nghe vậy biết rằng bạn mình đã qua đời, nước mắt rơi như mưa, nói:

    – Cha cháu mất từ bao giờ.

    – Chưa được bảy ngày.

    – Quan tài có ở nhà không?

    – Vẫn còn ở trong nhà.

    – Cháu dẫn bác đến!

    – Mời bác hãy rửa mặt uống trà rồi cháu xin đưa bác vào.

    Y mời Vương Ngọc Huy vào nhà, múc nước cho Vương rửa mặt. Nhưng Vương không chịu uống trà cứ bảo người con đưa mình đến trước quan tài. Người con đưa vào gian giữa, quan tài còn để ở giữa nhà. Trước mặt là lư hương, đèn sáp, chân dung người chết, cờ phan. Vương Ngọc Huy khóc một hồi, sụp lạy bốn lạy. Người con đáp lễ. Vương uống trà xong, lại lấy một số phần tiền đi đường để mua hương, giấy mã, thịt tế, rồi đặt những quyển sách của mình trước linh cữu, khóc rống một hồi. Vương nghỉ lại một đêm hôm sau mới ra đi. Người con giữ lại không được. Vương lại đến trước quan tài của bạn để cáo từ, khóc lóc thảm thiết rồi gạt nước mắt xuống thuyền. Con của người bạn tiễn chân đến tận thuyền mới trở về.

    Vương đến Tô Châu, sang thuyền khác đi thẳng một mạch đến cửa Thuỷ Tây, thành Nam Kinh, mới lên bờ. Bước vào thành, Vương vào trọ trong am Ngưu Công. Hôm sau Vương mang thư đến để tìm gặp các danh sĩ. Nhưng bây giờ Ngu bác sĩ đã được bổ đi Chiết Giang. Đỗ Thiếu Khanh cũng đi Chiết Giang thăm bạn. Trang Thiệu Quang trở về làng để sửa lại phần mộ tổ tiên, Trì Hành Sơn, Vũ Thư đều đi xa. Vương ngọc Huy không gặp được ai nhưng cũng không lấy làm buồn, hàng ngày vẫn ở am Ngưu Công đọc sách như thường. Hơn một tháng sau, số tiền đã hết, Vương đang dạo chơi trên đường rẽ vào ngõ hẹp thì gặp một người vái chào hỏi:

    – Bác tại sao lại đến đây?

    Vương nhìn ra, thì người kia là người đồng hương tên là Đặng Nghĩa Tự và Chất Phu. Cha của Đặng Chất Phu là bạn học với Vương. Đặng Chất Phu vào trường chính nhờ Vương Ngọc Huy làm bảo lĩnh, vì vậy Đặng Chất Phu gọi Vương ngọc Huy là bác. Vương Ngọc Huy nói:

    – Đã lâu không gặp cháu. Hiện nay cháu ở đâu?

    – Bác ở đâu?

    – Bác ở am Ngưu Công trước mặt, cách đây không xa.

    – Cháu hãy đến nhà bác đã.

    Đến nhà, Đặng Chất Phu vái chào và nói:

    – Từ khi cháu xa bác, cháu ở Dương Châu được bốn năm năm. Gần đây ông chủ của cháu bảo cháu đến bán muối ở trên sông. Cháu trọ ở Triều Thiên Cung. Bấy lâu nay cháu cứ nhờ bác, bác có mạnh khỏe không? Bác đến Nam Kinh làm gì?

    Vương Ngọc Huy mời ngồi và nói:

    – Cháu có nhớ không? Trước đây mẹ cháu thủ tiết thờ chồng, nhà láng giềng bị cháy, mẹ cháu cầu trời khấn Phật, có cơn gió nổi lên thổi tắt ngọn lửa. Việc đó thiên hạ đều biết. Ngày nay người con gái thứ ba của bác cũng là một liệt nữ.

    Vương kể lại câu chuyện con gái mình tuẫn tiết theo chồng. Và nói:

    – Vì bác ở nhà thấy bác gái khóc lóc trong lòng không đành. Quan huấn đạo ở phủ là ông Dư Hữu Đạt có viết mấy bức thư cho bác để gặp mấy người bn ở Nam Kinh. Không ngờ bác đến đây không được gặp ai.

    – Họ là ai?

    Vương Ngọc Huy kể lại đầu đuôi. Đặng Chất Phu thở dài mà rằng:

    – Cháu cũng tiếc bác đến đây đã muộn. Trong thời gian Ngu bác sĩ ở Nam Kinh, ở đây có nhiều người danh sĩ nổi tiếng, mọi người đều biết đến việc tế ở đền Thái Bá. Từ khi Ngu bác sĩ đi rồi, các vị danh sĩ cũng tản đi bốn phương như mây trôi nước chảy. Năm ngoái cháu có được gặp ông Đỗ Thiếu Khanh và nhờ ông Đỗ Thiếu Khanh, cháu được gặp ông Trang Thiệu Quang ở hồ Nguyên Vũ. Nhưng nay, họ đều không có ở nhà. Bác ở đây không tiện, mời bác đến Triều Thiên Cung ở với cháu.

    Vương Ngọc Huy nhận lời, từ biệt hòa thượng sai người mang hành lý, cùng Đặng Chất Phu đến ở tại Triều Thiên Cung. Buổi tối, Đặng Chất Phu dọn tiệc rượu kể lại câu chuyện về đền Thái Bá. Vương Ngọc Huy nói:

    – Đền Thái Bá ở đâu? Ngày mai tôi muốn đến thăm.

    – Ngày mai cháu sẽ cùng đi với bác.

    Hôm sau, hai người đi ra cửa nam, Đặng Chất Phu cho người giữ cổng mấy đồng tiền. Cổng mở, họ bước vào điện chính. Sau khi làm lễ ở điện chính, họ đi ra phía nam. Ở dưới lầu họ nhìn thấy tờ giấy vạch chương trình buổi lễ và những người được cử vào tế do Trì Hành Sơn dán lên tường trước kia. Hai người lấy ống tay áo lau bụi bặm và cầm lên xem. Họ lại bước lên lầu, thấy tám cái tủ lớn đựng các nhạc cụ, đồ tế. Vương Ngọc Huy muốn xem, người giữ điện nói:

    – Chìa khóa hiện nay ở trong nhà ông Trì Hành Sơn.

    Họ đành phải đi xuống theo hai đường hành lang, ở hai bên là phòng đọc sách. Họ đi thẳng đến gian nhà khám thịt tế rồi từ biệt người giữ đền thờ. Hai người lại đến chùa Báo Ân xem. Họ uống trà ở dưới chân tháp lưu Ly và ăn cơm trong một quán rượu trước cửa chùa. Vương Ngọc Huy nói với Đặng Chất Phu:

    – Bác đi chơi đã lâu, nay muốn trở về nhưng không sao có tiền đi đường.

    – Bác nói gì vậy? Cháu xin đưa tiền đi đường để bác về nhà.

    Đặng Chất Phu làm một bữa tiệc tiễn hành, đưa ra mười mấy lạng bạc cho Vương, lại thuê một cái kiệu đưa Vương về Huy Châu. Đặng Chất Phu nói:

    – Nay tuy bác đã đi nhưng bác cứ để lại cho cháu mấy bức thư của ông Dư Hữu Đạt. Khi nào các vị danh sĩ trở về, cháu sẽ đem thư đến cho họ, để họ biết rằng bác đã đến thăm.

    – Như thế thì rất tốt!

    Vương bèn trao mấy bức thư cho Đặng Chất Phu và lên kiệu về nhà. Vương Ngọc Huy đi được một vài hôm, Đặng Chất Phu nghe tin Vũ Thư đã trở về bèn đem thư đến nhà. Vũ Thư không ở nhà, Đặng không gặp mặt nhưng để thư ở lại và bảo người nhà rằng:

    – Thư này là của ông Đặng ở Triều Thiên Cung đem đến. Ông ta muốn gặp ông chủ để trình bày đầu đuôi.

    Vũ Thư về nhà đọc thư, định đến Triều Thiên Cung để thăm lại. Nhưng vừa lúc ấy thì Cao Hàn Lâm mời, chỉ nhân phen này khiến cho:

    Bạn bè yến hội, bỗng dưng lại gặp người kỳ;

    Hoạn nạn giúp nhau, cũng phải nhờ tay giỏi võ.

    Muốn biết sự việc như thế nào, hãy xem hồi sau phân giải.
     
  5. Riochan

    Riochan Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    20/12/14
    Bài viết:
    60
    Được thích:
    0
    Hồi 49​


    Hàn lâm bàn tán bảng long hổ

    Trung thư mạo chiếm áo phượng hoàng

    Vũ Thư định đến nhà Đặng Chất Phu thì có người đưa tờ danh thiếp đến. Tờ danh thiếp viết:

    “Cao hàn lâm hôm nay mời ông đến chơi” Vũ Thư trả lời người kia:

    – Tôi phải đi thăm một người khách rồi sẽ đến ngay. Anh về trước báo với ông chủ như vậy.

    – Ông chủ tôi gửi lời thăm ông. Ông chủ tôi có mời ông Vạn ở Chiết Giang là người bạn rất thân từ trước đến nay. Lại có mời cả ông Trì nữa. Ngoài ra có ông Tần là bà con ông chủ.

    Vũ Thư nghe nói có Trì Hành Sơn nên cũng miễn cưỡng nhận lời. Vũ Thư đến thăm Đặng Chất Phu nhưng không gặp. Buổi chiều, người nhà Cao đến mời hai lần, Vũ Thư mới đi. Cao Hàn Lâm ra tiếp, mời vào thư phòng. Thi ngự sử, Tần trung thư cũng đến ở đấy. Mấy người đang uống trà thì Trì Hành Sơn đến. Cao bảo quản gia mời ông Vạn đến và nói với Thi ngự sử:

    – Ông Vạn là một người bạn của tôi giỏi bậc nhất ở Chiết Giang, viết chữ rất tốt. Cách đây hai mươi năm, lúc tôi đỗ tú tài tôi có gặp ông ở Dương Châu. Lúc đó, ông cũng đỗ tú tài, nhưng hành động của ông khác hẳn người thường. Bấy giờ mấy ông quan coi muối đều không dám khinh thường ông và việc ông làm ở đấy hơn tôi. Từ khi tôi lên kinh đến nay hai bên không gặp nhau nữa. Hôm trước đây, ông ở kinh về nói đã được bổ làm trung thư. Như vậy, nay mai ông sẽ là bạn cùng nha môn với ông Tần đây…

    Tần cười:

    – Ông là bạn đồng sự với tôi mà được cụ tôn kính như thế sao? Nếu vậy, ngày mai cụ phải đến chơi nhà tôi mới được.

    Bấy giờ Vạn đã đi kiệu đến cửa và đưa danh thiếp vào. Cao Hàn Lâm chắp tay đứng dưới thềm nhà khách bảo quản gia mở cửa cho kiệu đi vào. Vạn xuống kiệu từ ngoài cửa bước vào, vái chào mọi người và ngồi.

    Vạn nói:

    – Tôi được cụ mời thực là hân hạnh! Xa nhau đã hai mươi năm, nay tôi cũng muốn mượn chén rượu nói chuyện xưa. Không biết hôm nay cụ có mời vị khách nào nữa không?

    – Hôm nay không có vị khách nào khác, chỉ có Thi ngự sử, ông Tần là bà con và ông Vũ, ông Trì là bạn của tôi. Hiện nay tất cả đều ở trong nhà khách phía tây.

    – Cho tôi được gặp mặt.

    Người quản gia vào mời bốn người khách vào gian nhà khách chính. Thi ngự sử nói:

    – Cụ Cao mời chúng tôi đến đây để tiếp ông.

    Vạn nói:

    – Tôi gặp cụ Cao cách đây hai mươi năm ở Dương Châu khi cụ chưa hiển đạt.

    Nhưng nhìn cụ, thấy khác người thường; tôi cũng đoán biết sau này cụ sẽ thành một cột trụ của triều đình. Sau khi cụ Cao thi đỗ cao, tôi lưu lạc bốn phương chưa bao giờ có dịp trở về kinh để gặp mặt. Năm ngoái tôi có lên kinh, không ngờ cụ Cao đã về hưu. Hôm qua, tôi ở Dương Châu gặp mấy người bạn, bận chút việc cho nên mãi đến giờ mới được gặp. May sao hôm nay lại được gặp cụ và các vị.

    Tần nói:

    – Ông bao giờ thì nhậm chức. Tại sao ông lại rời khỏi kinh đô?

    Vạn nói:

    – Chức trung thư thì có thể đi theo con đường tiến sĩ, hay con đường giám sinh. Nhưng tôi thì được cử theo con đường ty thuộc chứ không phải theo đường khoa cử, cho nên sau này sợ suốt đời cũng không thoát khỏi hai chữ “trung thư”. Còn muốn làm đến hàn lâm, học sĩ thì sợ không làm được.

    – Gần đây, việc tìm được một chức khuyết cũng rất khó.

    Tần nói:

    – Gặp dịp làm quan mà không làm thì cũng như là không gặp.

    Vạn lảng sang chuyện khác, nói với Vũ Thư và Trì Hành Sơn”

    – Hai ông đều là những bậc tài cao nhưng đã lâu vẫn chưa hiển đạt. Người tài cao thường thành đạt chậm. Chức quan của tôi thực ra nó chẳng ra gì. Kẻ sĩ thì trước sau phải xuất thân theo con đường khoa giáp.

    Trì Hành Sơn nói:

    – Chúng tôi đều là bọn tầm thường dám đâu sánh với bậc đại tài như cụ.

    Vũ Thư nói:

    – Cụ Cao cùng với cụ là bạn thân. Sau này biết đâu hai người chẳng hiển đạt như nhau?

    Vừa lúc ấy một người đầy tớ vào báo:

    – Mời các vị ra ngoài nhà khách phía tây dùng cơm.

    Cao Hàn Lâm nói:

    – Chúng ta ăn cơm xong rồi sẽ nói chuyện.

    Sau khi mọi người sang nhà sảnh phía tây ăn cơm, Cao Hàn Lâm bảo quản gia mở cửa vườn hoa mời mọi người xem. Mọi người đi từ ngôi nhà phía tây qua một cái cửa tròn rồi đi dọc theo một cái tường dài quét vôi trắng, đến một cái cửa nhỏ ở góc tường đi vào cái hành lang. Họ theo hành lang rẽ sang phía đông, đi xuống mấy bậc tam cấp, đến một cái vườn hoa lan hình vuông. Bấy giờ khí trời ấm áp, lan đang nở hoa. Trước mặt là một hòn non bộ. Một cái bình phong bằng đá được đắp rất công phu. Trên núi là một cái đình nhỏ có thể ngồi ba bốn người. Bên cạnh bình phong là hai cái đôn sứ và đằng sau có hơn một trăm cây trúc. Sau bụi trúc là một cái lan can thấp, màu đỏ, bao bọc những khóm thược dược chưa nở. Cao Hàn Lâm và Vạn trung thư to nhỏ với nhau trong khi dắt tay nhau bước lên đình. Thi ngự sử và Tần trung thư đi bộ từ bụi trúc đến vườn thược dược. Trì Hành Sơn nói với Vũ Thư:

    – Vườn rất tĩnh mịch nhưng phải cái có ít cây to.

    Vũ Thư nói:

    – Người xưa đã nói: “Đình và ao cũng như công danh, gặp thời là có thể có. Cây to như khí tiết, không nuôi dưỡng thì không thành”.

    Lúc ấy Cao Hàn Lâm và Vạn trung thư đã ở trên đình bước xuống. Cao nói:

    – Năm ngoái, trong nhà ông Trang Trạc Giang, tôi có được đọc bài thơ “Hoa thược dược nở” của ông Vũ. Vài hôm nữa, hoa thược dược sẽ nở.

    Tất cả chủ và khách sáu người dạo chơi một lát, rồi trở về nhà khách phía tây. Quản gia bảo những người pha trà rót một tuần trà. Trì Hành Sơn hỏi Vạn trung thư:

    – Tôi có một bạn ở Xử Châu cùng tỉnh ông, không biết ông có biết ông ta không?

    Vạn trung thư nói:

    – Nổi tiếng nhất ở Xử Châu không ai bằng ông Mã Thuần Thượng. Tôi có mấy người bạn khác nữa nhưng không biết người bạn ông nói đây là ai?

    – Chính là ông Mã Thuần Thượng đấy!

    – Ông Mã là bạn rất thân với tôi, tại sao tôi lại không biết! Lần này ông ta đã lên kinh. Ông lên kinh lần này chắc là gặp thời vận.

    Vũ Thư vội vàng nói:

    – Ông ta đến nay vẫn chưa thi đỗ, vậy ông ta lên kinh để làm gì?

    Vạn đáp:

    – Sau khi đến nhậm chức ba năm, quan học đạo nhận thấy ông ta là người có đức hạnh nên đề cử ông ta. Nay ông ta lên kinh là đi theo con đường tắt. Chính vì vậy cho nên tôi nói rằng ông ta gặp thời vận.

    Thi ngự sử nói:

    – Công danh đi theo con đường tắt cũng không đi được xa đâu! Những người có chí khí nhất định phải xuất thân theo con đường khoa cử.

    Trì Hành Sơn nói:

    – Năm ngoái ông ta có đến đây chơi, tôi thấy ông ta quả thông thạo về cử nghiệp. Không hiểu tại sao mãi đến nay vẫn cứ mãi mãi là một anh tú tài. Cho hay việc thi cử không lấy đâu làm bằng cứ hết.

    Cao Hàn Lâm nói:

    – Ông Trì nói như vậy là sai! Triều đại ta hai trăm năm nay, không có thay đổi chút nào về việc này hết. Ai đỗ đầu bao giờ cũng cứ là đỗ đầu. Ông Mã Thuần Thượng bàn về thi cử, thực ra chỉ biết lớt phớt bên ngoài, còn như cái phần bí ẩn bên trong thì tuyệt nhiên không biết gì. Nếu ông ta có làm anh tú tài suốt ba trăm năm thì ở huyện, hai trăm lần đỗ đầu, nhưng lúc thi ở phủ cũng cứ hỏng.

    Vũ Thư nói:

    – Như vậy thì cụ cho rằng các quan chấm thi ở phủ và quan học đạo xem bài khác nhau chăng?

    Cao Hàn Lâm nói:

    – Tại sao lại không? Ai trong kỳ thi ở huyện đỗ cao thì khi thi ở phủ lại không đỗ. Vì vậy cho nên tôi không dám cầu may, tôi hết sức chú ý vào việc thi ở phủ. Lúc thi ở huyện học đạo chấm tôi vào hạng thứ ba cơ!

    Vạn nói:

    – Thế nhưng bài thi của cụ được đứng đầu, học sinh tỉnh tôi không ai không học thuộc lòng bài ấy.

    Cao Hàn Lâm nói:

    – Phải đoán biết ý thích của người chấm thi đó là cái mánh khoé trong nghề thi cử. Trong ba bài văn đi thi hương của tôi không có câu nào do tôi đặt ra, chữ nào cũng có điển tích. Vì vậy nên tôi đỗ. Nếu không biết mánh khoé ấy thì đến thánh cũng không đỗ nổi.

    Ông Mã kia mấy lâu nay bàn về thi cử, những điều ông bàn chẳng phải là cử nghiệp. Nếu ông ta hiểu được mánh khoé này thì ông ta không biết đã làm đến chức quan gì rồi.

    Vạn nói:

    – Lời nói của cụ quả thực là theo ý tôi “khuôn vàng thước ngọc” cho bọn hậu bối. Nhưng ông Mã vẫn là người ọc rộng. Tôi có được đọc kinh “Xuân Thu” của ông xuất bản trong nhà người bạn của tôi ở Dương Châu. Tôi thấy ông ta chú thích rất công phu.

    Cao nói:

    – Ông không nên nói như vậy, ở đây có một ông họ Trang. Ông ta được triều đình mời ra. Nhưng ngày nay ông cũng đóng cửa chú thích “Kinh Dịch”. Hôm trước có một người bạn gặp ông ta trong một bữa tiệc nghe ông ta nói: “Ông Mã Thuần Thượng biết tiến mà không biết lui như con rồng ở trong Kinh Dịch”[191]. Ông Mã sánh với con rồng được hay không điều đó chưa cần bàn đến. Nhưng lấy một ông tú tài còn sống để giải thích cho lời dạy của thánh hiền thì thực là buồn cười hết sức!

    Vũ Thư nói:

    – Ông Trang nói như vậy chẳng qua là ngẫu nhiên nói cho vui thôi. Nếu không lấy người sống ra để làm thí dụ được thế tại sao Chu Văn Vương, Chu Công lại lấy Vi Tử, Cơ Tử ra làm thí dụ? Tại sao sau này Khổng Tử lại nói đến Nhan Tử? Những người kia lúc bấy giờ vẫn còn sống cả.

    Cao Hàn Lâm nói:

    – Câu nói của ông chứng tỏ ông học rất rộng. Tôi chuyên học về “Kinh Thi” không học về “Kinh Dịch” cho nên có những việc trong “Kinh Dịch” tôi không rõ lắm.

    Vũ Thư nói:

    – Cụ nhắc đến “Kinh Thi” làm tôi nghĩ đến một việc buồn cười. Gần đây, những người đi thi cứ câu nệ theo những lời chú giải của Chu Tử; nên càng giải thích lại càng khó hiểu. Bốn năm năm trước đây, ông Đỗ Thiếu Khanh ở Thiên Trường soạn quyển “Thi Thuyết” có trích dẫn những lời nói của các vị danh nho đời Hán, tất cả những người bạn xem đều thán phục. Như vậy đủ thấy trong việc học vấn thi đỗ chưa phải là giỏi.

    Trì Hành Sơn nói:

    – Nói như vậy đều lệch hết? Cứ theo ý tôi, ai theo đuổi học vấn thì cứ lo theo đuổi học vấn không cần hỏi đến công danh. Ai theo đuổi công danh thì cứ theo đuổi công danh không cần nghĩ đến học vấn. Muốn được cả hai đường thì rút cục chẳng được đường nào.

    Vừa lúc ấy người quản gia bảo:

    – Mời các vị dùng cơm.

    Cao Hàn Lâm mời Vạn trung thư ngồi ghế đầu, Thi ngự sử ngồi ghế thứ hai, Trì Hành Sơn ngồi ghế thứ ba, Vũ Thư ngồi ghế thứ tư, Tần ngồi ghế thứ năm, còn mình ngồi ghế chủ. Tiệc bày ra ba bàn ở nhà khách phía tây. Rượu và các món ăn rất chỉnh tề, nhưng không có hát tuồng. Trong bữa tiệc họ bàn về việc triều chính. Trì Hành Sơn nói với Vũ Thư:

    – Từ khi Ngu tiên sinh ra đi đến nay chúng ta dần dần ít tụ họp.

    Một lát sau, lại chuyển sang bữa tiệc khác. Đèn sáp đốt lên, uống được một tuần rượu, Vạn trung thư đứng dậy cáo từ. Tần trung thư giữ lại nói:

    – Ông đến chơi nhà người bạn thân của người bà con tôi thì cũng như là bà con của tôi. Vả chăng, tôi với ông đều làm trung thư cả. Nay mai được bổ làm quan chắc cũng được làm một nơi. Ngày mai thế nào ông cũng phải đến nhà tôi chơi. Lần này, tôi về nhà sẽ viết danh thiếp đưa đến mời ông.

    Và lại nói với mọi người:

    – Đến mai vẫn sáu người chúng ta không thêm cũng không bớt một ai.

    Trì Hành Sơn, Vũ Thư không nói một lời, Thi ngự sử nói:

    – Tốt lắm! Tôi cũng có ý muốn mời ông Vạn ngày mai đến nhà tôi chơi. Nhưng nếu như thế này thì phải đợi đến ngày kia.

    Vạn trung thư nói:

    – Tôi mới đến đây hôm qua, không ngờ hôm nay lại được cụ Cao mời. Tôi chưa đến thăm các vị lần nào, tôi đâu dám quấy nhiễu các vị như thế!

    Cao Hàn Lâm nói:

    – Có ngại gì việc đó! Ông Tần là bà con của tôi lại là bạn trung thư với nhau. Ông cứ xem ông Tần như người quen. Ngày mai ông phải đến thật sớm đấy nhé!

    Vạn trung thư miễn cưỡng nhận lời. Mọi người từ biệt chủ nhân ra về. Tần trung thư về nhà viết năm cái danh thiếp mời Vạn trung thư, Thi ngự sử, Trì Hành Sơn, Vũ Thư và cụ Cao. Tần viết giấy mời một bọn tuồng đến diễn vào sáng hôm sau, lại ra lệnh cho những người đầy tớ hầu trà và bọn quản gia phải làm một bữa tiệc thực long trọng.

    Hôm sau, Vạn trung thư dậy, nghĩ bụng: “Nếu ta đến nhà ông Tần trước thì ông ta sẽ giữ ở lại. Bây giờ ta phải đi thăm mấy người kia. Như thế họ sẽ không giận, cho rằng ta chỉ đến thăm con người mời ta ăn tiệc. Ta phải đến chơi nhà họ trước, sau mới đến nhà ông Tần”. Vạn bèn viết bốn cái danh thiếp. Trước tiên Vạn đến nhà Thi ngự sử. Ngự sử ra tiếp. Biết rằng Vạn còn phải đến nhà Tần trung thư uống rượu nên Thi ngự sử không dám giữ lại. Vạn lại đến thăm Trì Hành Sơn. Người nhà Trì Hành Sơn nói:

    – Tối qua ông đã đi Câu Dung xem chữa trường học, nay chưa về.

    Vạn đến nhà Vũ Thư, người nhà nói:

    – Ông chủ từ tối qua vẫn chưa về, khi nào về, ông sẽ đến thăm.

    Hôm ấy vào buổi ăn sáng. Vạn trung thư đến nhà Tần trung thư. Thấy ở ngoài cửa là một cái tường xanh dài. Ở giữa là một cái cửa lớn có lầu đắp hoa nổi. Kiệu của Vạn dừng ở cổng. Vạn thấy ở trên bình phong quét vôi có dán một tờ giấy đỏ viết bằng chữ son: “Nội các trung thư”. Hai bên là những người quản gia sắp thành hai hàng. Sau lưng họ là những giá mũ của những người làm việc ở trên dán hai tờ cáo thị đề: “Những điều ngăn cấm”. Tần trung thư ra đón tiếp. Cửa giữa mở rộng. Vạn trung thư xuống kiệu, cầm tay Tần vào nhà khách. Hai người vái chào rồi ngồi uống trà. Vạn trung thư nói:

    – Tôi rất hân hạnh được làm bạn đồng sự với ông, sau này có việc gì mong ông chỉ bảo. Hôm nay tôi đưa danh thiếp đến đây để bái yết. Lần sau, tôi sẽ đến thăm để cảm tạ.

    – Người bà con của tôi cho tôi biết ông là một người rất có tài. Sau này tôi được làm quan, có việc gì cũng mong ông che chở cho.

    – Cụ Cao bao giờ lại đây?

    – Cụ vừa cho người đến đây nói hôm nay thế nào cụ cũng đến. Chắc chỉ lát nữa thôi.

    Đang nói chuyện thì Cao Hàn Lâm và Thi ngự sử đã đi hai cái kiệu đến trước cửa. Hai người xuống kiệu bước vào, ngồi uống trà. Cao Hàn Lâm nói:

    – Này ông Tần! Bao giờ ông Trì và ông Vũ đến đây.

    – Tôi đã cho người đi mời.

    Vạn trung thư nói:

    – Ông Vũ thì có lẽ còn đến, chứ ông Trì thì không đến được.

    Cao Hàn Lâm hỏi:

    – Tại sao cụ lại biết?

    Vạn trung thư nói:

    – Tôi vừa đến thăm hai ông. Người nhà ông Vũ nói đêm qua ông chưa về. Còn ông Trì thì đã đi Câu Dung chữa trường học cho nên tôi biết ông ta không đến được.

    Thi ngự sử nói:

    – Hai ông ấy thực là lạ! Hễ tôi mời họ, thì mười lần là chín lần họ không đến. Nếu nói rằng họ bận thì mới đỗ tú tài mà bận cái gì chứ? Mới là một anh tú tài mà làm bộ làm tịch như thế?

    Tần trung thư nói:

    – Thôi được! Miễn là cụ và cụ Vạn ở đây còn hai ông kia đến hay không cũng được.

    Vạn trung thư nói:

    – Hai ông kia chắc là những người có học vấn sâu rộng.

    Cao Hàn Lâm nói:

    – Nào có học vấn gì đâu! Nếu có học vấn thì đã chẳng là một anh tú tài xác. Chỉ vì năm trước đây trong trường Quốc Tử Giám có Ngu bác sĩ thương họ nên nhiều người cũng chơi bời với họ. Nhưng gần đây đã ít đi rồi.

    Vừa lúc ấy thấy ở phòng bên trái có một người kêu to:

    – Hay quá! Hay quá!

    Mọi người đều kinh ngạc. Tần trung thư bảo quản gia vào nhà sau xem người nào làm ồn ào như thế.

    Quản gia bẩm:

    – Đó là ông Phượng người bạn ông hai.

    Tần trung thư nói:

    – Có ông Phượng ở sau nhà, sao không mời ông vào nói chuyện?

    Người quản gia vào thư phòng mời thì thấy một người to lớn trạc độ bốn mươi, hai con mắt ốc nhồi, cặp lông mày thẳng, râu đen dài mãi đến ngực, đầu đội mũ lực sĩ, mình mặc áo đoạn màu xám, chân đi đôi giày mũi nhọn, thắt dây lưng tơ, dưới nách lủng lẳng một cái dao ngắn. Người kia bước vào nhà khách vái chào mọi người và nói:

    – Các vị đều ở đây cả, tôi ở nhà sau không biết xin thất lễ!

    Tần trung thư mời Phượng ngồi và nói với Vạn trung thư:

    – Ông Phượng đây là một người rất có nghĩa khí ở miền này. Ông rất giỏi về quyền thuật, thuộc lầu cả bộ “Dịch cân kinh” nếu ông ta lên gân thì dù một tảng đá nặng mấy ngàn cân rơi trên đầu hay trên mình cũng không hề gì. Em tôi mời ông ở đây để dạy võ nghệ.

    Vạn trung thư nói:

    – Xem vẻ người của ông tôi cũng đủ thấy là người khác thường thực chẳng phải là hạng trói gà không chặt!

    Tần trung thư lại nói với Phượng:

    – Ông vừa bảo hay quá, hay quá, là vì cớ gì?

    – Đó không phải là tôi nói, mà là lời người em của ông. Ông ta vừa bảo tôi rằng người ta mạnh hay yếu là do trời sinh ra. Tôi bảo ông ta nín thở rồi sai người lấy gậy đánh vào người, càng đánh càng không thấy đau. Ông ta mừng quá nên mới kêu lên như vậy.

    Vạn nói với Tần trung thư:

    – Nếu người em của cụ ở đây sao không mời ông ta vào ngồi?

    Tần trung thư bảo quản gia mời nhưng Tần Nhị đã ra cửa sau, cưỡi ngựa đi xem bắn tên ở ngoài trại lính rồi. Người đầy tớ mời thấy người khách vào sảnh dùng cơm. Cơm xong, những người đầy tớ mở cửa phía bên trái mời mọi người vào. Mọi người bước vào thấy hai gian nhà nhỏ hơn nhà khách một chút, nhưng bày biện rất là đẹp mắt. Mọi người thích đâu ngồi đấy. Họ uống mười hai thứ trà ngon trong lúc một cậu bé mười một, mười hai tuổi bỏ trầm vào lư hương. Vạn trung thư nghĩ bụng: nhà ông ta bày biện thực là đẹp mắt. Khi ta trở về cũng bày biện như thế này, chỉ tiếc cái cổng nhà ta không to lớn bằng, các quan sở tại không đến, và không đủ người phục dịch như ở đây.

    Đang lúc suy nghĩ thì một người mặc áo hoa vào quì xuống trình bày bản các vở tuồng và nói:

    – Mời cụ chọn một hai vở tuồng!

    Vạn trung thư nhường cho Cao Hàn Lâm và Thi ngự sử chọn trước, sau đó chọn vở “Mời ăn tiệc”, vở “Tiễn biệt”. Thi ngự sử chọn vở “Anh em gặp nhau trên núi Ngũ Đại. Cao Hàn Lâm lại chọn vở ”Đuổi theo Hàn Tín”. Người kia viết tên các vở tuồng vào cái hốt rồi đem vào phòng để các diễn viên chuẩn bị. Tần trung thư bảo rót một lượt chè xanh. Người quản gia vào bẩm:

    – Mời các vị ra ngoài ngồi.

    Mọi người theo Vạn trung thư ra cái nhà khách thứ hai; ở đây đã thấy chỗ diễn tuồng bày biện rất chỉnh tề. Hai bên là năm cái ghế dựa lót vải đỏ thêu kim tuyến. Mấy người lần lượt ngồi. Người trùm trò dẫn toàn ban ra chào, người nào ăn mặc theo vai của người ấy. Những người đánh trống đứng ở trước và gõ nhè nhẹ. Người đóng vai Hồng Nương dáng người yểu điệu bước ra. Người trùm trò lại vào quì một chân nói: “Xin cho phép ngồi”. Lúc bấy giờ những người thổi sáo mới ngồi xuống. Hồng Nương mới hát được một câu thì ở ngoài cửa nghe có tiếng thanh la. Lại có những người đội mũ đỏ viền đen bước vào. Mọi người đều ngờ vực vì trong vở “Mời ăn tiệc” không thấy mở đầu như thế này. Người quản gia chạy vào nói không ra lời. Thấy một vị quan đầu đội mũ sa mình mặc áo màu ngọc thạch, chân đi giày đen đế trắng bước vào nhà khách. Đừng sau là hai mươi người lính.

    Hai người đi trước đến nắm lấy Vạn trung thư, lấy xích sắt xích cổ rồi kéo tuột ra ngoài. Vị quan cũng đi ra không nói nửa lời. Mọi người nhìn nhau ngơ ngác. Chỉ nhân phen này khiến cho:

    Con em bạn hát, từ nay coi rẻ hương thân;

    Anh kiệt giữa đường, ra sức gánh thay hoạn nạn.

    Muốn biết việc sau thế nào, hãy xem hồi sau phân giải.
     

Thành viên đang xem bài viết (Users: 0, Guests: 0)