Cổ Điển Nho Lâm Ngoại Sử - Ngô Kính Tử

  1. Riochan

    Riochan Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    20/12/14
    Bài viết:
    60
    Được thích:
    0
    Chuyện Làng Nho

    Nguyên tác : Nho Lâm Ngoại Sử / The Scholars


    Tác giả : Ngô Kính Tử

    Dịch giả : Phan Võ, Nhữ Thành

    LỜI GIỚI THIỆU


    Ngô Kính Tử (Wu Jingzi)

    Cùng với “Thủy Hử truyện” của Thi Nại Am, “Hồng lâu mộng” của Tào Tuyết Cần “Nho Lâm Ngoại Sử” (Chuyện làng nho) của Ngô Kính Tử là một tác phẩm giá trị nhất của tiểu thuyết Trung Quốc. Trong bài tựa viết thời Đồng Trị, một nhà phê bình đã nói: “Tôi khuyên các bạn không nên đọc quyển tiểu thuyết này, vì đọc nó một lần các bạn sẽ cảm thấy rằng mình đã gặp những nhân vật của nó suốt ngày trong đời”. Riêng nhận xét này cũng đủ chứng minh giá trị hiện thực của nó như thế nào. Lỗ Tấn trong “Trung Quốc tiểu thuyết sử lược” khẳng định rằng “Nho Lâm Ngoại Sử” là tiểu thuyết châm biếm xã hội đầu tiên, và về mặt này, từ xưa đến nay nó vẫn vô địch.

    I. Tác giả

    Ngô Kính Tử (1701 – 1754) tự là Mẫn Hiên, lại có tên tự là Văn Mộc, sinh năm 1701 ở huyện Toàn Tiêu, tỉnh An Huy, phía bắc bờ sông Dương Tử. Gia đình ông mấy đời nổi danh về khoa hoạn. Trong đời cố, có bốn người đỗ tiến sĩ, sang đời ông nội, có người đỗ bảng nhỡn, tiến sĩ. Người cha làm giáo dụ ở huyện đư̝c vài năm rồi bị cách chức vì trái ý quan trên, về nhà được một năm rồi mất.

    Gia đình ấy để lại cho ông một gia tài giàu có, vô số bà con, bạn bè là quan lại, tiến sĩ, cử nhân, cùng với cái mộng thi đỗ làm quan để nối nghiệp nhà. Nhưng tất cả đều tan rã mau chóng. Năm hai mươi tuổi, Kính Tử thi đỗ tú tài ở phủ, nhưng lên tỉnh thi lại hỏng. Kinh nghiệm thi cử của bản thân cùng với kinh nghiệm làm quan của cha đã làm cho chàng thanh niên chán ngán về con đường khoa hoạn. Ông lại sẵn thói phong lưu, tiêu tiền như rác, nên chẳng bao lâu, gia sản cha ông để lại đều không cánh mà bay. Bấy giờ bạn bè trở mặt, tôi tớ bỏ đi, họ hàng lảng hết, ông phải bỏ nhà lên Nam Kinh.

    Cuộc đời ở Nam Kinh là cuộc đời lao động chật vật và khổ cực. Mùa đông không có lửa đốt và nhiều khi phải nhịn đói hai ba hôm liền. Nhưng chính nó đã giúp ông tiếp thu những tư tưởng dân chủ của Cố Viên Võ, Hoàng Tôn Hy, chủ trương chống khoa cử bát cổ, chống lễ giáo và học vấn nhồi sọ của Tống Nho. Nó cũng giúp cho ông thấy rõ bản chất xấu xa của tầng lớp nho sĩ đã cấu kết với ngoại tộc Mãn Thanh gây ra cái tệ quan trường làm xã hội điêu đứng và do đó, ông đã đoạn tuyệt được về tình cảm với giai cấp thống trị và thấy cái đẹp ở quần chúng, ở những người lao động bình thường bị bọn thống trị khinh miệt. Vì vậy, năm ba mươi sáu tuổi, ông được cử lên Bắc Kinh dự vào khoa thi “Bác học hồng từ”, vinh dự lớn nhất của nho sĩ Mãn Thanh, thì ông kiên quyết chối từ, dù rằng ông biết rõ con đường danh lợi đã mở ra trước mắt. Vào khoảng bốn mươi lăm tuổi, ông viết “Nho Lâm Ngoại Sử”; ngoài ra, ông còn viết “Thi thuyết”, “Mộc Sơn phòng tập”. Ông mất ở Dương Châu năm 1754.

    Cuộc đời của Ngô Kính Tử là cuộc đời của một thứ “ẩn sĩ”, nhưng tác phẩm mà ông để lại cho đời sau lại là một tác phẩm chiến đấu. Tác giả đã dùng hình tượng nghệ thuật để đả phá chế độ thi cử và chế độ quan trường, và qua đề tài trung tâm ấy, tác giả đã phê phán tầng lớp trí thức phong kiến về tất cả mọi mặt: học vấn, đạo đức, tư cách để làm nổi bật những tư tưởng dân chủ. Đối với văn học “Nho Lâm Ngoại Sử” có ba ưu điểm nổi bật: nội dung hiện thực, tư tưởng dân chủ và nghệ thuật châm biếm sâu sc. Chính ba điều đó làm cho ngày nay đọc lại chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì nó mới mẻ lạ thường.

    II. Hiện thực tính của tác phẩm

    Như Lỗ Tấn nhận định, “sự thực là lẽ sống của văn châm biếm ”Nho Lâm Ngoại Sử” sở dĩ thành tác phẩm châm biếm vĩ đại trong văn học, chính vì nó bám chắc lấy sự thực của xã hội đương thời.

    Xã hội được miêu tả lại trong tác phẩm là xã hội đời Thanh ở giữa thế kỉ XVIII. Người Mãn Thanh xâm chiếm Trung Quốc từ 1644. Muốn củng cố sự thống trị, nhà Thanh ra sức thống trị về mặt tinh thần. Một mặt, chúng gây ra những vụ “văn tự ngục” để giết những người viết những điều chống lại nhà cầm quyền. Một mặt, chúng dùng hình thức thi bát cổ để lung lạc trí thức. Bát cổ hay kinh nghĩa là một lối văn có tám vế. Người viết chỉ có thể trích dẫn ở “Ngũ Kinh”, “Tứ Thư”, không được nói gì đến hiện tại. Mưu mô của nhà Thanh đã thành công to lớn. Tất cả bọn nho sĩ đều rơi vào bạm bẫy: ai không làm văn bát cổ thì không phải nhà nho.

    Để tránh “ngục văn tự”, Ngô Kính Tử phải đặt câu chuyện vào đời Minh, nhưng tất cả mọi sự việc, nhân vật đều là những sự việc và những nhân vật của đời Thanh. Gia đình họ Đỗ ở Thiên trường là gia đình tác giả, những nhân vật như Ngu Dục Đức, Mã Thuần Thượng, Trì Hành Sơn v.v… đều dựa vào những người bạn của tác giả. Đỗ Thiếu Khanh, anh chàng phá gia chi tử chính là bản thân Ngô Kính Tử. Đối với thời đại tác giả sống, phương pháp thể hiện này là một phương pháp mới mẻ và táo bạo. Tác giả không lấy đề tài trong lịch sử quá khứ, trong truyền thuyết; những nhân vật không phải những vị anh hùng với những tình tiết quái dị. Trái lại, ở đây là cuộc sống bình thường vẫn diễn ra hằng ngày. Đúng như Lỗ Tấn nói: “Những sự việc miêu tả trong sách đều là những sự việc thông thường, ai cũng thấy cả, thường không ai cho là lạ, nên cũng không buồn để ý đến nó. Nhưng ngay bản thân nó đã vô lý, buồn cười, đáng ghét, thậm chí đáng ghê tởm… Bây giờ tác giả nói đến thì mọi người thấy ngay ý nghĩa quan trọng của nó”.

    Như mọi người đều thấy, tác giả đã nêu bật một cách rất sinh động và hiện thực, thực chất của chế độ thi cử và chế độ quan trường. Ngay từ hồi thứ nhất, Vương Miện, nhân vật lý tưởng của tác giả, đã nói lên câu nói quán triệt tất cả tác phẩm “Văn nhân thời đại này nguy rồi!”. Và tác giả cũng không hề giấu giếm chủ ý của mình là dùng tác phẩm nghệ thuật để chứng minh cái tai họa mà chế độ khoa cử đã đưa đến cho tầng lớp nho sĩ của thời đại.

    Tác giả đã nêu rõ nó chỉ là một thứ trò hề, không dựa vào một tiêu chuẩn gì hợp lý mà hoàn toàn dựa vào chủ quan của người chấm thi. Chu Tiến chấm thi, thấy Phạm Tiến thi đã hai mươi lần vẫn không đỗ nên “thương hại” muốn “thưởng cho cái chí của anh ta”. Chính vì vậy, y chịu khó đọc bài văn của Phạm Tiến đến ba lần và đến lần thứ ba thì thấy “mỗi chữ là một hạt ngọc”. Cũng vì thi cử chẳng qua là một thứ trò hề, cho nên các quan chấm thi chỉ nghĩ đến việc làm sao cho vừa lòng quan thầy. Phạm Tiến muốn hoãn kỳ treo bảng vì chưa tìm được bài của Tuân Mai để cho y đỗ như ý muốn của Chu Tiến. Trường thi là một nơi gian dối, một người đi thi thay người khác như Khuông Siêu Nhân kiếm được hàng trăm lạng. Không những thi cử chẳng có giá trị gì, mà ngay cả những người thi đỗ cũng chẳng có kiến thức gì. Trì Hành Sơn nói: “Bây giờ bọn đọc sách chẳng qua chỉ biết thi cử… Còn như việc lễ nghi âm nhạc, binh pháp, nông nghiệp thì tuyệt nhiên không sờ đến”. Phạm Tiến làm quan chấm thi nhưng vẫn không biết Tô Đông Pha nhà văn hào lớn bậc nhất đời Tống là ai; Thang tri huyện cũng đi chấm thi nhưng vẫn không biết Lưu Cơ, người đã giúp Chu Nguyên Chương đánh đuổi quân Nguyên là ai. Trong con mắt của tác giả, học vấn và khoa cử là hai điều hoàn toàn đối lập.

    Trong khi phân tích thực chất của chế độ khoa cử, tác giả đã miêu tả một cách hết sức cụ thể cái tấn bi hài kịch mà nó gây nên ở trong xã hội. Vì đó là con đường tiến thân duy nhất của các nhà nho, cho nên tất cả tầng lớp trí thức đều xô nhau theo con đường ấy. Đại bộ phận suốt đời thất bại, thi hỏng. Bấy giờ họ đành phải sống cuộc đời nghèo khổ cực nhục như Nghê Sương Phong vì đói khổ quá mà phải bán tất cả sáu đứa con của mình. Có một số người lận đận nơi trường ốc hàng chục năm trời mới thành đạt. Trong những hồi đầua gặp hai nạn nhân của chế độ khoa cử là Chu Tiến và Phạm Tiến. Ta gặp ông già Chu Tiến thi mãi đến sáu mươi tuổi vẫn hỏng, bị Mai Cửu chế nhạo, Vương Huệ coi thường, mất chức dạy học, phải giữ sổ cho nhà buôn. Con người này vì uất ức quá nên nhìn thấy cái bàn ở trường thi thì “nước mắt giàn giụa, thở dài một cái, đập đầu vào bàn, nằm duỗi thẳng cẳng, bất tỉnh nhân sự”. Quả thực giấc mộng công danh hành hạ con người đến thế là cùng. Ta lại gặp ông già Phạm Tiến ngoài năm mươi tuổi bị lão hàng thịt mắng như tát nước vào mặt, đói quá phải đem con gà độc nhất ra chợ bán. Tác giả trình bày sâu sắc cái cảnh Chu Tiến vì thi hỏng mà chết ngất ở trường thi, cũng như cái cảnh Phạm Tiến thi đỗ mừng quá hóa điên, nên lại càng làm nổi bật sự truỵ lạc về tinh thần của tầng lớp nho sĩ.

    Tác giả lại còn cắt nghĩa một cách đúng đắn sự sa đọa về nhân cách của bọn nhà nho đạt vận: Đó là vì họ đã thoát ly hoàn toàn khỏi nhân dân mà bước sang giai cấp thống trị và càng trèo lên cao trong bậc thang xã hội thì nhân cách của họ càng biến đi, để lộ nguyên hình bọn sâu mọt của xã hội. Ở đây sự phân tích những thủ đoạn mà xã hội phong kiến đã dùng để đầu độc trí thức quả thực là chua chát. Con người thi đỗ biến thành một vị thần. Anh tú tài “ngây” Chu Tiến được người ta dựng bàn thờ thờ sống và con người “môi trề ra ngoài (Phạm Tiến) bỗng chốc biến thành Văn khúc tinh. Người ta đua nhau đến biếu bạc vàng, nhà cửa. Kết quả của sự mua chuộc này là người nho sĩ bán rẻ tất cả nhân cách của mình để thành một hạng người hèn hạ. Quá trình biến chất của người trí thức trong xã hội phong kiến biểu hiện rất cụ thể qua nhân vật Khuông Siêu Nhân. Khi ta gặp Khuông, thì Khuông là một chàng bói sáng nghèo khổ, có hiếu, một người đầy những ý nghĩa cao thượng: ”những người giàu là những đứa con bất hiếu, nhưng một người nghèo như ta thì dù muốn có hiếu cũng không làm sao được. Thực là bất công. Cuộc đời hàn vi của Khuông thực là cảm động, Khuông lao động vất vả, yêu quý cha mẹ, ham học. Nhưng từ khi thi đỗ, bản chất của Khuông dần dần thay đổi; Khuông chạy theo Phan Tam, nhúng tay vào những việc bất chính để kiếm tiền, bỏ vợ cũ lấy vợ mới con quan, nghe tin vợ chết không chịu về, ngồi đâu cũng khoe khoang chức tước, tài năng của mình một cách trơ trẽn. Khuông biến thành hạng người vô liêm sỉ, nhưng vẫn luôn luôn tự lừa dối mình bằng những danh từ đạo đức.

    Mặc dù khoa cử làm cho tầng lớp trí thức bị điêu đứng nhưng nó vẫn có những con người sùng bái nó một cách tuyệt đối. Với Cao Hàn Lâm và Lỗ Biên Tu thì đó là cách đánh giá duy nhất về con người: “Nếu ông ta có học, thì ông ta đã thi đỗ rồi”. Với Lỗ Tiêu Thư thì không lấy được người chồng cử nhân, tiến sĩ tức là “hỏng cả cuộc đời”. Hạng người mê muội này nhan nhản trong xã hội phong kiến. Tiêu biểu nhất cho hạng này là Mã Thuần Thượng. Với Mã Thuần Thượng nó là tất cả: “Nếu cha mẹ có mang bệnh, nằm trên giường không có ăn mà nghe anh ngâm văn bát cổ thì trong lòng cũng nở dạ vui mừng…” “Khổng Phu Tử sống lại bây giờ thì nhất định ngài cũng phải làm văn chương theo cử nghiệp”. Tất cả tầng lớp nho sĩ chỉ nghĩ đến một điều: phải ra làm quan. Động cơ làm quan chỉ là một động cơ hèn hạ. Tang Đồ nói với Thiếu Khanh: “… Rồi nếu thi đỗ, tôi sẽ được làm tri huyện. Thế rồi tôi sẽ đi giày, ngồi trên công đường, đánh người ta”.

    Chính vì vậy, sự phê phán thực chất thối nát của chế độ khoa cử đưa thẳng đến sự phơi bày bộ mặt thực của chế độ quan lại phong kiến. Ở đây sự công kích thực là triệt để. Việc châm biếm, tố cáo một vài cảnh thối nát trong quan trường là một việc thường thấy trong văn học, nhưng việc đào sâu đến tận gốc rễ, phủ nhận nó một cách toàn bộ là việc rất ít có. Ngay từ hồi đầu, trước khi nhắm mắt, bà mẹ của Vương Miện đã nói: “Làm quan không phải là việc làm cho cha ông vinh hiển. Ta thấy những kẻ làm quan đều không được cái gì hay…, Con ơi, nên nghe lời mẹ, sau này lo cưới vợ, đẻ con, giữ mồ mả cho mẹ chứ đừng ra làm quan! Có thế mẹ chết mới nhắm mắt”. Vương Miện là một nhân vật có thực, nhưng trong các sách không hề nói đến việc Vương Miện và mẹ Vương Miện phê bình thi cử và quan trường. Ở đây, tác giả đã biến họ thành những hình tượng nghệ thuật để nói lên sự khinh bỉ của mình đối với mưu mô nô dịch trí thức của bọn vua chúa Mãn Thanh.

    Khi trình bày thực chất thối nát của bọn quan lại phong kiến, tác giả không chỉ trình bày hiện tượng mà còn đi sâu hơn tìm ra nguyên nhân. Sự thực, thì làm quan chỉ là một cái nghề kiếm ăn không liên quan gì đến nhân nghĩa, đạo đức. Khi nhận định về người cha của Đỗ Thiếu Khanh, Cao Hàn Lâm nói: “Ông cha của Thiếu Khanh, đỗ tiến sĩ, làm quan đến Thái thú nhưng cũng là một anh ngốc. Lúc làm quan không biết kính trọng quan trên, chỉ cốt làm sao cho vừa lòng dân, cả ngày cứ ngồi mà lo ”hiếu đễ” với “nông tang”. Những cái đó đều là đầu đề để làm văn làm bài. Ông ta tưởng đâu là sự thực”. Sự thực, làm quan chỉ là một cái nghề cốt làm sao kiếm được nhiều tiền.

    Nghiêm Trí Trung nói: “Như Thang phụ mẫu làm thì chỉ có tám ngàn. Ngày trước, Phạm phụ mẫu làm thì có đến vạn. Nó có những cái lắt léo phải cần những người thành thạo như chúng tôi”. Vương Huệ có thể xem là một thứ quan “thành thạo” vì những cái “lắt léo” của nghề này. Vừa được bổ làm Thái thú Nam Xương, Vương Huệ đã hỏi xem ở đây có những sản vật gì, hay kiện nhau vì những việc gì và đem áp dụng ngay phương châm:

    “Ba năm tri phủ thanh liêm,

    Mười vạn lạng bạc số tiền cũng to”.

    Để làm một ông phủ “thanh liêm”, Vương Huệ “xét xem cái gì có lợi mà còn giấu giếm, vơ vét tất cả về mình”. Y biến công đường thành một nơi chỉ nghe “tiếng cân, tiếng bàn toán và tiếng roi”. “Tất cả phủ đều sợ ông phủ như cọp, lúc nằm chiêm bao cũng vẫn còn sợ”. Nhưng y vẫn không vì thế mà bị khiển trách. Trái lại, “quan trên có nghe đến thì cho Vương là người có năng lực nhất ở Giang Tây. Làm được ba năm, ở đâu cũng khen ngợi”. Bọn quan lại phong kiến là cái ung nhọt của nhân dân. Chúng chỉ muốn lấy tiền, lại đồng thời được quan trên khen ngợi. Chính vì vậy tri huyện Thang đã gông chết ông già hồi giáo, làm cho nhân dân nổi giận, bãi thị, vây thành đòi giết chết người chủ mưu. Đến khi quan trên xét thì tri huyện Thang chẳng bị trừng phạt gì; trái lại, nhân dân lại bị xử phạt nặng nề. Tác giả lại còn phân tích tỉ mỉ tại sao “ông quan làm nhà tan cửa nát” như vậy. Đó là vì xung quanh họ là những bọn xu nịnh hèn hạ chỉ tìm cách dựa vào uy thế của họ để bóc lột nhân dân. Nghiêm Trí Trung và Trương Tĩnh Trai, hai hình ảnh cụ thể của bọn nho sĩ đã biến thành cường hào ở nông thôn. Chúng dựa vào thế lực của quan để cướp đoạt ruộng vườn, đánh người gãy đùi, cướp lợn, đòi tiền, đòi gia tài, lừa lọc mọi người. Gặp ai làm quan hay sẽ làm quan thì chúng xu nịnh, tâng bốc, chỉ muốn bày mưu tính kế đàn áp nhân dân; trái lại, gặp nhân dân thì chúng hống hách, cướp giật, không có điều gì không làm. Không những thế, nha môn của bọn phủ huyện đầy dẫy những bọn thừa kiện, lính hầu, sai nhân v. v… mà thực chất chỉ là một bọn ăn cướp. Có kẻ ăn cướp trắng trợn như Phan Tam. Y là một thứ côn đồ chỉ lo gá bạc, bắt cóc phụ nữ, cho vay nặng lãi, hối lộ quan trường, dìm việc giết người. Có kẻ chỉ lo hăm dọa để kiếm tiền như tên sai nhân đã dọa Cừ Dật Phu tư thông với giặc để nuốt trôi chín mươi lạng bạc của Mã Thuần Thượng. Lại có kẻ tìm mọi cách luồn lọt như tên thư biện nói với Bão Văn Khanh: “Có một việc chỉ mong cụ lớn cho một chữ ”chuẩn” là ông có thể kiếm hai trăm lạng bạc. Lại có một việc đang đưa lên huyện xét, chỉ mong cụ lớn bác đi là ông có thể kiếm ba trăm lạng. Ông Bão: ông làm ơn nói hộ tôi một lời với cụ lớn”.

    Đối lập lại hình ảnh của bọn nho sĩ mất nhân cách, tác giả đã nêu lên hình ảnh cảm động của những con người bình thường. Tác giả không giấu giếm thiện cảm của mình đối với họ. Câu chuyện mở đầu bằng anh chăn trâu Vương Miện và kết thúc bằng Quý Hà Niên viết thuê, Vương Thái bán giấy vụn, Cái Khoan bán nước chè, Kinh Nguyên thợ may. Bà mẹ Vương Miện, người cha Khuông Siêu Nhân là những nông dân nghèo nhưng biết dặn con đừng ra làm quan. Tác giả thấy ở người hát tuồng Bão Văn Khanh một người “chính nhân quân tử”, tác giả tìm thấy cái chân thật ở trong tình cảm, trong cách cư xử của hai thương nhân nghèo là cụ Ngưu và cụ Bốc. Tác giả đưa họ vào lịch sử làng nho và xem họ là những nhà nho chân chính. Cái nhìn ấy là một cái nhìn hiện thực ít thấy trong văn học.

    III. Tư tưởng dân chủ

    Ngô Kính Tử trình bày được một bức tranh hiện thực về xã hội đời Thanh không phải là một việc ngẫu nhiên. Đó là vì tác giả đã tiếp thu được những tư tưởng của Hoàng Tôn Hy và Cố Viên Võ. Hai người này là hai học giả lớn của đời Minh đã từng tham dự cuộc kháng chiến chống ngoại tộc Mãn Thanh. Sau khi thất bại, họ rút lui về ở ẩn, mạt sát bọn trí thức đầu hàng Mãn Thanh, nêu lên chủ trương học phải chú trọng thực tiễn và do đó, chống lại Tống nho từ căn bản. Qua thực tiễn của bản thân, họ thấy rõ rằng sự thống trị của chế độ phong kiến là tàn ác và họ có những tư tưởng dân chủ rõ rệt, Vương Thuyền Sơn còn nêu ra kết luận chia đều ruộng đất. Các học giả tiến bộ này chủ trương soạn sách để bảo tồn ý thức dân tộc và cảnh tỉnh nhân dân. Họ đã thoát ly khỏi lập trường của giai cấp họ mà đứng sang lập trường của quần chúng và được nhân dân yêu quý. Ngô Kính Tử đã tiếp thu được những tư tưởng tiến bộ cho nên tác phẩm của ông có một giá trị tư tưởng rõ rệt, ta có thể thấy ở đó mầm mống của tư tưởng dân chủ. Nhưng một mặt khác, vì xã hội Trung Quốc vẫn ở trong tình trạng phong kiến không chuyển nhanh thành xã hội tư bản, cho nên tư tưởng phong kiến vẫn ảnh hưởng sâu sắc đến những người tiến bộ nhất. Họ không thể đề xướng ra được học thuyết duy vật như các học giả tư sản Âu châu mà phải quay trở lại dùng biện pháp của những nhà tư tưởng Trung Quốc từ xưa. Họ chủ trương xây dựng lại đạo đức cũ, lễ nhạc cũ và hi vọng dùng nó để cải tạo xã hội. Cố nhiên cái gọi là đạo đức cũ, lễ giáo cũ chính là những tư tưởng mới, dân chủ, nhưng họ phải khoác cho nó một bộ áo của người xưa. Điều đó đã hạn chế rất nhiều tác dụng của họ. Đó là tấn bi kịch chung của Cố Viên Võ, Hoàng Tôn Hy, Vương Thuyền Sơn và cũng là tấn bi kịch của Ngô Kính Tử.

    Tư tưởng dân chủ của Ngô Kính Tử thấy rất rõ qua những nhân vật tích cực của tác giả.

    Lý tưởng của tác giả là lý tưởng của Vương Miện, Đỗ Thiếu Khanh. Tác giả gọi Vương Miện là “con người lỗi lạc”. Nhưng thực ra, Vương Miện chẳng làm việc gì phi thường. Vương Miện chỉ là một người chăn trâu, lao động. Điều làm cho Vương Miện lỗi lạc ở chỗ Vương nhất định không chịu hợp tác với chính quyền phong kiến, nhất định không chịu giao du với quan lại phong kiến, thà chịu chết trong núi chứ không ra làm quan. Đề cao một nhân vật như thế ngay trong lúc bọn Mãn Thanh đang ra sức khủng bố, mua chuộc trí thức, phải là một hành động có ý thức và can đảm. Tác giả gọi Đỗ Thiếu Khanh là “con người hào kiệt”. Nhưng thực ra, Thiếu Khanh chẳng làm việc gì oanh liệt. Theo tác giả, Thiếu Khanh là một người hào kiệt chỉ vì ông ta chống lại tất cả lễ nghi, đạo đức, lối sống phong kiến. Bấy giờ là lúc mọi người chạy theo thi cử, tiền tài; trái lại, Thiếu Khanh coi tiền như rác, khinh thường thi cử, coi công danh như đất, không thích giao du với bọn quan lại, cáo ốm không chịu ra làm quan. Bấy giờ mọi người đang sùng bái học thuyết của Chu Hy thế mà Thiếu Khanh lại dám viết một quyển “Thi Thuyết” để giải thích Kinh thi theo tinh thần dân chủ. Bấy giờ đàn bà bị giam hãm trong bốn bức tường, trái lại Thiếu Khanh lại dắt vợ ngao du ngắm xem phong cảnh. Nói chung Thiếu Khanh là cái gai cho trật tự phong kiến. Mọi việc làm của ông đều có chủ trương và đối lập lại lý luận phong kiến. Phong kiến chủ trương đa thê thì Thiếu Khanh chủ trương một vợ một chồng, phong kiến sùng bái thuật phong thủy thì Thiếu Khanh muốn chém cổ bọn thầy địa lý v.v… Con người mà bọn phong kiến mạt sát không tiếc lời gọi là “phá gia”, “ngông nghênh”, “ăn mày” lại được tác giả xem là “hào kiệt”.

    Thực ra, con người này chẳng phải ai xa lạ mà chính là bản thân tác giả. Cũng như Thiếu Khanh, Ngô Kính Tử là con một nhà “đại gia”, đã tiêu hết cơ nghiệp trong việc mở rộng sự giao du với bạn hữu, rồi lên Nam Kinh sống cuộc đời nghèo khổ. Cũng như Thiếu Khanh, Kính Tử đã viết “Thi Thuyết”, đã cáo ốm không chịu làm quan, có một người cha bị cách chức và một người con lỗi lạc (con Kính Tử là Ngô Lương, một nhà toán học lớn của Trung Quốc). Qua nhân vật Thiếu Khanh, tác giả đã nói lên những tư tưởng và những tình cảm của mình và hình tượng này đặc biệt thành công đến nỗi nó sống mãi trong óc người đọc.

    Tư tưởng dân chủ của tác giả cũng thấy rõ trong thái độ của tác giả đối với phụ nữ. Nhân vật Thẩm Quỳnh Chi là một hình ảnh đẹp. Cha nàng gả nàng cho tên phú thương Tống Vi Phú để làm vợ, nhưng sau mới biết y chỉ định lấy làm thiếp. Quan lại ăn tiền của Tống Vi Phú nên bác đơn kiện của cha nàng. Thẩm Quỳnh Chi bèn bỏ trốn lên Nam Kinh, làm thơ, thêu thùa để sống. Một mình đương đầu với mọi thành kiến, chống lại mọi thế lực và cuối cùng, giành được quyền tự do về mình, Thẩm Quỳnh Chi chính là người con gái đẹp đẽ của nhân dân, xứng đáng với lời khen của Thiếu Khanh: “Bọn buôn muối kia giàu có và lắm uy thế, sống xa hoa đến nỗi bọn sĩ đại phu gặp chúng thì mất hồn bở vía. Nàng là một người con gái nhỏ mà xem chúng như cỏ rác, thực là đáng phục”.

    Thái độ của tác giả đối với thực chất giả dối của luân lý Tống Nho biểu lộ rõ rệt tinh thần dân chủ. Tác giả đối lập cái hiếu giả dối của bọn quan lại với lòng hiếu chân thành của nhân dân: Tuân Mai nghe tin mẹ chết vội vàng bảo người nhà giấu bặt điều ấy đi vì sợ lỡ dịp làm quan. Nhưng đến khi thấy đành phải về nhà chịu tang thì lại tổ chức táng lễ linh đình để được tiếng là hiếu. Trái lại, Quách hiếu tử trèo non lặn suối để tìm cha là xuất phát từ tình cảm tự nhiên chứ chẳng phải để mong được người ta khen là hiếu. Tác giả vạch rõ thực chất tàn bạo của chữ “trinh” phong kiến. Con rể của Vương Ngọc Huy chết, con gái Vương Ngọc Huy muốn tuẫn tiết theo chồng. Cả nhà can ngăn, riêng Ngọc Huy lại khuyến khích con: “Con ơi, con đã muốn thế thì sử sách sẽ ghi tên con”. Người con gái nhịn đói chết, Ngọc Huy “ngẩng đầu lên trời cười mà rằng: Chết thế là giỏi! Chết thế là giỏi! Và cười vang, bước từng bước dài ra khỏi phòng”. Chỉ trong mấy chữ, tất cả cái dã man của một thứ luân lý trái với tự nhiên được phơi bày rõ rệt, nó làm người cha biến thành một kẻ giết con, táng tận lương tâm.

    Thái độ của tác giả đối với nhà vua là thái độ phủ nhận. Trang Thượng Chí được triệu vào cung gặp mặt vua. Vua hỏi cách trị dân, Trang quỳ xuống định trả lời thì thấy “trên đầu nhức nhối” bèn thoái thác đi về. Về nhà bỏ mũ ra, thấy “trong mũ có một con rết!”. Vương Huệ theo Ninh Vương chống lại triều đình; Ninh Vương bị thua, Vương Huệ bỏ trốn. Cừ thái thú nghe cháu nội nói có gặp Vương Huệ liền trách cháu: “Tuy ông ta phạm tội đối với triều đình, nhưng là chỗ bạn cũ của ta. Sao lại không lấy số tiền đã thu được mà đưa cho ông ta?” Đến khi người cháu trả lời đã cho Vương Huệ tất cả số tiền thì Cừ thái thú mừng rỡ: “Mày thực là con của thầy mày!”.

    Xét về mặt đả phá trật tự và đạo đức phong kiến, “Nho Lâm Ngoại Sử”, chứa đựng những yếu tố tiến bộ rất rõ rệt. Nhưng vì hoàn cảnh lịch sử hạn chế, nên tác giả lại đưa ra một giải pháp bảo thủ. Tác gi không thể nghĩ đến việc thay thế xã hội cũ bằng một xã hội mới, mà chỉ nghĩ đến việc quay lưng với nó, đi ở ẩn, đi tu. Tác giả tưởng đâu rằng phục hồi được lễ nhạc cũ là phục hồi được nhân nghĩa, làm cho xã hội được thái bình. Vì vậy, tác giả cố ý tập hợp các nhà nho ở hồi 37 làm lễ tế ở đền Thái Bá. Nhưng lý luận viển vông này đã bị thực tế đập tan. Lễ nhạc cổ vừa mới phục hồi thì đám nho sĩ đã tan tác mỗi người một phương và đền Thái Bá rêu phong cỏ mọc.

    IV. Nghệ thuật

    Nho Lâm Ngoại Sử đã sử dụng một nghệ thuật châm biếm, về căn bản giống phương pháp hiện thực phê phán của Âu châu ở thế kỉ XIX. Tác giả đã nhìn thẳng vào hiện thực xã hội và miêu tả nó một cách hết sức sinh động. Đoạn tả Mã Thuần Thượng thăm Tây Hồ chẳng hạn, là một đoạn nổi tiếng vì nếu không quen biết với cảnh Tây Hồ thì không thể nào miêu tả nó một cách hiện thực như vậy. Tác giả đã để lại một bức tranh sinh động của một xã hội chạy theo công danh, với một bọn trí thức mất hết nhân cách, quan lại hà hiếp nhân dân, sai nha tống tiền, bọn thương nhân giàu có làm vua làm chúa. Nhưng tác giả không dừng ở hiện tượng mà đi sâu vào bản chất cho nên sự phê phán bắt người ta suy nghĩ. Việc Phạm Tiến đỗ cử nhân đã từng được xem là một kiểu mẫu của nghệ thuật châm biếm: Phạm Tiến là một anh học trò nghèo suốt đời lận đận nơi trường ốc, chịu trăm nghìn tủi nhục, khổ cực. Vì vậy, khi được tin thi đỗ thì phát điên, hết khóc lại cười, người ta phải tát cho một cái mới tỉnh. Từ đó cuộc đời thay đổi một cách đột ngột: ruộng đất, nhà cửa, bạc vàng, kẻ hầu người hạ chẳng thiếu thứ gì. Nó làm cho bà mẹ của Phạm Tiến sửng sốt mà chết. Và Phạm Tiến tuy xác vẫn còn đấy, nhưng thực ra cũng là một người đã chết vì y đã mất hết cả chí khí, nhân cách. Ở dưới cái vẻ hài kịch của những hiện tượng trình bày, là cái tính chất bi kịch nằm trong lòng cuộc sống. Sự phê phán vì vậy không phải là sự phê phán một vài cá nhân mà là sự phê phán những hạng người trong xã hội. Đặc biệt tác giả đã nêu lên được cái xu thế chạy theo khoa cử một áp lực xã hội. Cả một xã hội bị nó đầu độc, bắt đầu từ đứa con của Lỗ tiểu thư, mới lên bốn tuổi đã phải học văn bát cổ cho đến nửa đêm. Nó bắt Chu Tiến đập đầu mà khóc, bắt Phạm Tiến hóa điên, bắt Mai Cửu phải nhận mình làm học trò Chu Tiến. nhiều khi sự châm biếm thực là kín đáo. Mã Thuần Thượng là một người tin vào giá trị của khoa cử một cách tuyệt đối và chân thành. Mã chỉ nghĩ đến một việc: làm người tuyên truyền không công cho chế độ khoa cử. Mã đã thuyết phục được Cừ Dật Phu, Khuông Siêu Nhân. Nhưng tác giả lại còn tinh vi ở chỗ nêu bật tính ngây thơ, dễ tin của Mã Thuần Thượng. Tên sai nhân chỉ cần dọa Mã mấy câu là cướp được chín mươi lạng bạc của Mã, và Hồng Hám Tiên chỉ cần đưa cho Mã vài cục than là suýt biến Mã thành tay sai của một tên lưu manh. May sao, Mã thấy được rằng mình bị Hồng Hám Tiên lợi dụng. Nhưng đến chết, Mã cũng không thể ngờ rằng mình đã bị chế độ khoa cử lợi dụng biến thành một thứ Hồng Hám Tiên để lừa dối mọi người.

    Vì không nhằm viết lịch sử của một vài nhân vật mà viết lịch sử của tầng lớp nho sĩ, cho nên kết cấu của “Nho Lâm Ngoại Sử” cũng khác kết cấu của các quyển tiểu thuyết khác. Kết cấu không tập trung xung quanh một vài nhân vật chính mà trình bày một cái toàn cảnh của xã hội, tập trung xung quanh một chủ đề rõ rệt. Mục đích của tác giả không phải là nói lên một biến cố của xã hội hay kể lại cuộc đời của một nhân vật mà là nêu lên một vấn đề xã hội. Điều này vẫn không làm giảm giá trị của tác phẩm; trái lại vì đề tài rộng rãi, nhân vật nhiều, không thể làm khác được. Không những thế, nó đã giúp tác giả xây dựng được những nhân vật điển hình bất hủ như Đỗ Thiếu Khanh, Mã Thuần Thượng, Nghiêm Trí Trung, Khuông Siêu Nhân v.v… vẫn thường được nhắc đến trong văn học.

    Cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả cũng rất đặc sắc. Đó là những ngôn ngữ của sử gia, chữ nào cũng bao hàm tính chất phê phán, cân nhắc. Câu văn xem bên ngoài khá đơn giản, không có trang sức rườm rà nhưng đọc kĩ thì rất là tinh tế. Trước đây, đó là câu văn của Tư Mã Thiên và sau này, đó là câu văn của Lỗ Tấn. Lối văn đơn giản, mỗi chữ, mỗi ý, lời ít ý nhiều xưa nay vẫn là lối văn khó dịch nhất vì nó quá kín đáo và tế nhị. Vì vậy, chúng tôi có chú thích về một số danh từ ở Việt Nam không quen dùng và thêm một ít nhận xét khi gặp những đoạn văn quá tế nhị sợ không lột được cái dụng ý sâu xa của tác giả. Trong lúc dịch, chúng tôi cố hết sức theo sát nguyên văn với tham vọng diễn đạt trung thành những ý nghĩ của tác giả. Song khả năng có hạn, chúng tôi chưa dám tin là đã lột được hết cái hay của nguyên tác và không khỏi phạm nhiều khuyết điểm.

    Chúng tôi hi vọng giới thiệu được phần nào một nhà văn Vĩ đại và một kiệt tác cổ điển của một nền văn học phong phú như văn học Trung Hoa. Trong việc dịch và giới thiệu, chúng tôi đã được sự chỉ giáo của cụ Bùi Kỷ và sự giúp đỡ của các bạn trong Nhà xuất bản. Chúng tôi xin thành thực cảm ơn.

    PHAN VÕ và NHỮ THÀNH
     
  2. Riochan

    Riochan Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    20/12/14
    Bài viết:
    60
    Được thích:
    0
    Hồi 1

    Lấy câu chuyện trình bày đại nghĩa

    Mượn người tài trau chuốt lời văn

    Người đời nam bắc đường muôn ngả

    Quan, tướng, thần tiên vốn cũng người.

    Triều đại hưng vong; sớm lại tối,

    Gió sông thổi đổ cây lâu đời.

    Công danh, phú quý đều hư ảo!

    Chỉ nhọc lòng ta, ngày tháng trôi.

    Rượu nâng dăm chén say cho khướt,

    Nước chảy, hoa trôi ai biết nơi?

    Bài thơ này chẳng qua là một lời sáo ngữ thông thường. Nó cho rằng phú quý, công danh trong đời người ta chung quy là những sự vật ngoài mình. Người đời hễ thấy công danh là cố chết đi tìm cho được. Nhưng khi nắm được trong tay, nó lại hóa thành nhạt thếch. Thế nhưng từ xưa đến nay, mấy ai hiểu được lẽ này!

    Tuy nhiên, vào cuối triều Nguyên[1] cũng xuất hiện một con người lỗi lạc. Người ấy họ Vương, tên Miện, sống trong một làng ở huyện Chư Ký. Khi Vương lên bảy tuổi, cha mất sớm, mẹ lo may vá để kiếm tiền cho con đến trường làng học. Thấm thoát ba năm qua, Vương Miện đã mười tuổi. Người mẹ gọi con đến bảo:

    – Con ơi, không phải mẹ cố ý ngăn cản con đâu. Chỉ vì từ khi cha con mất đi, mẹ là đàn bà góa, tiền chỉ có đồng ra mà không có đồng vào. Mùa màng thì không ra gì; gạo, củi lại đắt. Áo quần đồ đạc, cái nào cầm được thì đã cầm rồi, cái nào bán được thì đã bán rồi. Nay nếu chỉ dựa vào món tiền may thuê vá mướn của một mình mẹ thì đủ làm sao cho con ăn học được. Bây giờ chỉ còn cách cho con đi chăn trâu thuê cho nhà hàng xóm. Mỗi tháng có thể kiếm được ít tiền, lại có cơm ăn. Đến ngày mai thì con phải đi.

    Vương Miện nói:

    – Mẹ nói phải đấy! Con ngồi học, trong lòng cũng áy náy không yên. Đi chăn trâu cho nhà người ta còn hơn. Nếu muốn học, con vẫn có thể mang theo vài quyển sách, học lấy cũng được.

    Ngay đêm hôm đó, công việc bàn xong.

    Hôm sau, hai mẹ con cùng đến nhà ông hàng xóm là Già Tần. Già Tần giữ mẹ con Vương Miện lại ăn cơm sáng, rồi dắt trâu ra giao cho Vương Miện. Già chỉ ra ngoài cửa nói:

    – Từ cửa nhà chạy thẳng ra chừng vài trăm bước là hồ Thất Mão. Ven hồ có cỏ xanh. Nhà nào cũng cho trâu ra nghỉ ở đó. Lại có mấy mươi cây thuỳ dương lớn rất mát. Khi trâu khát thì nó lại bên hồ uống nước. Cháu cứ ngồi chơi ở đây, không phải đi đâu xa. Ngày nào già này cũng lo đủ cho cháu hai bữa cơm rau, mỗi buổi sáng lại dành riêng cho cháu hai đồng tiền để cháu ăn quà. Cháu phải chăm chỉ chớ có biếng nhác đấy nhé!

    Mẹ Vương cảm ơn quay về nhà. Vương Miện tiễn mẹ ra cửa. Bà mẹ vuốt áo con và nói:

    – Ở đấy con phải chăm chỉ chớ có lời biếng để người ta nói. Sáng đi, chiều về, chớ để mẹ phải lo lắng.

    Vương Miện vâng dạ. Bà mẹ ra về, nước mắt giàn giụa.

    Từ đấy Vương Miện chăn trâu cho Già Tần. Mỗi khi hoàng hôn xuống, Vương lại về nhà mẹ nghỉ. Khi nào Già Tần cho Vương cá, thịt, muối thì Vương gói trong lá sen, đem về cho mẹ. Vương không ăn quà hàng ngày mà dành dụm số tiền đó lại. Chừng một hai tháng, nhân lúc rảnh, Vương lại chạy đến trường làng, mua vài quyển sách cũ ở hàng sách rong. Ngày ngày buộc trâu xong, Vương lại ngồi dưới bóng cây liễu mà xem sách.

    Bấm đốt tay, thời gian thấm thoát đã ba, bốn năm. Vương Miện xem sách bắt đầu hiểu thông mọi lẽ. Hôm ấy, chính mùa hoàng mai[2], khí trời nóng nực, Vương Miện chăn trâu mệt, ngồi trên bãi cỏ xanh. Một lát, mây đen ùn ùn kéo đến. Mưa rơi rào rào. Những đám mây đen viền mây trắng dần dần tan đi, mặt trời sáng rực hiện ra làm cho cả mặt hồ đỏ chói. Bên hồ, núi chỗ xanh, chỗ tím, chỗ lục. Cây cối trên hồ sau cơn mưa lại càng tươi xanh, càng thêm đẹp mắt. Giữa hồ có mươi cái hoa sen nước rơi lách tách. Trên lá sen những giọt nước như hạt ngọc lóng lánh chạy qua chạy lại. Vương Miện nhìn xem nghĩ bụng:

    – Cổ nhân có câu “xem như mình ở trong tranh”, thật là chẳng sai chút nào! Tiếc thay ở đây không có ai là tay họa sĩ để vẽ mấy hoa sen này! Có thế mới thật là thú!

    Vương lại nghĩ:

    – Trong thiên hạ không có cái gì không học được. Ta có thể học vẽ hoa sen cũng được chứ sao?

    Đang suy nghĩ như vậy, xa xa thấy một người vạm vỡ gánh hai hộp đồ ăn, tay xách một bình rượu: ở trên hộp lủng lẳng một cái chăn. Hắn đi đến dưới gốc cây liễu, lấy chăn trải và mở nắp hộp ra. Theo sau là ba người đội mũ vuông: Một người mặc áo sa màu lam, hai người mặc áo màu huyền, tất cả đều từ bốn mươi đến năm mươi tuổi, tay phe phẩy cái quạt giấy trắng. Họ đi thong thả đến gốc cây. Người mặc áo lam béo đẫy. Khi đến gốc cây thì y nhường cho người có râu mặc áo màu huyền ngồi ở trên, còn người gầy gò thì ngồi trước mặt. Chắc y là chủ vì y ngồi ở chỗ thấp hơn và rót rượu.

    Ăn được một lát, người béo nói:

    – Cụ Nguy đã về rồi. Cái nhà mới tậu của cụ đáng giá hai ngàn lạng bạc lớn hơn cả cái nhà ở đường Chung Lâu ở Bắc Kinh. Thấy cụ muốn mua, nhà chủ bớt cho cụ mấy mươi lạng để mong lấy thể diện. Mồng mười tháng trước, cụ dọn sang nhà mới. Quan huyện, quan phủ đều đến mừng và ở lại uống rượu đến khuya. Khắp phố không ai là không kính phục cụ.

    Người gầy nói:

    – Quan huyện đỗ cử nhân khoa nhâm ngọ, là học trò cụ Nguy, cho nên phải đến mừng.

    Người béo nói:

    – Ông thông gia tôi cũng là học trò cụ Nguy. Hiện nay ông làm tri huyện Hà Nam. Hôm trước thằng rể tôi về biếu hai cân thịt nai khô. Thịt ở trên mâm là thịt của nó biếu đấy! Lần này đi, nó sẽ nhờ ông thông gia viết một bức thư tiến cử tôi, để tôi có thể yết kiến cụ. Nếu cụ hạ cố đến làng tôi đáp lễ thì cái bọn trong làng sẽ không còn dám thả lừa, thả lợn vào ăn lúa, ăn má của chúng ta nữa.

    Người gầy nói:

    – Cụ Nguy thực là một nhà học giả!

    Người có râu nói:

    – Nghe nói, gần đây, khi rời kinh, Hoàng thượng có thân hành tiễn cụ ra khỏi thành, cầm tay cụ đi đến mười mấy bước. Cụ Nguy phải hai ba lần từ tạ, Hoàng thượng mới lên kiệu về. Xem thế đủ biết thế nào cụ cũng sẽ làm quan to.

    Ba người kia cứ người này một câu, người kia một câu, nói mãi không hết.

    Thấy trời đã chiều Vương Miện dắt trâu về nhà. Từ đó, Vương không lấy số tiền để dành để mua sách nữa. Vương nhờ người ta ra phố mua các thứ màu, để học vẽ hoa sen. Lúc đầu Vương vẽ không đẹp, nhưng chỉ ba tháng sau, hoa sen vẽ ra đã lột được tất cả tinh thần, màu sắc. Nhìn vào trang giấy có cảm tưởng như thấy hoa sen đang mọc dưới hồ hay người ta hái hoa sen ở dưới hồ lên rồi đặt lên giấy.

    Người làng thấy Vương vẽ đẹp, bỏ tiền ra mua. Vương Miện được tiền, mua những đồ vật tốt để kính biếu mẹ. Một truyền hai, hai truyền ba, cả huyện Chư Ký đều biết tiếng Vương là một danh bút về vẽ hoa và tranh nhau mua. Lên mười bảy, Vương không ở nhà Già Tần nữa, mỗi ngày Vương vẽ vài bức tranh và đọc thơ cổ. Dần dần, Vương không phải lo đến việc ăn mặc. Bà mẹ rất vui mừng.

    Vương Miện vốn thông minh. Chưa đầy hai mươi mà tất cả kiến thức về thiên văn, địa lý, kinh, sử, đều thông suốt hết.

    Nhưng tính Vương không giống như người ta. Vương không thích làm quan, lại không kết bạn, suốt ngày chỉ đóng cửa đọc sách. Thấy trong “Sở từ” có bức tranh vẽ áo mũ của Khuất Nguyên, Vương cũng tự làm lấy một cái mũ hết sức cao, một bộ áo quần hết sức rộng.

    Gặp tiết xuân, hoa tươi, liễu tốt, Vương đội mũ cao mặc áo rộng, miệng hát nghêu ngao tay cầm roi, đánh chiếc xe trâu chở mẹ đi dạo chơi quanh xóm và bên hồ. Trẻ em trong xóm tụm năm tụm ba chạy theo Vương mà cười. Vương cũng không buồn để ý. Chỉ có ông hàng xóm là Già Tần, tuy làm nghề cày ruộng nhưng chínhười biết nhìn. Thấy Vương từ bé đến lớn khác người như vậy, Già Tần rất yêu và rất kính, thường mời Vương về nhà cùng nói chuyện chơi.

    Một hôm, Già Tần đang ngồi thì thấy ở ngoài có một người đi vào, đầu đội mũ hình miếng ngói, mặc áo lục. Già Tần ra tiếp mời ngồi. Gã này họ Địch, là sai nhân ở huyện Chư Ký đồng thời là tay sai vặt của quan huyện. Vì Tần Đại hán, con của Già Tần, làm con đỡ đầu của hắn, gọi hắn là cha nuôi, nên hắn thường về chơi. Già Tần vội vàng bảo con pha trà, giết gà, nấu để thết, và mời Vương Miện ngồi tiếp. Sau khi mọi người nói qua họ tên, gã họ Địch nói:

    – Xin hỏi ông Vương đây có phải là người vẽ hoa không? Già Tần đáp:

    – Đúng vậy! Tại sao ông biết?

    – Trong huyện ai lại không biết? Hôm trước cụ huyện nhà tôi dặn tôi tìm cho cụ hai mươi bốn bức tranh vẽ hoa để tặng quan trên. Tôi nghe danh ông Vương đã lâu, cho nên đi ngay đến đây. Ngày nay may mắn được gặp ông, mong ông chịu khó múa bút cho, nửa tháng sau tôi sẽ đến lấy. Tiền nhuận bút bao nhiêu tôi sẽ đưa lại.

    Già Tần ở bên cạnh ép Vương Miện nhận lời. Vương Miện nể Già Tần, từ chối không được, nên cũng bằng lòng. Về nhà Vương đem hết tâm trí ra vẽ hai mươi bốn bức tranh hoa, mỗi bức đề một bài thơ. Địch đem lên cho quan huyện. Quan huyện là Thời Nhân đưa cho Địch hai mươi bốn lạng bạc. Địch xén mất một nửa, chỉ đưa Vương Miện mười hai lạng. Tri huyện đem tập tranh và những lễ vật khác lên biếu Nguy Tố để làm lễ ra mắt.

    Nguy Tố nhận lễ vật, cứ lo nhìn tập trung, ngẩn ngơ không muốn rời mắt. Hôm sau Nguy sai dọn tiệc mời tri huyện Thời đến cám ơn. Sau lúc hàn huyên, uống vài chén rượu, Nguy Tố nói:

    – Hôm trước tôi nhận được của ngài một tập tranh. Đó là tranh của người xưa hay tranh của người bây giờ?

    Thời tri huyện không dám giấu giếm nói:

    – Đó là tranh của anh nông dân huyện tôi, tên là Vương Miện. Anh ta hãy còn ít tuổi. Tôi cho rằng anh ta mới học vẽ qua loa, làm sao mà lọt mắt xanh của ngài được.

    Nguy Tố thở dài:

    – Ta bỏ nhà ra đi đã lâu. Ở quê có người hiền sĩ như thế này mà ta không biết, thực là xấu hổ. Con người này không những tài cao, mà kiến thức cũng khác thường. Danh tiếng và địa vị của ông ta sau này không kém tôi và ông đâu. Không biết ông có thể mời ông ta lên đây không?

    Thời tri huyện nói:

    – Khó gì việc ấy. Khi trở về tôi sẽ cho mời anh ta đến. Nghe nói được ngài thương, chắc chắn anh ta sẽ vui mừng khôn xiết.

    Nói xong Thời từ giã Nguy Tố trở về nha môn, sai Địch mang danh thiếp đến mời Vương Miện. Địch chạy về làng, đến nhà Già Tần, mời Vương Miện sang. Địch nói việc đó với Vương, Vương Miện cười:

    – Như thế này thực là phiền ông; nhờ ông bẩm với quan huyện rằng Vương Miện là một đứa dân cày, không dám mong gặp ngài. Nó không dám nhận tờ thiếp mời này.

    Địch trở mặt nói:

    – Quan lớn viết thiếp mời, ai lại dám từ chối không đi! Huống chi việc này là việc ta chiếu cố đến anh. Không có ta thì quan lớn làm sao biết anh vẽ hoa giỏi? Đáng lý ra, được gặp quan lớn là anh phải cảm ơn ta mới phải. Đằng này, ta đến đây không được một chén trà, anh lại cứ chối quanh chối quẩn, không chịu yết kiến, là lẽ làm sao? Ta làm thế nào mà thưa lại với quan lớn đây? Quan lớn làm chủ một huyện lại không gọi được một anh dân sao?

    – Thưa ông, không phải như vậy! Nếu như tôi có làm việc gì, quan lớn viết giấy gọi, tôi dám đâu không đến! Nhưng nay quan lớn viết thiếp mời tức là không có ý bắt buộc. Tôi không đi chắc ngài cũng lượng thứ.

    – Anh nói cái gì chẳng ai hiểu ra sao cả? Có giấy đòi thì đi, có thiếp mời lại không đi, thật chẳng hiểu người ta cất nhắc là cái gì hết.

    Già Tần nói:

    – Thôi ông Vương, quan lớn đã có thiếp mời ông, chắc là có ý tốt, ông cũng nên lên một chuyến. Cổ nhân có câu: “Ông quan làm cửa tan nhà nát”, ông không nên gây chuyện làm gì.

    Vương Miện nói:

    – Cụ Tần ơi! Cụ không biết, xin cụ cho tôi nói một điều. Cụ không biết chuyện Đoạn Can Mộc và chuyện Tiết Liễu[3] sao? Vì vậy tôi không muốn đi.

    Địch nói:

    – Anh làm thế là rất phiền cho tôi, bây giờ tôi về bẩm gì với quan lớn đây!

    Già Tần nói:

    – Kể thực cũng khó cho cả hai ông! Đi thì ông Vương không muốn, mà không đi thì ông Địch không biết nói gì lúc trở về. Nay tôi có một cách: Trở về, ông không nên nói là ông Vương không chịu đi, cứ nói là ông Vương mắc bệnh ở nhà không đến được, một hai ngày sau khỏe sẽ xin

    lên.

    Địch nói:

    – Nếu mắc bệnh thì phải có hàng xóm chứng nhận mới được.

    Bàn bạc với nhau một lát, Già Tần nấu cơm chiều mời hắn ăn. Lại bảo ngầm với Vương Miện ra xin mẹ ít tiền đưa cho Địch làm tiền phí tổn. Bấy giờ hắn mới chịu về bẩm với tri huyện.

    Tri huyện nghĩ bụng:

    – Thằng này ốm gì mà ốm? Chẳng qua tại cái thằng Địch xuống làng cáo mượn oai hùm, làm nó sợ mất vía chứ gì? Xưa nay nó chưa bao giờ thấy quan, nên nó sợ mà không dám lên chứ gì? Nhưng quan thầy ta thì lại giao cho ta mời nó. Ta không mời được nó thì quan thầy lại bảo ta không làm được việc. Chi bằng ta cứ thân hành đến làng thăm nó. Nó thấy ta chiếu cố, thì hiểu không ai khó dễ với nó làm gì và sẽ có can đảm gặp ta. Ta đưa nó về ra mắt quan thầy, như thế chẳng là làm việc chu đáo sao!

    Y nghĩ:

    – Mình đường đường một ông quan huyện mà chịu khuất mình đi thăm một anh nông dân ở nơi thôn xóm, nhỡ bọn nha lại nó cười thì thế nào?

    Nhưng lại nghĩ:

    – Quan thầy ta hôm trước nói đến nó thật là kính trọng! Thầy ta kính nó mười phần, ta lại phải kính trọng nó trăm phần. Vả lại chịu “hạ mình với kẻ tôn quý” biết “kính trọng người hiền”, thì sử sách sau này sẽ dành riêng một chương mà tán tụng ta. Đó là một việc “ngàn năm bất hủ”. Sao lại không được![4]

    Bèn quyết định đi.

    Sáng hôm sau tri huyện cho gọi những người khiêng kiệu đến. Y không đem theo tất cả những thuộc hạ, chỉ có tám người đội mũ màu đỏ viền đen, đi thẳng xuống làng. Địch ta chạy theo sau kiệu.

    Nghe tiếng thanh la, dân làng già trẻ dắt nhau ra xem kiệu đi đến cửa nhà Vương Miện thì chỉ thấy bảy tám gian nhà tranh, một tấm cửa mộc đóng kín. Địch chạy đến gõ cửa. Gõ một lát, một bà cụ già ở trong nhà chống gậy ra nói:

    – Nó không ở nhà, từ sáng sớm đã dắt trâu đi uống nước, nay vẫn chưa về.

    – Quan huyện thân hành đến đây nói chuyện với con cụ. Tại sao cụ lại lẩn thẩn như thế! Nói nhanh đi, ông ta ở đâu để tôi tìm!

    – Nó thực không ở nhà, không biết đi đâu.

    Bà cụ nói xong đóng cửa đi vào.

    Trong khi nói chuyện thì kiệu của tri huyện đến. Địch quỳ trước kiệu bẩm:

    – Con đến tìm Vương Miện, anh ta không ở nhà, xin quan lớn cho kiệu đến nhà công quán ngồi một lát, con xin đi tìm.

    Rồi hắn dẫn kiệu đi vòng ra sau nhà Vương Miện, ở đấy có mấy đám ruộng, xa xa có một cái hồ, bên hồ trồng mấy cây bưởi, cây dâu. Lại có mấy đám ruộng mênh mông ở bên hồ. Có một trái núi tuy không lớn lắm, nhưng cây cối xanh tốt mọc đầy. Cách một dặm gọi nhau còn nghe tiếng.

    Tri huyện đến đó, nhìn xa xa thấy một chú bé cưỡi trâu đi quanh từ chân đồi đến.

    Địch chạy đến hỏi:

    – Cháu Tần Tiểu Nhị, cháu có thấy ông Vương dắt trâu đi uống nước đây không?

    – Hỏi chú Vương à? Chú đã đến uống rượu ở nhà bà con xóm Vương cách đây hai mươi dặm. Trâu này là con trâu của chú đấy. Chú nhờ tôi dẫn nó về nhà.

    Địch ta chạy lại bẩm với tri huyện. Tri huyện đổi sắc mặt nói:

    – Đã thế thì không cần đến công quán.

    Y lập tức về nha môn.

    Tri huyện Thời rất tức giận, muốn sai người bắt Vương Miện đem về trị một mẻ. Nhưng lại sợ quan thầy cho mình là nóng nẩy, nên nén giận mà về. Y định về nói với quan thầy rằng con người này không đáng trọng. Sau này ta trị cho nó một mẻ cũng chưa muộn.

    Vương Miện không đi đâu xa, ngay sau đó trở về nhà. Già Tần giận lắm, nói:

    – Ông cố chấp quá! Người ta làm chủ một huyện, tại sao lại khinh thường như thế?

    – Cụ ngồi đây, cháu nói. Tri huyện Thời dựa vào thế lực Nguy Tố, hà hiếp nhân dân, không cái gì không làm. Con người như thế, thì gặp làm gì? Lần này về, nhất định ông ta sẽ nói lại với Nguy Tố. Nguy Tố nổi giận, sẽ kiếm cớ sinh sự với cháu cũng nên. Nay cháu xin từ biệt cụ, đem ít hành lý trốn đi nơi khác thì hơn. Nhưng chỉ ngại một chút, lòng áy náy không yên là còn mẹ cháu ở nhà.

    Bà mẹ nói:

    – Con ơi, mấy năm nay con bán thơ, bán tranh, nên mẹ cũng dành dụm được dăm ba chục bạc, không phải lo gì đến tiền nuôi nấng nữa. Mẹ tuy già, nhưng cũng không có bệnh tật. Con cứ yên tâm lánh mình một thời gian không ngại gì việc đó. Con chưa phạm tội bao giờ các quan cũng không có lí gì mà bắt bớ mẹ cả.

    Già Tần nói:

    – Nói thế cũng có lí. Vả chăng, ông mai một ở cái nơi thôn dã này, có tài, có học cũng chẳng ai biết đến. Lần này đến nơi thị thành biết đâu gặp may mắn cũng nên. Còn về việc trong nhà, ông cứ mặc tôi. Tôi sẽ chăm sóc bà cụ thay ông.

    Vương Miện bái tạ Già Tần. Già Tần lại trở về nhà tìm rượu, đồ nhắm để thết. Uống rượu đến nửa đêm mới về.

    Hôm ấy, canh năm, Vương Miện dậy, sửa soạn hành lý. Ăn sáng vừa xong thì gặp Già Tần đến. Vương Miện lạy từ biệt mẹ, lạy Già Tần hai lạy. Mẹ con chia tay nước mắt ròng ròng.

    Vương Miện chân đi dép gai, lưng mang hành lý, Già Tần tay cầm chiếc đèn lồng trắng nhỏ, tiễn chàng ra khỏi làng, rồi từ giã, nước mắt tuôn trào. Già Tần tay cầm đèn, đứng nhìn cho đến khi Vương đi khuất mới trở về.

    Vương Miện ra đi, dầm sương dãi nắng, ngày này qua ngày khác. Vương đi thẳng đến phủ Tế Nam tỉnh Sơn Đông. Sơn Đông là một tỉnh gần phía Bắc, nhưng dân cư đông đúc, sản vật dồi dào, nhà cửa san sát. Vương Miện đi đến đây thì tiền đã cạn, liền thuê một gian phòng ở trước một cái am nhỏ. Vương làm nghề xem bói, đoán chữ, lại vẽ hai bức tranh hoa ở đấy để bán cho những khách đi qua. Mỗi ngày bói và bán tranh, khách đến chen chân không lọt.

    Thời gian thấm thoát trôi qua. Ở phủ Tế Nam có mấy tên trọc phú thích tranh của Vương thường muốn mua, nhưng không thân hành đến. Chúng sai bọn đày tớ thô bạo động một tí là hò hét, làm cho Vương Miện ngồi không yên. Vương Miện chịu không nổi, liền vẽ một con bò to tướng treo ở đấy, đề mấy câu thơ, có ý châm biếm. Lại sợ người ta sinh chuyện gì lôi thôi, nên định đi nơi khác.

    Sáng hôm ấy Vương đang ngồi thì nghe tiếng rên, tiếng khóc ở ngoài đường: Có người mang theo nồi, cũng có người quẩy hai cái thúng trong đó là con mình. Người nào cũng mặt vàng, mình võ, áo quần lam lũ, hết đoàn này qua đến đoàn khác lại, tất cả đường sá đều chật ních. Lại có người ngồi xin tiền ở ngoài đường.

    Hỏi tại sao thế, thì họ đều nói họ là những người ở các châu các huyện ven sông Hoàng Hà, nước sông dâng to, nhà cửa ruộng vườn đều ngập hết cả. Nhân dân điêu vong, ly tán, mà quan lại không tính gì đến, cho nên họ đành phải tha phương cầu thực. Vương Miện thấy quang cảnh này thở dài mà rằng: Sông Hoàng Hà chảy về bắc, thiên hạ từ nay sẽ loạn! Ta còn ở đây làm gì? Bèn thu thập ít bạc vụn, mang hành lý trở về nhà. Về đến Chiết Giang, được tin Nguy Tố đã về triều, tri huyện Thời đã bổ đi nơi khác. Vương về nhà, lòng nhẹ nhàng, lạy chào mẹ. Thấy mẹ vẫn mạnh khỏe như thường, Vương rất vui sướng. Bà mẹ lại kể cho Vương biết Già Tần đã ăn ở tốt như thế nào. Vương vội vàng mở hành lý ra, lấy một tấm lụa và một gói bánh đem qua biếu Già Tần để cảm ơn. Già Tần lại dọn rượu mừng. Từ đấy Vương Miện lại ngâm thơ, vẽ tranh và phụng dưỡng mẹ già như cũ. Sáu năm qua, bà mẹ mắc bệnh, Vương Miện tìm mọi cách chạy chữa, nhưng đều vô hiệu. Một hôm bà cụ dặn Vương Miện:

    – Mẹ không qua khỏi. Mấy năm nay, người ta nói với mẹ rằng con là người có học vấn, họ khuyên con nên ra làm quan. Nhưng làm quan e cũng không phải là việc làm cho cha ông vinh hiển. Ta thấy những kẻ làm quan rút cục không được cái gì hay, hơn nữa con tính tình ngạo đời, nếu xảy ra tai vạ lại càng không hay. Con ơi nên nghe lời mẹ, sau này lo cưới vợ, đẻ con, giữ mồ mả của mẹ, chớ có làm quan. Có thế mẹ chết mới nhắm mắt[5].

    Vương Miện vừa khóc vừa dạ. Bà mẹ dần dần thở hơi cuối cùng. Vương Miện giậm chân kêu khóc, hàng xóm, không ai không chảy nước mắt. Già Tần ra sức giúp đỡ việc chôn cất, Vương Miện khiêng đất đắp mộ, việc ba năm tang tóc gối đất nằm sương không cần kể lại đây làm gì.

    Một năm sau khi hết tang, thiên hạ loạn lạc. Phương Quốc Trân chiếm cứ Chiết Giang, Trương Sĩ Thành chiếm cứ Giang Tô, Trần Hữu Lượng chiếm cứ Hồ Quảng, đều chỉ là kẻ anh hùng nơi thảo dã. Duy có Thái Tổ hoàng đế khởi binh ở Từ Dương, chiếm được Kim Lăng, tự xưng Ngô Vương, quả thực là bậc vương giả. Thái Tổ lại đem quân đánh phá Phương Quốc Trân, bình định toàn Chiết Giang, trong làng xóm cũng như ở thị thành, đều không bị quấy nhiễu gì.

    Một hôm vào giữa trưa Vương Miện đi tảo mộ về, thấy độ mười người cưỡi ngựa đi đến làng mình. Người đi đầu chít khăn võ tướng, mang chiến bào hoa đào, mắt sáng, da trắng, râu ba chòm, rõ ràng là tướng mạo đế vương. Người này đến cửa xuống ngựa, vái chào Vương Miện và hỏi:

    – Xin hỏi nhà Vương Miện tiên sinh ở đâu?

    Vương Miện đáp:

    – Tôi chính là Vương Miện, đây là nhà của tôi.

    Người ấy cười mà nói:

    – Thế thì may quá. Tôi đến đây để yết kiến ngài.Y bảo người tùy tùng xuống ngựa, đứng cả ở ngoài, buộc ngựa ở cây liễu bên hồ. Một mình y và Vương Miện dắt tay nhau vào nhà,

    Khách và chủ ngồi xong, Vương Miện nói:

    – Không dám, xin hỏi ngài đại danh là gì, có việc gì khiến ngài hạ cố đến xóm làng hẻo lánh này.

    – Tôi họ Chu, trước đây khởi binh ở Giang Nam, gọi là Từ Dương Vương, nay đóng quân ở Kim Lăng gọi là Ngô Vương. Nhân dịp dẹp Phương Quốc Trân tôi đến đây tìm ngài.

    Vương Miện nói:

    – Kẻ hèn mọn này mắt thịt không biết gì, không biết bậc Vương công. Tôi vốn là một tên dân ngu ở thôn xóm, dám đâu phiền đến ngài phải quá bước đến đây.

    Ngô Vương nói:

    – Tôi là một người thô lỗ, nay được thấy ngài khí tượng nhà nho thì lòng ham muốn công danh lợi lộc tiêu tán đâu cả. Tôi ở Giang Nam mộ đại danh của ngài, đến đây thăm hỏi, mong ngài chỉ giáo: người Chiết Giang làm phản đã lâu làm thế nào cho họ theo mình.

    – Đại vương là bậc nhìn xa, thấy rộng, kẻ hèn mọn này không dám nói nhiều. Nếu lấy nhân nghĩa mà làm cho người ta phục, thì ai mà không phục. Nào có phải riêng gì Chiết Giang? Nếu lấy binh lực mà bắt người ta phục, thì người đất Chiết Giang tuy yếu cũng thà chết chứ không chịu nhục. Ngài không thấy gương Phương Quốc Trân sao?

    Ngô Vương thở dài gật đầu cho là phải.

    Hai người ngồi kề gối nói chuyện đến khi xế chiều. Những người đi theo đều mang lương khô, Vương Miện xuống nhà bếp nướng một cân bánh, xào một đĩa rau hẹ bưng lên và ngồi tiếp. Ngô Vương ăn xong, cảm ơn lời dạy bảo, lên ngựa ra đi. Hôm đó Già Tần ở thị trấn về hỏi có việc gì. Vương Miện cũng không nói đó là Ngô Vương chỉ nói là một viên quan võ trước đây ở Sơn Đông có quen biết nhau, nay đến thăm thôi.

    *

    * *

    Vài năm sau, Ngô Vương dẹp yên loạn lạc đóng đô ở Ứng Thiên, thiên hạ nhất thống đặt quốc hiệu là Đại Minh, niên hiệu là Hồng Vũ. Mọi người an cư lạc nghiệp. Hồng Vũ năm thứ tư, Già Tần lên thị trấn về, lại nói với Vương Miện:

    – Cụ Nguy có tội bị đày đi Hòa Châu. Tôi cầm tờ thông tư này về cho ông xem.

    Vương Miện cầm xem, mới biết sau khi đầu hàng, Nguy Tố tự cho mình to lớ, xưng lão thần trước mặt Minh Thái Tổ. Thái tổ nổi giận, đày đi Hòa Châu để giữ mộ của Dư Khuyết[6]

    Sau việc này, lại nghe bộ lễ định ra phép thi cử, ba năm một khoa, lấy Ngũ kinh, Tứ thư, văn bát cổ[7] để thi. Vương Miện chỉ điều đó cho Già Tần thấy và nói: “Cách này nhất định là không hay! Từ nay trở đi bạn đọc sách thấy chỉ có con đường vinh thân ấy, thì sẽ coi thường học vấn và đạo đức.”

    Trong khi nói chuyện, trời đã về chiều. Bấy giờ mới đầu mùa hạ, khí trời đang bức. Già Tần đặt một cái bàn ở ngoài sân đập lúa. Lát sau, mặt trăng hiện lên ở phương đông, chiếu sáng mọi nơi, trông như một tấm pha lê mênh mông. Chim chóc đều ngủ yên không một tiếng động. Vương Miện tay trái cầm chén, tay phải chỉ lên các ngôi sao trên trời, quay về phía Già Tần mà nói:

    – Ông thấy không? Sao Quán Sách phạm vào sao Văn Xương[8]. Văn nhân thời đại này nguy rồi!

    Nói chưa dứt, bỗng nhiên trận gió lạ thổi, cây bị xáo động kêu răng rắc, chim bay loạn xạ trên mặt nước. Vương Miện và Già Tần đều lấy áo che mặt. Lát sau gió tạm dừng, họ nhìn lên trên trời thấy ngót một trăm ngôi sao từ trên trời rơi về phía đông nam.

    Vương Miện nói:

    – Trời thương chúng ta! Những ngôi sao kia rơi xuống để duy trì truyền thống văn chương. Nhưng chúng ta sẽ không còn sống để mà thấy nữa!

    Đang đêm thu dọn đồ đạc, ai nấy về nhà nghỉ.

    Từ đó về sau, người ta thường nói triều đình đã ra lệnh cho quan Bố Chánh[9] Chiết Giang sai mời Vương Miện ra làm quan. Đầu tiên Vương Miện không để ý, sau người nói điều này càng đông. Vương Miện không bảo gì cho Già Tần, một mình mang hành lý đi vào ẩn ở núi Cối Kê.

    Nửa năm sau, quả nhiên triều đình sai một viên quan mang chiếu thư, với nhiều người đi theo mang nhiễu và đoạn đến nhà Già Tần, thấy Già Tần đã ngoại tám mươi, đầu râu trắng xóa, chống gậy đi ra.

    Vị quan này vái chào. Già Tần mời vào nhà cỏ ngồi. Vị quan nói:

    – Vương Miện tiên sinh có ở trong làng này không? Nay Hoàng Thượng ra ân mời tiên sinh ra làm Tư nghị tham quân[10], tôi phụng mệnh mang chiếu chỉ đến.

    Già Tần nói:

    – Ông Vương tuy ở đây, nhưng đã lâu nay không biết đi đâu!

    Già Tần mời uống trà, dẫn viên quan kia đến nhà Vương Miện, mở cửa vào, thấy nhện chăng đầy nhà, cỏ mọc khắp nơi, tỏ rõ là người đi đã lâu. Viên quan than thở một hồi rồi mang chiếu chỉ trở về.

    Vương Miện ẩn trong núi Cối Kê, không hề xưng tên họ. Sau mắc bệnh qua đời. Hàng xóm xung quanh thu góp tiền nong chôn ở dưới chân núi Cối Kê.

    Năm ấy Già Tần cũng chết ở nhà.

    Buồn cười bọn văn nhân, học giả gần đây nói đến Vương Miện đều bảo ông ta là Vương tham quân! Thật ra Vương Miện có làm quan ngày nào đâu? Tôi kể lại chuyện này chẳng qua chỉ để mở đầu cho câu chuyện dưới đây.
     
    Chỉnh sửa cuối: 24/4/15
  3. Riochan

    Riochan Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    20/12/14
    Bài viết:
    60
    Được thích:
    0
    Hồi 2​


    Cụ Vương nhận bạn đồng khoa, ở trường thôn học

    Thầy Chu đỗ lên thượng đế[11]
    vừa lúc tuổi già

    Ở tỉnh Sơn Đông, phủ Duyên Châu, huyện Vấn Thượng có một làng gọi là làng Tiết. Làng này có độ một trăm gia đình đều sống về nghề nông. Ở cổng làng có am Quan Âm. Ngoài ba gian điện thờ, am còn hơn mười gian phòng trống, cửa sau nhìn ra sông. Hương lửa mười phương đều dồn cả về đây. Am chỉ có một vị hòa thượng. Có công việc, người trong làng đều đến đây bàn bạc.

    Bấy giờ vào cuối thời Thành Hoá[12] chính là lúc nước nhà giàu có sung túc. Ngày mồng tám tháng giêng, dân làng tề tập đến am để bàn về việc múa đèn rồng. Vào buổi ăn sáng, Thân Tường Phủ đi đầu, có bảy, tám người đi theo đến chùa lễ phật. Hòa thượng chạy ra chào. Tất cả đều đáp lễ.

    Thân Tường Phủ trách hòa thượng:

    – Đầu năm mới, hòa thượng cũng phải chăm hương đèn, lễ Đức Phật hơn nữa mới được. A di đà phật: Biết lấy tiền của thập phương thì cũng phải biết mua hương đèn chứ!

    Lại nói:

    – Các vị xem kìa, cái đèn lưu ly này chỉ có một nửa dầu thôi!

    Và chỉ tay vào một cụ già, quần áo tề chỉnh, Thân nói:

    – Chẳng nói ai xa lạ, chỉ xem cụ Tuân này thôi. Chiều ba mươi vừa rồi cụ Tuân mới đem lại cho cụ năm mươi cân dầu: Rõ ràng là cụ đem dầu đi xào rau chứ không lo gì đến việc kính phật hết!

    Hòa thượng vẫn kính cẩn tiếp đãi. Đợi ông ta trách xong, hòa thượng mới lấy một bình thiếc, bỏ một nắm chè vào trong, đổ đầy nước, nấu sôi rồi đem lên mời các vị.

    Cụ Tuân hỏi trước:

    – Về lễ múa đèn rồng năm nay ở trong am, chúng ta phải bỏ ra bao nhiêu tiền?

    Thân Tường Phủ nói:

    – Đợi chút nữa đã! Chờ ông thông gia tôi đến ta hẵng bàn!

    Ngay lúc ấy, một người ở ngoài bước vào, hai quầng mắt đỏ, má đen sạm, râu thưa và hói, đầu đội mũ miếng ngói, mình mặc áo xanh láng như một cái thùng dầu, tay cầm cái roi vái mọi người một vái và ngồi ngay lên cái ghế cao nhất. Y họ Hạ, chính là thôn trưởng làng Tiết. Thôn trưởng Hạ ngồi ở chiếu cao, bảo ngay hòa thượng:

    – Hòa thượng, đem con lừa của tôi buộc vào chuồng sau vườn! Tháo yên cho nó, lấy cỏ cho nó ăn no. Tôi bàn xong công việc, rồi còn phải lên uống rượu mừng năm mới với cụ Hoàng ở trước cửa hiệu đấy!

    Dặn hòa thượng xong, y vắt một chân lên, lấy nắm tay đấm vào sống lưng, vừa đấm vừa nói:

    – Các ông làm ruộng còn sướng hơn tôi nhiều! Tết năm nay, nhận được thiếp mời của tất cả mọi người trong nha môn, tôi không đến mừng sao được? Hàng ngày cưỡi con lừa này hết lên huyện lại về làng, thật là đầu quáng mắt hoa. Rủi sao lại bị một thằng đui nào va phải làm tôi ngã xuống đường, sống lưng đau ê ẩm hết!

    Thân Tường Phủ nói:

    – Mồng ba tết, tôi đã soạn một bữa cơm đậu phụ mời ông, chắc là ông bận nên không đến được.

    – Lại còn phải nói! Bảy tám hôm nay tôi có lúc nào rảnh đâu? Nếu có hai miệng thì cũng không ăn xuể! Đấy, cụ Hoàng hôm nay mời tôi đấy. Cụ là người đứng đầu cả ban, trước mặt quan trên. Cụ là người cất nhắc mình nếu mình không đến sợ cụ giận!

    Thân Tường Phủ nói:

    – Tôi nghe nói cụ Hoàng là người quan trên phái đi đâu từ đầu năm. Cụ lại không có anh em, con cái gì. Vậy ai làm chủ mà mời?

    Thôn trưởng Hạ nói:

    – Ông không hiểu gì cả! Bữa tiệc hôm nay là do cụ Lý mời. Vì cụ Lý nhà cửa chật hẹp, cho nên cụ lấy nhà cụ Hoàng để thết khách.

    Nói chuyện hồi lâu, mới bàn đến việc múa đèn rồng. Thôn trưởng Hạ nói:

    – Năm nay tôi cũng chán cái việc này rồi. Mọi năm, năm nào tôi cũng đứng ra lo liệu, mọi người đều ghi số tiền cúng mà chẳng chịu nộp, làm tôi phải bồi thường không biết bao nhiêu. Hơn nữa, năm nay các ban trên huyện ban nào cũng chơi đèn rồng, tôi xem không xuể còn thì giờ đâu mà về xem đèn rồng ở làng? Nhưng vì các ông đã nói, nên tôi cũng phải góp phần của tôi. Các ông phải tìm một người khác đứng ra lo liệu. Như cụ Tuân đây, ruộng đất nhiều, thóc tiền thừa thãi, bảo cụ góp nhiều hơn. Mọi người đều góp phần mình thì làm gì chả xong.

    Mọi người không dám trái ý, bèn định cụ Tuân xuất nửa tiền, còn các nhà khác góp một nửa, tất cả được hai, ba lạng bạc và ghi vào sổ. Hòa thượng mang trà ra. Hòa thượng bầy táo, dưa, đậu phụ khô, kẹo, hạt dẻ trên hai cái bàn, mời Hạ ngồi ở ghế đầu và rót nước trà mời mọi người.

    Thân Tường Phủ lại nói:

    – Bọn trẻ con lớn cả rồi, năm nay phải mời một ông thầy. Am Quan Âm này có thể làm trường học được đây.

    Mọi người đều nói:

    – Nhiều nhà chúng ta có con phải đi học. Ngay con trai cụ Thân đây là rể cụ Hạ. Cụ Hạ thường nhận được giấy tờ trên huyện nên cũng cần người biết chữ. Tốt nhất là tìm một ông thầy ở huyện về đây.

    Thôn trưởng Hạ nói:

    – Thầy thì có rồi! Các ông thử đoán xem! Ông này dạy ở nhà cụ Cố làm Đề khống[13] ở nha môn. Ông ta tên là Chu Tiến, đã ngoài sáu mươi. Quan huyện trước lấy ông ta đầu huyện, nhưng lên thi ở phủ không đỗ. Cụ Cố mời ông ta dạy học ở nhà đã ba năm nay. Con cụ năm ngoái thi đỗ tú tài, cùng đỗ một lần với ông Mai trong làng ta. Hôm ấy, ông ta thi đỗ về, mọi người ra đón tiếp. Ông ta đội trên đầu một cái mũ vuông, mang một cái áo rộng bằng trừu đỏ, cưỡi con ngựa lấy ở trong chuồng quan lớn ra. Thanh la đánh vang. Khi ông đến cửa nhà, tôi và những người trong nha môn đều ra rót rượu mời ở ngoài đường. Sau đó mời ông Chu đến. Cụ Cố thân hành rót ba chén rượu mời ngồi lên chiếu nhất. Kế đến diễn vở tuồng lấy tích Lương Hạo tám mươi tuổi đỗ trạng nguyên. Cụ Cố xem trong lòng không vui. Đến khi thấy học trò của Lương Hạo mười bảy, mười tám tuổi đỗ trạng, cụ Cố mới hiểu rằng vở tuồng này là để làm điềm tốt cho con mình, cho nên vui lòng. Các ông muốn mời ông thầy ấy thì tôi sẽ mời giúp.

    Mọi người đều nói:

    – Vâng.

    Uống trà xong, hòa thượng bưng canh miến thịt bò lên. Ăn xong mọi người ra về. Hôm sau, thôn trưởng Hạ nói với Chu Tiến. Tiền lương mỗi năm là mười hai lạng bạc. Ăn cơm tại nhà hòa thượng trả mỗi ngày hai phân. Định sau lễ múa đèn rồng là sẽ đến làng. Khai giảng hôm hai mươi tháng giêng.

    Hôm mười sáu, mọi người góp tiền cho Thân Tường Phủ để dọn một bữa rượu, mời Mai Cửu là tú tài trong làng để tiếp khách. Mai Cửu đội mũ vuông đến từ sáng sớm. Mãi gần trưa, Chu mới tới. Nghe chó sủa bên ngoài, Thân Tường Phủ chạy ra mời vào. Mọi người thấy Chu Tiến đầu đội mũ lông chiên cũ, mình mặc áo rộng màu xám đã rách, ống tay phải và phía sau đều tả tơi, chân đi một đôi giầy đỏ cũ, da mặt đen và gầy, râu lốm đốm bạc. Thân Tường Phủ mời lên nhà. Bây giờ Mai Cửu mới dần dần đứng lên và ra gặp Chu. Chu Tiến hỏi:

    – Vị này là ai?

    Mọi người nói:

    – Đó là ông Mai, tú tài làng chúng tôi.

    Chu Tiến nghe vậy, không dám để Mai Cửu vái chào mình. Mai Cửu nói:

    – Hôm nay là khác…

    Chu Tiến hai ba lần không nhận. Mọi người nói:

    – Về tuổi tác thì Chu tiên sinh cao hơn, vậy mời tiên sinh cứ tự nhiên.

    Mai Cửu quay lại nói với mọi người:

    – Các ông không biết quy củ nhà trường thế nào cả! Những người “bạn lớn” xưa nay bao giờ cũng hơn người “bạn nhỏ”, không kể gì tuổi tác cả. Nhưng hôm nay là đặc biệt, xin mời ông Chu ngồi trên cho.

    Số là thời Minh gọi học sinh thi đỗ tú tài là “bạn”, đồng sinh gọi là “bạn nhỏ”. Đồng sinh thi đỗ thì bất kì bao nhiêu tuổi cũng gọi là “bạn lớn”, nếu không đỗ thì có tám mươi tuổi cũng gọi là “bạn nhỏ”. Cũng như con gái đi lấy chồng lúc mới lấy thì gọi là “cô” (tân nương), sau gọi là “mợ” hoặc “bà” chứ không gọi là “cô” nữa. Nhưng nếu làm vợ lẽ cho người ta đến khi bạc đầu cũng còn gọi là “cô”.

    Chu Tiến nghe Mai Cửu nói thế mới thôi, không nhường Mai Cửu nữa và để cho Mai Cửu vái chào mình. Mọi người vái chào xong, ngồi xuống. Chỉ có Chu và Mai có hai quả táo hồng trong chén trà, còn mỗi người thì chỉ uống trà suông. Uống trà xong, người ta bày ra hai cái bàn. Mọi người theo thứ tự tuổi ngồi xong, rượu rót ra. Chu Tiến tay cầm chén rượu cảm ơn mọi người rồi uống một hơi cạn chén. Mỗi bàn có bảy tám đĩa: có thịt thủ lợn, gà, cá chép, lòng, phổi, gan. Nghe một tiếng “mời”, mọi người cầm đũa.

    Như mây bay gió cuốn, phút chốc đã hết ngay một nửa. Bấy giờ Chu vẫn chưa gắp gì cả. Thân Tường Phủ hỏi: Tại sao hôm nay tiên sinh không dùng đồ nhắm? Hay là chúng tôi có gì làm phật ý chăng? Và chọn mấy miếng ngon đặt vào đĩa của Chu. Chu Tiến giữ tay lại, nói:

    – Không phải tôi có ý gì đâu! Chỉ vì tôi ăn chay.

    Mọi người nói:

    – Quả thực chúng tôi sơ ý, không ngờ tiên sinh lại ăn chay.

    – Chỉ vì ngày mẹ tôi bị bệnh, tôi có hứa trước phật Quan Âm. Đến nay tôi ăn chay đã mười mấy năm.

    Mai Cửu nói:

    – Nhân việc tiên sinh ăn chay, tôi nhớ đến một chuyện đùa. Chuyện này hôm trước tôi nghe ở nhà cụ Cố. Có người có một bài thơ từ nhất ngôn đến thất ngôn. Mọi người dừng đũa nghe thơ.

    Mai Cửu liền đọc:

    Ngây!

    Tú tài,

    Ân trường trai[14]

    Râu ria má đầy,

    Sách vở không hề coi.

    Giấy bút xếp bỏ một xó,

    Sang năm sẽ đến không cần mời!

    Ngâm xong lại nói:

    – Chu tiên sinh là người tài giỏi không “ngây” như thế được.

    Lại che miệng nói:

    – Tú tài thì thế nào ông cũng đỗ, còn “ăn trường trai” và “râu ria đầy má” thì quả đúng hệt.

    Nói xong cười khanh khách. Mọi người cười theo. Chu Tiến bực mình lắm. Thân Tường Phủ vội rót một chén rượu, nói:

    – Xin ông Mai uống một chén rượu. Chu tiên sinh trước kia ngồi ở nhà cụ Cố đấy.

    Mai Cửu nói:

    – Thế mà tôi không biết! Xin lỗi, xin lỗi! Nhưng lời nói kia không phải là nhằm Chu huynh. Nó là nói các ông nhà nho. Dầu sao ăn chay cũng tốt. Trước đây tôi có một ông cậu chỉ ăn chay. Sau khi thi đỗ, nhà chủ đưa thịt tế thánh đến. Bà ngoại tôi nói: “Nếu không ăn thịt tế thì thánh nhân giận đấy! To thì sinh tai vạ, nhỏ thì mắc bệnh”. Từ đó, ông cậu tôi thôi không ăn chay nữa. Chu huynh vào dịp tế thánh mùa thu năm nay, thế nào cũng có thịt tế đưa đến, chắc Chu huynh sẽ hết kiêng.

    Mọi người cho đó là điềm tốt cùng rót một chén mừng Chu Tiến, làm cho mặt Chu Tiến lúc đỏ bừng, lúc tái nhợt chỉ còn cách vừa cầm rượu vừa cảm ơn mọi người. Ở dưới bếp bưng canh lên. Trong mâm có một đĩa bánh bao và một đĩa bánh nướng, mọi người nói:

    – Món này điểm tâm tốt. Ông xơi vài cái!

    Nhưng Chu Tiến sợ bánh không được tinh khiết, nên chỉ xin uống trà.

    Lúc ấy có người hỏi Thân Tường Phủ:

    – Ông thôn trưởng hôm nay ở đâu? Tại sao không đến tiếp ông Chu?

    Thân Tường Phủ nói:

    – Ông ta lại nhà ông Lý uống rượu rồi!

    Có người nói:

    – Ông Lý mấy năm nay gặp quan mới làm việc rất chạy. Một năm kiếm được đến trên ngàn lạng bạc. Nhưng phải cái ông ta hay đánh bạc, không như ông Hoàng. Ông Hoàng lúc đầu cũng ham đánh bạc, nhưng mấy năm nay đã tu rồi, nên nhà cửa đẹp chẳng kém gì cung vua.

    Cụ Tuân nói với Thân Tường Phủ:

    – Ông Hạ từ khi làm thôn trưởng là thời vận phát. Chừng hai năm nữa cũng được như ông Hoàng.

    Thân Tường Phủ nói:

    – Ông ta cũng là người biết tính toán đấy. Nhưng mơ ước được như ông Hoàng, thì còn lâu.

    Mai Cửu đang nhai bánh rán cũng nói xen vào:

    – Mơ cũng có khi đúng chứ!

    Và quay về phía Chu Tiến, Mai Cửu nói:

    – Mấy năm nay, khi thi cử, ông có nằm mộng bao giờ không?

    – Tôi không nằm mộng bao giờ.

    – Đấy, năm ngoái tôi gặp may, chính hôm mồng một tháng giêng, tôi mộng thấy tôi đứng ở trên một cái núi rất cao, mặt trời chính ở trên đỉnh và rơi thẳng vào giữa đầu tôi không chệch một ly. Tôi sợ toát mồ hôi. Tỉnh dậy, sờ lên đầu thấy còn nóng. Lúc ấy tôi không hiểu cớ gì. Nay nghĩ lại quả là đúng.

    Bấy giờ bánh đã hết. Lại rót thêm một tuần rượu. Câu chuyện kéo dài cho đến khi thắp đèn lên, Mai Cửu và mọi người mới ra về. Thân Tường Phủ lấy ra một cái nệm bằng vải lam, dẫn Chu Tiến đến am Quan Âm nằm nghỉ. Ông ta bàn với hòa thượng dành hai gian phòng phía sau am làm nơi dạy học.

    Đến ngày khai trường, Thân Tường Phủ và mọi người dẫn học sinh đến. Đứa lớn đứa bé, đến vái chào thầy. Sau khi mọi người ra về, Chu Tiến bắt đầu dạy. Buổi chiều, học sinh về nhà cả rồi, Chu mở phong bao xem tiền học, thì chỉ thấy cụ Tuân gửi một đồng cân bạc, còn thêm tám phân tiền trà, còn thì có người ba phân, người bốn phân bạc, lại có người chỉ có hơn mười đồng tiền. Tổng cộng lại chưa đủ tiền ăn một tháng. Chu Tiến giao tất cả số tiền phong bao cho hòa thượng, còn thiếu bao nhiêu thì tính sau.

    Bọn học trò đều là bọn tinh quái, hễ Chu Tiến không nhìn đến là chúng chạy ra ngoài đá cầu và trêu chọc nhau. Chu Tiến chỉ có một cách là kiên tâm ngồi dạy.

    *

    * *

    Hơn hai tháng qua. Trời bắt đầu ấm. Chu Tiến ăn cơm trưa xong, mở cửa sau đi ra ven sông. Tuy đây là nơi hương thôn, nhưng bên sông cũng có mấy cây đào, cây liễu, màu hồng xen màu lục xem rất đẹp. Mưa phùn rơi xuống. Chu Tiến quay vào nhà, nhìn ra, mưa rơi ngoài sông, bao trùm những đám cây xa tít, trông càng đẹp mắt. Mưa càng nặng hạt. Chợt thấy ở mạn ngược dòng sông một con thuyền lướt qua mưa gió tiến đến. Thuyền không to, lại chỉ có cái bồng bằng lau nên không chống nổi mưa. Thuyền đến gần bờ, khoang giữa có một người ngồi, đằng đuôi có hai người, đằng đầu có một gánh đồ ăn. Thuyền ghé bến. Người kia liền bảo lái đò cắm thuyền lại, rồi lên bờ, hai người đầy tớ đi theo. Chu Tiến thấy y đầu đội mũ vuông, mặc áo màu lam quý, chân đi giày đen đế trắng, râu ba chòm, tuổi trạc ba mươi. Đến cửa, y chào Chu Tiến và bước thẳng vào, nói một mình:

    – Đây hình như là trường học.

    Chu Tiến đi theo vái chào. Y chỉ đáp lễ qua loa và hỏi:

    – Ông là thầy đồ ở đây?

    – Vâng.

    Y nói với người đi theo:

    – Tại sao không thấy hòa thượng?

    Hòa thượng vội vàng chạy ra nói:

    – Ngỡ là ai, té ra ông Vương, xin mời ông ngồi chơi, để tôi đi pha trà.

    Và quay về phía Chu Tiến, hòa thượng nói:

    – Đây là ông cử Vương vừa thi đỗ, mời ông ngồi tiếp để tôi đi pha trà.

    Cử Vương không khiêm nhượng gì. Thấy đầy tớ kéo ra một cái ghế dài, y liền ngồi ngay vào ghế đầu. Chu Tiến ngồi tiếp. Vương cử nhân nói:

    – Xin hỏi quý tính?

    Chu Tiến biết y đã đỗ cử nhân, bèn nói:

    – Vãn sinh họ Chu.

    – Trước đây ông dạy ở đâu?

    – Tôi dạy ở nhà cụ Cố trước cửa huyện.

    – Thế có phải ông đã đỗ đầu trong kì thi do cụ Bạch là thầy tôi chấm không? Cụ Bạch nói mấy năm nay ông dạy ở nhà cụ Cố.

    – Thế ngài có biết cụ chủ nhà tôi sao?

    – Cụ Cố làm việc ở nhà tôi, lại là người anh em thân thiết với tôi.

    Lát sau hòa thượng bưng trà lên, Chu Tiến nói:

    – Quyển thi của ngài tôi đã đọc. Hai vế cuối cùng thật là tuyệt.

    – Hai vế ấy không phải là của tôi.

    – Ngài quá nhún mình, không ngài thì còn ai viết vào đấy nữa!

    – Tuy không phải là của tôi, nhưng cũng không phải của người làm ra. Hôm thi đầu tiên là ngày mồng chín. Trời sắp tối tôi vẫn chưa làm xong bài văn thứ nhất. Trong lòng đang phân vân, nghĩ mình ngày thường đặt bút là viết được, tại sao hôm nay lại như thế này? Chính trong lúc suy nghĩ như vậy, không ngờ buồn ngủ, tôi nằm gục trên án viết mà ngủ. Tôi thấy năm người má xanh nhảy vào lều, trong đó có một người tay cầm một cái bút lớn, chấm một chấm trên đầu tôi rồi bỏ đi. Sau đó một người mang mũ sa, áo đỏ, thắt một cái đai vàng và nắm lấy tôi lay và nói: “Ông Vương tỉnh dậy”. Tôi giật mình tỉnh dậy, cả người toát mồ hôi. Lúc tỉnh, tay cầm bút viết mà không biết viết gì. Cho hay người ta nói có ma quỷ ở trường thi, là có sự thực. Tôi đã đem việc này thưa với quan chánh phủ chủ khảo. Ngài nói tôi có số đỗ đầu khi thi điện thí.

    Hai người đang nói chuyện, thì một học sinh đem vở viết tập vào để chấm. Chu Tiến bảo y để vở đấy. Cử Vương nói:

    – Không can gì? Ông cứ chấm đi, tôi còn có việc khác.

    Chu Tiến đến bàn chấm, cử Vương gọi người nhà bảo:

    – Trời đã tối rồi, mưa mãi không dứt, các anh lấy quả đồ ăn ở dưới thuyền lên, rồi bảo hòa thượng nấu cơm giúp. Bảo ông lái hãy đợi đấy, ngày mai ta đi sớm.

    Và quay về phía Chu Tiến, y nói:

    – Tôi đi thăm mộ về, không ngờ gặp mưa, nên ngủ lại đây một đêm.

    Vương đang nói bỗng quay mặt lại. Thấy một quyển vở tập có viết tên “Tuân Mai”. Vương giật mình, mím môi, vẻ mặt suy nghĩ, như có điều gì lạ lùng. Thấy vậy, Chu Tiến không hỏi, cứ cúi xuống chấm bài xong rồi quay lại tiếp khách. Vương hỏi:

    – Đứa học sinh vừa rồi mấy tuổi?

    – Nó mới bảy tuổi.

    – Năm nay nó mới vào học sao? Có phải ông đặt cho nó cái tên ấy không?

    – Tên ấy không phải do tôi đặt ra. Lúc mới vào học, ông cụ của nó nhờ ông bạn Mai Cửu tú tài trong làng đặt tên cho. Ông Mai nói: “tên tôi là ”Cửu”, thôi cho chữ vương đứng bên cạnh tên để lấy điềm tốt, mong sau này nó cũng thành đạt như tôi”[15].

    Cử Vương cười và nói:

    – Chuyện này thực là buồn cười. Mồng một năm nay, tôi mộng thấy bảng thi hội. Tôi thi đỗ, cái đó không bàn nữa. Nhưng cái tên thứ ba lại là Tuân Mai ở huyện Vấn Thượng. Tôi nghi ngờ không biết ở huyện ta có ai họ Tuân mà thi đỗ cử nhân không. Không ngờ Tuân Mai lại là tên của đứa học sinh nhỏ này. Thế nào! Nó sẽ ở cùng bảng với tôi sao!

    Vương nói xong, cười khanh khách mà rằng:

    – Cho hay mộng cũng không đúng! Vả chăng cái việc công danh là cốt ăn nhờ vào văn chương chứ nào có ma quỷ gì ở đấy đâu?

    – Mộng cũng có cái đúng chứ! Hôm mới đến đây tôi gặp ông bạn họ Mai ở trong làng. Ông nói hôm mồng một tháng giêng ông nằm mơ thấy mặt trời rơi đúng trên đầu. Quả nhiên năm ấy ông thi đỗ.

    Cử Vương nói:

    – Nói như thế càng không được. Chẳng hạn ông ta đỗ tú tài thì có mặt trời rơi trên đầu, như tôi thi đã đỗ cử nhân, không có lẽ đến cả trời cũng rơi trên đầu tôi ư?

    Hai người đang nói chuyện suông, thì có người mang lên cơm rượu, gà, cá, thịt lợn, thịt vịt đầy bàn. Cử Vương cũng không mời Chu Tiến, cứ ngồi ăn. Ăn xong, hòa thượng bưng cơm lên cho Chu Tiến ăn, chỉ có một đĩa rau và một bát nước nóng. Chu Tiến ăn cơm xong, cả hai người đi nghỉ.

    Hôm sau, trời mới sáng, cử Vương dậy rửa mặt xong, mặc áo quần, chào rồi xuống thuyền, để lại phòng học đầy cả xương đầu gà, đầu cánh vịt, xương cá, vỏ hạt dưa. Chu Tiến quét suốt một buổi, đầu quáng mắt hoa[16].

    *

    * *

    Sau hôm ấy người làng Tiết nghe nói con trai cụ Tuân sẽ đỗ tiến sĩ đồng khoa với Vương cử nhân, đều cho là chuyện bông đùa. Có những đứa bạn học không gọi tên Tuân Mai nữa mà gọi là “Tiến sĩ Tuân”. Phụ huynh các nhà nghe thế đều không bằng lòng. Họ đến mừng cụ Tuân là “cụ phong”[17], làm cho ông ta không biết nói gì và bực mình.

    Thân Tường Phủ nói riêng với dân làng:

    – Chắc gì ông cử Vương đã nói thế. Ông Chu thấy trong làng ta chỉ có cụ Tuân là có tiền, nên bịa ra việc đó nịnh nọt để khi nào có lễ tết thì cụ ta cho thêm. Hôm trước tôi nghe nói nhà cụ Tuân đem miến khô, đậu phụ đến chùa, lại còn đưa bánh bao, bánh nướng, chính là vì thế.

    Mọi người đều không bằng lòng. Từ đó Chu Tiến sống không yên. Nhưng vì nể mặt thôn trưởng mời đến, nên họ không nỡ đuổi đi. Y nương náu qua một năm. Sau đó thôn trưởng Hạ cho y là người ngốc không biết đến nhà thôn trưởng mà cảm ơn. Vì vậy người ta không nuôi Chu Tiến nữa.

    Mất chỗ dạy học, Chu Tiến trở về nhà. Ở nhà đời sống thực là chật vật. Một hôm người anh rể là Kim Hữu Dư đến khuyên:

    – Này, cậu, tôi nói cậu chớ giận. Việc đọc sách để tìm công danh xem ra rất khó. Người ta sinh ra ở đời, khó lòng mà kiếm đủ cơm ăn. Nay tôi và mấy người bạn có lắm tiền sắp lên tỉnh mua hàng thiếu một người giữ sổ sách. Chi bằng cậu cứ đi với chúng tôi. Cậu có một thân một mình, chẳng lo gì thiếu ăn thiếu mặc.

    Chu Tiến nghe vậy, tự nghĩ: “Thằng què rơi xuống giếng, có kéo lên thì cũng chỉ què là cùng, ta đi cũng chẳng thiệt thòi gì”. Bèn bằng lòng.

    Kim Hữu Dư chọn ngày lành tháng tốt cùng một bọn buôn lên tỉnh thành để mua hàng. Chu Tiến rảnh rang không có việc gì làm, đi chơi ngoài phố. Thấy một nhóm thợ kéo nhau đi qua, họ nói họ đi chữa cửa trường thi. Chu Tiến đến cửa trường thi xem, không được vào vì có người coi cửa cầm cái roi to tướng đập đuổi ra. Buổi chiều y nói với anh rể muốn vào xem, Kim Hữu Dư cho mấy đồng tiền, cả bọn con buôn cùng vào. Họ nhờ người chủ ngôi hàng dẫn đầu. Ông này chỉ việc cho anh coi cổng ít tiền l xong cả. Đi đến cửa Long Môn, người chủ ngôi hàng chỉ cái cửa và nói:

    – Ông Chu! Đây là cái cửa những ông tiến sĩ đi vào! Bọn họ đi vào con đường hai bên là phòng thi, người chủ ngôi hàng nói:

    – Đây là bàn đầu đây, ông vào mà xem.

    Chu Tiến bước vào, nhìn thấy bàn đặt chỉnh tề. Nước mắt bỗng nhiên chảy giàn giụa. Y thở dài một cái, đầu đập vào bàn, nằm duỗi thẳng cẳng, bất tỉnh nhân sự. Chỉ nhân cái chết ấy, khéo hay cho: mấy năm lận đận, bỗng dưng thẳng bước công danh; nhiều lúc hẩm hiu, lại được treo cao phẩm giá.

    Muốn biết Chu Tiến tính mạng thế nào, hãy xem hồi sau phân giải.
     
  4. Riochan

    Riochan Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    20/12/14
    Bài viết:
    60
    Được thích:
    0
    Hồi 3​


    Cụ học đạo cầm cân thi cử, lựa kẻ nhân tài

    Lão bán thịt giở ngón hung hăng, ổn khi báo tiệp

    Nói về Chu Tiến ở tỉnh muốn đi xem trường thi, Kim Hữu Dư thấy Chu háo hức, nên bỏ ra ít tiền để cùng Chu đi xem. Không ngờ mở cửa nhìn thấy bàn số một, Chu đã ngã lăn ra chết ngất, mọi người hoảng hốt, cho là Chu mắc bệnh gì. Người chủ ngôi hàng nói:

    – Chắc nơi này đã lâu không có ai đến, âm khí nặng nề, cho nên ông Chu ngộ cảm.

    Kim Hữu Dư nói:

    – Tôi dựng ông ta dậy, còn ông thì lại nói với mấy người thợ xin ít nước nóng mà đổ cho ông ta.

    Người này đi lấy nước lại. Ba bốn người cùng dựng Chu dậy, đổ nước vào miệng, nước chảy vào cổ ồng ộc. Chu oẹ ra nước miếng. Mọi người nói:

    – Tốt lắm!

    Nhưng khi dựng Chu dậy, Chu Tiến thấy cái bàn thì lại đập đầu vào bàn. Lần này thì không chết, chỉ khóc rống lên thôi. Không ai khuyên giải được.

    Kim Hữu Dư nói:

    – Cậu điên sao? Chúng ta đi đến đây mà xem cho tiêu khiển, ở nhà cậu không ai chết cả, làm gì mà khóc lóc thảm thiết thế?

    Chu Tiến vẫn không chịu nghe, cứ đập đầu vào bàn mà khóc mãi. Hết khóc ở phòng thứ nhất, lại khóc ở phòng thứ hai, thứ ba, nằm lăn ra đất, khóc lăn khóc lóc, làm cho tất cả mọi người cũng phải ngậm ngùi.

    Kim Hữu Dư thấy sự việc không hay, cùng người chủ ngôi hàng, mỗi người mỗi bên, kéo Chu dậy. Nhưng Chu không chịu dậy, cứ khóc đày khóc đọa, lần này lượt khác, đến nỗi khạc ra máu. Mọi người vội vàng mang Chu ra một tiệm trà ở trước trường thi và rót trà cho Chu uống. Chu vẫn còn đầy nước mắt, nước mũi, xem rất thương tâm.

    Trong bọn có một người hỏi:

    – Không hiểu ông Chu trong làng uất ức việc gì mà đến nỗi khóc lóc thảm thương như vậy?

    Kim Hữu Dư nói:

    – Các vị không biết, cậu tôi đây vốn không phải là dân buôn, ông ta học hành khó nhọc mấy mươi năm nay, mà tú tài cũng không đỗ. Hôm nay nhìn cảnh trường thi, mới đâm ra thương cảm như thế.

    Nghe lời nói đúng nỗi lòng mình, Chu Tiến khóc oà. Một người khách nói:

    – Xét ra lỗi ở ông Kim cả! Ông chu đã là văn nhân, thì đưa ông ta vào đây làm gì, để đến nông nỗi này.

    Kim Hữu Dư nói:

    – Chỉ vì ông ta nghèo xác nghèo xơ, không nơi dạy học. Thật không còn cách gì sống nữa.

    Một người khách khác nói:

    – Xem vậy thì ông Chu là người học rộng tài cao. Chỉ vì không có ai biết đến, cho nên mới đến nông nỗi này.

    Kim Hữu Dư nói:

    – Ông ta có tài nhưng ông ta không gặp vận.

    Người khách kia nói:

    – Hễ là sinh viên quốc tử giám, thì có thể vào trường. Ông Chu đã là người tài như thế, tại sao không mua cho ông chức sinh viên quốc tử giám? Nếu thi đỗ thì thật là thỏa mãn cái tâm sự hôm nay.

    Kim Hữu Dư nói:

    – Tôi cũng nghĩ thế, nhưng tiền đào đâu ra?

    Bây giờ Chu Tiến thôi khóc. Người khách kia nói:

    – Khó gì việc đó! Bây giờ chúng mình mỗi người cứ bỏ ra vài chục lạng giúp ông Chu nộp tiền vào trường. Nếu ông ta thi đỗ làm quan thì mấy lạng bạc của chúng mình có nghĩa lí gì. Còn nếu ông Chu không trả được thì bọn mình cũng xem như là món tiền tiêu hoang chứ gì? Hơn nữa, đây lại là việc tốt. Không biết các ông nghĩ thế nào?

    Mọi người đều nói:

    – “Quân tử thành nhân chi mỹ” thấy nghĩa mà không làm là không có gan. Chúng ta có ngại gì! Chỉ sợ ông Chu không chịu nhận thôi.

    Chu Tiến nói:

    – Nếu quả thật vậy thì thật là ơn trùng sinh như cha mẹ, Chu Tiến này xin đền ơn trâu ngựa.

    Nói rồi quỳ xuống, cúi gục đầu lạy. Mọi người đáp lễ. Kim Hữu Dư cũng cảm ơn mọi người, uống xong mấy chén trà, Chu Tiến bây giờ không khóc nữa. Mọi người vừa nói vừa cười cùng nhau trở về.

    Hôm sau quả nhiên bốn người khách mang đến hai trăm lạng bạc giao cho Kim Hữu Dư. Còn tiền phí tổn ngoài thì do Kim Hữu Dư lo liệu tất cả. Chu Tiến cảm tạ mọi người và Kim Hữu Dư. Người chủ ngôi hàng thay mặt Chu Tiến dọn một bữa rượu, mời mọi người. Kim Hữu Dư đem tiền đến nộp kho ở tỉnh. May mắn thay lại là lúc thi bổ sung ở tỉnh. Chu Tiến thi, và quyển của Chu đứng đầu. Ngày mồng tám tháng tám, Chu lên trường thi thấy đúng nơi mình khóc trước đây, trong người vui sướng vô cùng.

    Người xưa có câu: “Gặp việc vui thì trong lòng đâm sáng suốt”. Chu viết cả bảy bài như hoa như gấm. Ra khỏi trường, Chu lại thăm các bạn hàng. Kim Hữu Dư và mấy người khác còn mua bán chưa xong. Khi treo bảng, Chu đỗ cao. Mọi người đều vui mừng cùng nhau đến huyện Vấn Thương vái chào quan huyện và quan huấn. Các nha lại đều cầm tờ thiếp đến mừng. Người huyện Vấn Thương dù không bà con gì cũng đến nhận là bà con, không quen biết cũng nhận là quen biết, bận rộn hết một tháng. Thân Tường Phủ nghe tin ấy cùng người làng Tiết mua bốn con gà, năm mươi quả trứng gà và ít gạo bánh tự mình đem lên huyện để mừng. Chu Tiến giữ lại ăn cơm uống rượu. Cố nhiên, cụ Tuân cũng đến mừng. Còn việc thi hội, tiền đi đường, tiền ăn mặc, tất cả đều có Kim Hữu Dư lo liệu. Lên kinh thi hội, lại đỗ tiến sĩ, đệ tam giáp làm thuộc quan ở bộ. Được ba năm thì thăng lên chức Ngự sử, và khâm mạng ra làm học đạo ở tỉnh Quảng Đông.

    Chu ra làm học đạo, mặc dầu cũng có mời những người chấm bài hộ, Chu vẫn nghĩ bụng: “Ta đã khổ cực nhiều về cái việc này rồi. Nay ta có quyền, ta phải xem các quyển thi thật kĩ để không cho bọn nó bỏ mất những chân tài”. Đã có chú ý như vậy, y đến Quảng Châu nhậm chức. Hôm sau, thi hai trường. Trường đệ tam là để cho học sinh Nam Hải, Phiên Ngung. Chu học đạo ngồi trên công đường nhìn thí sinh tấp nập đi vào. Có người nhỏ, có người già, có người bộ dạng đoan chính, có người xấu xí, có người áo mũ đẹp, có người rách rưới. Người đi sau cùng, mặt vàng, mình võ, râu lốm đốm bạc, đầu đội một cái mũ lông chiên đã rách. Tuy Quảng Đông là nơi khí trời ấm áp, nhưng bấy giờ là thượng tuần tháng chạp mà người thí sinh này còn mang áo vải to, cho nên rét run cầm cập. Sau khi nhận quyển thi, y trở về lều.

    Chu học đạo ghi nhớ việc đó, rồi niêm phong cửa các phòng thi lại. Khi thí sinh ra nộp bài, Chu thấy người thí sinh mặc áo gai kia đến nộp quyển, vì áo quần cũ quá, nên thấy áo rách mấy chỗ. Chu nhìn lại thấy mình áo gấm đai vàng thật là rực rỡ. Chu bèn lật sổ danh sách hỏi thí sinh:

    – Anh là Phạm Tiến phải không?

    – Thưa đúng con ạ.

    – Năm nay anh bao nhiêu tuổi?

    – Tuổi trong sổ thi ba mươi, nhưng thực thì năm mươi tư tuổi.

    – Anh thi mấy lần?

    – Con thi từ năm hai mươi, đến nay là hai mươi lần.

    – Tại sao mãi không đỗ?

    – Vì con văn chương kém cỏi, cho nên không vị giám khảo nào để ý.

    – Cái đó chưa chắc! Ta sẽ xem kĩ quyển anh.

    Phạm Tiến cúi đầu đi ra.

    Lúc bấy giờ còn sớm, chưa có thí sinh nào nộp quyển. Chu học đạo để ý xem quyển của Phạm Tiến một lượt. Lòng không vui, nói:

    – Văn chương thế này thảo nào thi không đỗ!

    Rồi để ra một bên không xem nữa. Lại ngồi một lúc không có ai đến nộp quyển. Trong lòng lại nghĩ: “Tại sao ta không xem lại quyển của Phạm Tiến xem sao? Nếu có cái gì khá thì ta cũng cho đỗ để thưởng cái chí của anh ta”. Lại xem một lượt nữa từ đầu chí cuối. Lần này thấy có vài ý hay. Toan xem lại thì có một thí sinh đến nộp quyển.

    Thí sinh này quỳ mà nói:

    – Xin cụ cho con thi khẩu vấn.

    Chu học đạo nói:

    – Văn chương của anh đây cả rồi, thi khẩu vấn làm gì?

    – Con thi, từ, ca, phủ đều biết, xin cụ ra đề thi.

    Chu học đạo biến sắc mặt nói:

    – Ngày nay thiên tử trọng văn chương, người học Hán, Đường làm gì? Là thí sinh như anh chỉ nên ra sức học văn chương. Còn các việc nhảm thì học làm gì! Ta đến đây để chấm văn, không để nói chuyện “tạp học” với các anh. Xem anh chỉ hám danh mà không vụ thực, như thế thì việc chính của anh nhất định bỏ. Bài anh toàn là nói nhảm không thể xem được. Tả hữu đâu? Đưa anh ta ra!

    Y vừa nạt xong, hai bên hai người thầy tớ chạy ra như lang như sói nắm lấy thí sinh kia lôi thẳng ra ngoài cổng trường.

    Tuy đã đuổi y ra rồi, Chu Tiến cũng xem qua quyển thi thì thấy y tên là Ngụy Hiếu Cổ, văn chương cũng thông thông. Chu nghĩ: “Cho nó đỗ thấp nhất cũng được đây”. Bèn cầm bút chấm một cái ở quyển thi để nhớ. Lại cầm quyển của Phạm Tiến ra xem, xem xong ngậm ngùi mà rằng:

    – Văn chương này xem một lần thì không hiểu nổi, xem đến hai ba lần thì mới hiểu. Quả thật là văn chương đại tài trong thiên hạ. Quả là mỗi chữ là một hòn ngọc! Mới hay các quan chấm thi hồ đồ đã bỏ mất nhiều bậc anh tài!

    Bèn cầm lấy bút khuyên lấy khuyên để, ở đầu quyển lại khuyên thêm ba khuyên nữa và cho đỗ đầu. Rồi cầm quyển của Ngụy Hiếu Cổ ra cho đứng thứ hai mươi. Xong đó xếp các quyển lại để mang đi. Đến khi treo bảng, Phạm Tiến đỗ đầu. Phạm yết kiến quan giám khảo, lại được tán dương một trận. Gọi đến tên thứ hai mươi thì Ngụy Hiếu Cổ vào. Chu lại khuyến khích mấy câu: “Đã để tâm vào cử nghiệp thì phải thôi không đọc sách nhảm”.

    Hôm sau Chu Tiến lên kinh, Phạm Tiến một mình đi tiễn hơn ba mươi dặm. Chu học đạo gọi đến mà nói:

    – Đầu bảng rồng sẽ về tay người lão thành. Ta xem văn chương anh vững vàng, nhất định là đỗ khoa này, khi phục mệnh xong ta đợi anh ở kinh.

    Phạm Tiến lại cúi đầu bái tạ. Lúc đứng dậy thì thấy kiệu của Chu học đạo đã đi rồi. Phạm Tiến nhìn cho đến khi cờ xí đi qua núi khuất mắt không trông thấy nữa, mới trở về tính toán với chủ trọ. Nhà Phạm cách đây bốn mươi lăm dặm. Ngay đêm ấy Phạm trở về vái chào mẹ. Nhà Phạm là một cái nhà tranh có cái dại chống lên, ngoài cửa là một cái lều. Mẹ Phạm ở nhà giữa, vợ con ở ngoài mái hiên. Vợ Phạm là con gái ông lão hàng thịt họ Hồ ở trong làng.

    Phạm Tiến thi đỗ về nhà, mẹ và vợ đều mừng rỡ. Đang nấu cơm thì ông già họ Hồ hàng thịt đến, tay cầm một mớ lòng và một bình rượu.

    Phạm Tiến vái chào. Ngồi xong, lão hàng thịt nói:

    – Ta không may gả con gái của ta cho cái thứ đói rạc như anh mấy năm nay không biết tốn bao nhiêu tiền bạc của ta. Lần này nhờ phúc đức ta anh mới thi đỗ. Vì thế ta mang rượu đến mừng đây.

    Phạm Tiến vâng vâng, dạ dạ, gọi vợ đem lòng đi luộc và hâm rượu. Hai người ngồi trong lều cỏ. Bà mẹ và con dâu xuống bếp làm cơm. Lão hàng thịt lại dặn rể:

    – Nay anh thi đỗ rồi, việc gì cũng phải cho ra thể ra thống đấy! Gặp người như hạng ta là hạng danh giá lại là bực cha chú, thì không làm bộ với ta làm gì. Chứ gặp cái thứ cày ruộng gánh phân, cái thứ bách tính ngu dốt kia mà anh cứ khúm khúm núm núm như thế, cứ xem bằng vai bằng vế với mình thì hỏng mất hết cả quy củ nhà trường, làm cho ta cũng mất luôn thể diện. Tính anh dễ dãi, thế nào cũng xong, nên ta phải dặn dò anh để người ta khỏi chê cười:

    – Thầy nói thế là phải lắm.

    Lão hàng thịt lại nói:

    – Để bà cụ cùng ăn choui. Tội nghiệp! Bà cụ ngày nào cũng ăn có độc rau, kể cũng đáng buồn. Để con gái ta cùng ăn nữa! Từ khi nó về nhà anh, mười mấy năm nay, không biết nó đã được ăn mỡ lợn vài ba lần chưa? Thật tội nghiệp! Thật tội nghiệp!

    Nói xong hai mẹ con đều lên ngồi ăn. Ăn đến khi trời xế bóng, lão hàng thịt ta ngà ngà say. Bây giờ hai mẹ con cảm tạ rối rít. Lão hàng thịt phủi áo, bê cái bụng phệ đi ra.

    Hôm sau, Phạm Tiến thăm bà con. Ngụy Hiếu Cổ lại hẹn với các bạn cùng đi lại thăm lẫn nhau. Năm ấy lại là năm thi ở tỉnh nên có nhiều hội bình văn. Chẳng bao lâu tháng Sáu đã hết, các bạn đồng khoa rủ Phạm Tiến cùng đi thi hương. Phạm Tiến không có tiền đi đường chạy đến bàn với ông gia. Lão hàng thịt nhổ vào mặt Phạm, mắng cho một trận:

    – Thôi! Không nên mất thì giờ nữa. Vừa mới thi đỗ tú tài anh đã như “con cóc muốn ăn thịt ngỗng trời”. Tôi nghe người ta nói anh đỗ không phải nhờ văn hay. Ông giám khảo thấy anh già thương tình cho anh đỗ thôi. Thế mà anh còn muốn thi đỗ cử nhân nữa kia! Anh có biết những người đỗ cử nhân đều là “Sao văn khúc” trên trời cả không? Không thấy gia đình họ Trương trên tỉnh sao? Họ đều nhà giàu ức vạn, mặt vuông tai lớn. Chứ cái thứ môi trề và cằm khỉ như anh sao không đái vào bùn mà soi thử xem sao? Như thế mà lại còn đòi “ăn cứt ngỗng trời” à? Thôi đi! Sang năm tôi tìm cho anh một chỗ dạy trẻ, mỗi năm vài lạng bạc đủ nuôi mụ vợ với bà mẹ đang chết dở là được rồi! Anh còn muốn tiền tôi à! Tôi mỗi ngày giết một con lợn chẳng được mấy đồng tiền, bây giờ vứt tiền cho anh ném xuống nước thì cả nhà tôi trẻ già lấy gì mà sống!

    Y cứ chửi luôn miệng, làm Phạm Tiến hoảng sợ. Phạm Tiến ra về nghĩ bụng:

    – Thầy ta nói văn chương đã chín. Xưa nay có ai không thi lại đỗ bao giờ. Ta không thi thì chịu sao được!

    Phạm bàn bạc với mấy người bạn nhờ giúp mình tiền và đi thẳng lên tỉnh thi, không cho ông gia biết. Thi xong, Phạm trở về thì cả nhà hai ba ngày đói lăn đói lóc. Lão hàng thịt lại mắng cho một trận.

    Ngày treo bảng, trong nhà không có gạo bữa sáng. Bà mẹ nói với Phạm Tiến:

    – Còn có một con gà mái mẹ đấy! Mày ra chợ bán đi mua ít gạo nấu cháo mà ăn. Tao đói mờ mắt rồi.

    Phạm Tiến vội ôm gà ra cổng. Vừa mới đi được vài giờ đã nghe thanh la vang rầm, ba con ngựa chạy đến, ba người nhảy xuống ngựa, buộc ngựa ở cái lều cỏ, kêu to lên:

    – Mời ông Phạm ra, ông đỗ cao, chúng tôi đến mừng đây.

    Bà mẹ không biết chuyện gì, nép mình trong nhà. Khi nghe rõ rằng con mình đã đỗ rồi, mới thò đầu ra nói:

    – Mời các vị ngồi, con tôi vừa mới đi ra ngoài vắng.

    Mấy người báo tin nói:

    – À thế ra bà cụ cố.

    Mọi người chạy đến xin tiền mừng. Vừa lúc đang nói chuyện ồn ào, lại thấy mấy con ngựa nữa đến. Người báo tin lần thứ hai, lần thứ ba đến, cùng nhau vào nhà. Trong nhà đầy cả người. Xóm giềng đến chen nhau xem. Bà mẹ không biết làm sao liền nhờ một người chạy đi tìm con.

    Người hàng xóm kia chạy như bay ra chợ nhưng không thấy Phạm đâu cả. Chạy thẳng đến phía đông chợ, thấy Phạm Tiến đang ôm gà, nhìn ngang nhìn ngửa xem có ai mua không:

    – Ông Phạm! Về ngay đi! May quá ông đỗ cử nhân rồi! Người báo hỉ đến đầy cả nhà rồi!

    Phạm Tiến nghe gọi đến mình cho là đùa, giả vờ không biết, cúi đầu đi thẳng. Người hàng xóm thấy y không để ý gì, chạy lại toan giật con gà ở trong tay.

    Phạm Tiến nói:

    – Ông không mua lại giật gà tôi làm gì?

    Người hàng xóm nói:

    – Ông đỗ rồi. Tôi gọi ông về nhà để tiếp người báo hỉ.

    Phạm Tiến nói:

    – Ông ơi, ông biết cho rằng hôm nay tôi không có gạo, bây giờ phải bán con gà này để mà sống! Ông đừng quấy rầy nữa! Tôi không đùa với ông đâu! Ông về thôi! Đừng làm tôi không bán được gà!

    Người hàng xóm thấy y không tin bèn giành lấy gà ném xuống đất, lôi y về nhà.

    Người báo tin thấy Phạm Tiến bèn nói:

    – May quá! Ông tân khoa đây rồi.

    Họ chen đến báo với Phạm. Phạm đi thẳng vào nhà, thấy tờ báo thiếp đã treo lên trên viết: “Mừng ông Phạm huý là Tiến đã thi đỗ thứ bảy trường thi tỉnh Quảng Đông. Chúc ông lên kinh thi đỗ hoàng giáp”.

    Phạm Tiến không thấy thì thôi, chứ đã nhìn thì đọc đi đọc lại rồi vỗ tay reo:

    – Hay, hay quá! Ta đỗ rồi.

    Nói xong y ngã lăn ra đằng sau bất tỉnh, hai răng nghiến chặt. Bà cụ hoảng hốt vội đem nước đến đổ. Y bò dậy vỗ tay reo:

    – Hay! Hay thật! Ta đỗ rồi!

    Rồi chạy ra ngoài làm cho mọi người đến báo hỉ hoảng hồn. Y chạy ra khỏi nhà một quãng thì trượt chân, lăn tòm xuống một cái ao. Y lại bò lên đầu tóc rối bù, hai tay bùn be bét, cả mình ướt át. Không ai giữ y được nữa, y vừa vỗ tay vừa cười, chạy thẳng ra đầu xóm. Mọi người nhìn ngơ ngác đều nói:

    – Ông tân khoa mừng quá hóa điên!

    Bà cụ nói:

    – Làm sao lại ra thế này, hỡi trời! Đỗ được cử nhân lại mắc phải bệnh điên thế này, thì bao giờ mới khỏi!

    Vợ là Hồ thị nói:

    – Sáng vừa mới đi, sao giờ lại mắc bệnh như thế này! Mọi người khuyên giải:

    – Bà cụ không nên hoảng sợ, nay chúng tôi sẽ cho hai người đi theo ông Phạm. Còn gà, trứng, rượu, gạo, người ta mang đến đây, thì đem ra đãi những người báo tin đi, rồi ta bàn tính sau.

    Lúc bấy giờ, hàng xóm người đem trứng gà, người đem rượu, người thì mang vài đấu gạo đến. Có người mang hai con gà.

    Vợ Phạm Tiến vừa khóc vừa than, đem tất cả vào bếp.

    Láng giềng kéo bàn ghế đến, mời những người báo tin uống rượu. Họ bàn bạc:

    – Ông ta điên rồi! Bây giờ làm thế nào?

    Một người nói;

    – Tôi có cách này không biết có làm được không? Mọi người hỏi:

    – Cách gì?

    Người báo tin nói:

    – Phải có một người mà ông Phạm thường sợ nhất mới làm được. Chỉ vì ông ta vui mừng quá, đờm nó rước lên, làm cho ngất đi. Cần có người mà ông ta sợ đến tát một cái mà nói với ông ta: “Lời báo tin ấy là lừa mày đó, mày không đỗ đâu”. Ông ta nghe thế thì sợ hãi, sẽ nôn oẹ đờm ra, và như thế là sẽ tỉnh.

    Mọi người đều vỗ tay nói:

    – Cách đó hay! Rất hay! Người ông Phạm sợ nhất thì không ai bằng ông Hồ hàng thịt. Tốt lắm! Gọi ngay ông ta! Có lẽ ông ta chưa biết đâu, vì đang bận bán thịt ở chợ.

    Lại có người nói:

    – Nếu ông ta bán thịt ngoài chợ thì ông ta đã biết rồi. Từ canh năm ông ta đi xóm đông mua lợn, đến giờ chưa về. Mau mau chạy đi tìm.

    Một người chạy biến đi tìm. Chạy được nửa đường thì lão hàng thịt về. Đằng sau có một người giúp việc mang bảy tám cân thịt, bốn năm ngàn đồng đến mừng. Đến cửa gặp bà cụ. Bà cụ vừa khóc vừa kể lại câu chuyện. Lão hàng thịt nói:

    – Không có lẽ vô phúc thế.

    Bên ngoài có người mời y ra. Y giao tiền và thịt cho con gái và chạy ra. Mọi người đem việc ấy ra bàn. Y cho là khó và nói:

    – Mặc dầu ông ta là rể của tôi. Nhưng giờ ông ta đỗ cử nhân, thì đã là “sao trên trời” rồi. Tát ngôi “sao trên trời” làm sao được? Tôi nghe nói tát ngôi sao trên trời thì bị Diêm Vương đánh một trăm gậy sắt rồi giam ở dưới địa ngục tầng thứ mười tám, không bao giờ được hóa kiếp thành người nữa. Tôi không dám làm việc ấy đâu!

    Một người hàng xóm mỉa mai nói khoé:

    – Thôi đi ông! Ngày nào ông cũng vác dao giết lợn. Dao đâm vào thì trắng, rút ra thì đỏ. Diêm Vương đã bảo phán quan ghi không biết mấy nghìn gậy sắt rồi. Bây giờ có thêm một trăm gậy nữa cũng chẳng vào đâu? Chỉ sợ đánh gẫy hết gậy của Diêm Vương cũng chưa hết tội. Nhưng bây giờ ông cứu được ông rể quý thì có lẽ Diêm Vương sẽ tính công cho ông và kéo lên địa ngục tầng thứ mười bảy cũng chưa biết chừng?

    Những người báo hỉ nói:

    – Thôi đừng đùa dai nữa. Này ông! Việc phải làm như vậy đấy! Gặp lúc biến thì phải tòng quyền chứ!

    Bị mọi người thúc quá lão hàng thịt đành phải nghe.

    Y uống liền hai chén tống rượu để cho có gan. Bao nhiêu lo lắng mất hết, cái bộ mặt hung ác hàng ngày lộ ra, y xắn ống tay áo đầy cả mỡ và chạy ra đầu xóm. Năm sáu người chạy theo. Bà cụ chạy ra cửa nói:

    – Ông ơi! Dọa thôi nhé! Chớ đánh nó đau đấy.

    Hàng xóm nói:

    – Đã đánh! Dặn làm quái gì!

    Nói xong cũng chạy theo.

    Lão hàng thịt ta ra đầu xóm thấy Phạm Tiến đang ngồi trước cửa miếu, đầu bù tóc rối, mặt be bét những bùn, giày mất đâu một chiếc, đang vỗ tay reo:

    – Đỗ rồi! Đỗ rồi!

    Lão hàng thịt ta chạy xổ đến như vị hung thần nói:

    – Thằng súc sinh này! Mày đỗ cái gì?

    Và tát vào mặt một cái. Hàng xóm nhìn nhịn cười không được.

    Không ngờ lão hàng thịt tuy làm liều tát một cái nhưng đã đâm sợ rồi, bàn tay run lật bật, không dám tát cái nữa. Phạm Tiến thì bị một cái tát hết hồn, ngất đi, lăn quay ra đất. Hàng xóm chạy đến xoa lưng, bóp bụng hồi lâu mới thở và tỉnh lại. Mắt y dần dần sáng ra và y không điên nữa. Mọi người vực dậy, mượn cái ghế của ông thầy thuốc “gù lưng” làm thuốc ngoại khoa cho y ngồi. Lão hàng thịt ngồi một bên. Không ngờ bàn tay đau nhức không sao nắm lại được. Y sợ hãi nghĩ thầm: “Quả không thể tát sao ”văn khúc” trên trời thực. Nay đức phật trị mình đây.”

    Nghĩ thế lại càng đau thêm, bèn chạy vào nhà thầy lang lấy cao để dán.

    Phạm Tiến thấy mọi người, hỏi:

    – Tại sao tôi lại ở đây? Suốt nửa ngày nay tôi mê mê mẩn mẩn như người trong mộng.

    Hàng xóm nói:

    – Ông nghe tin đỗ cao, mừng quá, đờm nó mới bốc lên. Hồi nãy vừa oẹ đờm ra mới khỏi đấy. Thôi mời ông về nhà để cho những ngườbáo hỉ họ đi.

    Phạm Tiến nói:

    – Phải. Tôi cũng nhớ rằng tôi đỗ thứ bảy.

    Phạm Tiến một mặt vấn lại tóc, một mặt mượn ông lang một thau nước để rửa mặt. Một người hàng xóm đã tìm ra chiếc giày và xỏ vào chân y. Phạm Tiến thấy ông gia đến, sợ lại đến để mắng mình. Nhưng lão hàng thịt nói:

    – Hiền tế ơi, không phải tôi cả gan làm thế đâu. Đó là bà cụ bảo tôi làm để giúp đấy thôi.

    Một người hàng xóm nói:

    – Ông ta mới “tát yêu” một cái thôi. Chốc nữa ông Phạm rửa mặt chắc phải rửa ra đến nửa chậu mỡ đấy!

    Một người nói:

    – Này ông! Cái tay kia thì mai không giết lợn được nữa đâu!

    – Tao còn giết lợn làm quái gì nữa. Rể tao không nuôi được nửa đời tao sướng sao? Tao thường nói, ông rể của tao tài cao học rộng, lại đẹp trai hơn cả ông Trương, ông Chu. Trên thị trấn chẳng có anh nào mặt mày sánh kịp! Các anh không biết đấy, nói vô phép với các anh, chứ ta có cặp mắt tinh đời, biết người hay kẻ dở. Nhớ năm trước đây, con gái ta đã hơn ba mươi tuổi, có nhiều người nhà giàu muốn kết bạn. Nhưng ta thấy con gái ta mặt mày có phúc khí, thế nào cũng làm bà quan, hôm nay hóa ra đúng!

    Nói xong cười khanh khách. Mọi người cũng cười theo. Phạm Tiến rửa mặt xong, ông lang lại bưng trà ra uống, rồi mọi người về nhà. Phạm Tiến đi trước, lão hàng thịt và hàng xóm đi sau. Ông ta thấy áo quần rể đằng sau lấm be bét, nhăn nhúm, bèn cúi xuống vuốt đi vuốt lại cho rể hàng mấy chục lượt.

    Về đến nhà, lão hàng thịt nói to:

    – Quan đã về rồi!

    Bà cụ chạy ra đón, thấy con không điên nữa, vui mừng vô cùng. Hỏi đến mấy người báo hỉ thì bà cụ nói bà đã biếu họ mấy ngàn đồng tiền của lão hàng thịt đem đến và họ đã đi rồi. Phạm Tiến vái chào mẹ, lại vái chào ông gia. Lão hàng thịt hai ba lần từ chối nói:

    – Số tiền có là bao! Không đủ cho ông thưởng người ta!

    Phạm Tiến lại cảm ơn hàng xóm. Đang ngồi nói chuyện thì thấy một người quản gia sang trọng tay cầm một cái thiếp đỏ lớn chạy vào báo:

    – Ông Trương đến chào ông tân khoa họ Phạm.

    Nói xong, kiệu đã đến cổng. Lão hàng thịt vội vàng chạy xuống phòng con gái không dám ra. Hàng xóm cũng đều về hết.

    Phạm Tiến ra cửa đón khách. Trương xuống kiệu, đầu đội mũ sa, mặc áo cổ tròn màu hoa quỳ, mang đai vàng, giày đen. Hắn xuất thân là cử nhân, đã làm tri huyện, biệt hiệu là Tĩnh Trai. Phạm Tiến mời vào trong nhà, hai người cúi đầu chào nhau rồi cùng ngồi ngang hàng theo địa vị chủ khách. Trương nói:

    – Tiên sinh là người cùng huyện, nhưng xưa nay chưa có dịp quen.

    Phạm Tiến nói:

    – Vãn sinh mấy lâu hâm mộ tiên sinh, chỉ vì không có dịp gặp gỡ.

    – Tôi xem danh sách những người thi đỗ. Phòng sư của ông là ông Thang, Tri huyện Cao Yếu, tức là học trò của tổ phụ tôi. Vì vậy ông là anh em thân thiết với tôi.

    – Vãn sinh may mắn mà đỗ được, thực lấy làm hổ thẹn. Nhưng rất hân hạnh được làm môn sinh lão tiên sinh.

    Trương nhìn bốn phía nói:

    – Tiên sinh quả thực “gia thế thanh bần”.

    Bèn lấy ở người tùy tòng ra một gói bạc mà nói:

    – Đệ không có gì để tỏ lòng kính trọng, nay có năm mươi lạng bạc, xin tiên sinh tạm nhận. Cái nhà này thực ra không đủ ở, sau này còn khách khứa, coi rất không tiện. Đệ có một cái nhà ở đường lớn cửa Đông, nhà làm kiểu chữ “tam”, tuy không được cao rộng nhưng cũng sạch sẽ, mời tiên sinh đến đấy để tiện sớm hôm thỉnh giáo.

    Phạm Tiến hai ba lần từ chối. Trương lại cứ nài ép, nói:

    – Chúng ta thân với nhau như anh em ruột thịt. Tiên sinh làm thế cho như tôi là người xa lạ.

    Phạm Tiến mới nhận bạc bái tạ. Nói chuyện một lát, khách ra về. Lão hàng thịt đợi Trương đã lên kiệu xong mới ra nhà khách.

    Phạm Tiến giao bạc cho vợ mở xem, toàn là bạc trắng xóa có dấu ấn rõ ràng, bèn gói hai đĩnh và mời ông hàng thịt họ Hồ ra:

    – Khi nãy thầy có lòng đem năm ngàn đồng tiền đến. Đây có sáu lạng bạc, xin thầy cầm cho con.

    Lão hàng thịt cầm bạc nắm chặt trong tay, nhưng lại đưa ra nói:

    – Cái này thì anh cầm lấy. Tôi đem tiền đến mừng, lại lấy tiền anh về thì sao nên?

    – Con hiện nay còn mấy lạng bạc nữa. Khi tiêu hết lại sẽ đến xin thầy.

    Lão hàng thịt liền co tay về giắt bạc vào lưng, miệng nói:

    – Thôi được. Anh bạn bè với cụ Trương, thiếu gì tiền? Nhà ông ta tiền bạc còn nhiều hơn nhà vua kia! Nhà ông ta là nhà chủ mua thịt của tôi đấy. Một năm vô sự ra cũng dùng hết bốn năm nghìn cân. Bạc đối với họ thì nghĩa lý gì!

    Lại quay lại nói với con gái:

    – Sáng nay tao đem tiền đến, thì cái thằng anh chết tiệt của mày không cho. Tao nói: “Nhà ông ta giờ khác xưa. Chẳng thiếu gì người mang tiền đến cho ông ta dùng. Chỉ sợ ông ta không nhận tiền của ta mà thôi”. Nay quả thế thật! Ta đem số tiền này về mng cho cái thằng chết tiệt kia một trận.

    Nói xong, từ tạ rối rít, cúi cổ, cười, về nhà.

    *

    * *

    Từ đấy về sau, quả nhiên có nhiều người đến cung phụng Phạm Tiến. Người thì biếu ruộng vườn, kẻ thì biếu nhà cửa. Lại có người nghèo đến xin làm tôi tớ mong nhờ che chở. Hai ba tháng sau, trong nhà Phạm Tiến đầy tớ trai, đầy tớ gái, tiền bạc, gạo thóc đều không thiếu thứ gì.

    Trương lại đến giục dọn nhà. Sau khi tới ở nhà mới, suốt ba ngày liền tiệc tùng hát xướng, mời khách. Đến ngày thứ tư bà mẹ Phạm Tiến điểm tâm xong, đi vào phòng thứ ba thấy Hồ thị vợ Phạm Tiến trên đầu cài cái trâm bằng bạc. Mặc dầu vào giữa tháng mười trời còn ấm, nhưng đã mang áo đoạn xanh, quần đoạn lục, đốc thúc gia nhân, tôi tớ, a hoàn lau chùi bát đũa. Bà cụ nói:

    – Này phải cẩn thận đấy. Đó là đồ đạc của người ta, chớ có làm hỏng!

    Gia nhân trả lời:

    – Thưa cụ, đây không phải của ai đâu, chính là của cụ đấy!

    Bà cụ cười:

    – Nhà ta làm sao có được tất cả những cái này?

    – Sao lại không? Không phải chỉ những cái này thôi đâu. Cả những người này và cả cái nhà này cũng đều là của cụ cả.

    Bà cụ nghe xong, cầm những bát sứ, những mâm, chén khảm bạc xem kĩ càng một lượt, rồi cười vang:

    – Của ta cả rồi!

    Cười xong, ngã lăn ra, đờm lên cổ, bất tỉnh. Lúc bấy giờ làm cho:

    Cử nhân thi hội, biến thành người khách xoay tiền.

    Cống sinh nhiều tiền, lại khiến lắm người gây kiện.

    Muốn biết bà cụ tính mạng thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
     
  5. Riochan

    Riochan Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    20/12/14
    Bài viết:
    60
    Được thích:
    0
    Hồi 4​


    Chay cầu hồn, hòa thượng bị lên quan;

    Đi xoay tiền, hương thân mắc lấy vạ.

    Khi bà cụ biết tất cả những đồ đạc này đều là của mình, thì vui mừng quá, đờm lên chẹn tim, ngã lăn bất tỉnh. Người nhà, con dâu và đầy tớ gái, hoảng hốt gọi bà mau tỉnh lại. Phạm Tiến ba chân bốn cẳng chạy đến xem, gọi mãi không thưa. Phạm vực bà cụ lên giường, mời thầy lang đến. Thầy lang nói:

    – Bệnh đã vào tạng phủ, không chữa được nữa!

    Mời luôn mấy thầy lang cũng đều nói như vậy. Phạm Tiến lại càng bối rối. Vợ chồng khóc lóc, một mặt lo việc chôn cất. Đợi đến chiều tối, bà cụ mới dần dần tắt thở, quy tiên.

    Hôm sau, Phạm Tiến mời thầy bói đến thì thầy bói nói bà cụ chết vào ngày mồng bảy là ngày xấu, phạm vào tam thất (ba lần bảy là hai mươi mốt), như vậy đến ngày hai mươi mốt, phải mời thầy đến để lễ. Hôm ấy trước cửa nhà Phạm Tiến treo một quả cầu bằng vải trắng. Những câu đối mới dán đều dùng giấy trắng. Các chức sắc thân hào đều đến viếng.

    Phạm Tiến mời Nguỵ Hiếu Cổ là bạn đồng khoa mặc áo mũ tiếp khách ở nhà ngoài. Lão hàng thịt không được lên nhà trên chỉ ở dưới bếp, hay ở trong phòng con gái, lo việc đo vải trắng, cân thịt, nấu ăn.

    Đến ngày thứ mười bốn, Phạm Tiến nhớ đến việc cũ, lấy ra mấy lạng bạc giao cho lão hàng thịt đến chùa trong làng mời hòa thượng ngày thường quen biết đến làm lễ, mời các vị tăng khác đến đọc kinh xám hối để đưa bà cụ lên giời.

    Lão hàng thịt cầm bạc đến ngôi chùa trong làng mời Đằng hòa thượng. Vừa gặp lúc thầy tăng Tuệ Mẫn cũng ở đấy. Ông này vì có ruộng ở gần đấy nên cũng thường đến chùa. Đằng hòa thượng mời lão hàng thịt ngồi, nói:

    – Hôm trước ông tân khoa họ Phạm mắc bệnh ở trước chùa tôi. Hôm ấy tôi không ở nhà, nên không được hầu. May có ông Trần bán thuốc ở đấy có nấu một ít trà thay tôi tiếp ngài.

    – Phải đấy! Tôi cũng nhờ cao của ông ta. Hôm nay ông ta có ở đây không?

    – Hôm nay ông ta không đến. Ông Phạm đã khỏi bệnh, không ngờ bà cụ lại có việc không may như thế. Mấy lâu nay ông bận gì thế? Tại sao không ra chợ buôn bán gì cả?

    – Ồ! Từ khi bà cụ không may mất đi, thân hào trong hạt ai lại không đến thăm? Hai ông chủ tôi là ông Trương, ông Chu lo việc tiếp khách. Họ ở đấy, suốt ngày buồn chỉ nói chuyện với tôi. Cùng ăn cùng uống rượu. Thấy có khách đến lại phải đón chào, mệt chết người đi được! Tôi vốn là anh lười nhác quen thân, không làm được cái việc phiền phức ấy! Tôi muốn tránh phắt đi, nhưng sợ ông rể trách. Khách khứa đến thăm họ sẽ nói: thân thích làm việc gì mà ở đâu cả?

    Nói xong lại giở đến chuyện mời các thầy tăng làm chay. Hòa thượng nghe vậy, vội vàng đi pha trà, làm mì. Trước mặt lão hàng thịt, y bảo các thầy tăng lo chuẩn bị hương, sáp, ngựa giấy, tất cả sẵn sàng. Lão hàng thịt ăn mì xong ra đi.

    Thầy Tăng được tiền định lên thị trấn. Nhưng mới đi độ một dặm thì thấy người cày thuê của mình là Hà Mỹ Chi. Hà Mỹ Chi nói:

    – Thầy Tuệ! Làm sao mà mấy lâu nay không thấy thầy đến làng chơi?

    Hòa thượng ngoái cổ lại, Hà Mỹ Chi nói:

    – Dạo này thầy bận lắm thì phải? Tại sao không đến chơi?

    Thầy Tăng nói:

    – Không phải! Tôi cũng muốn lại, chỉ tại ông Trương ở thị trấn muốn lấy miếng ruộng sau nhà tôi mà không muốn đưa tiền. Tôi đã phải từ chối mấy lần. Tôi mà đến nhà anh thì bọn tôi tớ ông ta nói ra nói vào không sao chịu được. Tôi ở chùa, ông ta sai người đến tìm, tôi đã phải nhờ người bảo là đi vắng.

    Hà Mỹ Chi nói:

    – Can gì! Muốn hay không là ở ông ta, còn chịu hay không là ở thầy chứ! Hôm nay rảnh, về làng chơi một chút đi!. Nửa chân giò thui hôm trước, vẫn ở bếp, đã chảy mỡ rồi đấy. Rượu đã nấu rồi, phải uống đi thôi. Thầy cứ đến nghỉ ở làng tôi hôm nay! Ai làm gì thầy đâu mà sợ!

    Thầy Tăng nghe nói miệng chảy nước dãi, hai chân không đứng vững được nữa, bèn theo Hà Mỹ Chi về làng.

    Hà Mỹ Chi bảo vợ làm thịt gà, thái giò thui hâm rượu. Thầy Tăng đi về bức, ngồi ở ngoài sân cởi xoày áo ra để phanh cả ngực cả rốn. Mồ hôi nhỏ giọt từ đầu đến má.

    Lát sau, sửa soạn xong. Hà Mỹ Chi bưng mâm ra. Người vợ đặt rượu lên bàn. Hòa thượng ngồi trên, vợ Mỹ Chi ngồi dưới, Mỹ Chi ngồi bên cạnh tiếp, rót rượu. Thầy Tăng vừa ăn vừa nói:

    – Độ dăm ba ngày nữa đến làm chay ở nhà ông cử Phạm.

    Vợ Mỹ Chi nói:

    – Tôi từ nhỏ đã thấy bà cụ Phạm rồi, bà ta là người hiền hậu dễ chịu. Còn cô con dâu của bà ta là con gái ông hàng thịt ở xóm nam thì mắt toét, đầu bù, tóc vàng hoe, trước kia ở đây, giày không có một đôi, mùa hạ cũng đi dép rơm. Thế mà nay lại mặc áo nhung, nghe nói làm bà lớn, ra vẻ lắm. Thật xem con người ta thay đổi đã lạ!

    Đang lúc nói chuyện cao hứng thì bên ngoài có tiếng gõ cửa rất mạnh. Hà Mỹ Chi hỏi:

    – Ai đấy?

    Thầy Tăng nói:

    – Anh Mỹ Chi, anh hãy ra xem sao? Mỹ Chi mở cửa bước ra, thì bảy tám người xô vào. Thấy đàn bà và hòa thượng cùng ngồi một bàn, chúng nói ngay:

    – Hay nhỉ! Hòa thượng, đàn bà giữa thanh thiên bạch nhật thế này mà ngồi với nhau tự tình. Sư mô thế này à! Biết pháp mà vẫn cứ phạm pháp!

    Mỹ Chi vội ngăn:

    – Nói bậy nào! Đó là chủ ruộng tôi đấy!

    Mọi người hùa nhau mắng:

    – Chủ ruộng à? Chủ cả vợ anh nữa à! Và không cho bàn cãi gì nữa, chúng lấy ngay dây thừng ra trói thầy tăng đang ở trần cùng với người đàn bà vào một, lấy đòn gánh sóc lên vai mang đi. Chúng cũng mang Hà Mỹ Chi theo luôn. Đến trước huyện Nam Hải, họ đặt hai người ở một cái sân trước miếu Quan Đế. Thầy Tăng và người đàn bà bị trói gò vào nhau. Họ đợi tri huyện ra thì bẩm. Họ đuổi Mỹ Chi ra nhưng thầy tăng đã dặn Mỹ Chi báo với Phạm Tiến.

    Phạm Tiến muốn làm chay cho mẹ mà hòa thượng thì lại bị trói, chờ không được, nên viết thiếp cho tri huyện. Tri huyện sai thầy tớ cởi trói để cho hòa thượng đi. Vợ Mỹ Chi thì giao cho chồng đem về. Còn bọn mang đến thì sáng sớm mai sẽ xét. Bọn chúng hoảng sợ, cầu Trương viết thiếp cho tri huyện. Quan huyện bằng lòng. Khi ra công đường thì quan huyện chỉ mắng một vài câu, nhổ một bãi nước bọt rồi đuổi ra. Hòa thượng và bọn kia đều trở lại nha môn biếu mấy mươi lạng bạc.

    Hòa thượng đến nhà Phạm Tiến để cảm ơn. Ngày hôm sau đem bọn tăng lữ đến thiết đàn, treo tượng Phật, hai bên là thập điện Diêm Vương. Ăn xong mì, họ đánh não bạt inh ỏi, tụng hết một quyển kinh rồi ăn cơm chay sớm. Tám người thầy tu cùng với ông tiếp khách Ngụy Hiếu Cổ là chín người ngồi ở hai chiếu. Đang ăn, có thầy tớ vào báo: “Có khách đến”.

    Nguỵ Hiếu Cổ bỏ chén chạy ra tiếp, thì ra hai vị Trương, Chu đến, đội mũ sa đen, đi giày đen đế trắng, mặc áo xám nhạt. Nguỵ chạy ra mời đến trước bàn thờ. Một hòa thượng nói với Tuệ Mẫn:

    – Người mới vào đây là ông Trương Tĩnh Trai. Ruộng ông ta và ruộng ông gần nhau, ông nên ra chào hỏi ông ta một tiếng.

    Tuệ Mẫn nói:

    – Thôi đi! Lão Trương ấy ghê lắm! Hôm trước đây chẳng phải là ai, chính là tôi tớ ông ta đã bàn với nhau làm như ma như quỷ, chơi ta một vố. Chẳng qua là muốn làm cho ta tốn ít lạng bạc để ta phải bán ruộng cho ông ấy. Nhưng hại nhân thì nhân hại! Khi quan huyện muốn đánh bọn tôi tớ, thì cả bọn đều hoảng, hắn phải viết thiếp đến xin tha cho họ. Quan huyện ngài không bằng lòng.

    Lại nói:

    – Ông ta còn làm lắm việc vô lý! Như việc con gái lớn của ông Chu. Làm tri huyện ở Sào Huyên trước đây là cháu gọi ông ta bằng cậu đấy. Ông Chu nhờ tôi làm mối, tôi đã làm mối cho nhà họ Phong là một nhà giàu có. Nhưng ông Trương cản trở, bắt gả cho anh Nguỵ nghèo xác kia vì bảo là anh ta đã thi đỗ tú tài lại giỏi làm thi, làm từ. Thì hôm trước đây anh ta viết cái bài sớ cho bà cụ, tôi đem ra cho người ta xem. Người ta nói viết sai ba chữ. Như thế đấy! Cô hai cũng đến lúc gả chồng rồi đấy. Không biết như thế rồi gả cho anh nào?

    Nói đến đó chợt nghe tiếng giày đi lại, tất cả đều im bặt không nói nữa.

    Hai người quan khách đi ra chắp tay chào hòa thượng. Nguỵ Hiếu Cổ tiễn họ ra cửa. Bọn hòa thượng ăn chay xong rửa tay, thổi kèn, hành hương, thắp đèn, vãi gạo, vãi hoa suốt ba ngày liền mới thôi.

    Thời gian thấm thoát, bốn mươi chín ngày đã qua, Phạm Tiến đi cảm ơn các vị đã dự tang lễ. Một hôm Trương Tĩnh Trai đến, Phạm Tiến mời vào ngồi trong một cái phòng sách nhỏ trước bàn thờ. Mình Phạm còn mặc áo tang ra cảm ơn Trương đã giúp đỡ mình trong công việc tang lễ.

    Trương Tĩnh Trai nói:

    – Việc của cụ nhà là việc đại sự, chúng tôi là con cháu thì cũng phải góp sức làm. Cụ nhà thọ như vậy mà quy tiên là việc đã đành. Nhưng sẽ làm chậm trễ việc thi hội của ông. Chắc ông đã định an táng rồi chứ? Có thể cho biết ngày nào không?

    Phạm Tiến nói:

    – Năm nay hướng mộ không lợi, đến mùa thu năm sau mới tốt. Nhưng các khoản chi phí về an táng, tôi chưa có đủ tiền!

    Trương Tĩnh Trai tính đốt ngón tay nói:

    – Minh tinh thì nhờ ông Chu học đài, mộ chí thì ông Nguỵ làm hộ, nhưng phải mượn tên ai chứ. Ngoài ra việc cất ma, bàn, chiếu, âm nhạc và tạp dụng, ăn uống, đào đất, tiễn thầy địa tất cả cần trên ba trăm lạng bạc.

    Đang lúc bàn tính thì cơm mang ra. Trương lại nói:

    – Làm lều ở bên mộ ba năm vốn là việc phải. Nhưng muốn lo việc an táng thì cũng không nên câu nệ quá mà ta phải lo tính cách vay tiền. Từ khi ông đỗ cao đến nay, chưa đến hầu quan. Huyện Cao Yếu đất tốt, may ra kiếm được ít tiền. Còn tôi, tôi cũng phải đi thăm chú tôi. Chúng ta sẽ rủ nhau cùng đi? Tiền xe, tiền đò thì tôi xin chịu, không dám để ông bận tâm.

    Phạm Tiến nói:

    – Ông nói vậy thật là quá thương, nhưng không biết làm như vậy có hợp lễ không?

    Trương Tĩnh Trai nói:

    – Lễ thì cũng có lúc kinh có lúc quyền, tôi thấy không có cái gì là không làm được cả.

    Phạm Tiến cảm ơn.

    Trương Tĩnh Trai định ngày, thuê ngựa mang tùy tòng đi về phía huyện Cao Yếu. Trên đường hai người bàn nhau:

    – Lần này, thăm thầy, ta lại xin mượn quan hàm của thầy để viết vào mộ chí bà cụ cố nhà.

    Vài hôm sau đến huyện Cao Yếu. Hôm đó tri huyện bận đi xuống làng khám xét, nên họ không vào nha môn được, hai người phải ngồi trong miếu Quan Đế. Miếu đang còn chữa. Ở đấy có người đốc công của huyện. Người đốc công nghe nói quan huyện có khách đến thăm, vội vàng chạy ra mời vào phòng khách, mang lên chín cái đĩa tráng miệng. Đốc công ngồi ở chiếu dưới rót trà.

    Ăn được một lát, ở ngoài có người đi vào: mũ vuông, áo rộng, giầy đen đế trắng, mắt ốc nhồi, mũi cao, râu đầy cằm.

    Y vào cửa thì bảo dọn đồ tráng miệng đi, rồi mới cùng hai người ngồi. Khi nói một người là Trương, một người là Phạm thì người kia cũng nói:

    – Tôi họ Nghiêm, nhà ở gần đây. Năm ngoái, tôn sư chấm thi, tôi cũng may được đỗ, Thang phụ mẫu với tôi là chỗ rất thân. Hai vị chắc đều là chỗ quen biết cả chứ?

    Hai người đều nói là học trò quan huyện. Nghiêm cống sinh hết sức tôn kính.

    Người đốc công cáo lỗi đi ra.

    Gia nhân nhà Nghiêm mang đến một quả đựng thức ăn và một bình rượu. Mở quả ra là chín đĩa ăn. Đều là gà, vịt, giò thui, cá muối… Nghiêm cống sinh mời hai người ngồi ghế trên, rót rượu mời và nói:

    – Tôi muốn mời các vị về nhà, nhưng nhà cửa chật chội, không dám mời, sợ thất lễ. Vả lại các vị sắp vào nha môn, tôi ngại có gì cản trở nên có sai dọn bữa cơm nhạt, để có thể cùng nhau nói chuyện ở đây. Xin các vị bỏ quá cho.

    Hai người đón lấy rượu nói:

    – Chúng tôi chưa đến thăm ông, mà lại làm phiền thế này, thật không tiện.

    Nghiêm cống sinh nói:

    – Không dám! Không dám!

    Nghiêm đứng đợi họ uống cạn chén rượu. Hai người sợ mặt đỏ không dám uống nhiều, chỉ uống nửa chén là đặt chén xuống.

    Nghiêm cống sinh nói:

    – Thang phụ mẫu là người thanh liêm, nhân từ, thật là phúc cho huyện này.

    Trương Tĩnh Trai nói:

    – Phải! Chắc là chú tôi làm được nhiều việc tốt ở đây.

    Nghiêm cống sinh nói:

    – Này tiên sinh! Trên đời vạn sự đều do số mệnh cả, muốn trái cũng không thể được. Hôm Thang phụ mẫu đến đây, các quan khách huyện tôi đều ra đón. Người ta dựng lên một cái nhà chào để tiếp ngài cách ngoài mười dặm. Tôi đứng ở cửa. Phút sau, thanh la, cờ, lọng, quạt, người thổi sáo, hết đoàn này đến đoàn khác. Kiệu sắp đến gần đã thấy quan phụ mẫu hai lông mày cao, cái mũi nở, mặt vuông, tai lớn. Tôi nghĩ bụng đích thực là một vị hiền nhân quân tử. Lạ hơn nữa: mấy mươi người ở đây tiếp ngài, nhưng lúc ngài ở trên kiệu thì hai con mắt ngài chỉ nhìn vào tôi. Lúc bấy giờ, có một người cũng đứng bên cạnh. Ông ta nhìn quan phụ mẫu rồi lại nhìn tôi và hỏi nhỏ: “Trước kia ông có biết quan phụ mẫu không? ” Tôi cứ nói thực: “Chưa biết bao giờ”. Bấy giờ ông ta dại dột, chắc rằng quan phụ mẫu nhìn ông ta, nên bước ra mấy bước, hi vọng ngài sẽ hỏi mình. Bất đồ quan phụ mẫu xuống kiệu, chào mọi người rồi nhìn về phía khác. Mới hay từ nãy đến giờ, quan không hề nhìn ông ta. Ông ta thẹn vô kể. Hôm sau, tôi vào nha môn yết kiến, thì ngài mới giảng học về, công việc còn bề bộn, nhưng ngài vội gọi tôi đến bảo pha trà, rồi nói chuyện như người quen biết nhau từ mấy mươi năm trước.

    Trương nói:

    – Ông là người có phẩm vọng cho nên chú tôi kính trọng. Gần đây chắc ngài thường hỏi ông?

    – Gần đây tôi cũng ít lên. Nói thực, tôi vốn thực thà, ở đây chưa hề lấy của người ta một tơ hào nào. Các quan phụ mẫu đến đây đều có lòng thương. Thang phụ mẫu là người thích khách khứa, nhưng ngài đối với tôi có biệt nhãn. Tháng trước, ở huyện ngài lấy thằng con thứ hai của tôi đỗ thứ mười. Lại hỏi cặn kẽ xem nó học với ai, đã vợ con chưa. Thật là ngài quan tâm đến cháu.

    Phạm Tiến nói:

    – Thầy tôi là người sành văn chương. Đã chú ý đến lệnh lang như thế, thì thế nào lệnh lang cũng là tay anh tài.

    – Không dám! Không dám!

    Lại nói:

    – Huyện Cao Yếu này là một huyện có tiếng ở Quảng Đông. Trong một năm thì tiền thuế gạo thóc, vải hoa, trâu, lừa, cá, ruộng, cũng đến vạn lạng.

    Lại lấy tay vẽ lên bàn nói khẽ:

    – Như Thang phụ mẫu làm thì chỉ có tám nghìn. Ngày trước Phạm phụ mẫu làm tri huyện, thực được đến vạn. Nó còn những cái lắt léo phải cần đến những người thành thạo như chúng tôi.

    vừa nói vừa sợ có người nghe, nên quay đầu nhìn ra ngoài. Một người đầy tớ đi chân đất, đầu bù, chạy vào nói với y:

    – Ông ơi! Người nhà mời ông về.

    – Về làm cái gì?

    – Người ta đến đòi con lợn ta nhốt buổi sáng. Họ đang kêu tru tréo lên ở nhà.

    – Muốn có lợn thì đem tiền đến!

    – Hắn nói là lợn của hắn.

    – Biết rồi, mày đi trước, tao về sau.

    Người đầy tớ không chịu đi. Trương, Phạm bèn nói:

    – Nếu ở nhà ông có việc thì xin ông cứ về nhà.

    – Hai vị chưa rõ. Con lợn chính là của tôi.

    Nói đến đây thì nghe tiếng thanh la. Mọi người đứng dậy nói:

    – Quan về rồi.

    Hai người sửa lại áo mũ ngay ngắn, gọi quản gia đến đưa thiếp và xin lỗi đã làm phiền Nghiêm cống sinh. Sau đó đi thẳng đến cửa quan. Tri huyện Thang sau khi đọc thiếp thấy một cái đề “cháu ngài là Trương Sư Lục”, một cái đề “Học trò Phạm Tiến”, trong lòng suy nghĩ: “Trương đã mấy lần đến đây vòi tiền, thực là không chịu nổi. Nhưng nay hắn cùng đi với anh học trò của ta mới thi đỗ, thì không lẽ không tiếp hắn!” Bèn bảo mời ngay vào.

    Hai người vào, Tĩnh Trai chào xong, Phạm Tiến vào làm lễ thầy trò. Tri huyện Thang hai ba lần đáp lễ rồi mời ngồi uống trà. Sau khi nói mấy lời với Tĩnh Trai, quan huyện khen văn Phạm Tiến và hỏi:

    – Tại sao không đi thi hội?

    – Bà cụ con mất, con phải chịu tang không thể đi thi.

    Tri huyện Thang hoảng hốt, vội vàng bảo thay đổi áo, mời vào nhà sau. Rượu bưng lên. Bữa tiệc có yến sào, gà, vịt, ngoài ra có hai đĩa cá nấu theo lối Quảng Đông. Tri huyện mời ngồi, bát đũa đều là khảm bạc. Phạm Tiến lúng túng không cầm đũa bát. Tri huyện hỏi tại sao?

    Tĩnh Trai cười đáp:

    – Ông ta có tang nên không dùng bát đũa này.

    Tri huyện vội vàng bảo thay, lấy bát sứ, đũa ngà lên. Phạm Tiến lại không ăn. Tĩnh Trai nói:

    – Đũa này cũng không được.

    Bèn sai đổi đũa tre trắng. Bấy giờ mới thôi. Tri huyện thấy y cư tang tận lễ như vậy sợ y không uống rượu, thì không biết dọn gì. May sao thấy y gắp một con tôm lớn ở trong bát yến sào và bỏ vào miệng. Bấy giờ quan huyện mới yên tâm.

    Tri huyện nói:

    – Như thế này là không phải. Tôi theo Hồi giáo, những món ngon đều không được ăn, chỉ có ăn cơm xoàng thôi. Hồi giáo chỉ cho phép ăn thịt bò, thịt dê, nhưng sợ các ông ở đạo khác không dùng, cho nên không dám dọn. Hiện nay có chiếu chỉ bảo cấm giết bò cày, cấp trên lại ra lệnh cấm thật ngặt, trong nha môn này không ai được ăn.

    Đèn sáp thắp lên, tri huyện đưa lệnh cấm kia ra để mọi người xem. Bỗng một người đầy tớ đến ghé tai nói nhỏ với tri huyện mấy câu. Tri huyện đứng dậy nói với hai người:

    – Ở ngoài có việc, tôi ra một chút, rồi lại vào ngay. Tri huyện đi ra một lúc, chỉ nghe tiếng dặn:

    – Để nó đấy!

    Rồi lại trở vào bàn tiệc. Tri huyện xin lỗi đã vắng mặt và nói với Trương Tĩnh Trai:

    – Ông Trương, ông đã làm quan, tôi muốn hỏi ông một việc này. Đó cũng là việc cấm thịt bò tôi vừa nói đấy. Vừa có mấy người Hồi giáo đem năm mươi cân thịt và cử một ông thầy già đến xin tôi. Nói rằng nếu tôi làm ráo riết thì họ hết kế sinh nhai. Họ xin tôi nới tay gọi là che mặt quan trên cho họ với. Họ đem đến đây năm mươi cân thịt để biếu tôi. Tôi có nên nhận hay không?

    Trương Tĩnh Trai nói:

    – Thưa chú, không được. Cháu và chú làm quan thì chỉ biết có hoàng thượng, không biết có người đồng đạo. Chú nhớ việc xảy ra khoảng năm Hồng Vũ, ông Lưu…

    – Ông Lưu nào?

    – Ông Lưu Cơ đỗ tiến sĩ thứ ba đời Hồng Vũ năm thứ năm.

    Phạm Tiến nói xen vào:

    – Thứ ba chứ?

    – Thứ năm. Quyển thi của ông ta tôi đã đọc. Sau đó ông vào Hàn lâm. Vua Hồng Vũ trá hình đến nhà ông ta như là chuyện xưa “vua Tống đến nhà Triệu Phổ đêm tuyết rơi”. Nhưng đến nơi thì gặp Trương Vương ở Giang Nam đưa đến cho ông ta một cái bình trà. Mở ra trước mặt vua thì bình trà đầy vàng. Vua Hồng Vũ giận lắm và nói:

    “Hắn cho rằng mọi việc thiên hạ đều nhờ bọn thư sinh cả phải!”

    Ngay hôm sau Lưu bị bãi, giáng làm tri huyện Thanh Điền, sau vua lại bắt uống thuốc độc chết. Việc này làm như thế sao được!

    Tri huyện thấy Trương nói như nước chảy, lại đưa chuyện cũ của bản triều ra nói rất tỉ mỉ, nên không thể không tin, bèn nói:

    – Việc này thì xử trí thế nào?

    Trương Tĩnh Trai nói:

    – Theo ngu kiến của cháu, nếu chú muốn nổi tiếng trong việc này, thì hãy giữ người ấy lại. Sáng mai đưa việc ấy ra xử. Đưa ông già ra đánh vài mươi roi, rồi bỏ vào gông, chồng thịt lên gông, yết một tờ giấy bên cạnh để nói rõ việc làm táo bạo của ông ta. Quan trên biết việc ấy thấy chú tơ hào không lấy, thì việc thăng quan tiến chức chắc chắn đến nơi.

    Tri huyện gật đầu:

    – Có lý lắm.

    Bữa tiệc tan. Tri huyện mời hai người nghỉ lại thư phòng.

    Hôm sau, sáng sớm, tri huyện ra công đường. Người đưa ra trước tiên là một anh trộm gà. Tri huyện quát:

    – Thằng kia, mày đã phạm tội ăn cắp nhiều lần, mà không thay đổi, đánh mấy cũng không nghe! Hôm nay phải làm gì mới được?

    Bèn lấy bút chấm son viết lên má ba chữ “tên trộm gà”. Lấy một cái gông ra. Đem con gà y ăn cắp ra buộc trên đầu y, mỏ ra đằng sau, đuôi ra đằng trước, đóng gông đưa ra cửa huyện. Con gà ỉa cứt chảy từ đầu xuống trán, đến mũi, râu ria bết lại thành một cục, chảy xuống gông. Người xem hai bên cười rũ rượi.

    Người thứ hai là ông già Hồi giáo. Tri huyện mắng đồ chó, to gan, sai đánh ba mươi gậy, lấy một cái gông lớn, đem năm mươi cân thịt chồng lên gông, buộc chặt vào má vào mặt, chỉ còn chừa hai con mắt để trước huyện cho mọi người xem.

    Trời nóng. Đến ngày thứ hai thịt bò sinh dòi. Ngày thứ ba người kia chết.

    Những người Hồi giáo không phục, họp nhau lại mấy trăm người, họ đánh thanh la bãi thị, kéo nhau đến huyện kêu:

    – Dù chúng tôi không được phép đem thịt bò đến huyện, cũng không đến nỗi phải chịu tội chết. Cái này là do thằng Trương Sư Lục huyện Nam Hải bày ra. Chúng tôi đến huyện kéo nó ra đánh chết, bắt nó đền mạng!

    Nhân ồn ào thế khiến cho:

    Cống sinh gây chuyện, đến tỉnh thành để giấu tăm hơi,

    Hương thân kết thân chơi kinh quốc yết người quyền quý.

    Muốn biết việc náo động thế nào hãy xem hồi sau phân giải.
     

Thành viên đang xem bài viết (Users: 0, Guests: 0)