Linh Dị Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng ( Full )

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Alpha Wolf

    Alpha Wolf Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/5/15
    Bài viết:
    1,211
    Được thích:
    169

    Tặc Miêu


    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng

    Hồi 6 - Biến cố kinh người


    Nguồn: truyenngan.com.vn



    Lại nói, Lâm Trung Lão Quỷ để lại cho Trương Tiểu Biện một kế sách vãn hồi cơ trời, xoay chuyển càn khôn. Cách này rất tà mị, chỉ chờ khi con mèo La Hán mở miệng kêu với chủ nhân, báo hiệu kiếp nạn sắp đến, lúc ấy nhất định phải tránh mưa, tránh gió. Tránh thế nào? Có nhà thì vào nhà, không có nhà thì vào động, dẫu là đình chùa, miếu mạo hay là quán trọ, nhà dân thì phải lập tức đi vào, đóng chặt cửa lại, đợi đến khi trời hửng sáng thì mới coi như đã tránh được đại nạn chết người này.

    Ví thử đang ở chỗ đồng không mông quạnh, chẳng có phòng ốc, nhà cửa nào thì phải tìm cách chạy vào hang núi hoặc ẩn nấp dưới hốc cây cổ thụ, tóm lại là phải ẩn vào một nơi "ngẩng lên không thấy trời". Sau khi nấp vào đó, dẫu bên ngoài có núi lở, đất nứt hay là phòng nghiêng nhà đổ, trời đất có xảy ra chuyện gì đi chăng nữa cũng phải coi như không nghe, không thấy, chỉ cần ngồi im không động đậy, chưa đến giờ thì tuyệt đối không được ra ngoài, nếu không thì tai họa sẽ lập tức ập đến, chết ngay tại chỗ. Đến lúc ấy thì Đại La thần tiên cũng không cứu nổi cái mạng nhép.

    Chín con mèo con đúc bằng đồng là cổ vật để báo hiệu thời gian trong hoàng cung đại nội đời Đường. "Cửu miêu hoán mệnh đồ" đều dựa trên hình dáng của mèo đồng mà vẽ ra, hết sức linh nghiệm. Mắt mèo được khảm đá Huỳnh thạch, lấp lánh như sao, tùy theo sự luân chuyển của mặt trăng, mặt trời, trong bóng đêm chúng sẽ phát sinh ra năng lực hoán đổi số mệnh; đến khi trời sáng thì chín cặp mắt mèo sẽ biến thành màu ảm đạm, không còn ánh sáng, biểu thị vận hạn đã qua, vinh hoa phú quý từ nay về sau sẽ không cần cầu mà tự đến, quan cao lộc hậu tùy ý sẽ được.

    Trương Tiểu Biện xem đi xem lại mấy món đồ trong ống tre. Hắn tìm được sự sống trong chỗ chết, thật giống như là: "Vén được mây mù trăng ló rạng; Hoa đang vùi tuyết gặp xuân về." Hắn nghĩ bụng, từ sau khi rời thành Linh Châu, sấp sấp ngửa ngửa trên đường, trời xui đất khiến thế nào lại đi vào trong ngôi chùa cổ Quán Ngõa tự này. Xem ra số phận của Trương Tam gia chưa dứt hẳn, chỉ cần nấp trong gian nhà này, đợi đến khi trời sang thì có gì mà khó? Bây giờ, dẫu thằng ranh Hoàng đế có hạ chỉ thì Tam gia cũng mặc kệ, chẳng rời khỏi đây nửa bước.

    Trương Tiểu Biện xuất thân từ đám du đãng ở đầu đường xó chợ, ngoài tính mạng của mình ra thì chẳng them để tâm đến thứ gì khác. Tính tình ngoan cố, bướng bỉnh của hắn một khi bột phát ra thì chuyện kháng chỉ chống lệnh cũng dám làm lắm. Trong long đã quyết như thế, hắn liền bày biện cái quan tài rỗng trong gian hậu điện một chút, biến nó thành một cái bàn, trên đó đặt một chiếc đèn, rồi căn cứ vào hình dạng to nhỏ của chín con mèo bằng đồng, sắp xếp theo thứ tự ở dưới chân đèn.

    Đoạn, Trương Tiểu Biện ngồi bệt trên mặt đất, toàn thân nai nịt chỉnh tề, súng Tây và đoản đao cầm tay, canh giữ chín con mèo bằng đồng khảm Huỳnh thạch. Cứ vất vả chờ đợi hết giờ này qua giờ khác mà trời vẫn chưa tối, Thanh Loa lĩnh đang đổ mưa to bão lớn, đang ban ngày mà chẳng khác gì đêm đen. Tiếng mưa rơi, gió rít tuy rất dự dội, nhưng cũng vẫn không khỏa lấp nổi tiếng xung trận, giết chóc vọng đến bên ngoài thị trấn cổ.

    Có nhiều lính dõng truyền tin chiến sự, phóng ngựa như bay về phi báo. Thì ra, Thanh Loa trấn bốn phía đều là núi, chỉ có hai con đường thông được ra bên ngoài, Nhạn doanh đã chiếm trước chỗ hiểm yếu để cố thủ. Quân Thái Bình định nhân lúc mưa gió để đánh úp, kết quả là bị đẩy ngược trở về, song phương đều có tử thương. Những lúc chiến sự kịch liệt nhất, hai bên vung đao thương đánh giáp lá cà dưới mưa, chém giết đến mức không phân biệt nổi địch, ta.

    Trương Tiểu Biện thừa cơ tỏ vẻ anh hùng, sai tất cả thủ hạ đều ra trợ chiến, đồng thời báo cho toàn doanh biết rằng, xưa nay có câu: "Thà làm ngọc vỡ chứ không làm ngói lành", Trương Tam gia quyết ở lại trong Thanh Loa trấn, nửa bước không lùi, cùng an hem toàn doanh đồng sinh cộng tử, nếu đánh lui Việt khẩu thì mọi người cùng trở về dâng công khen thưởng, mỹ nữ và vàng bạc muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, nhược bằng bị thua Việt khẩu thì chúng ta tận trung báo quốc, bất khuất hi sinh. Hồi trước các an hem Nhạn doanh cùng ăn thề kết nghĩa, đã thề cùng sống chết, cùng phú quý, hôm nay chính là ứng vào lời thề lúc trước, chết cũng phải chết cùng một chỗ, chôn cùng một nơi.

    Trương Tiểu Biện nói xong, liền sai Nhạn Linh Nhi giở rượu thịt đã mang theo ra, làm ra vẻ "dẫu cho núi Thái Sơn có đổ ngay trước mặt cũng không chớp mắt". Thần thái của hắn tự nhiên như không, ngồi trước cỗ quan tài, dựa lưng vào một pho tượng đất trong điện, vừa xé thịt vừa uống rượu, dường như không để ý đến tiếng gào thét chém giết như tiếng sấm chọc vào tai. Đám lính dõng đứng cạnh hắn thấy thế, không ai không khâm phục, than rằng, doanh quan nghĩa khí hơn người, đời nay ít thấy, làm gì có ai hiểu được trong gan ruột hắn còn bụng dạ khác, chỉ một mực tưởng Trương đại nhân khí độ và đảm lược hơn người, coi quân giặc như không, thật là đáng mấy phần bản sắc lục lâm: "Dạ anh hung trăng lu gió lớn; Chí trượng phu phóng hỏa giết người", chúng tôi giao chiến trước trận, sao dám không dốc hết sức giết giặc chứ.

    Kỳ thực ra, tim Trương Tiểu Biện đang đập thùm thụp. Hắn định mượn rượu để xốc chút tinh thần lên, đồng thời, mong rằng uống nhiều sẽ ngủ quên cho hết một đêm, đợi khi tỉnh dậy thì mây đen đầy trời sẽ tan hết. Có câu rằng: "Xuân, hạ, thu, đông đều uống rượu; Nam, bắc, đông, tây chếnh choáng say." Nhưng trong lòng đã u uất thì dẫu có uống bao nhiêu, rượu cũng sẽ trôi tuột đi bấy nhiêu, càng uống thì sắc mặt càng trắng bệch ra, mồ hôi, mồ kê ướt đẫm, chẳng thấy say được chút nào. Trước nay người ta thường bảo, thời gian vùn vụt thoắt về già, nào ai biết được thời gian giờ lại trôi rề rà chậm chạp đến thế.

    Trương Tiểu Biện cứ thế uống rượu trên quan tài, rồi ném mấy miếng thịt khô xuống đất cho con mèo Trường diện La Hán ăn. Nhưng, con mèo La Hán lại tỏ vẻ bồn chồn không yên, không chịu ăn uống, chẳng thèm để mắt đến miếng thịt khô trên mặt đất, đuôi mèo cứ phất qua phất lại không thôi, thỉnh thoảng lại kêu lên mấy tiếng.

    Nhạn Linh Nhi lấy làm lạ hỏi: "Thiên hạ này sao lại có mèo chê mỡ. Con mèo La Hán này thật kỳ quái, dường như nó đang lo lắng điều gì? Liệu có phải trong chùa Ngõa Quán trấn Thanh Loa này sắp phát sinh đại sự gì không?"

    Trương Tiểu Biện cũng có cùng suy nghĩ ấy: "Cơn mưa hôm nay rất lạ lùng, cứ như nghiêng sông dốc bể không ngừng. Lúc trước, đàn cóc nhái đội đất nhao nhao chui lên cũng đã là một triệu chứng cực kỳ bất thường rồi. Có điều, dải Thanh Loa lĩnh có hình thể rất đặc biệt, trong chu vi ba chục dặm không có bất cứ sông ngòi nào, vì vậy xưa nay không bị lũ quét xâm hại, nghĩ chắc cũng không đến nỗi toàn trấn bị ngập nước đâu."

    Chính lúc hắn đang nói thế, bỗng một tia chớp lóe lên làm gian điện sáng bừng, sau đó tiếng sấm nổ ầm ầm khiến cột trụ, mái ngói rung lên bần bật, trong khoảnh khắc, chớp giật sấm vang trên trời mà cứ ngỡ như ngay ở trên đỉnh đầu vậy. Trương Tiểu Biện và Nhạn Linh Nhi cùng ngẩng đầu lên trên quan sát, thấy mái điện có kết cấu theo kiểu một xà ngang xuyên tâm, ngôi chùa cổ đã lâu không tu bổ, trong cơn mưa gió bão bùng, chừng như lúc nào cũng có thể đột ngột sập xuống.

    Nhạn Linh Nhi thấy tiếng sấm có vẻ chẳng lành, chỉ lo mái điện bị sét đánh trúng liền khuyên Trương Tiểu Biện nấp sang chỗ khác nhưng Trương Tiểu Biện cứ theo lời của Lâm Trung Lão Quỷ, thà chết không chịu chuyển chỗ. Thấy trời đã vào đêm, bây giờ mà ra ngoài thì hóa ra công cốc, thiên tượng tuy bất thường nhưng chỉ cần không rời khỏi hậu điện Ngõa Quán tự nửa bước thì dẫu cho cái xà ngang kia có đổ xuống cũng sẽ chẳng đổ vào đầu Tam gia này được. Hơn nữa, trên người hắn có mặc quan phục, há sợ gì sấm vang sét nổ. Lòng Tam gia ta như sắt đá, tối nay một lòng đem tính mạng ra, coi nhẹ như lông hồng, không đợi được đến khi chín cặp mắt mèo đồng tắt ngúm thì quyết không ra khỏi tòa hậu điện, dẫu sống chết cũng mặc lòng. Thế mới gọi là: "Sự đời biến hóa bất thường; Anh hùng biết co biết duỗi." Bắp tay tuy to, nhưng sao to được bằng đùi, người phàm thì đừng nên tranh với ông trời, rốt cuộc là sống hay là chết, chỉ đành nghe theo sự sắp đặt của đấng cao xanh mà thôi.

    Trương Tiểu Biện tuy mồm nói cứng, nhưng không khỏi phấp phỏm không yên, tự nhẩm lại những việc làm trước đây, thấy không phảm phải những tội đáng trời đánh. Từ khi được Tuần phủ đại nhân đề bạt, rồi từ quan chuyển sang quân thì hắn suốt ngày màn trời chiếu đất, thức khuya dậy sớm, chưa có nửa ngày nhàn nhã nào dẫn chúng huynh đệ Nhạn doanh vào sinh ra tử, đã lập nên biết bao công lao hãn mã. Tự vấn lương tâm, tuy hắn chưa từng làm những việc thiện như "bố thí cơm chay, xây chùa dựng tháp, sửa cầu đắp đường, nuôi kẻ cô quả, kính già thương nghèo", nhưng Trương Tam gia cũng chưa bao giờ làm những việc thất đức khiến người ta phải nghiến răng, nhíu mày căm hận cả, những kẻ chết dưới tay hắn toàn là phường đại gian đại ác. Nếu nói đến những tội ác khiến trời đất, quỷ thần phẫn nộ như: "bất kính với trời đất, bất hiếu với cha mẹ, mắng sư nhạo Phật, hãm hại con gái nhà lành" thì hắn càng không liên quan. Trương Tam gia trong bụng toàn là điều nhân nghĩa, giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha, không chịu nổi cảnh người khác phải thấy hoạn nạn, hễ gặp tất ra tay cứu giúp. Ví thử hôm nay không thể qua nổi kiếp nạn này, phải bỏ xác lại đây thì thực là oan uổng quá.

    Trương Tiểu Biện chỉ sợ mình: "Oan ức đời này do trước định; Số trời khó thoát họa vào thân." Những chuyện trong cõi u minh, ai mà liệu được? Tiếng sấm nổ liên tiếp khiến hắn phát run lên, nhưng tự nhủ rằng, Trương Tam gia hồi trước long đong lận đận, áo không đủ che thân, cơm không đủ ấm bụng, chỉ có mỗi ngôi miếu nát lạnh lẽo để dung thân, nếu không gặp được Lâm Trung Lão Quỷ thì nào có được ngày hôm nay? Trước mắt chỉ cần giữ được cái mạng nhỏ này thì coi như được rồi.

    Nghĩ tới đó, Trương Tiểu Biện dằn lòng xuống, nâng cái bát to lên uống hai ngụm lớn, rượu mạnh như thiêu đốt ruột gan, hai tai nóng bừng, can đảm hẳn lên, chẳng thèm để ý đến tiếng sấm sét trên tầng không nữa. Trận sấm sét vừa mới nổ dứt trên đầu thì từ phía sau bệ thờ ở trong điện có tiếng sột soạt, dường như trong bóng tối có vật gì đó đang lao xao chuyển động.

    Nhạn Linh Nhu thấy việc quái dị, ngoái đầu bắn ra một mũi tên, sau đó giơ đèn lên xem. Thì ra trên bức tượng Phán quan cầm sổ Sinh Tử đã sứt đầu có một con chuột già to chẳng kém mèo bao nhiêu đã bị một mũi tên đuôi lông nhạn xuyên qua, đóng cứng, chết tươi trên trang sổ bằng đất, máu tươi nhỏ giọt trên mặt đất, thấm đỏ một mảng lớn.

    Trương Tiểu Biện thấy đó chỉ là một con chuột già liền yên tâm, khen ngợi rằng: "Lục muội thật không hổ là đệ nhất cung thủ của Nhạn doanh chúng ta, xem ra con chuột này... " Lời còn chưa dứt, hắn bỗng thấy từ bệ thờ, cột điện, khe tường, xà nóc nhô ra vô số chuột bọ, rắn rết, trong đó, đến những con rết đầu đen và rết hai đầu cũng có, không hiểu lúc bình thường bọn chúng ẩn nấp ở đâu và cũng không biết trong khoảnh khắc, vì lý do gì mà chúng chen lấn, hò nhau chạy cả ra ngoài điện để chạy trốn như thế, tựa như dự cảm thấy có một tai họa to lớn nào đó sắp giáng xuống vậy. Con mèo Trường diện La Hán cũng sợ chết khiếp, chỉ e chạy không kịp liền lập tức đứng bật dậy, nhảy phắt lên nóc quan tài nằm im thin thít.

    Trương Tiểu Biện và Nhạn Linh Nhi cũng phát hoảng, cuống quýt tay hất, chân gạt, rốt cuộc cũng đuổi hết đám chuột bọ trong điện ra ngoài. Lúc ấy thì cũng đã quá nửa đêm, sấm sét trên trời cũng dần dứt, mưa lớn trong núi cũng đã ngừng hẳn, do chiến sự ác liệt nên toán lính dõng canh giữ chùa Ngõa Quán đã được phái đi trợ chiến. Trong gian sảnh điện lớn chỉ còn hai người và một mèo, bên ngoài thỉnh thoảng ộp oạp vài tiếng ếch kêu, xung quang lại trở về trạng thái yên ắng không có chút tiếng động, yên ắng đến mức một sợi tóc rơi xuống đất tưởng chừng cũng có thể nghe thấy rõ ràng.

    Hai người không nghe thấy tiếng giao chiến trên đỉnh núi, hiểu rằng chắc là Nhạn doanh đã đánh lui được Việt khẩu. Trận này không biết lại mất đi bao nhiêu huynh đệ, Nhạn Linh Nhi im lặng không nói năng gì, Trương Tiểu Biện thấy ngoài song cửa trời lờ mờ sang, bên tai văng vẳng tiếng gà gáy tinh mơ, bất giác đã tới lúc bình minh. Hắn vội vã nhìn vào chín pho tượng mèo con bằng đồng, thấy những viên Huỳnh thạch trong mắt chúng đã biến thành màu xám như tro, ảm đạm không phát sáng nữa.

    Trương Tiểu Biện thầm nhủ, vậy là nhặt được cái mạng này về rồi, tuy vừa bị một trận sợ hãi nhưng rốt cuộc cũng tìm được đường sống trong chỗ chết. Đầu óc hắn đang căng như dây đàn bỗng chùng hẳn xuống, lúc đó mới có thể thở phào nhẹ nhõm, lẩm bẩm nói một mình rằng: "Ai nấy đều bảo làm người chẳng khác con sâu, cái kiến, xem ra không sai chút nào. Sống làm người chỉ sợ không hưởng được phúc, chứ có khó khăn nào mà không vượt qua được. Cả một đêm vất vả, rốt cuộc thì Tam gia cũng đã vượt qua được rồi." Hắn nhớ đến anh em trong Nhạn doanh, trong lòng cuồn cuộn muôn niềm cảm khái, chẳng biết là vui hay buồn nữa. Hắn vươn tấm thân lười nhác, giắt lại khẩu súng Tây và ngọn đoản đao Thốn Thanh, phùng mồm trợn mắt thổi tắt ngọn nến trên nắp quan tài, sau đó ôm con mèo Trường diện La Hán, gọi Nhạn Linh Nhi, đá tung cửa phòng, chạy ra ngoài.

    Nhưng, Trương Tiểu Biện mới vừa bước ra đến sân, đột nhiên phát hiện ra sự tình có điều kỳ quặc. Ánh sang nhấp nhoáng vừa rồi biến mất, xung quanh lại yên ắng như không, trời nào đã sáng đâu? Bầu không gian vẫn mù mịt mây đen khác nào muội than đáy nồi, thò bàn tay không nhìn thấy ngón.

    Toàn thân Trương Tiểu Biện như bị dội một gáo nước lạnh, run lên cầm cập, trong chớp mắt, ba hồn bảy vía bat đi đâu mất, miệng hắn kêu lên: "Gặp phải ma rồi!" Hắn biết kiếp nạn vẫn còn chưa tới, vội vã nắm chặt tay Nhạn Linh Nhi, quay người chạy về. Chẳng ngờ, vừa mới quay đầu thì phát hiện ra trong bóng đêm phía sau lù lù hiện lên một bóng người đứng im lặng, khoảng cách gần đến nỗi suýt nữa hắn chạm mặt. Bóng hình đó như quỷ như ma, không hề giống người sống chút nào, dường như âm hồn đang đeo bám chặt sau lưng hắn vậy, không hề có chút sinh khí. Nếu Trương Tiểu Biện không quay người lại đột ngột thì không thể tận mắt nhìn thấy được. Tới nước này thì kế sách vãn hồi cơ trời của hắn đã giữa đường đứt gánh, thật đúng là: "Nhà dột vừa khi mưa rả rich; Thuyền đơn gặp phải gió ầm ào."

    Rốt cuộc trong chùa Ngõa Quán phát sinh ra biến cố gì, xem hồi sau sẽ rõ.

     
  2. Alpha Wolf

    Alpha Wolf Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/5/15
    Bài viết:
    1,211
    Được thích:
    169

    Tặc Miêu


    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng

    Hồi 7 - Tiệt yêu tự


    Nguồn: truyenngan.com.vn



    Lại nói, chùa Ngõa Quán đã hoang phế mấy trăm năm, lúc thường may ra chỉ hồn dã quỷ mới đến đây trú ngụ, từ xưa đến nay, trong chùa vẫn xảy ra nhiều điều cổ quái. Rõ ràng vừa rồi Trương Tiểu Biện nghe thấy tiếng gà gáy, lại thấy trời hửng sáng ngoài điện, cứ khấp khởi tưởng đại hạn đã qua rồi. hắn nghĩ tới huynh đệ Nhạn doanh, vội vã rời chùa Ngõa Quan, chỉ hận đôi chân không chắp thêm cánh, nào ngờ vừa mới ra khỏi hậu điện, ngẩng đầu lên nhìn thì mới hóa ra là không phải. Bấy giờ mới độ khoảng canh ba, con chưa tới canh tư, hắn cuống quýt, vội vã quay người chực chạy.

    Nào ngờ trong màn đêm đan sau lưng lại hiện ra một bóng người, trong lúc nhập nhoạng, Trương Tiểu Biện và Nhạn Linh Nhi không nhìn rõ là ai, có điều khoảng cách quá gần, chỉ thấy đối phương có khuôn mặt đầy lông tơ, không giống hình người, hai cặp mắt ánh lên tia lạnh lẽo, quỷ dị. Hai người dẫu gan to đến mấy cũng không khỏi sợ hãi, hồn vía len mây, hai chân mềm nhũn ra.

    Trương Tiểu Biện hết sức kinh hãi, bỗng nhiên trông thấy phía trước có từng đợt ánh sáng lóe lên. Hắn định thần lại, hóa ra là con hồ ly già bắt chước dáng người, đứng ở trước cửa điện. Thần thái của nó hết sức quái dị, trên trán có một đốm trắng, trông hơi quen, đúng là con có ba mắt đã gặp trong Hoáng Táng Lĩnh hồi trước.

    Con hồ ly ba bắt nọ ngậm một hạt châu rong mồm, phía trước đặt một con gà trống lớn mào vàng, lông tía đã bị cắn chết. Nó nhíu mày trợn mắt nhìn vào Trương Tiểu Biện. Lúc ấy, hắn mới biết hóa ra con hồ ly già nhả ngọc làm cho Huỳnh thạch trong mắt mèo tắt ngúm, lại không biết bắt đâu một con gà trống lớn, đựng lên màn kịch "trời sáng, gà gáy" trong đêm khuya.

    Tuy Trương Tiểu Biện không biết con hồ ly già này có ý định gì, nhưng rõ ràng đại sự của hắn đã bị nó phá hỏng. Hắn nổi máu nóng, rút ngay khẩu súng Tây trong người, định bắn chết con cáo ba mắt ngay tại chỗ. Nhưng, chính vào lúc đó bỗng nghe trên đầu có tiếng nổ cực lớn như trời long đất lở, thanh âm như xé lụa khiến tai người ù cả lên.

    Cả Trương Tiểu Biện Nhạn Linh Nhi, cho đến con hồ ly già ba mắt và con mèo Trường diện La Hán đều bị biến cố kinh khủng đó làm cho đờ ra, cùng nhất tề ngẩng lên nhìn. Trên bầu trời đen kịt mây mưa, chẳng biết từ lúc nào đã nứt toạc ra một đường màu đỏ nâu, kèm theo đó alf tiếng sấm nổ liên hồi, từ hướng Đông Nam có một ngôi sao lớn, sáng như mặt trăng, kéo theo đuôi lửa màu xanh biếc, sa từ trên không trung xuống, rơi đúng vào gian hậu điện chàu Ngõa Quấn, phát ra tiếng nổ cực lớn, tòa điện đường to lớn đó lập tức nát vụn.

    Trương Tiểu Biện và Nhạn Linh Nhi hai người đứng trước điện, thấy hiện tượng dị thường, mặt đều xanh như chàm đổ, trong đầu trống rỗng, chỉ thấy một trận gió lạ thổi đến mang theo hơi nóng khốc liệt lạ lùng, cơ thể không tự chủ được, bị hơi nóng hất tung mấy vòng, một lúc lâu cũng không gượng dậy được.

    Sao trời sa xuống từ xưa tới nay đều bị coi là điềm dữ. Con cáo ba mắt và con mèo Trường dIện La Hán biết là nguy hiểm, con nào con nấy đều ôm đầu cụp đuôi chạy như một làn khói, trong chớp mắt đã trốn mất tăm mất tích.

    Chỗ sao rơi lập tức bùng lên một ngọn lửa khỏng lồ, soi đỏ cả trời. Mặt nước tuy có nhiều vũng nước lớn đọng lại nhưng cũng không thể ngăn được lửa lan rộng. Toàn bộ lầu gác cột trụ của ngôi chùa cổ Ngõa Quán đều bén lửa, lúc đầu thì âm ỉ như đom đóm, sau thì sáng như ánh đèn, cuối cùng càng lúc càng lớn, biến thành chảo dầu nung nấu đất, hóa ra lò lửa đốt thiêu trời, chẳng khác nào Ngũ thông thần dốc ngược hồ lô lửa, Tống Vô Ky (là lửa thần trong truyền thuyết đời Trần) đẩy ngã con la đỏ. Trận hỏa thiêu lớn này, khói bay lửa táp như bén vào dầu, thật chẳng khác nào "Chu Lang, Xích Bích bày mưu lạ, hạng Vũ, A Phòng đốt sạch không"

    Trương Tiểu Biện mũ giáp tả tơi, toàn thân lấm lem bùn nước, mau có Nhạn Linh Nhi kéo hắn bỏ chạy ra ngoài. Lúc quay lại nhìn ngọn lửa bốc cao đến tận trời, hai người đều kinh hãi khôn xiết, nếu vừa rồi không rời khỏi hậu điện thì đã bị sao rơi đè cho nát nhừ rồi.

    Cả hai đều tim đập chân run. Nghe nói trước khi xyar ra trời long đất lở luôn xuất hiện nhiều điềm báo quái dị, các loài động vật có linh tính như mèo, chuột, sâu bọ đều mẫn cảm hơn con người rất nhiều. Chả trách vạn vật ngụ trong ngôi chùa cổ ở Thanh Loa trấn trở nên khác thường, từ đàn cóc núi đội đất chui lên đến bầy chuột tranh nhau chạy trốn, thì ra nơi đây sẽ có sao lớn rơi xuống.

    Trương Tiểu Biện thầm nghĩ, mình có thể sống đến giờ toàn nhờ con hồ ly già sống lâu có khả năng linh thông cảm ứng, có ý dẫn dụ Tam gia ra khỏi chùa Ngõa Quan, để báo đáp ân đức: "Hoang Táng Lĩnh giết Thần Ngao", "Hoàng Thiên Đăng trả ngọc hồ" trước kia. Xem ra, đến loài súc sinh cũng còn biết đến việc có ơn phải báo, còn hơn gấp trăm lần những kẻ làm người mà vong ân phụ nghĩa.

    Nhưng, Trương Tiểu Biện vẫn còn thắc mắc khong hiểu nổi, chàu Ngõa Quán đã nguy hiểm như thế, sao Lâm Trung Lão Quỷ còn bảo Tam gia ta ở đó? Kế vãn hồi cơ trời kia là thế nào? Có câu rằng: "Hoa đẹp che đi gai nhọn; Lòng người ai chắc thiện lương" Lâm Trung Lão Quỷ đó, rốt cuộc có ý định gì? Trương Tiểu Biện nhất thời bấn loạn không nghĩ ra bất kì đầu mối nào. Đang lúc hoảng hốt, Nhạn Bái Lý Tứ đã dẫn đại quân vào đến trong trấn. Thì ra, Nhạn doanh ác chiến trọn một ngày đêm, cuối cùng cũng đẩy lui được cuộc vây công của Việt khấu, trong lúc nghỉ ngơi, chỉnh đốn trên đỉnh núi, bỗng thấy có sao lớn rơi xuống, tiếng nổ ầm ầm khiến cho Nhạn doanh và quân Thái Bình, hơn vạn người tim đập lòng run.

    Nhạn Bài Lý Tứ chỉ sợ Trương Tiểu Biện và Nhạn Linh Nhi bị sap rơi trúng, vội vã chạy thẳng xuống núi, thấy hai người an toàn mới yên lòng. Gã bảo với mọi người rằng: "Nơi đây không thể ở lâu, bọn Việt khấu làn này đến rất đông, nhỡ ra hình thành thế hợp vây Thanh Loa trấn, trong khi chúng ta không có đại đội quan quân chi viện bên ngoài thì nhất định sẽ khó mà thoát được. Nhân lúc mưa to gió lớn tạm ngừng, và hiện tượng sao trời sa xuống dị thường khiến lòng quân Việt khấu hoảng loạn, chúng ta phải mau thu thập đội ngũ phá vây, rời khỏi núi ngày.

    Trương Tiểu Biện suýt nữa bị sao rơi trúng, đang sợ vỡ cả mật, biết rằng hôm nay bị sao xấu chiếu mạng, còn hông biết phía sau còn gặp phải tai họa gì nữa, thôi thì tránh voi chẳng xấu mặt nào, hắn không dám chần chừ nhiều, vội nói: "Đúng là nên như thế". Đoạn, liền chỉ huy quân sĩ nhổ trại rút lui, từ cửa núi phá vây, mở một đường máu, quăng bỏ mũ giáp, cuốn cờ im trống, vội vã rút lui về thành Linh Châu, chuyện đó không kể tiếp nữa.

    Chỉ nói trải qua mấy mùa mưa nắng, năm tháng qua đi, từ khi sao rơi xuống chàu Ngõa Quan trấn Thanh Loa, người dân bản địa lại trờ lại xây nhà dựng cửa. Người ta cho rằng thiên thạch là vật chẳng lành liền hò nhau bới trong đống đổ nát của ngôi chùa cổ, đào nó lên, định đem đi chôn vùi trong một hang núi ở chỗ khác.

    Mọi người phát hiện tảng thiên thạch cắm sâu xuống đất mấy thướng. tạo ra một hố lớn trên nền điện, sau khi dọn dẹp hết đống ngói nát gạch vụn đổ vỡ, thấy trong hố có một tảng đá đen, bề mặt đá lồi lõm, bị nung chảy lâu nên có dạng nửa như đồng, nửa như sắt, không phân biệt được loại vật chất gì, ước chừng không dưới mấy trăm cân, dùng bàu bổ dao chặt thì chỉ thấy tóe lửa bốn phía, cúng như thép nguội, không thể bửa ra được.

    Quan gia phải ra mặt, cho trưng tập quân dân, trai tráng, dùng trâu thồ, ngựa kéo, hao phí không biết bao nhiêu sức lực mới đưa đưuọc tảng thiên thạch dưới hố lên trên. Khi xem trông hố, người ta lại phát hiện ra một bộ thi hài thổi rữa, tàn khuyết, nửa giống xương mèo, quá nửa là loài lt miêu, có điều to lớn lạ lùng, không giống như mèo thường. Xác chết bị tảng thiên thạch đốt cháy mất mặt mũi, nếu chẳng phải giấu ở dưới tầng đất sâu thì đã bị lửa thiêu đến tro cũng chẳng còn.

    Đám ngu dân ấy cho rằng, hiện tượng sao rơi cũng giống như hiện tượng sấm sét, thường xuất hiện vất ngờ, không có dấu hiệu báo trước, càng không phải vô duyên vô cớ mà giết chết sinh linh trên thế gian, Xác chết nọ ắt hẳn là một loài yêu tà gì đó ẩn nấp trong chàu Ngõa Quán, lúc sống đã làm ra việc ác khiến cho quỷ thần tức giận, giáng thiên thạch đánh chết. Xem ra trên đầu ba thước có thần minh, chùa Ngão Quan hoang phế dã nhiều năm mà vẫn còn hiển linh, quả nhiên thần phật vẫn ở quanh đây. Việc báo ứng xưa nay không phải trò đùa, những việc lừa người dối trời nhất quyết không được làm.

    Chính vì lẽ đó, có một số nhà giàu chuyên làm từ thiện, đã thành tâm thành ý cuất ra một món tiền bạc lớn, mua gạch ngói, gỗ đá, mướn thợ khóe vẽ dựng lại ngôi chùa trên nền phế tích cũ, sau đó, cho đắp tượng đất vàng. Cũng vì trời giáng thiên thạch giết yêu tà nên đổi tên cũ Ngõa Quán tự thành tiệt Yêu tự, đồng thời, dựng thêm một tòa nhà ngang để thờ riêng tảng thiên thạch nọ. Hương hỏa nghìn năm lại được nối tiếp, ngôi chùa dần trở nên thịnh vượng, mỗi lần chàu có hội hoặc vào ngày phật đản, thiện nam tín nữ trong vòng mấy trăm dặm đều nô nức trảy đến đông đúc, đông người qua lại không ngớt.

    Những chuyện đồn đại, ngoa truyền rất nhiều, Trương Tiểu Biện ở thành Linh Châu cũng nhiều lần nghe được, nhưng rốt cuộc cũng không biết nguyên nhân bên trong ra sao, chỉ tự an ủi rằng" không nên chỉ vì một lần thất thế mà đánh mất lí trí". Hắn chờ đợi mãi, cuối cùng cũng chẳng thấy hiện tượng dị thường nào khác xuất hiện, liền mặc kệ không nghĩ nữa. Thật đúng là : "Vừa khi yên ổn lên bờ; Quên ngay lúc trước mới vừa dưới sông"

    Không lâu sau khi Nhạn doanh rút khỏi Thanh Loa trấn, thì lại có hịch truyền đến. trương Tiểu Biện vội tiếp lệnh, lúc đầu còn tưởng tiếp tục bị điều động đi trừ Việt khấu, nhưng lần này thì sự tình hết sức trọng đại, thì ra, liên quân Anh Pháp đã áp sát Bắc Kinh, triều đình vội vã điều tinh binh các nơi về kinh để "Cần vương".Tuần phủ đại nhân đích thân điểm quân Nhạn doanh kiêu dũng thiện chiến để tiến về phía bắc.

    Nhạn doanh không dám chậm chễ, lập tức chỉnh đốn binh giáp để xuất quân. Nào ngờ vừa chuẩn bị rời thành thì lại có tin triều đình truyền đến là triều đình đã nghị hòa với người tây, các lộ binh mã lại tiếp tục thảo phạt Việt khấu, không cần phải về kinh Cần vương hộ giá nữa. Trương Tiểu Biện nghe xong thở phào nhẹ nhõm, liền cùng chúng huynh đệ trong doanh đàm kim luận cổ một hồi, cuối cùng nói đến việc liên quân Anh Pháp có bản lĩnh gì, chẳng qua cũng chỉ có mấy nghìn người ngựa mà cũng dám đánh đến Bắc Kinh, chỉ cần Nhạn doanh chúng ta xuất chiến thì một đao chặt đầu ngay tên Tù trưởng mang về ngâm rượu. Bỗng có một tên bộ hạ đến bẩm báo: "Có một vị tiên sinh kể chuyện muốn cầu kiến quan doanh"

    Trương Tiểu Biện nghe nói, lập tức nhớ đến hồi trước khi huyết ở Hoàng Thiên Đăng đã dẫn mọi người vào thành nghe kể chuyện, lúc ấy, Tôn Đại Ma Tử còn chưa chết, anh em còn tụ tập cùng nhau, thật là sung sướng biết mấy? Chợt nhớ đến chuyện cũ, hắn tự dung không kìm được tiếng thở dài. Hắn biết vị tiên sinh kể chuyện nọ là một người rất hiểu biết, cũng nên dùng lễ để tiếp đãi, liền hạ lệnh cho thủ hạ mời người đó vào. Vừa gặp mặt, hắn đã cất tiếng chào hỏi: "Tiên sinh à tiên sinh! Ông đến thật đúng lúc, chúng ta đang chán vì nhàn rỗi đây, mau kể cho bọn ta mấy chuyện li kì xưa nay đi nào"

    Vị tiên sinh đó hành lễ với mọi người, rồi cười bảo: "Trương Tam gia, không biết có muốn tại hạ kể hầu một chuyện này không?" Trương Tiểu Biện đáp: "Chuyện dã sử chẳng qua cũng chỉ có mấy đoạn đó, ta đã chán nghe từ lâu rồi. Hôm nay, chi bằng tiên sinh kể về sự tích của Nhạn doanh chúng ta đi". Hắn nảy ra ý định lạ lùng, định bụng bắt vị tiên sinh kể chuyện nọ phải sáng tác ngay một đoạn chuyện tại chỗ, kể về việc hoàng đế trong Tử Cấm thành, khi biết chuyện Nhạn doanh ở Linh Châu dẹp yên giặc giã, có tài nghệ bách chiến bách thắng, trên điện Kim Loan, ngài đã đích thân ban ngự tửu, truyền cho "Trung dũng Nhạn Doanh" vào kinh để ra mắt hoàng thượng. Lúc đó, trong kinh thành khắp hang cùng ngõ hẻm, hàng vạn người không phân già trẻ, gái trai đều ra tranh nhau xme mặt, chỉ thấy doanh quân chữ Nhạn khôi giáp rực rx hành quân đi qua chín cửa xong thì đi qua lầu diễn võ, từng hang Đoản đao thủ, Trường thượng thủ, Cung nỗ thủ, Đằng bài thủ xếp thứ tự đâu đấy, đội ngũ tề chỉnh, dày đặc, đúng là lính như mây, tướng như mưa, quân dung nghiêm chỉnh, trận thế uy nghi.

    Các viên tiêu quan nghe thấy thế đều hô hố cười rộ, đồng thanh khen hay, huyên náo như sấm, nhưng vị tiên sinh kể chuyện nọ lại toát mồ hôi lạnh, nghĩ bụng: "Thằng ranh này thực là ba hoa, chẳng sợ gió độc méo mồm hay sao. Thôi cứ phải nói chuyện trong yếu trước mắt đã" Đoạn, ông ta bảo Trương Tiểu Biện rằng: "lần này tại hạ đến đây, đúng là có chuyện lạ muốn kể cho Tam gia nghe, nhưng chuyện này có liên can trọng đại, không tiện nói rộng ra ngoài, chỉ có trời biết đất biết, ngài biết, tôi biết mà thôi"

    Trương Tiểu Biện vốn sớm biết vị tiên sinh kể chuyện này không phải không dưng tìm đến đây, liền lập tức cho tả hữu lui ra, và nghĩ trong bụng: "Chỉ e tai vách mạch rừng" bèn hạ giọng hỏi: "Sớm biết tiên sinh là một nhân vật phi phàm, nhìn xa trông rộng, hôm nay có ý đến đây, không biết có việc gì chỉ giáo?"

    Vị tiên sinh kể chuyện nọ cũng hạ giọng nói: "Trương Tam gia, chúng ta là người ngay không nói chuyện mờ ám, có phải ngài quen với Lâm Trung Lão Quỷ trong mộ Kim Quan đúng không?"

    Trương tiểu Biện trong lòng giật thót một cái. Chuyện này xưa nay hắn giấu rất kín, trừ Tôn Đại Ma Tử đã mất mạng trong trận chiến hồi trước ra, hắn không thổ lộ bất cứ điều gì với ai, chẳng ngờ người kể chuyện này cũng biết. Nếu ông ta đã nói trúng tim đen như thế, ắt hẳn cũng là người trong cuộc, huống chi Trương Tiểu Biện cũng còn nhiều điều nghi ngoặc chưa rõ. hắn đành cởi mở trước, không giấu giếm gì nữa, gật đầu thừa nhận rồi hỏi: "Sao tiên sinh biết?"

    Vị tiên sinh kể chuyện nọ nói: "Chuyện này nói ra rất dài, núi vẫn xanh xnah nước vẫn chảy, muốn biết nguyên do bên trong, xin tam gia hãy nghe từ đầu đến cuối. Trong vùng núi non hoang dã ngoài thành Linh Châu, có một ngôi mộ hôn vùi một di cốt ngậm hờn, dân gian vẫn gọi là mộ Kim Quan. Ngôi mộ này không hề tầm thường, nếu nói hết thì đúng thực là : "kể hết, mây mù buốt vạn cổ; Nói ra gió dữ thấu tầng mây".

    Rốt cuộc chuyện sau sẽ thế nào, hạ hồi phân giải.

     
  3. Alpha Wolf

    Alpha Wolf Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/5/15
    Bài viết:
    1,211
    Được thích:
    169

    Tặc Miêu


    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng

    Hồi 8 - Miêu nô


    Nguồn: truyenngan.com.vn



    Vị tiên sinh nọ hiểu rõ tiền nhân hại quả, mới kể cho Trương Tiểu Biện nghe một câu chuyện. Chuyện ấy là về lai lịch ngôi mộ cổ Kim quan, vốn là nơi mai táng vị Quý phi nương nương. Bà ta lúc sinh tiền giỏi ca múa, dung mạo tuyệt trần, nghiêng nước nghiêng thành, ba nghìn cung nữ trong đại nội không thể sánh bằng, vì vậy rất được Hoàng đế sủng ái.

    Bà quý phi ấy rất thích nuôi những giống mèo quý. Phàm là những loài mèo có tiếng trên thế gian, bà ta đều tìm mọi cách để có được, chỉ riêng về Sư miêu thường bám theo bà ta cũng không dưới mười con rồi. Trong đàn mèo đó, có một con Sư miêu Ba Tư có cặp mắt quỷ hai màu khác nhau là quý nhất, lúc nào cũng theo bên cạnh bà ta như hình với bóng.

    nào ngờ, một hôm nọ, khi đang chơi đùa trong Ngự hao viên, con Sư miêu mắt quỷ nhìn thấy một con bướm trắng, quấn quýt bên hoa. nó liền vồ chụp, truy đuổi, chạy khỏi đại nộ rồi từ đấy không biết đi về đâu, tìm khắp nơi mà không thấy. Quý phi nương nương cả ngày khóc lóc, cơm cháo chửng thiết, đổ một cơn bệnh nặng, khiến Hoàng thượng hết sức lo lắng, sốt ruột.

    Để lấy lòng Quý phi, có mấy vị đại thần trong triều đã cất công tìm trong dân gian mấy trăm nghìn con Sư miêu Ba Tư nhưng đám mèo đó đều không làm Quý phi vừa lòng. lại có vị đại thần không tiếc vàng bac, sai thợ khóe, bỏ bao công sức, tạo ra một con Sư miêu bằng vàng, giống con mèo thật như đúc, thần thái cũng hết sức nũng nụi, riêng cặp mắt mèo được khảm bằng đá quý có màu sắc lạ, cực giống con mèo hồi trước, đựng trong hộp bằng ngọc đẹp, hiến vào trong cung mới khiến Quý phi chuyển nuồn thành vui. Từ đó dễ thấy, năm xưa bà ta được sủng ái thế nào.

    Nhưng hoa thơm tàn mau, cảnh đẹp chẳng lâu, mèo là loài vật thông minh, nơi nào đàn mèo tụ tập thì thể nào cũng xảy ra chuyện quái lạ, rốt cuộc cũng làm kinh động đến Thái hậu đương triều. ĐÚng là: "Lặng thì ao, gió vào thì bể, rất nhiều phi tần bị thất sủng nhân cơ hội gièm pha, đồn rằng, Quý phi nọ cả ngày hay thì thầm với bầy mèo, chắc chắn nó là con ly miêu thành tinh ở trong mộ cỏ đã vào cung, dùng yêu thuật để mê hoặc Hoàng thượng, khiến cho triều đình đổ đốn, dần dà ắt sẽ phá hoại giang sơn, xã tắc.

    Thái hậu ở lâu trong thâm cung, đã dưỡng thành tính tình âm hiểm đọc ác, liền tìm một cái cớ, treo cổ, giết chết Quý phi. Hoàng đến biết chuyện, tuy rất đau lòng nhưng không dám phản ứng gì. thương xót cho ái phi chết thảm, ông ta hạ chỉ đưa nàng về quê an táng, lúc đầu cho quàn trong làng Kim quan ba năm, đợi đến khi xây xong mộ mới chính thức hạ huyệt, mai táng.

    Bầy mèo mà Quý phi nuôi dưỡng trong cung hồi trước cùng đám Miêu nô chăm sóc mèo cũng đều bị đuổi khỏi cung. Đám Miêu nô tưởng nhớ ân đức của chủ cũ liền đem đàn mèo lớn chạy đến thành Linh Châu để cư trú, canh giữ mộ cho Quý phi. Dòng giống ấy cứ sinh sôi mãi cho tới nay, chính vì vậy, bầy mèo hoang trong thành Linh Châu tuy hết sức đông đảo nhưng đều là loại mèo có phẩm cấp rất quý, khiến inh Châu có cái tên là "Miêu Nhi thành". Nếu truy về nguồn gốc tận cùng thì mộ Kim quan chính là khởi đầu cho việc này.

    Đám Miêu nô đều là người Việt, hiểu thuật xem tướng mèo, trong thời gian trú ngự tại thành Linh Châu, canh giữ mộ, họ đã chọn ra vài đệ tử, truyền thụ cổ thuật này, gọi là Miêu chủ. Miêu Tiên Đàm đạo nhân nổi tiếng thiên hạ sau này cũng chính là truyền nhân của dòng mạch đó, chẳng qua là "màu xanh sinh ra từ màu lam nhưng còn xanh hơn màu lam, mà thôi". Đàm đạo nhân hiểu biết phương vật trên khắp thế gian, biết nhiều dị thuật, nhưng vì xảy ra cái án sai mèo vào cung trộm Dạ minh châu nên ông ra đã mai danh ẩn tích, thay đổi diện mạo, vân du bốn bể, cuối cùng không biết tung tích ra sao.

    Bản lĩnh cả đời của Đàm đạo nhân đều được chép trong bộ "Văn vật thông tải", truyền đến đời sau thì vào tay Miêu chủ Lâm Trung Lão Quỷ của thành Linh Châu, người này không họ không tên, chỉ có một cái đạo hiệu như thế, không những được truyền thị ý bát của dòng Miêu nô, Miêu đạo mà bản thân còn gặp nhiều kỳ ngộ khác. Lão giỏi việc xem bói bằng mèo, nhìn sao trời biết thiên tượng, xem địa lý biết phong thủy, thông hiểu Ngũ hành, nói lành dữ, họa phúc như thần, mặt bàn Tam mệnh, đoán thành bại, hưng suy như thánh.

    nhưng, Lâm Trung Lão Quỷ hồi trẻ tâm thuật gian tà, ý đồ dùng Miêu nhi dược luyện thuốc Kim đan, hòng có thể điểm đá hóa vàng, uống vào có thể trường sinh bất lão, vì vậy mới gia nhập Tháp giáo, đã ăn thịt không ít đồng nam, đồng nữ, làm nhiều việc tán tận thiên lương. Có hôm nọ vào núi tìm thuốc, lão gặp phải mưa lớn, và bị sấm sét đánh trúng, nửa người bị hỏng, mặt mũi không ra hình người. Lão may mắn giữ đực tính mạng, dùng mưỡi mèo chắp vào trong mồm, dùng xương mèo, da mèo vá vào thân, từ đó về sau không bao giờ chường mặt thật ra, ẩn nấp trong mộ Kim quan mười mấy ăn.

    lão là người hiểu đạo, biết mình tuy thoát khỏi số bị sét đánh nhưng cũng mất đi nửa sinh mạng, lại biết rằng những hành vi Tạo Súc của mình nhất định sẽ bị trời phạt lần nữa. Trường đại hạn này muốn trốn cũng không thể trốn được, chỉ có thể luyện được thứ bàng môn tà đọa chứ không bao giờ thành được chính đạo, vì vậy , lão càng ẩn kín hình tích, không bao giờ dám lộ diện trên thế gian.

    Lúc ấy, muốn thành được đại đạo, thì chỉ còn cách dùng phương pháp do các Miêu nô năm xưa truyền lại, chính là tìm một người có phúc lớn để đổi mạng cho mình. Chính vì vậy, lão cất công chờ đợi vất vả trong ngôi mộ cổ nhiều năm, rốt cuộc tìm được người có thể đếm rõ dố mèo trong "Bách miêu mê hồn đồ: là Trương Tiểu Biện. Trương Tiểu Biện sinh ra đã có mệnh Mèo, rất lạ lùng, tử vi tùy thời có thể lên có thể xuống, có thể giàu có thể nghèo.

    Lâm Trung Lão Quỷ tự xưng là Miêu tiên, lấy cớ là muốn kết muộn mối thiện duyên, truyền thụ cho Trương Tiểu Biện vài ngón xem tướng mèo, đồng thời bảo hắn có thể được vinh hoa phú quý, quan cao lộc hậu. Trong bóng tối, lão chỉ vẽ cho hắn, mượn tay hắn để tiêu diệt tận gốc Tháp giáo.

    Lâm Trung Lão Quỷ là chủ bầy mèo Linh Châu. Lão thấy con mèo Trường Diện La Hán nhiều lần lộ vẻ quái dị, tự biết là kiếp số đã đến. chỉ cần nó mở miệng cất tiếng là mạng lão sắp hết. Nghe đến đoạn này, Trương tiểu Biện cũng đã lấp được khoảng trống về những nhân quả, nợ nần trước đây. Thì ra, Lâm Trung Lão Quỷ muốn mượn viên võ quan tam phẩm của Trương Tiểu Biện để làm hình nhân thế mạng cho lão vượt qua số trời.

    Nếu việc của lâm Trung Lão Quỷ thành công, lão sẽ trở nên xuất quỷ nhập thần, gieo tai họa không chỉ trong một thành, một vùng mà thôi. Nào ngờ người tính không bằng trời tính, cũng bởi mệnh của Trương Tiểu Biện cũng chưa đến nỗi đi đứt, rốt cuộc, trong ngôi chùa cổ Ngõa Quán, con cáo ba mắt đã dụ hắn ra ngoài, tránh được cái chết. Lâm Trung Lão Quỷ nọ tuy liệu việc như thần nhưng lão chuyên dối trời lừa người, rốt cuộc cũng tính sai một nước cờ, đến lúc thi hành thuật văn hồi cơ trời thì lại bị thiên thạch giáng xuống, thân thể nát nhừ và bị ngọn lửa nghiệp chướng hóa thành nắm xương tàn.

    Xem ra con mèo Trường Diện La Hán hễ mở mồm cất tiếng là chủ nhân của nó ắt bị họa chết người, chỉ có điều, "Miêu chủ" không phải Trương Tiểu Biện mà là Lâm Trung Lão Quỷ. Chuyện này cũng do trời đất xui khiến mà ra, ứng với lời rằng: "Ý trời khó cưỡng"

    Trương Tiểu Biện lúc đầu cũng ngầm đoán được vài đầu mối, lúc này nghe được hết tiền nhân hậu họa, biết rằng quá nửa đều là sự thực, nhất định không phải người kể chuyện trước mặt đã đơm điều đặt chuyện. Hắn nghĩ lại mà sống lưng ớn lạnh, nếu không có con hồ ly già ấy đến cứu thì Trương Tam gia đã sớm bị người ta bắt làm, hình nhân thế mạng rồi, chỉ e đến lúc chết cũng còn bị che mắt. Nhưng không biết vì sao, hắn cũng không quá oán hận Lâm Trung Lão Quỷ, nghe chuyện lão bị sao rơi chết trong chùa Ngõa Quán, lòng hắn có chút buồn bã. Hơn nưa, Trương Tiểu Biện biết mình vốn không có số giàu sang vô bờ bến, tuy thế hắn cũng rất hụt hẫng, thực là: "Một mai hiểu rõ vòng nhân quả; Trời cứ sáng trăng, hạc cứ bay". Hắn hỏi vị tiên sinh kể chuyện rằng: "Xem ra chuyện này có nguồn gốc rất sâu xa, không biết vị tiên sinh đây vốn chỉ chuyên nghề kể chyueenj, làm sao và từ chỗ nào có thể biết rõ ràng đến thế?"

    Vị tiên sinh kể chuyện tỏ ra thành khẩn đáp rằng: "Nói ra xấu hổ, tại hạ với Lâm trung Lão Quỷ đều thuộc vào dòng Miêu nô của mộ Kim Quan. Tuy nhiều năm nay, hai bên không qua lại gì nhưng thấy các hành động của Trương Tam gia tại thành Linh Châu, tại hạ biết chắc là có người nào đó đứng sau mách bảo. Có điều, Lâm Trung Lão Quỷ đó là bậc tiền bối cảu tại hạ, lại là một kẻ liệu việc như thần, thủ đoạn lợi hại. Mèo hoang trong toàn thành đều là tai mắt của lão, vì vậy hồi trước mới không dám bảo thẳng với Tam gia, chỉ e đắc tội với lão thì thành ra tự chuốc vạ vào thân"

    Trương Tiểu Biện nổi nóng, chửi thầm tiên sinh kể chuyện này đúng là thằng cha thối tha, bèn nói: "Bây giờ mất bò mới lo làm chuồng, kể lại có ích gì nữa?"

    Người kể chuyện đó đột nhiên bái rạp trước Trương Tiểu Biện rồi nói: "lâm Trung Lão Quỷ đã chết ở chùa Ngõa Quán, bây giờ Tam gia chính là chủ nhân của bầy mèo trong thành Linh Châu. Thuật xem mèo tìm của vốn nửa chính nửa tà, tất cả đều trông chờ vào người sử dụng, người thiện thì sẽ làm được việc thiện, kẻ ác sẽ làm ra việc dữ. tại hạ bất tài, từ nay về sau xin nguyện theo là tả hữu của Trương Tam gia, làm sư gia của Nhạn doanh"

    Trương Tiểu Biện nghe thấy mừng lắm, được thế thì còn gì bằng. Hắn nói: "Trong quân xưa nay thường khó khăn, đơn điệu, Nhạn doanh bọn ta nếu có được tiên sinh ở cạnh, được nghe kể chuyện thì từ nay về sau lo gì buồn chán?" Nhưng, nghĩ theo một hướng khác, hắn thyas người này tuy là tài hoa gấm vóc, đọc rộng cổ kim, nhưng Nhạn doanh của tam gia đâu phải là chõ hắn muốn đến thì đến, muốn đi thì đi, bản lĩnh bày mưu tính kế của hắn rốt cuộc ra sao, còn phải thử tài mới biết được, vì vậy hắn nói rằng: "Vào nơi thủy bạc, lên chốn Lương Sơn đầu tiên phải nộp một cái "đầu danh trạng", nếu tiên sinh muốn làm gia sư thì trước hết hãy thay Tam gia dến phủ Đề đốc làm thuyết khách, làm thế nào để lão Đồ Hải ********e con gái gả cho Trương Tam gia, lúc ấy mới tính tiên sinh là tài"

    Tiên sinh kể chuyện thấy Trương Tiểu Biện ra điều kiện kì lạ mới chịu nhận làm tả hữu, liền cười bảo: "Có gì mà khó", đoạn, vạch ra một kế sách. Vốn bầy mèo hoang trong ngõ Miêu nhi thành Linh Châu có một con mèo khoang nhỏ nhắn, toàn thân đều có đốm lông như đồng tiền, gọi là loại "Thiên Văn Tiền", thời xưa gọi là "Hỉ Nhi Tiền". Theo thuật xem tướng mòe mà nói, con mèo này rất giỏi nịnh nọt người ta, hễ nó đi theo người nào thì người đó sẽ được mọi người yêu thích. Mang con mèo này đến phủ Đề đốc để xin chuyện kết thân thì chẳng cần phải mở mồm nói, chuyện hôn sự này cũng đã thành công đến ba phần, ngoài ra, lão Đồ Hải rất mê tín vào bói toán, chỉ cần ngụy tạo cho Trương Tiểu Biện một lá số tử vi cực quý, thêm vào ba tấc lưỡi dụ thuyết của người kể chuyện thì lo gì việc chẳng thành.

    Trương Tiểu Biện vốn chỉ định làm khó vị tiên sinh kể chuyện này một chút, chằng ngờ việc lấy con gái lão Đồ Hải lại được lão nói ra dễ dàng như lấy đồ trong túi như vậy, hắn bất giác tươi cười, vội vã định đứng dậy, đến ngõ Miêu Nhi bắt con "Thiên Văn Tiền:, đẻ cho thằng cha cẩu quan Đồ Hải nếm thửu thủ đoạn của hắn.

    Nào ngờ tiên sinh kể chuyện lại nói:"Bây giờ đang khi loạn lớn chưa yên, chính là lúc triều đình dụng binh, các lộ quan quân đều đang phải xuống phía Nam tiêu trừ Việt khấu. Trong giai đoạn khẩn cấp thế này, tạm thời không nên bàn việc hôn nhân, chuyện đó thì để sai hãy tính"

    Trương Tiểu Biện nghĩ bụng: Thế cũng tốt, Tam gia ta sẽ từ từ tính sổ với lão Đồ Hải, cơm không ăn thì gạo còn đấy, đã có cách hay thì cần gì phải vội vã dung ngay lúc này". Sau đó hắn cho gọi huynh đệ trong doanh quan, bày một án hương, mời tiên sinh kể chuyện làm lễ thắp hương nhập môn, đọc lời ăn thề. Những chuyện đó không phải bàn tiếp.

    Tiên sinh kể chuyện nhập doanh không quá ba ngày, quả nhiên đúng như lời lão, Nhạn doanh phụng mệnh xuống phía Nam dẹp giặc, xem ra, giữa quan quân và Việt khấu sắp nổ ra một trường đại chiến chưa từng có. Trương Tiểu Biện ngờ tiên sinh đó chỉ bảo, trước khi rời thành Linh Châu đã mang theo một con mèo" Đắc Thắng miêu" bênh cạnh, thống lĩnh lính dõng Nhạn doanh, hội hợp với đại đội quan quân, rầm rập trảy đi.

    Mấy năm sau đó, Nhạn doanh theo đại quân đánh dẹp Bắc Nam, quét sạch Việt khấu, bụi chiến tranh còn chưa lắng xuống, lại lên phía bắc bao vây, tiêu diệt Niệm phỉ, rồi theo Sở quân của Tả soái Tả Tông Đường tây tiến, một trận lấy lại toàn bọ khu vực Tân Cương, công danh đã được mới về nhàn. Trong ngần ấy năm đã hành quân vạn dặm, lập nên không biết bao công lao hãn mã, lưu truyền rất nhiều sự tích kì lạ, những việc ấy không bàn tiếp ở đây nữa. Thật đúng là: "Bể sâu mới chứa rồng vùng vẫy, trời rộng nên cho phượng rạo chơi". Tới đây, truyện coi như kết thúc.

    Hết.

     
  4. Alpha Wolf

    Alpha Wolf Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/5/15
    Bài viết:
    1,211
    Được thích:
    169

    Tặc Miêu


    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng

    Lời cuối - Mèo lạnh lùng


    Nguồn: truyenngan.com.vn



    Chuyện Tặc miêu, tôi bắt đầu viết từ mùa hè năm 2007 cho tới ngày Quốc tế Lao Động 1/5/2008 mới kết thúc. Tuy cả cuốn không dài, nhưng lúc đó, ngoài giờ làm ra, tôi chủ yếu dồn sức để viết cuốn "Ma thổi đèn". Vì vậy, năm bữa, nửa tháng mới có thời gian viết được một đoạn ngắn trong cuốn Tặc miêu, viết đến cuối cùng, ước được khoảng hai chục vạn chữ trong khoảng thời gian gần một năm.

    Trong quá trính viết cuốn Tặc miêu, tôi thường tự hỏi mình rằng: "Rốt cuộc làm thế nào chọn được con đường đúng đắn" và "Rốt cuộc thế nào mới được coi là một con đường đúng đắn? Con đường mình đã đi qua là ngẫu nhiên hay là tát nhiên?" Chính vì vậy, dù ít dù nhiều, trong cuốn Tặc miêu cũng lộ ra những băn khoăn đó của tôi.

    Tôi thấy rằng, đời người ra có thể nói là một mê cung không có bản đồ mà điểm khởi đầu là lúc ta sinh ra và điểm cuối cùng là khi ta chết đi. Cũng bởi trong đường đời, mỗi giây mỗi phút, mỗi nơi mỗi lúc, chúng ta đều phải đối mặt với vô số các sự lựa chọn, tựa hồ đầy ắp những điều có thể không bao giờ hết. Nhưng khi anh dừng chân, ngoảnh đầu lại nhìn, hẳn là sẽ phát hiện ra, trong mê cung đời người ấy, các ngã ba đan xen phức tạp dẫu nhiều không đếm xuể nhưng chẳng có chỗ nào để mà quay đầu lại, từ điểm đầu đến điểm cuối cùng chỉ có một con đường duy nhất. Dẫu là thành công, hay là thất bại, cho dù là con đường do mình chọn lựa, hay con đường do người khác mách bảo thì đều là những con đường chưa chắc chắn chính xác. Không đi tới tận cùng, ai mà tiên liệu được, tôi nghĩ con đường đó chính là "con đường vận mệnh".

    Trương Tiểu Biện trong Tặc miêu cũng như thế. Hắn găọ được kì nhân dị sĩ trong mộ cổ Kim quan, được mách bảo con đường vinh hoa phú quý, nhưng trên thực tế, hắn bị biến thành hình nhân thế mạng để ngăn chặn hộ kiếp nạn cho người ta. Nhưng, ngay cả Lâm Trung Lão Quỷ liệu việc như thần cũng không cách nào thoát khỏi "lực hút của vận mệnh".

    Còn lính dõng trong Nhạn doanh, họ xuất thân từ đám lục lâm, thảo khấu, trong mắt vốn chẳng có khái niệm "tung quân báo quốc". Họ xả thân, liều chết, bán mạng cho Trương Tiểu Biện, chẳng qua một là vì miếng cơm manh áo; hai là vì Trương Tiểu Biện là người thân tín của Tuần phủ đại nhân. Trong thời loạn lạc, vận mệnh của mỗi cá nhân nhỏ bé tới mức không đáng kể đến, chỉ còn cách dựa dẫm vào một vận mệnh to lớn hơn mới có cơ hội để tồn tại. vì vậy, xét trên góc độ này, mỗi nhân vật trong Tặc miêu thực ra đều chỉ là số phận trên một canh bạc, phải tự tìm thấy một con đường thuộc về mình, có thể nói đó là con đường tanh máu mà tiền đồ còn chưa biết trước được.

    Trên đây là những suy nghĩ của cá nhân tôi trong thời kỳ sáng tác Tặc miêu, sau đây, tôi muốn nói về bản thân câu chuyện, trước tiên là về ngôn ngữ trong đó. Bối cảnh của câu chuyện Tặc miêu xảy ra trong những năm Hàm Phong đời Thanh, vì vậy tôi lựa chọn thứ ngôn ngữ gần như kiểu tự thuật BẠch Thoại khi bình sách. Từ trước đến nay tôi đều cho rằng, những câu chuyện có bối cảnh thời đại không giống nhau thì cần phải có phong cách ngôn ngữ khác nhau, nếu chuyện xảy ra vào thời cổ mà xuất hiện nhiều thứ ngôn ngữ cận hiện đại thì sẽ khiến người đọc cảm thấy buồn cười, chí ít là bản thân tôi không thể chấp nhận điều đó. Giả dụ Trương Tiểu Biện nói: "Người đẹp như cô tuy đáng yêu nhưng gợi tình và bạo lực quá". Như thế, rõ rang không thích hợp chút nào, chi bằng viết Trương Tiểu Biện nói: "Người phụ nữ này bản tính phi phàm, giết người không chớp mắt, hơn cả bọn mày râu".

    Trước đây, tôi từng có mơ ước trở thành một đạo diễn, nhưng nghĩ đời tôi không có hy vọng gì nữa rồi, đành thong qua việc sáng tác truyện với các đề tài khác nhau để tự thỏa mãn ước vọng nhỏ nhoi của mình. Những bộ phim của đạo diễn nổi tiếng Stanley Kubrick có cả đề tài viễn tưởng như "Du hành vũ trụ năm 2011", đề tài chiến tranh như "Áo khoác bằng thép", tưởng chừng mỗi bộ phim đều có loại hình và phong cách khác nhau nhưng đều là những tác phẩm kinh điển để đời. Tôi nghĩ, người đạo diễn kể một câu chuyện cho công chúng bằng ngôn ngữ hình ảnh, còn nhà văn lại kể câu chuyện bằng ngôn ngữ viết, mỗi tác giả cũng nên cố gắng viết về nhiều loại hình truyện khác nhau. Tôi tuy là nhà văn không chuyên nhưng cá nhân tôi cũng hy vọng đem lại cho bạn đọc những tác phẩm với nhiều sắc thái khác lạ. Tính tới nay, trong toàn bộ tác phẩm của tôi thì Tặc miêu là cuốn làm tôi hài lòng nhất về mặt biểu cảm ngôn ngữ.

    Nói về phong cách câu chuyện Tặc miêu thì rất đậm chất truyền kỳ thô sơ. Tuy rất nhiều nhân vật trong đó xem ra chỉ là những tên lưu manh đầu đường xó chợ và có rất nhiều con mèo hoang thú vị, nhưng xét về tổng thê, Tặc miêu hoàn toàn không phải là một câu chuyện khôi hài, giải trí. Trong giai đoạn chiến tranh loạn lạc, lòng người li tán, quân Thanh và quân Thái Bình chem. Giết nhau khiến cho thây nằm đầy nội, máu chảy thành song, các hình phạt tàn khốc của quan lại càng hết sức dã man, bầy mèo hoang trong thành tưởng nhủ thân cận với Trương Tiểu Biện nhưng trên thực tế đều là tai mắt, ngầm ngầm theo dõi nhất cử nhất động hắn từ trong bóng tối, sau tất cả những sự việc đó, Trương Tiểu Biện nghĩ lại mà còn thấy ớn lạnh trong lòng.

    Trong truyện Tặc miêu đề cập đến rất nhiều bội dung liên quan đến thuật xem tướng mèo, tôi thường được độc giả nêu câu hỏi về sự thực của các nội dung đó. CHuyện xem tướng mèo đúng là có thực ở khu vực Quảng Đông, trên đời cũng vẫn còn lưu truyền "Miêu kinh", còn những chuyện về các loài mèo hoang Linh Châu được đề cập trong Tặc miêu như con mèo tiên bốn tai vào hoàng cung đại nội ăn trộm Dạ minh châu, con Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu, con mèo Trường diện La Hán, con Độ thủy hồ lô miêu, cho tới những con mèo không có cơ hội xuất hiện như Thiên Văn Tiền, Đắc Thắng miêu... , đều do tác giả xây dựng nên. Tôi nói giỡn mà chơi, bạn nghe giớn chơi, nói chung nên tưởng tượng bọn chúng là một nhánh của mèo Ba Tư.

    Trong câu chuyện Tặc miêu, ngoài bối cảnh sự thật lịch sử ra, còn có nhiều sự vật có thể tìm thấy ở các tư liệu bên ngoài, không phải hư câu hoàn toàn. Nhưng việc dó xịn để bạn đọc tự tìm hiểu, tôi không nói nhiều tỏng lời cuối này nữa, chỉ nói về mấy truyền thuyết dã sử mà bối cảnh trong truyện Tặc miêu đã tiếp cận.

    Một là về những con chó hoang hung ác nhu Thát tử khuyển và việc "chó húc". Đó đều là những việc có thực. Thát tử khuyển tuyệt chủng khá sớm, từ sau đời Thanh đã không còn thấy các tài liệu liên quan ghi chép nữa, còn việc chó hoang húc ván quan tài để ăn xác chết thì cách đây mấy chục năm vẫn còn có người chính mắt trông thấy. Bọn chúng trên trán có khối u thịt đỏ màu máu, thường xuất hiện ở các vùng ngoài ô hoang vu và xóm làng hẻo lánh, tới mấy năm gần đây thì không thấy nhiều nữa.

    Hai là về chuyện Tạo Súc. Yêu thuật Tạo Súc tục truyền có thể biến người ta thành trâu, ngựa, lợn, dê để mang đi bán. Việc này được ghi chép ở nhiều sách vở liên quan, trong đó, cuốn nổi tiếng nhất là Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh tiên sinh. Việc đó chỉ là truyền thuyết dân gian mà thôi, thời xưa chưa chắc đã có yêu thuật này, trong truyện Tặc miêu tôi miêu tả những kẻ lột bộ da chó, da khỉ tươi, bọc lên mình đứa bé vừa bắt cóc được, rồi huấn luyện chúng nhào lộn, nhảy vòng lửa, bắt làm khỉ xiếc, chó xiếc để biểu diễn kiếm tiền nơi đầu đường xó chợ, đều là những sự thực. Tuy chúng không nằm trong truyền thuyết về đám Tạo Súc nhưng tôi cho rằng, những việc đó rất phù hợp với bản nghĩa của hai chữ "Tạo Súc", có điều chưa từng khảo chứng, không biết giữa hai bên có phải là một hay không.

    Thứ ba là một số truyền thuyết dân gian về mèo. Mọi người đều rõ, ở Ai Cập, người ta coi mèo là thần linh, ở Trung Quốc thì chưa từng có phong tục thờ cúng Miêu Tiên. Thời xưa từng có truyền thuyết về Bát tiên động vật và Ngũ đại gia, chuột cũng là một số trong đó, nhưng từ đầu chí cuối không hề có chỗ cho loài mèo. Tuy nhiên, ở phương Đông, không chỉ riêng Trung Quốc mà cả ở Nhật Bản, Thái Lan... , mèo được coi là một linh vật thần bí, ví dụ như những chuyện "mèo già biết nói tiếng người nhưng đó là điều cấm kỵ nên không dám nói", đều có thể trở thành các câu chuyện rất thú vị. Độ dài của truyện Tặc miêu có hạn, không có cách nào viết nhiều hơn về những truyền thuyết và dật sự liên quan đến mèo hoang, nếu về sau có cơ hội, tôi sẽ kể nhiều hơn một chút. Ngoài ra, những ghi chép thời cổ về thiên thạch rơi và hiện tượng thành phố Tháp thì tôi không muốn kể lể dài dòng thêm nữa.

    Tôi nhớ rằng, bạn đọc nhiều lần hỏi tôi: Trương Tiểu Biện trong Tặc miêu và Mô kim Hiệu úy Trương Tam Liên Tử trong Ma thổi đèn đều không nói rõ tên thật, đều cùng tự gọi mình là Trương Tam gia, lại cùng theo Tả soái Tả Tông Đường tây chinh Tân Cương, liệu có phải là một người?

    Tôi nghĩ cần phải giải thích chỗ này một chút. Tặc miêu hoàn toàn không phải là đoạn trước của Ma thổi đèn, toàn chuyện không liên quan gì đến việc mò vàng, trộm mộ. Câu chuyện Tặc miêu xảy ra ở thành Linh Châu, bắt đầu từ khi Trương Tiểu Biện trộm hụt gà, đêm lạc vào mộ cổ Kim quan cho tới khi người kể chuyện đến gia nhập quân doanh và Nhạn doanh xuống phía Nam chinh chiến là kết thúc hoàn toàn. Từ nay về sau, nếu có cơ hội, tôi chắc chắn sẽ tiếp tục viết về những sự tích Nhạn doanh vào Kinh thành để truy bắt dư nghiệt Tháp giáo, huyết chiến với Hầu tử trận của Niệm quân ở Hiệp Tây và tác chiến trên sa mạc Hồi Cương. Rốt cuộc Trương Tiểu Biện có phải là Mô kim Hiệu úy Trương Tam Liên Tử hay không, nghi vấn này, tôi xin để lại cho độc giả.

    Nói đến đây, tôi cũng rất cảm tạ bạn đọc của truyện Tặc miêu. Trong đó, có những người tôi chưa từng gặp nhưng phần lớn tôi đã từng gặp qua, tôi luôn luôn ghi nhận những đồng cảm mà các bạn đã mang đến cho tôi. Trân trọng cảm ơn các bạn đã ủng hộ và quan tâm. Chúc các bạn mạnh khỏe, bình an, vạn sự như ý.

    Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến Văn Na, người đã thiết kế vẽ bìa và hình minh họa của cuốn sách. Cảm ơn bạn đã vẽ những bức tranh rất đẹp cho Tặc miêu. Cuối cùng, đối với những biên tập viên đã duyệt cho tác phẩm này, tại hạ viết sai rất nhiều chữ, chấm phẩy vốn lung tung, các vị đã vất vả với tại hạ quá rồi!

    Thiên Hạ Bá Xướng - Trương Mục Dã

    Ngày 2 tháng 5 năm 2008.

     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Thành viên đang xem bài viết (Users: 0, Guests: 0)