[Kiếm Hiệp Cổ Điển] Ân Thù Kiếm Lục ( Full )

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. biglove

    biglove Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/7/11
    Bài viết:
    9,835
    Được thích:
    14,144
    Ân Thù Kiếm Lục

    Tác Giả:Cổ Long

    -- o --

    HỒI 1: Người Áo Trắng


    Nguồn: vietkiem.com




    Gió lạnh xé thịt da như dao cắt, từng đụn mây dày đặc cuộn chụp lên nhau...

    Bên bờ Bột Hải sóng biển ì ầm, đợt đợt nối tiếp phủ lên gành đá...

    Rốp!....

    Một đợt sóng nhào lên, đẩy chiếc buồm đập vào ghềnh đá phát lên một tiếng khô khan, cột buồm gãy làm đôi tụt ra theo sóng nước.

    Mặt biển đen ngòm vụt lóe lên hai ánh ngời ngời như hai vì sao lấp lánh di động lần lan vào bờ biển.

    Nếu có ai chợt thấy nhất định sẽ cho đó là đôi mắt của Thần Biển báo hiệu cho nhân gian biết trước cơn thịnh nộ của phong bạ..

    Nhưng không, hai đóm sáng cao dần khi sát đến bờ, và khi đợt sóng cao nhất tụt xuống, hiện ra một người vận áo trắng, tóc lõa xõa phủ vai đứng thẳng mình lên, đôi mắt ngời chiếu sáng...

    Thanh trường kiếm vỏ đen óng ánh được nắm chặt trong bàn tay trắng muốt, nhiều đường gân xanh rờn nổi lên cuồn cuộn, bộc lộ nội lực của kẻ cầm gươm và đồng thời cũng nói lên rằng giữa sóng biển muôn trùng dồn dập, người ấy bằng lòng bỏ tất cả những gì trên cõi đời này, chỉ trừ thanh trường kiếm ấy mà thôi!

    Rõ ràng người áo trắng là kẻ bị đắm thuyền, nhưng không biết từ nơi đâu và từ lúc nào, đã nắm chặt thanh gươm vượt sóng nước vào bờ...

    Chân đặt lên bãi cát chưa được mấy bước, thân ảnh người ấy vùng lảo đảo, nhưng chỉ thoáng qua, người áo trắng đã đứng thẳng mình lên một cách vững vàng, tia mắt như hai vì sao chiếu thẳng.

    Hắn vừa đi vừa móc trong lưng ra một túi vải dầu, từ trong đó hắn lấy ra một tấm địa đồ và nhiều hàng chữ ghi chi chít.

    Hắn xem qua và cuốn lại cho vào túi cẩn thận, vừa đi vừa lẩm bẩm:

    - Lao Sơn... Phi Hạc Môn Thanh Hạc Liễu Tòng...

    Hắn cứ bước đều không để ý mọi vật chung quanh, nhưng lạ làm sao, nếu có ai đem thước ra đo dấu chân của hắn, chắc chắn sẽ kinh ngạc vô cùng, vì mỗi bước cách nhau đúng y một thước bảy tấc, không bước nào xê xích một ly!

    Cứ như thế, hắn thẳng đến Phi Hạc Môn.

    Phi Hạc Môn, một trang trại dưới chân Lao Sơn nằm chắn miền Đông Lỗ. Nó là một cơ nghiệp, một tông phái võ lâm, được dựng lên bởi bàn tay của Thanh Hạc Liễu Tòng, một nhân vật thành danh suốt bốn mươi năm mà Thập Thất Hạc Trảo, Hóa Hạc Chưởng và Hạc Vũ Châm được thiên hạ mệnh danh là Tam Tuyệt, một cái tên chấn động giang hồ.

    Mặt trời đã xế sau rặng núi, người áo trắng không mau không chậm, bước đi vẫn đúng y một thước bảy tấc, thẳng vào Phi Hạc Môn, đầu tóc vẫn lòa xòa quái di.....

    Hai cánh cửa gỗ thật dày sơn màu đỏ chói đóng chặt im ỉm. Người áo trắng bước thẳng qua cùng một lượt với khung cửa đổ. Nếu không để ý, có thể nghĩ rằng tại khung cửa đổ người ấy bước qua, chứ không ai tưởng tượng được rằng kình lực từ bước đi của hắn đã làm cho khung cửa kiên cố ấy tróc ra một cách quá dễ dàng.

    Bên trong, dưới hàng cổ thụ, có nhiều thanh niên đại hán, có lẽ là đám lực sĩ giữ cửa, thấy tình huống dị thường, cùng đứng phắt lên và cùng há hốc mồm kinh ngạc...

    Như không cảm thấy việc làm của mình gây ra khinh động, người áo trắng cứ bước đều tới trước mặt đám đại hán và dừng lại nói bằng một cách chậm rãi từ từ:

    - Liễu Tòng ở đâu? Gọi hắn ra đây!

    Tiếng nói từng tiếng một rõ ràng lắm, nhưng người nghe vẫn thấy lạ, y như người nói có gì chận trong cổ họng lúc phát âm, một giọng nói khác thường.

    Đám đại hán có lẽ là cao thủ Phi Hạc Môn, và có lẽ bình thường họ cũng là tay kiệt liệt, nhưng lúc bấy giờ, lúc người áo trắng xuất hiện, họ bỗng đâm ra tái mặt, họ lừ mắt ra hiệu cho nhau và chậm rút lui.

    - Chuyện gì mà kinh hoàng thế?

    Tiếng quát như chuông gióng, làm cho đám đại hán đang hớt hải thụt lui vụt quay mình lại. Một lão già mặc cẩm bào, râu tóc bạc phơ đứng sững trước bệ thần.

    Một trong đám đại hán cúi đầu run rẩy:

    - Sư phu..... Sư phụ hãy xem... quỷ...!

    - Nói bậy!

    Lão già tóc bạc cau mày rầy át, nhưng ánh mắt ông ta cũng hơi sửng sốt trước trạng thái dị kỳ của người áo trắng.

    Tuy nhiên, vẫn còn đúng phong độ của kẻ hào hùng, lão già tóc bạc vòng tay cố tạo vẻ ung dung:

    - Bằng hữu là ai? Chẳng hay có chuyện chi quá bước đến tệ môn?

    Người áo trắng bước từng bước một và cất giọng nói lạ lùng:

    - Ông là Liễu Tòng?

    Thanh Hạc Liễu Tòng đúng là lão già tóc bạc, ông ta vẫn giữ vẻ ôn tồn:

    - Vâng, Liễu Tòng chính là lão phu!

    Người áo trắng khẽ gật đầu:

    - Tốt, tuốt kiếm ra!

    Liễu Tòng nhướng mắt:

    - Bằng hữu và họ Liễu này có thù oán ra sao?

    Người áo trắng trả lời đặt một:

    - Không!

    Liễu Tòng nhếch môi cười:

    - Vốn không từng quen biết, lại không có oán thù, thế tại sao mới gặp nhau lại đòi so kiếm?

    Người áo trắng lạnh lùng:

    - Thế ai bảo ông thành danh một bậc võ sư?

    Liễu Tòng vặn lại:

    - Chẳng lẽ những nhân vật thành danh trong chốn võ lâm, các hạ cũng đều cùng quyết đấu cả sao?

    Môi điểm nụ cười kỳ dị, người áo trắng đáp từng tiếng một:

    - Đúng, nhắm danh nhân trong võ lâm hiếu chiến, đó là mục đích của ta đến miền Đông này vậy!

    Sắc diện đã dị kỳ, phát âm lại càng kỳ dị, cộng thêm nét cười quái lạ, người áo trắng quả là một kẻ khác thường.

    Một luồng ớn lạnh chạy dài trong xương sống, nhưng Thanh Hạc Liễu Tòng vẫn ngửa mặt cười ha hả:

    - Lấy sức của một mình, hướng thiên hạ võ lâm khiêu chiến, bằng hữu... bằng hữu định nói đùa đấy chứ?

    Sắc mặt của người áo trắng vẫn lạnh như băng, hắn nói từng tiếng một:

    - Tuốt kiếm ra!

    Là một kẻ thành danh hiệp nghĩa và cũng là một người mà võ lâm nể mặt tôn sùng, sự việc xảy ra tuy rằng vô cớ nhưng dù sao sự khinh lờn đó cũng không dung thứ được. Thanh Hạc Liễu Tòng khẽ liếc ra sau, lập tức môn hạ hối hả dâng binh khí.

    Món binh khí hơi có vẻ lạ thường, nó là một cặp côn ngắn, trên đầu giống như bàn tay úp khum khum năm móng ló ra y như móng hạc. Cặp Hạc Trảo này đã giúp Liễu Tòng danh dậy giang hồ, nhưng hiện tại trước một trạng huống lạ lùng do một nhân vật lạ lùng mang lại, làm cho đầu Hạc Trảo trên tay họ Liễu chợt thấy rung rung.

    Tréo theo chữ Thập, một tay quày ngang, một tay trầm hẳn xuống, Liễu Tòng gằn giọng:

    - Trừ Thập Thất Hạc Trảo ra, trong này còn tàng ẩn Hạc Vũ Châm chuyên đánh vào huyệt đạo, xin bằng hữu hãy lưu ý cho!

    Trước hết nói rõ chỗ diệu dụng của món binh khí độc môn của mình, thâm ý của người lãnh tụ Phi Hạc Môn không muốn âm thầm chiếm lấy thượng phong, đúng là con người chính đại. Và mở đầu bằng chiêu thức Thập Tự Giá bộc lộ đầy khí lực tiến có thế công, thối có thế thủ, họ Liễu đã giáo đầu một thế cực kỳ đẹp mắt.

    Tia mắt nhìn như xoi vào cặp Hạc Trảo, người áo trắng khẽ gật gù:

    - Nghe Trung Nguyên gần đây thêm mười ba món binh khí lạ lùng, không dè chạm chiến lần đầu khi đến miền Đông đã gặp ngay một món!

    - Xin mời!

    Khẽ gắt lên một tiếng, Liễu Tòng vụt thay đổi chiêu thức trảo bên trái đưa ra trước, trảo bên phải kéo ra sau, chân trái hơi co, chân phải duỗi thẳng lướt mình tới nhanh như gió cuốn.

    Người áo trắng vẫn đứng thẳng mình như trụ, chẳng những trường kiếm không rút ra khỏi võ, mà đôi mắt lại sụp lim dim như một nhà sư nhập định.

    Đảo luôn hơn mười bận, bao nhiêu lần dợm định tấn công nhưng thấy tư thế dị kỳ của người áo trắng làm cho Liễu Tòng chưa dám ra taỵ..

    Màn đêm đã hoàn toàn phủ xuống, vầng trăng rọi ánh mập mờ, người áo trắng vẫn bất động như một bóng ma rờn rợn...

    Vầng trán cao rộng của Liễu Tòng lấm tấm mồ hôi.

    Hàng cao đệ Phi Hạc Môn há hốc mồm quan sát, từng nhịp tim đập mạnh, không khí đứng lại nặng nề.

    Thình lình, Liễu Tòng hú lên một tiếng như xé màn đêm, hai tay trảo nhoáng chóa mắt.

    Thân ảnh Liễu Tòng vừa di động, bóng người áo trắng cũng cùng một lúc chớp lên. Hai bóng người như nhập một vào nhau xẹt thẳng lên như ngọn pháp thăng thiên và từ từ dạt ra rơi xuống.

    Liễu Tòng trợn trừng đôi mắt, một đường máu ngay giữa Tam Tinh chạy dài xuống sóng mũi, rọc thẳng một đường tới rún, thẳng băng như sợi chỉ căng dài.

    Chỉ một chớp mắt, ruột gan theo máu trào ra, Liễu Tòng từ từ bật ngửa.

    Thanh trường kiếm trên tay người áo trắng hơi chúc nghiêng xuống đất, máu từng giọt nhỏ xuống ròng ròng.

    Những kẻ đứng ngoài, khoé mắt trừng như muốn rách ra vì kinh dị.

    Họ đều là hạng cao đồ Phi Hạc Môn, võ công đều là bậc thành danh trong thiên hạ miền Đông Lỗ. Thế mà, không một ai thấy kịp người áo trắng đã sử dụng chiêu thế gì, cả đến việc tuốt kiếm ra khỏi vỏ bao giờ, họ cũng không nhận thấy.

    Chỉ đến khi hai bóng người dang ra và dừng lại thì mới hay rằng sư phụ của họ đã tử thương, và điều kinh dị hơn hết là lối đánh của người áo trắng chỉ có một kiếm thôi, mà lại là một kiếm rọc thẳng băng như thước kẻ.

    Đảo cặp mắt như điện lạnh qua khắp một vòng, người áo trắng chậm chạp tra gươm vào vỏ và quay mình đi thẳng ra ngoài, thần thái ung dung như lúc đi vô, và mỗi bước đúng y thước bảy tấc.

    - Ác tặc, trả mạng cho thầy ta!

    Tiếng thét ré lên cực kỳ bi thiết, một trong hàng cao đệ Phi Hạc Môn nhún mình phóng vút theo.

    Tiếp liền theo bốn người nữa, cũng trong hàng đại đệ tử của Liễu Tòng cùng một lượt ập rạ..

    Cả năm người ánh mắt đỏ rực vì đau thương, vì căm hận quyền chưởng cùng một lúc ập thẳng vào người áo trắng.

    Công lực của họ cực kỳ thâm hậu, tuy không thể nói là nhất nhì trong vùng Đông Lỗ, nhưng được trui rèn công phu tại Phi Hạc Môn, cả năm người nhập lại kình phong cuốn tới như nước vỡ bờ.

    Người áo trắng vẫn ung dung đi tới, thanh trường kiếm chậm chạp rút ra khỏi vỏ và loáng ngược ra sau.

    Một tiếng rú rạp lên, năm người cao đệ Phi Hạc Môn ngã ngửa ra sau nhất loạt.

    Không thể nhìn thấy kịp, một đường kiếm đưa ra sau lưng, nhưng lạ làm sao cùng một lúc, lại tẻ ra năm ngã, và thật là ngoài sức tưởng tượng của mọi người, năm người cao đệ Phi Hạc Môn mỗi người đều bị một nhát kiếm đúng ngay giữa trán, rạch thẳng một đường xuống rún y như cái chết của Liễu Tòng.

    Người áo trắng vẫn từng bước một đi luôn không hề quay lại, máu từ mũi kiếm rỏ xuống từng giọt theo đường.

    Tất cả môn đệ Phi Hạc Môn đều cảm thấy như chân mình mềm nhũn, không một ai nhấc được bước nào.

    Tuy nói là từng bước nhưng chỉ thoắt cái, người áo trắng đã vọt ra ngoài mười trượng, và y như không nghe thấy tiếng rú, y như không hề hay biết đằng sau thêm năm mạng lìa đời.

    Hắn vừa đi vừa rút cuộn giấy ra lẩm nhẩm:

    - Mồng bảy tháng mười:

    Thanh Hạc Liễu Tòng. Mồng tám tháng Mười:

    Song Hoàn Triệu Sĩ Hồng. Mồng chín tháng Mười:

    Bát Tiên Kiếm Lý Thanh Phong. Mồng mười tháng Mười:

    Bát Thủ Phiến Kim Đại Phi.

    Mười một tháng Mười:

    Tế Nam Bạch Tam Không...

    Một trận gió cuốn mạnh qua, mây xám hụp xuống và từ không trung mưa trút ào ào, gió mưa từng chập rít lên, như báo hiệu hạn tử vong của những kẻ có tên trong sổ...

    Mười một tháng Mười.

    Tại phủ Tế Nam, bầu trời u ám, mây đen giăng thấp, báo hiệu một cơn mưa to sắp đổ xuống thành. Trên con đường cái, từ xa tiến đến hơn mấy mươi người vận tang phục hộ tống bốn cỗ xe, mỗi cỗ xe tải một quan tài.

    Đoàn xe tang đó từ hướng Đông đến Tế Nam, qua cửa thành theo đại lộ tiến vào, dừng lại trước cổng một tòa nhà to lớn.

    Nơi cổng, có tám đại hán vận y phục đen, chừng như đứng sẵn tại đó từ lâu, chực chờ nghinh đón.

    Người trong đoàn xe tang cũng như người tại cổng đều ngưng trọng thần sắc, ai ai cũng có vẻ vừa bi thương vừa phẫn hận.

    Những người vận tang phục kề vai khiêng quan tài, theo tám đại hán áo đen qua cổng vào sân thẳng đến đại sảnh.

    Nơi thềm đại sảnh có một lão nhân, thân vóc cao lớn, năm chòm râu dài, buông thõng qua ngực, vận áo rộng đen, tướng mạo hết sức thanh kỳ, đứng lặng nhìn họ.

    Những người vận tang phục vừa trông thấy lão nhân, đồng đặt quan tài xuống, rồi đồng khóc rống lên, vừa khóc vừa gào:

    - Bạch lão tiền bối ơi! Xin tiền bối nghỉ đến niềm thâm giao ngày cũ, tìm cách báo thù cho gia sư!

    Lão nhân áo đen, trầm trầm gương mặt, từ từ bước xuống từng bậc thềm, từ từ vẫy tay, vừa ra hiệu cho bọn người vận tang phục đang quỳ mọp trên sân đứng lên, vừa bảo họ giở nắp quan tài.

    Xác chết nằm trong quan tài không đắp điếm gì cả. Xác nào cũng mang một vết thương như nhau, vết thương do mũi kiếm quét từ giữa đôi mày ngang qua mũi xuống bụng. Nạn nhân mở trừng đôi mắt tuy còn màu trắng dã, nhưng khí hận bốc bừng.

    Lão nhân áo đen chẳng để lộ một xúc động nào trên gương mặt, chỉ ngẩng đầu nhìn tám đại hán áo đen, bảo:

    - Đóng cổng lại, đứng bên ngoài canh giữ, không để cho một ai ra vào!

    Tám đại hán cúi đầu lãnh lịnh trở ra ngoài, đóng trái cánh cổng lại.

    Lão nhân gầm đầu nhìn xuống đát, chấp tay sau lưng đi tới đi lui mãi, vừa đi vừa lẩm nhẩm một mình:

    - Thanh Hạc Liễu Tòng, Song Hoàn Triệu Sĩ Hồng, Bát Tiên Kiếm Lý Thanh Phong, Bát Thủ Phiến Kim Đại Phi! Tất cả bốn người, trông mấy ngày liên tiếp bị sát hại! Hừ! Hừ, một sự kiện hi hữu trong võ lâm.

    Nếu chẳng mắt thấy, tất khách giang hồ dù tai nghe cũng không ai tin nổi! Phải! Còn ai tin nổi một sự kiện như thế lại có thể xảy ra chứ?

    Lão nhân áo đen là ai?

    Lão là Minh Chủ võ lâm toàn hạt Sơn Đông họ Bạch tên Tam Không, ngoại hiệu Thanh Bình Kiếm Khách, từng nổi danh trên giang hồ là tay vô địch về kiếm pháp cũng như quyền thuật.

    Lão cùng bọn Thanh Hạc Liễu Tòng là chỗ bằng hữu thâm giao, do đó sau khi các vị ấy tử nạn, bọn môn đồ mới đưa thi hài đến đây, thỉnh cầu lão tìm phương báo thù phục hận.

    Lão đi tới đi lui một lúc, rồi dừng chân lại, hỏi qua tình hình. Bọn người vận y phục tang luân phiên thuật lại diễn tiến của sự việc.

    Đại khái, chúng cho biết có một quái khách vận áo trắng xuất hiện đột ngột, hỏi qua loa mấy tiếng, rồi xuất thủ, nhưng chỉ với một chiêu kiếm thôi, là sư phó của gã gục liền. Quái khách áo trắng không nói một lời thừa, không làm một cử động dư, hạ sát sư phó họ xong là bỏ đi liền.

    Thanh Bình Kiếm Khách Bạch Tam Không càng nghe càng ngưng trọng thần sắc, sau cùng lão lẩm nhẩm:

    - Một chiêu trí mạng? Quái lạ thật! Bọn Thanh Hạc Liễu Tòng dù sao cũng chẳng đến đỗi hèn kém, không chịu được một chiêu? Quái khách áo trắng là ai? Hắn sử dụng môn công gì tuyệt diệu như thế?

    Bên ngoài, tám đại hán áo đen, chính là tám đệ tử của Bạch Tam Không, còn suy tư về cái chết của bốn vị anh hùng, người nào cũng trầm trầm gương mặt. Họ chẳng tưởng nổi trên thế gian lại có người tài giỏi như quái khách.

    Bỗng, trước tầm mắt họ, xa xa có một người vận áo trắng từ từ tiến về phía họ.

    Một người áo trắng!

    Tám đại hán cùng biến sắc. Họ đưa mắt nhìn nhau, nhưng khi nhìn ra trước mặt, người áo trắng đã đến nơi rồi.

    Người đó mặt lạnh như tiền, đôi mắt sáng quắc đảo quanh họ một lượt, đoạn buôn cộc lốc:

    - Vào gọi Bạch Tam Không ra đây!

    Y không buông thừa một tiếng, câu nói vừa đủ diễn tả cái ý của y, chừng như bình sanh y chẳng chịu dư công làm việc gì vô ích, đến bước đi y cũng chẳng vội vàng. Vì không vội vàng nên y chẳng hề sử dụng đến thuật khinh công. Nếu lấy con mắt bình thường nhận xét y, tất phải nghĩ rằng y không phải là tay có võ công đáng sợ.

    Cũng vì nhận xét như thế, nên tám đệ tử của Bạch Tam Không thầm nghĩ như nhau. Nếu tám người hợp sức lại, cùng một lúc tấn công y, chắc chắn là y khó tránh khỏi bị hạ.

    Tuy nhiên, họ chưa dám xuất thủ, họ còn ngầm hỏi ý nhau. Người này đưa mắt nhìn người kia, nhưng người nào cũng sờ tay vào đốc thanh trường kiếm lủng lẳng bên hông.

    Tên đại đệ tử họ Mạc tên Bất Khuất lạnh lùng thốt:

    - Bằng hữu đã muốn gặp gia sư, thiết tưởng cũng chẳng khó khăn gì, bất quá bằng hữu làm cách nào vượt qua khỏi anh em tại hạ!

    Soảng! Soảng!

    Tám tiếng soảng vang lên gần như đồng thời phát xuất. Tám thanh trường kiếm rời khỏi vỏ, chớp ngời nơi tay họ. Tám thanh trường kiếm cùng chong ra, đồng một độ, chân họ đứng tấn cũng đồng một hình thức.

    Giả dĩ họ lại giăng hàng ngang, không người nào chồm tới hoặc thụt lui, trông tư thế của họ, vô cùng ngoạn mục, nhưng chẳng kém kiêu hùng.

    Họ tuốt kiếm, chực chờ, song chưa xuất thủ.

    Người áo trắng lùi lại hai bước. Trong lúc lùi, một đạo bạch quang từ tay y lóe lên rồi tắt liền. Đạo bạch quang tắt lúc chân y chưa chạm đất, dù y chỉ lùi hai bước thôi.

    Đạo bạch quang đó là làn chớp của thanh kiếm. Y vừa rút kiếm, vừa khoa lên, vừa lùi lại, vừa trụ bộ, vừa tra kiếm vào vỏ, ngần ấy động tác chỉ diễn ra trong một thoáng. Nhưng trong tay tả của y đã có một cành cây khô, do nhát kiếm vừa rồi tước đứt. Và chẳng rõ y chụp cành cây đó như thế nào, cả tám tên đệ tử của họ Bạch chẳng ai trông thấy cả.

    Người áo trắng quắc mắt nhìn họ, trong ánh mắt hiện rõ niềm thương hại họ. Y bước tới hai bước, trao cành cây khô cho Mạc Bất Khuất, đoạn lạnh lùng nói:

    - Mang vào, trao cho sư phó các ngươi!

    Rồi y lặng lẽ bước đến phiến đá dựa cội cây gần đó, ngồi xuống, đưa ánh mắt mơ màng nhìn tận xa xăm...

    Tám tên đệ tử họ Bạch sửng sốt nhìn nhau, chẳng ai hiểu ý tứ của y ra sao cả.

    Mạc Bất Khuất cầm cành cây khô, lẩm nhẩm:

    - Cái gì thế này?

    Tên đệ tử thứ hai, họ Kim tên Bất Úy, buông một câu:

    - Hay y ngán chúng ta?

    Kim Bất Úy có thân vóc to lớn hơn các bạn đồng môn, tánh tình thô lỗ, hành động hồ đồ, lại nóng nảy, chừng như bình sanh hắn chỉ buông lung theo tính khí, chẳng bao giờ chịu dùng lý trí xét suy cả.

    Nhưng tên đệ tử thứ ba, họ Công Tôn tên Bất Trí, trầm giọng thốt:

    - Sự tình không phải đơn giản đâu, chúng ta phải vào trong bẩm báo với sư phụ mới được!

    Công Tôn Bất Trí có thân hình vừa ốm vừa thấp, tâm cơ mưu trí có thừa. Bạch Tam Không đặt cho hắn cái tên Bất Trí là cốt cảnh cáo hắn đừng quá ỷ lại vào cái trí linh mẫn trong mọi trường hợp, bởi con người thích dùng trí thường đa nghi và kém thành thật.

    Mạc Bất Khuất nhìn thoáng sang người áo trắng đang ngồi thừ trên phiến đá, khẽ gật đầu:

    - Tam sư đệ nói phải! Chúng ta cần bẩm báo sư phụ, tùy người định đoạt!

    Hắn quay mình, xô vẹt cánh cửa cổng, bước vào.

    Vừa trông thấy hắn, Bạch Tam Không đã biết là quái khách áo trắng đến rồi, lão biến sắc mặt, hỏi nhanh:

    - Y ở đâu?

    Mạc Bất Khuất đáp:

    - Còn ở bên ngoài. Y chẳng dám động thủ với bọn để tử mà chẳng dám ngang nhiên tiến vào, y chỉ tước một cành cây, bảo đệ tử mang vào trình sư phụ!

    Bạch Tam Không cau mày, tiếp lấy cành cây. Thoạt đầu ánh mắt của lão còn chơm chớp, dần dần ánh mắt đó dán chặt vào cành cây, hay đúng hơn lão nhìn sững dấu kiếm chặt ngang cành cây, lão ngây người xuất thần.

    Mạc Bất Khuất theo dõi từng biến chuyển trên gương mặt của lão, khởi sơ lão nhếch môi điểm phớt một nụ cười, chừng như hài lòng, chừng như tán thưởng đường kiếm chém rất sắc, dần dần lão ngưng trọng thần sắc, kế tiếp có vẻ sợ hãi, cuối cùng thì tay lão rung rung theo, hắn vô cùng kỳ quái, không dằn được tính hiếu kỳ, hỏi gấp:

    - Sư phụ cho phép bọn đệ tử xuất thủ đuổi y đi chứ?

    Bạch Tam Không trầm gương mặt quát:

    - Câm ngay! Các ngươi muốn nạp mạng cho y phải không?

    Mạc Bất Khuất lộ vẻ kinh dị:

    - Nhưng...

    Bạch Tam Không trừng mắt:

    - Nếu y chẳng thương hại các ngươi, thì đừng nói là tám mạng các ngươi, dù có đông gấp mấy lần số dó cũng phải gục tại cổng rồi!

    Mạc Bất Khuất bị sư phụ quở, cúi đầu nhưng lòng chưa phục.

    Bạch Tam Không thở dài:

    - Uổng công ta huấn luyện các ngươi, học tập bao nhiêu năm trời rồi vẫn chẳng có nhãn lực xét người, xét mình. Hãy ra ngoài đó, gọi tất cả sư đệ vào đây cho ta!

    Mạc Bất Khuất trố mắt:

    - Vào hết trong này, người áo trắng...

    Bạch Tam Không quát chận:

    - Nếu ý muốn vào dễ thường các ngươi ngăn chận được à? Y muốn ngồi đợi bên ngoài, thì chẳng bao giờ y vào, dù các ngươi bỏ trống cửa.

    Lão dặn tiếp:

    - Cứ mở toát cổng ra, cấm các ngươi đóng lại. Đóng cửa, chẳng ngăn được y, mà còn tỏ ra hèn nhát.

    Mạc Bất Khuất còn làm sao cãi được lịnh của sư phụ? Hắn bước ra ngoài, gọi các sư đệ vào, hắn không quên nhìn thoáng sang quái khách áo trắng, thấy y vẫn ngồi bất động tại chỗ, không hề hướng mắt nhìn về phía cửa.

    Bạch Tam Không trở vào đại sảnh, lại chiếc bàn có đầy đủ giấy bút và nghiêng mực, ngồi xuống viết một phong thư, niêm phong cẩn thận.

    Trong lúc lão viết thư, các đệ tử đứng xa xa, lặng lẽ nhìn lão.

    Phong thư niêm kỹ rồi, Bạch Tam Không đứng lên, day lại nhìn các đệ tử, đột nhiên quát lớn:

    - Qùy xuống!

    Các đệ tử chẳng biết ý tứ sư phụ như thế nào, đồng riu ríu quỳ xuống, người nào cũng lộ vẻ kinh dị.

    Lão nghiêm giọng hỏi:

    - Giới luật thứ ba của bổn môn như thế nào?

    Tất cả tám người đồng thanh đáp:

    - Triệt để tuân sư mạng, ai phản bội sẽ bị trời tru đất diệt.

    Bạch Tam Không gật gù, đoạn trầm gương mặt, gằn từng tiếng:

    - Cuộc chiến hôm nay, thắng thì ta sống, bại thì ta chết. Dù ta thắng hay ta bại, các ngươi không được can thiệp! Các ngươi nghe rõ chứ, tuyệt đối không được vọng động xuất thủ.

    Mạc Bất Khuất khẽ kêu lên:

    - Trời! Sư phu.....

    Bạch Tam Không khoát tay, hét:

    - Lịnh của ta là thế, kẻ nào trái lịnh sẽ bị trời tru đất diệt. Các ngươi nghe chưa? Không kẻ nào được nói tiếng gì nữa!

    Tám tên đệ tử gầm đầu, im lặng.

    Bạch Tam Không trầm giọng tiếp:

    - Nếu ta chết trong cuộc chiến này, thì từ Mạc Bất Khuất trở xuống, bảy người hãy chia tay nhau đến các phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Nga Mi, Điểm Thương, Không Động, Hoa Sơn và Hoài Dương thuật rõ sự tình và xin nhập môn, và tiếp tục luyện võ. Chưởng môn các phái đó là bằng hữu của ta, các vị ấy sẽ thu nhận các ngươi. Hãy nhớ lời ta dặn, chuyên tâm khổ luyện, không được nghĩ ngợi gì đến các việc khác, nhất là việc báo thù cho ta!

    Lão nhìn người đệ tử thứ tám, dừng lại một chút, rồi ngập ngừng:

    - Còn ngươi...

    Lão thở dài.

    Người đệ tử đó họ Hồ, tên Bất Sầu, nghiêm sắc mặt, chờ nghe.

    Một lúc lâu, Bạch Tam Không tiếp:

    - Việc ta giao phó cho ngươi rất quan trọng, ta lo ngại từ đây ngươi sẽ không còn được an nhàn tự tại. Ngươi sẽ vất vả gian lao, lắm lúc lại phải đương đầu với nguy hiểm. Chẳng rõ ngươi dám thừa nhận không?

    Hồ Bất Sầu quả quyết:

    - Đệ tử dù nát thân cũng chẳng từ. Xin sư phụ cứ phân phó.

    Hắn, thân ngắn, đầu to, trán rộng, mặt hắn luôn luôn tươi, tuy không cười vẫn trông như cười. Hắn thường ngày ăn và học chứ chẳng hề trò chuyện ba hoa như các bạn đồng môn, họ cho hắn là một người tích sự hơn hết.

    Mạc Bất Khuất và sáu người kia, thấy sư phụ giao trọng trách cho hắn, vừa lấy làm lạ bất bình, chừng như ganh tỵ.

    Mạc Bất Khuất cố lấy can đảm, ấp úng:

    - Nếu đúng là việc trọng đại, tại sao sư phụ không giao phó cho bọn đệ tử thi hành, lại ủy thác cho hắn? Hoặc giả đệ tử, hoặc giả Công Tôn Tam sư đệ, một trong hai chúng tôi có thể làm tròn nhiệm vụ sư phụ giao phó...

    Bạch Tam Không khoát tay:

    - Ngươi chẳng còn việc gì phải ở đây! Cút!

    Rồi lão trao phong thư cho Hồ Bất Sầu, trầm giọng thốt:

    - Nếu ta bại trong tay người áo trắng rồi, ngươi lập tức vào hậu viện, đưa Bửu nhi đến tận nơi ta đã ghi chú trên phong bì, giao Bửu nhi và phong thư này cho người đó, phần ngươi thì hãy tuân theo lời người đó, y bảo làm sao thì ngươi y theo làm vậy!

    Nói được điều khó nói xong, sắc mặt của Bạch Tam Không dịu lại, giọng lão cũng dịu theo, lão tiếp:

    - Vô luận là gặp điều gì quái dị Ở nơi đó, ngươi cũng chẳng nên kinh hãi. Bây giờ thì ngươi có thể đi được rồi!....

    Hồ Bất Sầu hỏi:

    - Nhưng sư phụ chưa.....

    Bạch Tam Không cười khổ:

    - Chưa giao chiến với người áo trắng? Ngươi cứ đi đi, sự việc sẽ diễn tiến đúng như ta dự liệu, chẳng có gì thay đổi cả!

    Tuy lão đã quát bọn đệ tử lui ra, nhưng lúc đó tám người vẫn còn hiện diện, lão chẳng nhìn đến người nào, lạnh lùng với lấy thanh kiếm trên án thư, bước ra tiền sảnh, đến bên thềm, nhìn qua bốn cổ quan tài, đoạn đến gần sờ tay lên nắp, rồi ngẩn mặt lên không, bật cười khanh khách, thốt:

    - Con nhà võ, cái lý phải chết tại chiến trường, thì cái chết có gì đáng sợ đối với ta?

    Lão bước đến cổng, ra ngoài, đi thẳng tới trước mặt người áo trắng, điềm nhiên cất tiếng:

    - Các hạ vì nghiên cứu cái đạo của võ học, nên không ngần ngại giết người, tại hạ vì cái đạo của võ học, không màng sanh tử vì một cuộc chiến. Tuy hai phương tiện khác biệt, song vẫn cùng chung cứu cánh, song phương đều vì cái đạo của võ học cả. Cục diện ngày nay đặt chúng ta đối lập với nhau, dù các hạ có giết tại hạ, tại hạ chẳng hề oán hận các hạ.

    Người áo trắng từ từ đứng lên, nghiêng mình thi lễ.

    Bạch Tam Không lấy làm lạ hỏi:

    - Các hạ còn phải thủ lễ nữa sao?

    Người áo trắng mặt lạnh như tiền, gật đầu:

    - Bắt buộc phải thế, bởi từ phương Đông đến Trung thổ, lần đầu tiên mới gặp một người như ngươi, xứng đáng là một nhân vật võ lâm! Ta phải chào, ta chào tư cách của ngươi!

    Đây là câu nói dài nhất của y, từ lúc y trôi dạt vào bờ biển, trải qua bốn hôm, sát hại bốn nhân vật.

    Bạch Tam Không trầm giọng:

    - Đa tạ!

    Người áo trắng trở lại thái độ cũ:

    - Động thủ đi!

    Bạch Tam Không tay hữu rút kiếm, tay tả còn nắm chiếc vỏ, buông gọn:

    - Mời các hạ!

    Liền theo đó, lão đưa cao thanh kiếm rồi đứng lặng.

    Cục trường tịch mịch lạ lùng, một cây kim rơi cũng nghe rõ tiếng.

    Bọn môn nhân của Liễu Tòng, Triệu Sĩ Hồng, Lý Thanh Phong và Kim Đại Phi hết sức kinh ngạc. Họ nhớ lại, lúc sư phụ họ giao thủ với người áo trắng, thì các vị đó không ngừng đảo bộ quanh đối phương, đảo bộ một lúc mới xuất thủ. Còn bây giờ, Bạch Tam Không chỉ cử gươm rồi bất động, thế là nghĩa gì? Tư thế đó, chiêu kiếm đó rất thông thường, tại sao Bạch Tam Không lại dùng để đối phó với người áo trắng?

    Trời! Sư phụ sử dụng tuyệt chiêu, mà còn không thoát chết được với địch, Bạch Tam Không lại dùng chiêu tầm thường thì mong gì thủ thắng?

    Giả sử người áo trắng chỉ nhích bước tới một chút, loang kiếm lên là Thanh Bình Kiếm Khách phải phơi thây trên nền đất, và chắc chắn vết thương cũng đồng dạng với vết thương của bốn người kia.

    Nhưng trước một chiêu thức thông thường đó, người áo trắng không tiến tới, trái lại còn lùi một bước.

    Thanh Bình Kiếm Khách Bạch Tam Không thấy đối tượng lùi, nên thu kiếm về, rồi đưa ra chiêu thứ hai, cũng bình thường như chiêu trước.

    Bọn môn đồ đứng bên ngoài lại một phen kinh hãi.

    Người áo trắng lại lùi thêm một bước, lùi rồi bất động, thần sắc vẫn lạnh lùng.

    Chiêu kiếm của Bạch Tam Không công không mạnh, mà thủ cũng không kín đáo, hơn nữa phần dưới thân hình lại để hở lồ lộ nét sơ hở mà bất cứ đối phương nào cũng thấy thèm.

    Nhưng người áo trắng không thèm. Chừng như lùi một bước chưa đủ, y lùi thêm hai bước nữa.

    Bọn môn đồ bên ngoài chẳng hiểu làm sao cả, chúng đưa mắt nhìn nhau, tất cả đều có đồng một thắc mắc như sau:

    Sư phụ họ xuất độc chiêu, vừa xuất chiêu là người áo trắng phản công ngay. Bây giờ, Bạch Tam Không xuất chiêu thông thường, lại dùng hai lượt, thế mà người áo trắng chỉ có lùi và bất động.

    Hai chiêu đó có mãnh lực gì, bức thoái đối phương?

    Chúng không hiểu, song người áo trắng hiểu.

    Chiêu thứ nhất của Bạch Tam Không là chiêu khởi đầu của Thanh Bình kiếm pháp, còn chiêu thứ hai cũng là chiêu khởi đầu, nhưng thuộc Uyên Ương kiếm pháp. Phàm trong giới kiếm thủ, khi nào luyện đến mức độ tinh vi, người ta mới dám sử dụng chiêu khởi đầu, vừa để chào đối thủ, vừa tỏ rõ cho đối thủ biết mình là tay kiếm uyên thâm, tỏ rõ như vậy mới xứng đáng là quân tử kiếm. Những chiêu khởi đầu không dùng để công ngay địch, tuy có sơ hở như vậy, song thực sự rất kín đáo, nếu đối phương cũng uyên thâm kiếm thuật, tất chẳng bao giờ hấp tấp thừa cơ nhào vô liền.

    Còn một lý do khác khiến Bạch Tam Không sử dụng hai chiêu kiếm thông thường đó là hai kiếm pháp Thanh Bình và Uyên Ương vốn do một đôi vợ chồng cầm đầu phái kiếm biến chế ra trong sinh hoạt hàng ngày, vợ đối với chồng tất phải tay nâng ngang mày, chồng đối với vợ phải tròn lễ độ, cho nên hai kiếm pháp đó đều khởi đầu bằng chiêu Cử Án Tề My, để chứng tỏ sự tương kính nhau.

    Bọn môn đồ sở học còn thiếu bạc, làm sao thấu đáo tinh lý bên trong, tự nhiên thấy làm lạ.

    Ngoài ra, Bạch Tam Không còn một dụng ý sâu xa, mới sử dụng hai chiêu kiếm đó.

    Lão nhận thấy bốn vị bằng hữu đều chết vì một thế kiếm duy nhất nhắm từ giữa đôi mày đi ngang mũi, xuống bụng, tất nhiên đối phương phải nhắm khoảng giữa đôi mi, và hộ vệ khoảng giữa đôi mi, lão mới thi triển chiêu Cử Án Tề My.

    Nhưng đưa ra hai chiêu đó, lão chỉ thấy đối phương lùi lại rồi bất động chứ không lướt tới tấn công. Lão giật mình, chẳng biết cứ giữ tư thế đó mãi hoặc dùng đi dùng lại hai chiêu đó, bắt buộc lão đảo bộ bước tới, vung kiếm đánh ra chiêu thứ ba liền.

    Chiêu thứ ba là một chiêu đắc ý nhất của lão trong kiếm thuật, tất nhiên phải ảo diệu vô tưởng, nhiều cao thủ trên giang hồ phải ngã gục trước mặt lão vì chiêu kiếm đó.

    Với chiêu thứ ba, lão vẫn thừa sức phòng vệ khoảng giữa đôi mi.

    Lạ lùng làm sao, người áo trắng vẫn lùi. Đến chiêu thứ tư của Bạch Tam Không, y cũng lùi luôn, y chỉ có lùi từ đầu cuộc đến giờ.

    Bọn môn đồ đinh ninh Bạch Tam Không đã chiếm được ưu thế rồi, bất giác chúng reo hò lên, niềm hân hoan hiện rõ trong ánh mắt, trên gương mặt của họ.

    Nhưng họ không hân hoan lâu nổi!

    Tiếng reo hò vừa vang dội, dư âm còn văng vẳng trong không gian, một ánh sáng chớp lên, ánh sáng từ nơi người áo trắng xẹt tới Bạch Tam Không. Kế tiếp một tiếng reng chấn động cục trường. Tiếng reng ngân dài, rồi một làn sáng xanh bay vút lên không, uốn cầu vòng, cắm phập vào một thân cây cách đó khá xa.

    Bạch Tam Không nắm chặt trong tay phần kiếm còn lại, chập choạng lùi mấy bước, miệng nhếch nụ cười thảm, buông khẽ mấy tiếng:

    - Chiêu kiếm... tuyệt diệu...

    Có lẽ lão định vớt câu với hai tiếng “vô cùng” cho trọn nghĩa, nhưng câu nói bỏ lửng ở chỗ đó, lão ngã ngửa người ra phía sau bất động.

    Bọn môn đồ kịp nhận ra một vết thương từ giữa đôi mi kép ngang mũi, dài xuống bụng, đồng dạng với vết thương của sư phụ họ!

    Họ xám mặt trố mắt, thừ người, trong phút giây khủng khiếp, chẳng có một phản ứng nào cả.

    Người áo trắng lạnh lùng nhìn mũi trường kiếm dài sáu thước, mũi kiếm còn nhỏ máu ròng ròng. Cơn gió quét qua, thổi tung bay những sợi tóc xỏa của lão, những sợi tóc vờn qua gương mặt lạnh lùng, trông y như một âm hồn trong lớp áo trắng.

    Qua những giây phút hãi hùng, bọn Mạc Bất Khuất cùng rú lên một tiếng lớn, cùng nhào đến bên cạnh Bạch Tam Không, cùng rống lên thê thảm.

    Riêng Hồ Bất Sầu cũng bước tới, nhưng đứng ngoài xa xa. Hắn lạy ba lạy, đưa tay vuốt mấy hạt lệ, đoạn quay mình bước vào.

    Những bước tường sau lưng hắn ngăn chận tiếng khóc, tiếng than của các vị sư huynh hắn không còn vang đến tai hắn, nhờ vậy tâm thần đỡ bấn loạn phần nào.

    Hắn đi thẳng vào hậu viện, ra đến hoa viên.

    Trong hậu viện, có một cây ngô đồng, tàn rậm, dựa cội cây có kê một chiếc giường thấp. Hiện tại, một đồng tử vận áo gấm, trạc độ mười một mười hai, đang nằm đọc sách.

    Hắn chăm chú vào quyển sách, đôi mắt đen láy mở to không chớp.

    Bên cạnh hắn có chiếc mâm nhỏ, trong mâm có mấy loại trái cây, chừng như hắn mải mê đọc, quên cả ăn, số trái cây còn rất nhiều.

    Hồ Bất Sầu đeo một bọc khá to nơi lưng, ung dung bước vào hậu viện, chưa tới gần, y đã gọi to:

    - Bửu nhi!....

    Đồng tử lặng thinh, mắt không rời quyển sách.

    Hồ Bất Sầu lại gọi lượt nữa, rồi lượt nữa, đồng tử vẫn không nhúc nhích, mắt dán chặt vào quyển sách.

    Hồ Bất Sấu thở dài, tuổi thơ nào biết gì? Nhà có đại tang mà hắn vẫn còn lơ lửng nơi chín tầng mây, nghĩ đáng thương hại biết bao!

    Y bước đến sát chiếc giường, nắm cánh tay đồng tử giật giật. Đến lúc đó, đồng tử mơi day mặt qua, nhìn họ Hồ, khẽ cau mày gắt:

    - Người ta đang xem sách, thúc thúc làm gì gọi ồn lên như thế?

    Hắn tức thật, nhưng cái tức của trẻ nít, hắn cố làm oai, tỏ vẻ nghiêm, trách nhẹ họ Hồ, tự vi mình cũng là kẻ thành nhân rồi, hoặc giả hắn chỉ xem Hồ Bất Sấu hơn hắn độ vài tuổi, dù hắn gọi là thúc thúc.

    Nhưng Hồ Bất Sấu không giận, dịu giọng hỏi:

    - Ngoại công của ngươi bảo ta vào đây đưa ngươi đi dạo một lúc, ngươi có thấy hứng không?

    Đồng tử là giọt máu duy nhất của con gái Bạch Tam Không tên là Bạch Man Sa, còn đồng tử lấy họ cha tên Phương Bửu Nhi.

    Kết hôn với Phương Sư Hiệp, Bạch Man Sa cùng chồng rời gia đình xuất ngoại hành hiệp khắp bốn phương trời. Cả hai chỉ trở lại nhà Bạch Tam Không có một lần mà thôi, để ký thác Phương Bửu Nhi cho ngoại công hắn ngay từ lúc hắn chưa tròn tuổi, từ đó đến nay, chẳng hề về thăm con.

    Xuất thân trong gia đình chuộng võ, Phương Bửu Nhi lại thích văn, nên chỉ mới có ngần ấy tuổi mà hắn ngày cũng như đêm, luôn luôn tay không rời quyển sách, lắm lúc đọc quên cả ăn. Hắn không giống như bao nhiêu trẻ đồng tuổi, chúng ham rong chơi nô đùa, còn hắn cứ miệt mài với bút nghiên sách vở.

    Nghe Hồ Bất Sầu đề nghị xuất du, hắn lắc đầu:

    - Tôi không đi đâu!

    Rồi hắn nhìn vào quyển sách, chăm chú đọc tiếp, bỏ mặc Hồ Bất Sầu thở dài nhìn hắn.

    Hồ Bất Sầu biết rõ tánh tình hắn. Tuy chuộng văn nhưng rất quật cường, bởi biết vậy, y không giận. Hắn có thể làm bất cứ việc gì hắn thích, dù khó khăn đến đâu, hắn cũng làm được, vui vẻ mà làm, nhưng đừng ai mong cưỡng ép hắn làm việc gì hắn không thích, vô ích, chẳng bao giờ hắn làm.

    Hồ Bất Sầu phải lựa lời khích hắn, y thốt:

    - Người xưa nói đọc vạn quyển sách, đi vạn dặm đường là hai điều rất cần cho cái đạo làm người. Đọc nhiều sách để trau dồi kiến thức, đi nhiều dặm đường để chứng nghiệm kiến thức, ngươi không muốn mở rộng mắt nhìn đời sao? Như vậy có khác nào là một con mọt sách.

    Đột nhiên, Hồ Bất Sầu làm sao cho hắn biết thảm trạng gia đình? Óc hắn còn non quá, cơn đại biết cố vừa qua gây ảnh hưởng tai hại nặng nề cho hắn, y phải cố dấu sự tình, gượng cười tươi đối thoại với hắn.

    Bửu Nhi day qua Hồ Bất Sầu, suy nghĩ một lúc rồi đáp:

    - Thúc thúc nói đúng! Tôi nên theo thúc thúc đi dạo một lúc. Nhưng trước khi đi, mình nên thu dọn mấy món này...

    Thu dọn để làm gì nữa? Toàn khu gia cư lẫn cả tài sản đều phải bỏ phế, bỏ cả, thì sá gì mấy vật mọn này?

    Y cười nhẹ, tiếp:

    - Là nam tử, là trượng phu, nói đi là đi, nói ở là ở, cử động thác lạc, có bậc anh hùng hảo hán nào tha thiết với những vật nhỏ mọn ấy? Họa chăng có bọn phụ nữ mới luyến tiếc những tế nhuyễn như vậy thôi.

    Bửu Nhi thoáng đỏ mặt, gật đầu:

    - Thì đi! Mình đi ngay bây giờ!

    Hắn cho mấy quyển sách vào trong áo, nhảy xuống giường điểm một nụ cười tiếp:

    - Bất cứ nơi nào, thúc thúc dám đến là tôi vẫn đến được như thường!

    Hồ Bất Sầu gật đầu:

    - Nam tử chí tại bốn phưong, kể cả những hiểm ác nhất! Chúng ta đi ngay!

    Họ vừa ra cửa đường sau, theo con đường nhỏ vào lòng thị trấn Tế Nam. Hồ Bất Sầu vừa lo vừa sợ. Lo vì hành trình vô định, sợ vì kẻ ác kia rất có thể theo dõi thực hành câu trảm thảo trừ căn. Tuy nhiên, ngoài mặt y luôn luôn tỏ ra tươi cười để giục lòng đồng tử, cho hắn nổi hứng lên, chịu đi xa với y.

    Thời tiết lúc đó đã vào thu, không khí mát mẻ, nhưng chỉ đi độ một dặm đường, Bửu Nhi đổ mồ hôi như tắm.

    Bỗng hắn dừng chân lại, chánh sắc thốt:

    - Hồ thúc thúc to đầu nhưng lại nhỏ trí quá! Cứ thản nhiên bước đi quên rằng cái bước của con nhà văn không hòa nhịp nổi với cước lực của người luyện võ. Thiết tưởng thúc thúc chậm lại bằng tôi cũng chẳng hại gì, hơn là tôi phải nhanh bằng thúc thúc!

    Thấy hắn giáo huấn nhẹ mình, Hồ Bất Sầu cười thầm, song y nghĩ ra cũng phải thương hại hắn, dù sao thì hắn đâu có chịu vất vả bôn ba bằng y. Y nghĩ:

    - Song thân hắn đã biệt dạng phương trời, ngoại công hắn đã ra người thiên cổ, nếu ta không chiếu cố hắn, thì làm sao? Làm sao cho hắn?

    Còn ai chiếu cố đến hắn?

    Đưa tay chỉ một quán bán giải khát trước mặt, Hồ Bất Sầu thốt:

    - Nếu thấy mệt, mình nên dừng chân lại nơi ngôi quán đó, nghỉ chân một lúc.

    Đến quán, gọi trà xong, Hồ Bất Sầu để mặc Bửu Nhi ngồi đó, y bước ra ngoài lấy phong thư ra đọc mấy hàng chữ bên ngoài:

    “Lưu bút lại cho Hồ Bất Sầu, cứ mở ra xem rồi thi hành đúng theo lời trong thư!” Y vội bóc phong bì, đọc liền:

    “Lúc ngươi đọc mấy dòng chữ này thì ta đã buông tay tắt thở dưới lưởi kiếm của kẻ kia rồi. Nhìn nhát kiếm tước đoạn cành cây khô, ta đã biết kiếm pháp của người áo trắng cao hơn ta mấy bậc, trong võ lâm ngày nay há dễ có nhân vật nào khả dỉ đối địch lại hắn. Hắn từ phương Đông đến, chỉ có một ý chí quyết thắng tất cả cao thủ trên giang hồ, hắn xuất chiêu độc, đủ biết lòng dạ hắn rất độc, vì tâm độc nên hắn chẳng hề lưu tình trong mỗi cuộc chiến. Trong những ngày sắp đến, nếu chẳng có tay nào ức chế nổi hắn thì rồi đây chẳng biết còn bao nhiêu trăm ngàn cao thủ ngả gục trước kiếm pháp tuyệt độc của hắn! Ta vì muốn hạ sát hắn, nên phải tử chiến với hắn, dù có chết cũng đã làm tròn tâm nguyện đối với chánh nghĩa võ lâm.” Hồ Bất Sầu lắc đầu thở dài, rồi đọc tiếp:

    “Sau khi ta quyết tử chiến với hắn, ta nghĩ rất nhiều về Bửu Nhi.

    Soát lại trong đệ tử, ta nhận thấy chỉ có ngươi rất đáng cho ta giao phó một nhiệm vụ. Nhiệm vụ đó là đưa Bửu Nhi đến bờ Đông Hải, ngươi phải tìm cho gặp chiếc thuyền to lớn buồm bằng gấm ngũ sắc, bằng bất cứ thủ đoạn nào, ngươi phải lên được trên thuyền, xin hội kiến với chủ nhân trao cành cây khô ta kèm theo đây cho người xem và tường thuật sự tình cho người nghe việc xảy ra như thế nào, cứ thuật y như vậy, không nên thêm bớt. Theo chỗ nhận xét của ta, trong thiên hạ ngày nay, may ra chỉ có chủ nhân chiếc thuyền ngũ sắc là có thể chế ngự người áo trắng. Chủ nhân chiếc thuyền sẽ bảo ngươi những gì cần làm, và ngươi phải làm theo những gì người bảo. Ghi nhớ! Ghi nhớ!

    Hồ Bất Sầu đọc xong bức thư, thở dài mấy lượt. Y khâm phục sư phó bình tĩnh vô cùng, cái chết kề bên mình mà vẫn viết ra được trọn ý, nét bút tự nhiên, không rối loạn!

    Ngồi nơi bàn, đợi mãi mà chẳng thấy Hồ Bất Sầu trở vào, Bửu Nhi gọi:

    - Thúc thúc đâu, nóng nảy gì lại chẳng ngồi yên được một chút để uống cạn chén trà? Hừ, luyện võ như thế, hóa ra phí ngày xanh quá!

    Hồ Bất Sầu trở vào, điểm nhẹ một nụ cười:

    - Luyện võ thì có gì phí ngày xanh? Võ cũng như văn, đều có cái hứng riêng biệt, đã có hứng thì chẳng bao giờ phí ngày xanh cả.

    Thay vì đáp, Bửu Nhi lại tỏ ra vẻ trưởng thành, đầy kinh nghiệm, bĩu môi không nói tiếng gì.

    Hồ Bất Sầu nhìn hắn, trầm ngâm một chút, rồi hỏi:

    - Chừng như ngươi chẳng thích học võ, tại sao?

    Bửu Nhi vừa đứng lên, vừa cười nhẹ, thốt:

    - Có nói ra, thúc thúc cũng chẳng hiểu được nào! Thôi chúng ta tiếp tục cuộc du hành đi!

    Hồ Bất Sầu thở dài, thầm nghĩ:

    “Ta e rồi đây ngươi không học võ cũng không được! Ngọn bút của ngươi không sắc bằng thép kiếm đâu!” Bây giờ thì đã có hướng đi rồi, Hồ Bất Sầu chẳng còn hoang mang nữa, cứ theo hướng Đông thẳng tiến.

    Đi, đành rằng phải có cước lực, nghị lực, nhưng hai yếu tố đó chưa hắn đủ để cho người hoàn tất cuộc hành trình. Bởi, cước lực và nghị lực chỉ chí mà không giúp thân, và người lữ khách nào cũng cần đến lộ phí.

    Ra đi hấp tấp, Hồ Bất Sầu không chuẩn bị lộ phí dồi dào, thành ra khi gần đến bờ Đông Hải thì tiền nong sắp cạn.

    Riêng y vất vả đói khát, đâu phải là một vấn đề? Song Bửu Nhi từ nhỏ đến lớn, sống sung túc, đến độ thừa thãi, y có thể để cho hắn kham khổ như y được chăng?

    Do đó dần dần, y tự biết giảm khẩu phần của mình, để chu toàn cho Bửu Nhi được đầy đủ hơn. Y làm như thế, do lòng nhân hay vì cảm nghĩa sư tôn? Có lẽ do cả hai.

    Rồi một hôm, họ đến bờ sông Đông Hải.

    Khung trời lạ mở ra trước mắt, Phương Bửu Nhi thích thú cười luôn, trái lại Hồ Bất Sầu lại sầu rã ruột.

    Y phải tìm cần, tìm nhợ, làm ngư phủ bất đắc dĩ.

    Tại sao y phải làm ngư phủ bất đắc dĩ?

    Muốn dọ thám trong rừng, không gì bằng làm tiều phu, muốn dọ thám trên mặt biển, không gì bằng làm ngư phủ.

    Vừa lưu ý đến những con thuyền lui tới bờ Đông Hải, vừa kiếm được con cá để ăn, đỡ tốn hao trong khi tiền nong sắp cạn, Hồ Bất Sầu không còn phương pháp nào hữu hiệu và thiết thực hơn nữa.

    Dụng tâm của Hồ Bất Sầu là thế, Phương Bửu Nhi nào có biết cho hắn đâu, cứ ngắm mây trông nước, đón gió nhìn cây, cởi mở tâm tư, hắn gọi Hồ Bất Sầu cợt một câu:

    - Ngờ đâu thúc thúc cũng có cái hứng nhã khiết như thế!

    Thời gian vào lúc hoàng hôn tàn, đêm xuống, xa xa nơi phương trời Tây, ráng muộn còn ửng đỏ, trên không sao sớm đã chớp đều trên mặt biển, đèn câu đã đốt sáng, đèn thuyền cũng đã chiếu sáng khắp đó đây.

    Hồ Bất Sầu đã câu được ba con cá khá to, y nướng tươi tại chỗ, rồi cả hai dùng bữa cơm tối ngay tại bờ biển.

    Phương Bửu Nhi ăn ngon quá, có lẽ bình sanh chưa bao giờ ăn được một bữa ngon như đêm nay.

    Ăn xong hắn cười thốt:

    - Trong sách người xưa có dạy, ăn no rồi nên nằm nghỉ. Bây giờ mình nên tìm khách sạn thuê phòng đi!

    Hồ Bất Sầu trầm ngâm lâu lắm, sau cùng thở dài:

    - Bửu Nhi! Từ nay trở đi, chúng ta không còn ngụ tại khách sạn nữa rồi!

    Y nghĩ buông câu đó, y phải làm cho Bửu Nhi bất mãn, vì chẳng muốn cho Bửu Nhi bất mãn nên y do dự, cuối cùng y đành thốt ra, bởi chẳng có cách nào hơn, bởi trước sau gì cũng thốt câu đó.

    Phương Bửu Nhi suy nghĩ một chút, đoạn cười nhẹ:

    - Không ngụ tại khách sạn, thì trời làm màn, đất làm giường, cỏ non làm nệm, mình vẫn sống được như thường, huống chi trong khi chờ giấc ngủ, mình có thêm cái thú đếm sao...

    Hồ Bất Sầu nhìn hắn:

    - Ngươi có thể chịu đựng được cái kiếp màn trời chiếu đất nổi không?

    Phương Bửu Nhi cười lớn hơn một chút nữa:

    - Màn trời chiếu đất với phòng ấm giường êm, khác nhau ở điểm nào, khi nhắm mắt đưa hồn vào giấc mơ, là ngoại vật chẳng còn ảnh hưởng gì cả. Giả sử, tôi hiểu rằng trong chiếc bọc hành trang của thúc thúc, tiền nong đã cạn, giả sử tôi hiểu rằng hiện tại hai chúng ta phải ăn đường ngủ đất, thì tôi dù muốn dù không cũng chẳng nghĩ đến khách sạn?

    Hồ Bất Sầu giật mình, ngán sự thông minh của hắn, song y lắc đầu cười khổ:

    - Tuy nhiên...

    Phương Bửu Nhi cũng lắc đầu:

    - Chẳng sao cả, thúc thúc ạ! Bất quá, người đọc nhiều quyển sách tất phải hiểu nhiều sự đời, cho thúc thúc biết, đó chỉ là một cái hay trong muôn ngàn cái hay của sách vở. Văn có kém võ đâu?

    Bỗng Hồ Bất Sầu biến sắc mặt, thấp giọng thốt gấp:

    - Có tiếng y phục phất trong gió, chắc khách dạ hành nào đó sắp ngang qua đây, chẳng rõ khách có hảo ý hay ác cảm đối với chúng ta, vậy chúng ta hãy đề phòng!

    Y đưa tay xoa xoa trên mặt đất, bốt một nắm bụi, trát lên mặt.

    Phương Bửu Nhi thở dài:

    - Những người theo nghiệp võ, sao cứ mỗi lúc phải đề phòng? Chẳng lẽ...

    Hắn chưa dứt câu, hai bóng người đã xuất hiện trong màn đêm.

    Người bên tả thốt:

    - Thời khắc còn sớm quá! Mà ánh lửa kia chừng như khác biệt. Ta nghĩ, chẳng phải nơi đây đâu, vậy mà ngươi cứ giục ta đến đây.

    Người bên hữu đáp:

    - Vô luận như thế nào, mình cũng phải đến đây nghỉ chân một lúc.

    Ngươi xem kìa, có ai vừa nướng cá đó...

    Người đó bỏ lửng câu nói, ngồi ngay bên cạnh đống lửa, trước mặt Hồ Bất Sầu, trên đống lửa còn cá, y với lấy một con, đưa vào miệng cắn liền.

    Y tự nhiên quá, tưởng chừng những con cá nướng là phần dành cho y.

    Y cũng xem luôn Hồ Bất Sầu và Phương Bửu Nhi như những pho tượng vô tri giác, chẳng cần nhìn thoáng qua cả hai một cái.

    Phương Bửu Nhi trừng mắt, gằn giọng:

    - Hừ! Bằng hữu! Ít nhất cũng...

    Hồ Bất Sầu nhanh tay bóp mạnh vào lưng hắn, ngầm bảo hắn đừng, đoạn trách hắn:

    - Hai vị đại gia ăn cá của chúng ta là vinh hạnh cho ta lắm, ngươi trẻ nít biết gì lại dám hằn học?

    Quả nhiên họ Hồ trách vờ để ve vuốt tự ái của kẻ kia, y chẳng sanh sự trong khi chưa cần thiết lắm, trong tình cảnh của y và Phương Bửu Nhi nhẩn được bao nhiêu có lợi bấy nhiêu, vừa dấu được hành tung.

    Y điểm một nụ cười, hướng sang người lạ mặt tiếp nối:

    - Hai vị cứ tự nhiên cho, những con cá nầy tiểu nhân nướng sẵn để cung kiến hai vị đấy!

    Nướng sẵn để cung kiến? Y hớ rõ rệt, bởi làm sao y biết được hai người kia sắp đến đây mà nướng sẵn, dành phần? Vả lại y biết họ là ai, mà cất lòng cung hiến cái ăn?

    Người bên tả bật cười âm trầm:

    - Không ngờ một ngốc tử như ngươi lại có nhãn lực, biết xét người!

    Hà hà, khá lắm, nếu chẳng vậy thì...

    Người bên hữu miệng còn ngồm ngoàm cá, tiếp nối:

    - Nếu chẳng vậy thì bọn ta sẽ nướng hai ngươi, ăn như ăn cá!

    Phương Bửu Nhi sôi giận, cắn chặt hai hàm răng, ánh mắt bừng lửa đỏ, ánh mắt chớp luôn luôn, hắn nhìn người bên tả, như muốn vặn cổ y ngay.

    Người bên tả, có gương mặt trắng bệch, màu trắng vô tình cảm, thân vóc y gầy đét, vận chiếc áo dài bằng gấm màu hồng, trông thoáng qua cũng có thể đoán thị hiếu của y là tửu sắc.

    Người bên hữu dáng cao trên tám thước, cũng vận áo gấm, râu ngắn viền quanh cằm.

    Cả hai đeo nơi lưng một chiếc bao chừng nặng lắm, mỗi người đều có một thanh đao lủng lẳng nơi hông.

    Người râu ngắn ăn một lúc hết hai con cá nướng. Người ốm cao đứng một bên nhìn đồng bạn, lắc đầu thở dài:

    - Ngươi...

    Bỗng y quay phắt người lại, tay nắm chặc chuôi đao, hét lên:

    - Kẻ nào đó?

    Từ trong màn đêm, có tiếng lanh lãnh đáp vọng lại:

    - Giang Bắc Nhất Trận Phong! Ta đi không tiếng, ta đến không tăm!

    Câu đáp vừa buông dứt, một bóng người xuất hiện trước đống lửa còn cháy cao ngọn.

    Người đó là một thiếu niên, xác ốm, trên lưng cũng có một chiếc bao như hai người kia.

    Người râu ngắn múc múc xương cá trắng phếu, thấy hết thịt liền quăng xa xa, đoạn đưa tay áo lau vội mép cất tiếng cười ha hả:

    - Tưởng ai! Không ngờ lại là Phong lão đệ! Lại đây, lại đây! Còn mấy con cá nướng đây, ăn với ta đi!

    Người mới đến bật cười giòn:

    - Từ xa, tiểu đệ trông thấy ánh lửa tưởng đâu là ngọn Linh Không Thần Hỏa, nên hối hả chạy đến. Bất ngờ lại gặp Bưu Hổ nhị vị nhân huynh!

    Nghe nói đến bốn tiếng Linh Không Thần Hỏa, người râu ngắn thoáng biến sắc mặt, hấp tấp hỏi:

    - Vậy ra Phong lão đệ có tiếp được Thần Mộc Lịnh nữa à? Chắc Phong lão đệ mang lễ vật đến đây phải không?

    Y vừa nói, vừa đảo mắt nhìn quanh sợ có kẻ nghe ngóng.

    Người mới đến chính là Nhất Trận Phong, mỉm cười đáp:

    - Tiếp được Thần Mộc Lịnh rồi, tiểu đệ lo quấn lên, phải mất đến hai mươi hai đêm trọn, đánh cướp đúng hai mươi ba nhà mới thu thập một số lễ vật đạm bạc!

    Người râu ngắn cũng cười, thốt:

    - Chứ bọn ta lại sẵn bạc vàng châu báu gì? Cũng phải bố đầu nầy, hốt đầu kia, gom góp được phần nào, tuy chẳng xứng đáng lắm, song tạm gọi là khả quan.

    Nhất Trận Phong khoát khoát tay:

    - Đừng láo! Còn ai chẳng biết nhị vị nhân huynh tích trữ rất nhiều bảo vật bạc vàng? Thiết tưởng, có vật gì tiểu đệ mang hiến vật ấy, quyết chẳng vay mượn đâu mà hai nhân huynh sợ!

    Cả ba cùng cất tiếng cười vang.

    Phương Bửu Nhi nghe chúng đối thoại với nhau, bất giác sững sờ lâu lắm, hắn mới bấm khẽ Hồ Bất Sầu, rỉ bên tai y:

    - Thì ra chúng là những tên cường đạo!

    Hồ Bất Sầu gật đầu:

    - Đại cường đạo nữa là khác! Chúng là những tay có hạng lắm. Phàm là khách giang hồ ai ai cũng nghe danh biết chúng! Chúng giết người không hề chớp mắt. Hai tên tới trước, một là Phấn Bưu, còn một là Thiết Hổ. Tên đến sau như chúng đã gọi nhau chính là Nhất Trận Phong. Phấn Bưu và Thiết Hổ, lập căn cứ tại Bạch Mã Sơn, còn Nhất Trận Phong thì hành tung vô định, này đây mai đó, lại độc lực hành nghề, chẳng gia nhập vào nhóm cường đạo nào cả.

    Phương Bửu Nhi trầm ngâm một chút:

    - Chúng từ những nơi riêng biệt bỗng nhiên đến đây cùng một lúc, không lẽ chúng có ước hẹn với nhau? Trong vùng nầy có nhà nào thừa tiền dư bạc mà chúng định đánh cướp chăng?

    Giọng nói, giọng cười của bà hiền từ quá, bà trách con trai nhưng ai lại chẳng biết bà trách yêu. Phương Bửu Nhi trông thấy bà bất giác liên tưởng ngay đến bà ngoại hắn...

    Hồ Bất Sầu ngưng trọng thần sắc từ lúc Vạn lão phu nhân xuất hiện, y nhìn bà rất kỷ, một lúc lâu tự lẩm nhẩm:

    - Vạn đại hiệp?... Vạn đại hiệp nào?... Hay là Vân Mộng đại hiệp Vạn Tử Lương, mà bà ta là mẹ của vị đại hiệp đó?...

    Bọn Thiết Hổ đứng lên.

    Vạn lão phu nhân mỉm cười hỏi:

    - Trông tình hình các ngươi, ta đoán các ngươi vì tiếp Thần Mộc Lịnh mà đến đây có phải vậy không?

    Thiết Hổ gật đầu:

    - Đúng vậy!

    Y đáp nhanh quá, Phấn Bưu muốn ngăn lại, nhưng không còn kịp nữa.

    Vạn lão phu nhân thở dài:

    - Chủ nhân Thần Mộc Lịnh thật ra đã làm một việc phi phận rồi đó!

    Đã quy ẩn trong bao nhiêu năm, mà vẫn còn sử dụng uy tín ngày nào, tùy tiện phát lịnh điều động các ngươi, lão ấy cứ tưởng rằng mình vẫn còn là Minh Chủ Hắc đạo. Thành ra, các ngươi vất vả mang lễ vật bôn ba trên đường dài tìm đến đây, cống hiến cho lão!

    Bà dừng lại một chút, đoạn tiếp hỏi:

    - Mà các ngươi mang những món gì đó, có thể cho ta nhìn thấy được chăng?

    Ba tên đại cường đạo nhìn nhau một thoáng, gương mặt tên nào cũng lộ vẻ khó khăn. Chúng còn do dự, Vạn lão phu nhân cười nhẹ thốt:

    - Không lẽ cho ta xem một chút lại chẳng được sao?

    Chúng còn làm sao hơn?

    Phấn Bưu hấp tấp đáp:

    - Vạn lão phu nhân đã dạy, tự nhiên chúng tôi phải vâng!

    Rồi cả ba cùng hạ chiếc bao trên lưng xuống, cùng mở ra, tuôn những báu vật bên trong đổ bừa bãi trước ánh lửa hồng.

    Những báu vật đó toàn là những món hi hữu trên thế gian, chớp ngời dưới ánh lửa. Phương Bửu Nhi dù sanh trưởng trong dư giả, cũng phải chóa mắt.

    Tuôn những báu vật đó ra rồi, ba tên cường đạo cùng lộ vẻ cao ngạo, chúng cười nhẹ hỏi:

    - Lão phu nhân xem, những vật nầy mang đến mừng Chủ nhân Thần Mộc Lịnh, có xứng đáng không?

    Vạn lão phu nhân vẫn giữ nụ cười hiền hòa:

    - Những báu vật đó, mang cống hiến cho bậc vua chúa, kể ra thừa xứng đáng nữa là khác, song...

    Thiết Hổ vội hỏi:

    - Song làm sao, hở phu nhân?

    Vạn lão phu nhân điềm nhiên:

    - Song đem cống hiến cho Chủ nhân Thần Mộc Linh, ta e quá đạm bạc.

    Nhất Trận Phong biến sắc trước. Phấn Bưu và Thiết Hổ biến sắc sau.

    Cả ba cùng trố mắt nhìn lão bà.

    Lâu lắm, Thiết Hổ mới ấp úng:

    - Đạm bạc?...

    Vạn lão phu nhân gật đầu:

    - Đạm bạc lắm. Trừ phị..ba phần gộp lại làm một, may ra khả dĩ tạm gọi là được! Thật tình ta chỉ sợ Chủ nhân Thần Mộc Lịnh bắt tội các ngươi khinh thường người!

    Bà đưa tay vào một chiếc túi khác, lấy ra mấy trái ô mai rim đường híp mắt lại, vừa nhai vừa chép chép miệng. Bà thản nhiên ăn, thích thú ăn, tưởng chừng bình sanh không gì hấp dẫn bà bằng những quà vặt.

    Phấn Bưu, Thiết Hổ cấp tốc thu xếp các món đồ của chúng vào bọc, cột dây cẩn thận, cho lên lưng, rồi lùi lại mấy bước.

    Đột nhiên, Nhất Trận Phong giương đôi mắt, bắn tinh quang sáng ngời sang cả hai bên cười khanh khách:

    - Vạn lão phu nhân đã nói thế, tại hạ tưởng hai vị nên làm phương tiện cho tại hạ là phải hơn!

    Thiết Hổ cao giọng:

    - Làm phương tiện như thế nào?

    Nhất Trận Phong mỉm cười:

    - Ba phần riêng rẽ chẳng phần nào đủ giá trị để cung hiến Chủ nhân Thần Mộc Lịnh, chi bằng hai vị nên nhường hai phần đó cho tại hạ, nhập với phần riêng, còn hai vị thì hãy trở về, sắm sửa phần khác tươm tất hơn. Như vậy là tiện lợi cho cả ba chúng ta.

    Thiết Hổ hét to:

    - Vô lý! Ngươi muốn cướp báu vật của anh em ta?

    Nhất Trận Phong rít một tràng cười ghê rợn:

    - Nhất Trận Phong này không đến nỗi có thái độ đó với các vị đâu, mà dù tại hạ muốn cướp, hai vị cũng chẳng ngăn cản được! Tại hạ mong hai vị nên thức thời một chút, thà đắc tội với hai vị, còn hơn là bị Chủ nhân Thần Mộc Lịnh quở trách.

    Thiết Hổ quát lớn:

    - Câm ngay! Ngươi làm gì nổi bọn ta mà dám cao ngạo?

    Nhất Trận Phong trầm giọng:

    - Thế là các vị nhất định bắt buộc tại hạ phải ra tay? Giả sử tại hạ lỡ giết chết các vị, thì chẳng hóa ra oan uổng cho các vị chăng?

    Thiết Hổ sôi giận:

    - Ngươi giết bọn ta hay bọn ta giết ngươi?

    Câu nói vừa buông dứt, Phấn Bưu và Thiết Hổ cùng rút trường đao.

    Nhất Trận Phong cười lạnh, tháo chiếc thắt lưng quét ra một vòng biến thành một trường thương rộng bản sáng như bạc.

    Vạn lão phu nhân không nhìn đến họ nửa mắt, tự nhiên cắn ô mai nhai nhai, chép chép, mắt vẫn híp lại như thường. Gương mặt bà vẫn còn mãi vẻ tư tưởng hiền hậu, nơi khoé miệng nụ cười tươi vẫn gắn chặt như từ thuở nào, chẳng hề tắt.

    Hồ Bất Sầu theo dõi diễn tiến của mọi người tại cục trượng, y thái độ thầm nghĩ:

    “Lão bà nầy xem thì ôn nhu hòa dịu lắm, nhưng cái tâm của bà tàn độc làm sao! Chỉ dùng một câu ngắn ngủi, lại có thể khích cả ba cùng đưa nhau vào cuộc tử chiến! Người ta sắp đánh nhau trí mạng, mà bà vẫn thản nhiên được, nham hiểm thật.” Biết vậy, họ Hồ dù can thiệp để ngăn chận một cuộc chiến vô lý cũng chẳng thực hiện ý muốn được, bởi còn bao nhiêu việc bên mình, mà toàn là những việc khẩn cấp, nếu rầy vào việc người, sự tình biết đến bao giờ dứt khoát, chẳng hóa ra chậm trễ việc mình sao?

    Y đành bất động, chỉ lấy mắt nhìn.

    Y bất động, song Phương Bửu Nhi không dằn được bất bình, hắn kêu lên:

    - Lão thái thái đã xem lễ vật của người, tại sao không cho người xem lễ vật của thái thái? Như vậy có bất công chăng?

    Vạn lão phu nhân mở mắt ra, cười nhẹ:

    - Tiểu tử, ngươi nói gì đó?

    Nhưng Phương Bửu Nhi không lập lại câu hỏi. Có lẽ hắn hỏi như thế, do một dụng ý nào khác hơn là muốn xem lễ vật của bà.

    Và cái dụng ý của hắn, bọn Phấn Bưu, Thiết Hổ và Nhất Trận Phong hiểu rõ, họ là những tay lão luyện giang hồ, dù kém võ công chứ kinh nghiệm có thừa, so với bất kỳ ai.

    Cả ba cùng thu võ khí, Phấn Bưu cười lớn thốt:

    - Buồn cười thật!

    Y không đợi hai người kia hỏi, cười tiếp luôn:

    - Chúng ta toàn là những kẻ to đầu, cao tuổi, mà không nghĩ đến việc xem lễ vật của Vạn lão phu nhân, phải chờ một tiểu tử đề cập đến mới nhớ ra!

    Nhất Trận Phong phụ họa:

    - Phải đó! Chúng ta cần xem lễ vật của lão phu nhân như thế nào, để dùng làm tiêu chuẩn chu biện cho thích đáng!

    Phấn Bưu còn đi xa hơn, không cần dè dặt sợ hãi như trước:

    - Ta chỉ sợ lão phu nhân trong khi khẩn cấp, không kịp sắm sửa lễ vật, nên nảy sanh ác ý khích nộ chúng ta, cho chúng ta đánh toi mạng cướp phần của nhau, dĩ nhiên đánh mãi thì bọn chúng ta sẽ chết dần, cuối cùng thì bà ta chẳng cần phí sức lắm cũng hạ được kẻ sống sót, chiếm luôn cả ba phần. Như thế có phải khỏe chăng?

    San bằng được bất hòa, ba tên cường đạo giờ đây liên kết với nhau, chúng cùng lùi lại ba bước, cùng đứng ngang nhau giăng thành hàng chữ nhất, cùng nhìn thẳng đến Vạn lão phu nhân.

    Chúng không quên ngầm vận công, chuẩn bị ứng phó nếu Vạn lão phu nhân xuất thủ bất thình lình.

    Vạn lão phu nhân khẽ thở dài, vẫn với giọng dịu hiền thốt:

    - Các ngươi xem nhẹ ta quá! Đây các ngươi xem!

    Bà ta đưa vào một chiếc túi, lấy ra một xâu mười hai hạt ngọc chói màu tím sậm, mỗi hạt to cỡ quả trứng chim câu.

    Vốn là những tay lục lâm, cường đạo, bọn Phấn Bưu Thiết Hổ và Nhất Trận Phong còn lạ gì loại châu ngọc trên đời. Chúng xem ngọc còn tinh vi hơn thợ ngọc. Trông thấy mười hai viên ngọc của Vạn lão phu nhân tất cả cùng biến sắc mặt, cùng trố mắt, thừ người. Bình sanh chúng chưa từng trông thấy một loại ngọc nào vừa đẹp vừa to như thế.

    Chúng muốn nhìn sát mắt nhưng còn dè dặt bước tới một bước, rồi ngập ngừng, rồi bước.

    Vạn lão phu nhân cười nhẹ:

    - Cứ bước tới mà xem, ta chẳng làm gì hại đến các ngươi đâu đừng ngại.

    Chúng cùng bước tới, nghiêng mình nhìn, vừa nhìn vừa nói:

    - Vô giá! Vô giá! Đáng thẹn cho chúng ta, bôn tẩu giang hồ trong bao nhiêu năm, thế mà tầm mắt vẫn còn hẹp, chưa từng trông thấy vật quý như thế này!

    Bỗng hơn mười đạo hắc quang chớp lên, từ lòng bàn tay Vạn lão phu nhân bắn ra.

    Dĩ nhiên, cái đích là ba tên cường đạo.

    Hơn mười đạo hắc quang đó nhắm vào yếu huyệt của chúng lão vút tới.

    Như chưa vừa lòng với bao nhiêu đạo Hắc quang đó, Vạn lão phu nhân cho tay vào túi áo, láy ra hạt đào, hạt hạnh nhân, hạt ô mai, lao vút theo. Thủ pháp của bà vừa nhanh vừa chuẩn, dù cho bọn Phấn Bưu có đề phòng cũng chẳng mong gì tránh kịp, huống hồ bà xuất thủ đột ngột.

    Chúng có bao giờ tưởng những chiếc túi của bà ta, lại chứa toàn ám khí, mà ám khí chẳng phải là những vật chế luyện với hình thức riêng biệt như khách giang hồ thường dùng. Ám khí của bà là những món quà vặt, bình thường thì thưởng thức nó, khi cần thì bà dùng nó làm ám khí, thừa lợi hại hạ địch như những ám khí thực sự.

    Vì chẳng ngờ như vậy, chúng lãnh đủ. Bất quá, chúng chỉ tránh né được một vài vật đầu tiên, song những hạt đào, hạt hạnh nhân, hạt ô mai bắn ra tới tấp, chúng làm sao tránh kịp?

    Rồi ba tiếng rú vang lên, ba tên cường đạo ngã nhào một lượt. Mỗi tên hứng ít nhất cũng mười hạt, hạt nào cũng ấn sâu vào da thịt tưởng chừng như xác thân chúng có khảm những hạt đào, hạt hạnh nhân, hạt ô mai.

    Hai tên kia có lẽ đã tắt thở, chỉ còn mỗi một mình Thiết Hổ, có sực chịu đựng khá, y phều phào hỏi:

    - Bà đã có xâu ngọc đó, chưa đủ sao, còn bày kế lừa chúng tôi đoạt báu vật của chúng tôi? Dù sao, thủ đoạn của bà tàn độc quá.

    Vạn lão phu nhân lắc đầu, thở dài:

    - Bọn ngươi thật là ngu xuẩn! Trên thế gian này làm gì có ngọc màu tím?

    Thiết Hổ sững sốt, không rõ vì giận hay vì tức là mình ngốc, y nghe mồ hôi hạt, đượm đầy trán, rơi xuống áo ròng ròng. Một lúc sau, y cố gom toàn lực hỏi:

    - Thế vật gì trong tay bà?

    Vạn lão phu nhân cười nhẹ:

    - Kẹo ô mai, sênh đường pha màu tím trông bóng ngời, món quà ta ưa thích nhất, bất cứ đến thị trấn nào, ta phải tìm mua cho kỳ được một mớ, bỏ trong túi ta ăn suốt ngày suốt đêm trừ lúc ngủ. Ngươi có quáng manh chăng mà không nhận ra?

    Thiết Hổ giương tròn mắt, đôi tròng suýt lọt ra ngoài, hét lên một tiếng to:

    - Tức chết ta thôi!

    Rồi y nấc nấc mấy tiếng tắt lịm.

    Vạn lão phu nhân nhìn ba xác chết nằm vật trên mặt đất, lại lắc đầu, lại thở dài:

    - Đáng tiếc! Đáng tiếc!

    Phương Bửu Nhi mục kích cảnh tình của ba tên cường đạo, không khỏi tức uất Vạn lão phu nhân xuất thủ tàn độc, sát hại ba mạng người như một trò đùa, hắn chưa nói gì, bà ta lại thở dài tiếc rẻ, hắn càng tức uất hơn thầm nghĩ:

    “Đã biết tiếc sao còn hạ thủ đoạn?” Vạn lão phu nhân tặc lưỡi, tiếp nối:

    - Ta chỉ còn có bao nhiêu đó thôi, chúng bắt buộc ta phải hủy hoại tất cả, đáng hận thật!

    Bà đứng lên, bước tới cạnh các xác chết, vạch áo chúng gỡ từng hạt đào, hạt hạnh nhân, hạt ô mai lút sâu vào da thịt chúng. Hạt nào cũng có vấy máu, có hạt đọng chảy ròng ròng.

    Bà quẹt những hạt đó trên áo chúng cho sạch máu, đoạn bỏ vào túi.

    Phương Bửu Nhi vỡ lẽ, thì ra bà tiếc mấy món quà của bà, chứ chẳng tiếc mạng sống của bọn cường đạo.

    Trời! Những hạt đó vấy máu tanh hôi, bà chỉ quẹt sơ cho khô rồi cất vào mình, định ăn bằng thích chứ chẳng bỏ. Hắn nghĩ đến điều đó, lợm giọng nôn khan, nhưng bụng hắn chứa đầy cá nướng, hắn vừa nôn bao nhiêu cá tuông ra rồn rột.

    Hồ Bất Sầu lúc đầu nghe Phương Bửu Nhi hạch hỏi Vạn lão phu nhân đoán chắc sẽ có đại họa đến nơi, rồi bây giờ hắn lại nôn mửa, như vậy thế nào Vạn lão phu nhân cũng quở trách, mà bà ta quở trách thì chỉ còn có nước cúi đầu chờ bà ta giết, chứ chẳng còn làm gì khác nơi được, y sợ quá, vội bế xốc Phương Bửu Nhi lên, dợm chân chạy đi.

    Một tràng cười ha hả vang lên, Vạn lão phu nhân đã đứng án trước mặt y rồi. Bà hỏi:

    - Tiểu tử đó, con cái nhà ai, lại thông minh thế?

    Hồ Bất Sầu không nói năng chi cả, xoay người nửa vòng, nhún chân vọt lên cao, xoay mình tạt qua, đáp xuống chạy đi liền.

    Nhưng y vừa chấm chân xuống đất, Vạn lão phu nhân nhanh hơn, đã đáp xuống trước mặt y.

    Bà cười gằn:

    - Tại sao ngươi chạy trốn ta? Tiểu tử thông minh như thế kia, ta có lòng nào làm thương hại đến hắn sao?

    Hồ Bất Sầu chẳng thế nào chạy khỏi tay bà được, đành đứng nguyên tại chỗ, suy nghĩ tìm cách đối phó.

    Phương Bửu Nhi vùng vẫy, vuột khỏi tay Hồ Bất Sầu, hắn đứng thẳng người cất cao giọng hỏi:

    - Đã không làm gì thương tổn đến tôi, lại không chịu phóng thích tôi, thế bà muốn làm gì tôi?

    Vạn lão phu nhân cười dịu:

    - Già như ta, thấy trẻ thông minh, ai mà chẳng mến, đã mến thì phóng thích làm sao được. Ít nhất ta cũng phải nâng niu một lúc chứ? Lại đây lại ăn quà với ta!

    Bà lấy mấy hạt đào, hạnh nhân, ô mai vấy máu, trao cho Phương Bửu Nhi. Giết chết hắn, hắn chẳng bao giờ tiếp nhận đừng nói là ăn.

    Vạn lão phu nhân cười lạnh:

    - Tiểu tử không ăn mà được với ta à? Có vấy máu ăn càng ngon chứ sao?

    Bà giết người, bà cưỡng ép người ăn những vật đẫm máu, vậy mà cử chỉ của bà hết sức dịu hiền, lời nói của bà hết sức êm nhẹ, gương mặt hết sức từ tường.

    Phương Bửu Nhi giận quá mắng to:

    - Lão yêu phụ! Lão độc bà! Lão quái vật! Cũng có ngày ngươi bị thiên hạ mổ bụng, moi tim lột da!




    Ủng hộ BLH Vì một sân chơi mới, vì một Bàn Long Hội mới :oe76:
     
  2. biglove

    biglove Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/7/11
    Bài viết:
    9,835
    Được thích:
    14,144
    Ân Thù Kiếm Lục

    Tác Giả:Cổ Long

    -- o --

    HỒI 2: Chủ Nhân Thần Mộc Lịnh


    Nguồn: vietkiem.com




    Hồ Bất Sầu bất quá chỉ nghĩ rằng Phương Bửu Nhi từng được ông ngoại nuông chiều quá độ rồi sanh tánh ương ngạnh, bướng bỉnh mà thôi, chứ nằm mộng y cũng chẳng tưởng hắn can đảm đến thế. Trêu vào tay bà, ba tên đại cường đạo bỏ mạng không kịp thở, huống hồ một đồng tử như hắn?

    Mắng như tát nước vào mặt lão phu nhân nhà họ Vạn là tự tuyên bản án từ hình cho hắn rồi, đó là thông lệ của bà ta, chẳng bao giờ bà để cho ai ngoài lệ cả.

    Hồ Bất Sầu kinh hãi ra mặt, cấp tốc bước đến trước Phương Bửu Nhi. Nhưng chẳng rõ nghĩ sao, y lại trở về chỗ cũ, ngồi xuống nhếch môi cười, trong nụ cười có ẩn sự khinh khỉnh, chừng như không cần lo lắng về hậu quả do Vạn lão phu nhân dành cho Phương Bửu Nhi qua thái độ của hắn.

    Vạn lão phu nhân cười nhẹ:

    - Khá đó tiểu tử! Ngươi dám mắng ta! Không lẽ ngươi không thấy ba đống thịt còn nằm lồ lộ nước mặt kia sao?

    Phương Bửu Nhi đã buông tất phải buông luôn:

    - Bà lấy cái chết để dọa tôi? Chết thì chết sợ gì? Có ai tham sống, phải sợ đến cái hèn mà chẳng dám nói cho hả?

    Vạn lão phu nhân thở dài:

    - Tiểu tử không sợ chết ? Con người ta chỉ có mỗi người một sanh mạng, sao ngươi lại khinh thường sanh mạng như thế? Ngươi muốn chết, lão bà trước hết cho ngươi nếm thử mùi vị của cảnh dở sống dở chết cho ngươi biết sanh mạng quý như thế nào, sau đó sẽ hạ sát ngươi cũng chẳng muộn.

    Bà hướng mắt sang Hồ Bất Sầu, thấy y vẫn ngồi yên tại chỗ, nụ cười nở trên môi, nụ cười bình thản, y lại nhìn trời, không lưu ý đến tình cảnh của Phương Bửu Nhi.

    Vốn gian hoạt xảo trá, Vạn lão phu nhân không khỏi lấy làm lạ trước thái độ thản nhiên của Hồ Bất Sầu, bà cười nhẹ, từ từ hỏi:

    - Gã to đầu kia, tiểu tử cùng đến đây với ngươi?

    Hồ Bất Sầu gật đầu:

    - Hắn là bạn đồng hành của tại hạ!

    Vạn lão phu nhân đưa tay xoa xoa trên đầu Phương Bửu Nhi dịu giọng hỏi tiếp:

    - Ta sẽ mang tiểu tử theo ta, ngươi có tưởng là hắn sẽ sống sót trở về với ngươi chăng?

    Hồ Bất Sầu lắc đầu, cười mỉa:

    - Tại hạ không tưởng hắn sẽ được sống sót trở về!

    Vạn lão phu nhân hừ một tiếng:

    - Thế tại sao ngươi không tỏ vẻ lo sợ cho hắn?

    Hồ Bất Sầu cười hì hì:

    - Bà mang hắn đi, sẽ có người tìm hắn về. Bà giết hắn, sẽ có người tìm bà giết bà báo thù cho hắn, tại hạ còn lo lắng gì nữa chứ?

    Vạn lão phu nhân cười lớn:

    - Báo thù? Ta sống đến từng tuổi này, có chết cũng vừa rồi. Nếu có kẻ tìm ta, báo thù cho hắn mà giết ta, thì càng hay cho ta, ta không phải sống nốt chuỗi ngày thừa trong cô đơn buồn thảm, khỏi phải phiêu dạt linh đinh, không cửa không nhà, ta khỏi gây ra thêm nhiễu tội lỗi.

    Nhưng ta muốn chết từ lâu, những kẻ đã tìm ta muốn giết ta, lại phải chết vì tay ta, chết tất cả, thành thử ta chưa chết được, ta bắt buộc phải sống mãi sống đến ngày nay. Và gần đây, chẳng còn kẻ nào dám tìm ta mà báo thù, sự giết ta trở thành cái mộng của những kẻ thù ta, chẳng bao giờ những kẻ đó thực hiện mộng nổi.

    Hồ Bất Sầu điềm nhiên, trong vẻ điềm nhiên của y có ẩn lộ chút nào niềm thương hại bà ta:

    - Không ai dám, chỉ có người đó dám!

    Vạn lão phu nhân bật cười khanh khách:

    - Nếu ta giết luôn ngươi, còn ai biết tiểu tử chết trong trường hợp nào mà mách lại với người nào đó vừa do người đề cập để tìm ta? Ngươi rất thông minh, thế mà vẫn không nghĩ ra điều ấy à?

    Hồ Bất Sầu điềm nhiên điểm một nụ cười ung dung thốt:

    - Không ai biết, nhưng người đó biết! Bà giết tôi cũng chẳng bưng bít được hành động của bà!

    Vạn lão phu nhân vẫn cười lớn:

    - Bằng vào lời nói của ngươi, thì người nào đó thần thông quảng đại, biết cả mọi việc, việc trước việc sau, việc lớn việc nhỏ. Ha ha! Ta muốn biết người đó là ai?

    Hồ Bất Sầu thong thả đứng lên, lấy trong mình ra một nhánh cây khô, nhánh cây Thanh Bình Kiếm Khách Bạch Tam Không trao cho y, y tiếp:

    - Người đó dùng một nhát kiếm, chém đứt cành cây nầy, bà cứ xem chỗ đứt tất biết rõ người đó là ai!

    Y trao cành cây cho Vạn lão phu nhân.

    Vạn lão phu nhân tiếp lấy cành cây, thoạt đầu bà ta cười còn mỉm, càng xem kỹ thì bà ta biến sắc mặt, dần dần sắc mặt càng biến thảm, cuối cùng thì gương mặt bà xanh dờn, tay bà, run run, giọng bà cũng run run:

    - Nhân vật nào có đường kiếm tuyệt diệu như thế? Hay là... hay là...

    Ngũ... Ngũ...

    Hồ Bất Sầu vẫn điềm nhiên, thay bà nói tiếp câu bỏ dở:

    - Ngũ Sắc Phàm Thuyền Chủ!

    Chủ nhân chiếc thuyền có cánh buồm ngũ sắc. Trời!

    Vạn lão phu nhân vội lùi lại hai bước, lúc đó tay bà còn kẹp Phương Bửu Nhi, lập tức buông hắn rơi xuống đất, dùng hết cả sức lực trao hoàn cành cây khô cho Hồ Bất Sầu, nhặt nhanh mấy chiếc bao của bọn Phấn Bưu, Thiết Hổ và Nhất Trận Phong, rồi phi thân vút vào màn đêm không nói một tiếng nào.

    Đợi cho Vạn lão phu nhân khuất, Hồ Bất Sầu bước nhanh đến cạnh Phương Bửu Nhi, nhưng đi được mấy bước, y ngã quỵ xuống.

    Thì ra, trong khi đối thoại với Vạn lão phu nhân, y quá sức khẩn trương, tinh thần căng thẳng cực độ, khí huyết ngưng đọng nặng nề, toàn thân như tê liệt, y vụt đứng lên bước vài bước, khí huyết chưa lưu hành như bình thường, thành ra y chới với rồi ngã xuống.Y phải vận ngầm nội công cho chân khí chuyển động quanh cơ thể một lượt để lấy thăng bằng, rồi đứng lên bước đi.

    Tự lượng sức mình, biết là chẳng làm sao chống nổi Vạn lão phu nhân, không dùng sức được tất phải dùng mưu, y định mượn danh nghĩa người áo trắng để áp đảo tinh thần bà, nhưng bà lại đề cập đến chủ nhân chiếc thuyền buồm ngũ sắc, y chụp ngay cơ hội bịa luôn câu chuyện.

    Sở dĩ y định mượn danh nghĩa của người áo trắng là vì sư phụ y dù sao cũng là một nhân vật hữu danh trên giang hồ, vừa trông thấy nhát kiếm trên cành cây liền biến sắc mặt. Nhát kiếm đó hẳn phải có cái nhiệm mầu siêu việt của nó. Rất có thể y dùng cành cây để lòe bà ta, y nghĩ tài nghệ của bà ta suýt soát với Bạch Tam Không, dĩ nhiên cũng phải sợ nhát kiếm của người áo trắng.

    Y thành công, và hiện tại Vạn lão phu nhân đã bỏ đi, y và Phương Bửu Nhi không còn lo ngại vì bà ta nữa.

    Y đến cạnh Phương Bửu Nhi, thấy hắn đờ người nằm bất động, y biết là hắn bị bà ta điểm huyệt. Vì cấp bách quá chẳng thể dần dà giải quyết ngay tại chỗ cho hắn, Hồ Bất Sầu cúi xuống bế xốc hấn lên, mang hắn phóng chân chạy đi.

    Vượt được mấy dặm đường, y mới dám dừng chân lại, đưa mắt nhìn qua màn đêm, thấy dựa vách núi, có một cái động nhỏ, y liền bế Phương Bửu Nhi vào động đó, đặt hắn nằm xuống, giải khai huyệt đạo cho hắn.

    Phương Bửu Nhi không am tường võ thuật, chẳng hiểu tại sao mình đang thư thái trong người, bỗng nhiên lại cứng đờ chẳng còn nhúc nhích được tay chân, thân thể như bị ngàn muôn lượt giây mây quấn quanh.

    Tuy nhiên, tâm trí còn sáng suốt, không cử động được chứ hắn vẫn còn nghe, còn hiểu những gì xảy ra chung quanh, hắn nghe rõ cuộc đối thoại giữa Hồ Bất Sầu và Vạn lão phu nhân.

    Giải huyệt cho Phương Bửu Nhi trở lại bình thường rồi, Hồ Bất Sầu dịu giọng hỏi hắn:

    - Ngươi sợ hãi chăng?

    Phương Bửu Nhi lắc đầu:

    - Chết còn chẳng sợ, tôi sợ gì cái mụ tàn độc đó? Có điều tôi hết sức lấy làm lạ, mụ ta tàn độc là thế, giết người không chớp mắt, sao lại thấy cành cây vô giá trị tức khắc biến sắc mặt.

    Hồ Bất Sầu mỉm cười:

    - Sự tình dài dòng phức tạp lắm, trong phút giây ngắn ngủi, ta không thể nào tóm lược cho ngươi hiểu được. Khi nào rỗi rảnh ta sẽ giải thích cho.

    Hắn trầm ngâm một chút, lại hỏi:

    - Tại sao bà ta chỉ điểm nhẹ vào người tôi, tôi lại bất động liền?

    Hồ Bất Sầu nhìn hắn:

    - Đó là pháp điểm huyệt của con nhà võ. Nếu muốn tránh khỏi bị người điểm huyệt không gì bằng học võ.

    Phương Bửu Nhi cười mỉa:

    - Thúc thúc định nhân cơ hội này, thuyết phục cho tôi học võ phải không? Đừng! Đừng mong thúc thúc thành công! Chẳng bao giờ tôi học võ, dù có phải bị người điểm huyệt trăm lần, ngàn lần.

    Hồ Bất sầu lắc đầu, thở ra không nói gì nữa. Y nhìn ra bên ngoài động, chăm chú hướng xuống dưới triền. Bỗng y quay nhìn Phương Bửu Nhi, vừa khoát tay vừa thì thầm:

    - Bên dưới chúng ta có người, đừng gây tiếng động.

    Rồi y nép sát mình xuống nền động, bò lần ra đến mép đá. Phương Bửu Nhi động tính hiếu kỳ, cũng bò theo kế bên y.

    Cả hai thò nửa đầu ra khỏi mép động, vừa đủ nhìn xuống.

    Bên dưới, tại một khoảng trống, nằm sâu trong vách núi, có bảy ngọn lửa, lửa cháy không do nhiên liệu cháy tự nhiên, như lửa thần lửa ma, lửa màu lam chẳng sáng lắm. Để ý nhìn kỹ tất thấy mỗi ngọn lửa bên trên một chiếc ống bằng đồng, bảy ngọn kết thành một vòng tròn khá rộng.

    Khoảng cách từ ngọn này đến ngọn kia cũng khá xa. Nơi trung tâm vòng lửa có một người xếp bằng tròn, trong tư thế tham thiền nhập định.

    Người đó vận chiếc áo bố, dĩ nhiên nhắm mắt, không rõ ngồi như thế được bao lâu rồi, bất động như tượng gỗ.

    Phương Bửu Nhi hết sức lấy làm lạ, hỏi:

    - Ngồi làm gì thế hở thúc thúc? Có lẽ y sợ lạnh nên đốt lửa chăng?

    Hồ Bất Sầu lắc đầu:

    - Không phải là người đâu!

    Phương Bửu Nhi càng lấy làm lạ, nhướng mắt cố nhìn kỹ, bất giác a lên một tiếng, nhận ra không phải là người thật sự, mà chính là một pho tượng bằng gỗ, tay thợ nào đó chạm thành quả là một nhà nghề, tượng giống người thật như hai giọt nước.

    Hắn lẩm bẩm:

    - Tượng gỗ sao lại sợ lạnh, bởi sợ lạnh nên mới đốt lửa chứ? Kẻ nào đốt lửa sưởi ấm pho tượng, đúng là ngốc tử?

    Tượng có dáng dấp không hiền. Giữa đêm khuya, dưới ánh lửa bập bùng, hình tượng đó hiện ra, dù ít nhiều cũng gieo khiếp đảm nơi lòng kẻ nào bất ngờ trông thấy. Hồ Bất Sầu thầm nghĩ:

    - Không ai ngu dại gì bố trí cái cảnh đó không có lý do? Hẳn bên trong sự tình phải có điều gì bí ẩn cùng cực.

    Đột nhiên, từ nơi cạnh núi gần đó có tiếng động vang lên rồi hai bóng người xuất hiện. Hai người đó bước đi rất nhanh. Thoạt trông, Hồ Bất Sầu biết ngay họ thuộc thành phần võ lâm.

    Còn xa xa, họ hước nhanh họ cười nói, nhưng đến gần vùng lửa, họ chậm chân lại, bước rón rén, họ nín lặng, tỏ vẻ cung cung kính kính. Họ tiến đến từ từ, khi vừa đúng tầm đã định, bỗng họ cùng quỳ xuống.

    Người bên tả cất giọng trầm trầm, thốt:

    - Đinh Trọng Hoa và Đinh Bá Hoa, kính dâng bảy mươi hai món báu và bảy trăm lượng vàng ròng, cầu xin Thần Quân thu nhận!

    Cả hai.hoành tay ra sau, lấy chiếc bọc mở ra tuông số báu vật và vàng ròng ngay trên khoảng đất trắng trước tượng gỗ.

    Rồi cả hai cúi đầu, lạy lạy mấy lạy, đoạn đứng lên, quay mình trở lại, gương mặt lộ vẻ hân hoan như một đứa bé con vừa được người lớn khen tặng.

    Làm được cái việc đó, họ thích thú như bình sanh chưa hc làm được một việc nào thích thú bằng, chẳng hề tiếc số báu vật và vàng ròng bỏ bừa bãi tại đó.

    Lửa bập bùng, ánh sáng châu báu chiếu vàng, ngời sáng lên, xem ngoạn mục vô cùng.

    Phương Bửu Nhi lấy làm lạ, thầm nghĩ:

    - Họ điên hay họ ngốc? Mang bao nhiêu báu vật vàng ròng đến đây, cung cung kính kính hiến dâng cho một pho tượng gỗ, thế là nghĩa gì?

    Đã vậy, lại còn nói năng lễ phép với pho tượng. Một pho tượng biết nghe sao? Một pho tượng biết sử dụng bạc vàng châu báu sao?

    Chính Hồ Bất Sầu cũng kỳ quái như hắn.

    Y còn lạ gì anh em Đinh Trọng Hoa và Đinh Bá Hoa, có ngoại hiệu Kim Tiễn Ngân Câu, là những tay hữu danh trong giới lục lâm làm cường đạo, từng làm mưa làm gió vùng Giang Chiếc, ai ai nghe nói song kiệt họ Đinh cũng đều xám mặt, vậy mà giờ đây, trước một pho tượng gỗ, họ lại cúi đầu bái phục, lại dâng hiến vàng bạc châu báu, tất phải có nguyên do.

    Bỗng y chợt nhớ ra, khẽ ạ lên một tiếng, thầm nghĩ:

    - Hay là tượng gỗ là biểu hiện của chủ nhân Thần Mộc Lịnh mà bảy ngọn lửa kia chính là Linh Phong Thần Hỏa, như Nhất Trận Phong đã tiết lộ?

    Cả hai chú mắt nhìn xuống chỗ trũng, chờ xem sự tình có biến chuyển như thế nào nữa chăng.

    Từ phút giây đó, lần lượt có nhiều toán người, có kẻ đi đơn độc, có người đi với bằng hữu. Phương Bửu Nhi đếm đúng mười bảy người rồi, người nào cũng có bọc theo bạc vàng, châu báu, cũng đổ tuôn ra trước tượng gỗ, cũng lạy, cũng khấn như anh em họ Đinh. Họ gồm cả nam lẫn nữ, đủ tác vóc.

    Làm xong công việc đó, lúc trở ra về, người nào cũng lộ vẻ hân hoan, tưởng chừng bình sanh họ vừa làm được một việc hết sức quan trọng.

    Mười bảy người đó, chẳng xa lạ gì với Hồ Bất Sầu, y biết rõ họ là những kẻ tham tàn, cướp đoạt của người thì có, chẳng bao giờ bố thí cho ai một vật nhỏ mọn nào, họ tham tàn như vậy, bỗng dưng lại mang gia tài cung hiến cho tượng gỗ, kể cũng là một sự hi hữu, chính vì cái lẽ hi hữu đó, Hồ Bất sầu mới nghĩ ngợi mông lung...

    Quanh pho tượng gỗ, giờ đây có những đống bạc vàng châu báu chất thành đồi, đồi này liền mí với đồi kia, tạo thành một cảnh huy hoàng rực rỡ. Lửa vẫn cháy đều, lửa tỏa ánh sáng, chiếu ngời châu báu, từ trên trông xuống, Phương Bửu Nhi vừa lạ kỳ vừa thích thú, chưa bao giờ hắn mục kích một cảnh tượng thần bí huyền ảo như vậy.

    Hắn tặc lưỡi nói:

    - Chủ nhân tượng gỗ vắng mặt, bạc vàng châu báu lại để tung bừa bãi thư thế không sợ cường đạo đến cướp đoạt hết sao?

    Cường đạo! Còn cường đạo nào nữa? Chính những tên cường đạo khét tiếng hung tàn, tham bạo mang báu vật đến đây, còn tên nào to gan dám cướp đoạt? Nếu có ý muốn cướp đoạt thì tội gì chúng lại mang tư sản của chúng, cung hiến cho kẻ khác.

    Hồ Bất Sầu lắc đầu:

    - Ta không hiểu nổi rồi! Nhưng...

    Y chưa dứt câu, có giọng ca từ đâu đây văng vẳng vọng đến. Thoạt đầu nhỏ, dần dần to, lời ca thanh thoát, khẩu khí của kẻ từng sống với đồng tiền hạt gạo của nhân loại bốn phương trên khắp mọi nẻo đường, hiện lộ rõ rệt trong lời ca, khẩu khí của những kẻ vô câu thúc, khỏi lo cái ăn cái mặc, lấy trời đất làm nhà, dựa vào từ tâm nhân loại làm nguồn sống.

    Lời ca dứt, ba bóng người xuất hiện, trong lớp áo lông chim chẳng rõ đúng thật bằng lông chim hay rách mướp giống lông chim, áo chằm vá trăm mảnh.

    Ba người hành khất.

    Là hành khất, họ có bị, có gậy, đặc biệt là ba người nầy có rất nhiêu bị, mỗi người ít nhất cũng mang sáu bảy bị.

    Họ cùng lứa tuổi với nhau, vào trạc bốn mươi trên dưới.

    Họ đi tới, khi đến gần, họ trố mắt nhìn đống bạc vàng, châu báu, họ sửng sốt thừ người, đứng lặng mồm há hốc, mắt trợn tròn.

    Hồ Bất Sầu nhận ra ngay họ là những đệ tử thượng thặng của Cái Bang. Y biết luôn họ đến đây chẳng phải hiến dâng lễ vật, bất quá nhân lộ trình phải ngang qua đây, tình cờ bắt gặp cảnh này thôi, bởi họ kinh ngạc trước đống châu báu quá to lớn, tức nhiên cảnh tượng đó hiện đúng ngoài chỗ tưởng của họ.

    Họ thừ người một lúc, rồi đưa ánh mắt nhìn nhau, trong số đó có một người ốm, một người mặt đầy nốt ruồi, một người thọt chân.

    Người ốm, qua một lúc lâu, cất tiếng trước:

    - Lão tứ, lão thất? Các ngươi thử đoán xem việc gì như thế này?

    Người có nốt ruồi lắc đầu, buông một câu:

    - Một tôn giáo bí mật nào trên giang hồ, bày cuộc tế lễ thần bí này?

    Người chân thọt tặc lưỡi:

    - Mang bao nhiêu báu vật, cung hiến cho quỷ thần ma mỵ hư vô, phiêu diêu. Hừ! Nếu không điên thì cũng chỉ là ngu. Trong thế gian sao lại có hạng người ngu thế?

    Cả ba nhìn báu vật, rồi nhìn quanh.

    Nằm tại mép động, Hồ Bất Sầu cơ hồ nín thở, dõi mắt theo từng cử chỉ của ba người hành khất bên dưới.

    Người mang nốt ruồi nói:

    - Bốn phía vắng lặng, chẳng có một tiếng động, chẳng có một bóng người...

    Y dừng lại một chút, rồi tiếp:

    - Nếu chúng ta thu dọn bao nhiêu báu vật này, thì... hay biết mấy!

    Người chân thọt thốt:

    - Những vật đó, thuộc về tượng gỗ, mà tượng gỗ là vật vô tri giác, tự nhiên không hưởng thọ được, chúng ta là kẻ hưởng thọ được, tại sao không hưởng thọ?

    Người có rốt ruồi cười lớn:

    - Ha ha! Người không hay, quỷ thần không biết. Còn ai truy rạ..

    Y nhìn thoáng qua người ốm, hỏi:

    - Nhị ca có ý kiến gì chẳng?

    Người ốm trầm ngâm một chút:

    - Có chắc là tượng gỗ hay không đó? Nếu là người thì sao?

    Người có nốt ruồi mỉm cười:

    - Muốn biết có đúng tượng gỗ hay là người, chúng ta cứ thử, khó khăn gì mà nhị ca phải thắc mắc?

    Y cúi xuống, nhặt một hòn đá, khá to, nhắm đúng chiếc đầu tượng gỗ, vung tới.

    Đã là tượng gỗ, tự nhiên không thể né tránh, chiếc đầu hứng trọn hòn đá đó, một tiếng bốp vang lên.

    Đệ tử thượng thặng của Cái Bang hẳn phải có công lực hơn người.

    Hòn đá đó được tung ra với toàn công phu tu vi, áp lực phải trên mấy trăm cân, dù vật cứng rắn đến đâu, chạm phải hòn đá cũng vỡ tan.

    Nhưng chiếc đầu lâu vẫn còn nguyên vẹn, chỗ bị chạm chỉ xây xát một chút, chẳng thấy máu chảy. Không có máu chảy tức nhiên là một tượng gỗ, chứ chẳng phải người bằng xương bằng thịt.

    Người chân thọt cười lớn:

    - Đúng là tượng gỗ rồi?

    Người ốm lại trầm ngâm một chút, lẩm nhẩm:

    - Chỉ sợ bang chủ hay được...

    Y nhìn đống châu báu, mắt chớp từng hồi, sau cùng y tặc lưỡi lắc đầu:

    - Không thể bỏ qua! Dù bang chủ có hay dược thì...

    Người có nốt ruồi vỗ tay bôm bốp:

    - Nhị ca thông minh quá! Đáng phục nhị ca!

    Cả ba nhún chân nhảy vọt tới, cạnh tượng gỗ.

    Hồ Bất Sầu thầm nghĩ:

    - Từng nghe quy luật của Cái Bang rất nghiêm, tại sao bọn này lại sanh lòng tham, thấy báu vật là tối mắt, quên đi chánh đạo giang hồ?

    Bên dưới ba gã hành khất cùng bước qua vòng lửa, gã thọt chân nhanh hơn đồng bọn, vọt mình tới trước, chụp lấy một số châu báu, rồi hướng mắt thẳng vào tượng gỗ, bật cười ha hả thốt:

    - Bằng hữu gỗ ơi! Đành vậy nhé, ba anh em ta tạm đỡ số châu báu này, chi dụng một thời gian, khi nào...

    Y chưa dứt câu, bỗng y giật mình trố mắt, ngây người. Rồi bao nhiêu châu báu từ hai bàn tay rơi lộp độp xuống đất.

    Người ốm và người có nốt ruồi lấy làm lạ, bước nhanh đến gần hấp tấp hỏi:

    - Việc gì thế? Sao lạ vậy chứ!

    Liền sau đó cả hai cũng giật mình, cũng trố mắt cũng ngây người.

    Cả ba há hốc mồm ra, há rất lâu vẫn chưa khép lại.

    Thì ra họ đã trông thấy đôi mắt nhắm nghiền của tượng gỗ, đột nhiên mở ra, đôi mắt đó bắn tinh quang sáng rực chiếu thẳng vào mặt cả ba, đôi mắt lạnh lùng ngời niềm oán độc.

    Chẳng những ba gã hành khất kinh khiếp vô cùng mà Hồ Bất Sầu và Phương Bửu Nhi cũng hãi hùng không kém họ.

    Bỗng người có nốt ruồi hét lớn:

    - Ngươi là người trá hình làm thần, làm quỷ phải không?

    Cả ba trấn định tinh thần, họ bình tĩnh rồi thì hung tánh nổi lên, người nào cũng vận công, chuyền nội lực vào hai tay, chính người có nốt ruồi nhào tới trước, tung một chưởng vào ngực tượng gỗ.

    Chưởng lực đó nặng ít nhất cũng ngàn cân, nếu trúng đá, đá cũng phải vỡ, đừng nói là một tượng gỗ hay da thịt người.

    Tượng gỗ không né tránh, mà cũng chẳng xuất thủ phản công.

    Người có nốt ruồi cả mừng, cầm chắc thế nào tượng gỗ cũng phải nát dưới chưởng kình của y, hoặc giả nếu là người thật sự, người đó cũng phải nhừ như cám.

    Một tiếng bịch vang lên, mường tượng tiếng một vật thể lao vào một tấm da căng phồng.

    Tượng gỗ bất động, nhưng người có nốt ruồi lại bị chấn dội như quả cầu tung vào tường bật trở về, xa hơn vị trí chân chạm đất, y loạng choạng mấy lượt không gượng đứng được, ngã nhào.

    Y cảm thấy khí huyết trong người nghịch chuyển, đôi cánh tay đau nhức vô cùng, mặt y xanh dờn.

    Nếu tượng gỗ là một con người trá hình, tại sao lại không bị bắn đi, dưới chưởng kình của y? Tại sao tiếng chạm chỉ nghe bịch như lượt da phồng. Nhưng nếu không phải là người, sao đôi mắt lại tinh quang sáng rực?

    Người chân thọt và người ốm kinh hãi hết sức, cả hai trố mắt nhìn tượng gỗ trừng trừng.

    Lâu lắm, người có nốt ruồi cố lết tới gần run run giọng hỏi:

    - Ngươi... ngươi... thật sự ngươi là người?

    Tượng gỗ bất động.

    Vừa lúc đó, từ sau lưng ba gã hành khất một giọng dịu dàng vọng đến:

    - Đáng thương hại cho bọn trẻ con...

    Âm thanh dịu như gió xuân, nhưng ba gã hành khất là những con chim bị tên, thấy cây cong là sợ, nghe tiếng động là giật mình, cùng quay lại phía hậu, thấy một lão phụ vừa lùn vừa mập đến độ tròn như quả cầu, tay tả đeo một tay nải, tay hữu nương trượng khập khễnh bước tới.

    Phương Bửu Nhi nhận ra bà ta liền, hắn run sợ, thấp giọng kêu lên:

    - Không xong rồi! Yêu phụ lại đến đây!

    Bà ấy đúng là Vạn lão phu nhân, nếu Phương Bửu Nhi không mục kích hành động tàn độc của bà vừa rồi, hắn phải tin là bà ta hiền hơn Bồ Tát. Bà cười lạnh quá, bà nói hiền quá, dáng dấp của bà khệnh khạng, cái vẻ già nua đó nói lên một tâm tánh từ bi, bác ái vô lường.

    Hắn rùng mình, không dám nhìn bà ta lâu, vội nhắm mắt lại.

    Nhưng tuổi trẻ là tuổi háo kỳ, hắn không nhìn làm sao được? Nhắm mắt lại rồi hắn liền mở ra.

    Vạn lão phu nhân khệnh khạng bước tới, vừa bước vừa lẩm bẩm:

    - Đáng thương hại cho bọn trẻ con. Thật đáng thương hại!

    Bà nói mãi, nói không ngừng. Chừng như từ tâm của bà bị kích động mãnh liệt, bà phải nói, nói cho dịu bớt niềm kích động.

    Cuối cùng bà đến trước mặt ba gã hành khất.

    Người có nốt ruồi chịu không nổi cái vẻ đạo đức của bà ta, hét to:

    - Bọn trẻ con nào đáng thương hại mà bà cứ lải nhải thế?

    Vạn lão phu nhân nhìn gã, thở dài:

    - Trẻ con là ngươi đó!

    Người có nốt ruồi thoáng giật mình, song sôi giận lên liền:

    - Cái bà này có lẽ điên rồi? Ta có gì mà bà phải thương hại chứ?

    Vạn lão phu nhân lại thở dài:

    - Ta thương hại vì ngươi chẳng sống nổi qua ba khắc thời gian nữa?

    Người có nốt ruồi nói lớn:

    - Câm ngay!

    Vạn lão phu nhân thong thả tiếp:

    - Ngươi đừng tưởng ta nói ngoa, ngươi đã trúng phải Khô Mộc Thần Công, phàm ai trúng phải Khô Mộc Thần Công thì đừng hòng sống sót quá ba khắc, hiện tại ngươi cầm như chờ chết mà không hay, nên ta thương hại cho ngươi đấy!

    Ba gã hành khất đột nhiên biến sắc, cùng cất giọng run run kêu lên:

    - Khô Mộc Thần Công?...

    Cả ba quay đầu lại nhìn tượng gỗ, mặt lộ vẻ kinh khiếp rõ rệt.

    Phương Bửu Nhi thấy cả ba trước thì hùng hổ, giờ đây lại sợ hãi cùng cực lấy làm lạ, thầm nghĩ:

    - Khô Mộc Thần Công là cái gì? Tại sao nghe nói đến thần công đó, ba gã hành khất lại sợ hãi như thế?

    Hồ Bất Sầu vụt đưa tay nắm bàn tay hắn, lòng bàn tay của họ Hồ đẫm ướt mồ hôi lạnh.

    Hắn kinh dị quay sang họ Hồ, thấy y cũng sợ hãi như ba gã hành khất, hắn càng kinh dị hơn nữa.

    Không đợi Phương Bửu Nhi hỏi, Hồ Bất Sầu rỉ bên tai hắn:

    - Khô Mộc Thần Công là một môn võ công trong số bảy môn võ công tuyệt đỉnh thất truyền từ lâu, thuộc về Ma Giáo. Phàm người luyện môn công đó, đều tuyệt diệt lục dục thất tình, trở thành như gỗ như đá, do đó vượt ra ngoài đạo lý của thế nhân. Theo ta nhận xét thì tượng kia, chẳng phải là tượng gỗ đâu, như ta đã nghĩ lúc đầu, mà là một người đã luyện được Khô Mộc Thần Công đến bảy tám thành rồi. Toàn thân mất hẳn cảm giác, chẳng khác nào một khúc gỗ, đao kiếm thường không thể gây thương tổn được. Gã hành khất có nốt ruồi ngông cuồng chạm phải người đó, cầm như mất mạng không thể sống sót nổi. Chúng ta phải hết sức cẩn thận, nếu để y phát hiện thì kể như đi đời.

    Bên dưới ba gã hành khất thừ người, đứng đờ ra chẳng khác nào ba tượng gỗ, cũng như tượng gỗ đang ngồi xếp bằng tròn bất động giữa trung tâm vòng lửa.

    Một lúc sau, người có nối ruồi bỗng hự lên một tiếng to, rồi ọc ra một búng máu, ngã nhào.

    Thương thế đến bây giờ mới phát tác, đủ biết cái độ âm nhu của lực đạo do môn Khô Mộc Thần Công phát huy.

    Vạn lão phu nhân lắc đầu, thở dài:

    - Xong rồi! Đáng thương hại quá. Ta nói không sai mà! Chẳng thể nào sống nổi quá ba khắc thời gian!

    Bà tặc lưỡi tỏ vẻ tiếc thương. Bà ta làm như từ bi bác ái đến độ thương xót cả một con kiến chẳng nỡ đạp nhầm.

    Phương Bửu Nhi thấy thái độ của bà, hắn hết sức khinh miệt.

    Người thọt chân và người ốm xanh mặt, cùng rú lên một tràng kinh thảm, cùng cúi xuống soát khắp thân thể của người có nốt ruồi, cố ý tìm một thương tích, chỉ thấy gương mặt của nạn nhân tím đen lại, hơi thở của y đã đứt.

    Bất giác cả hai bật khóc.

    Vạn lão phu nhân lại thở dài:

    - Các ngươi đến bây giờ mới biết xót thương đồng bạn à? Có cái chết nào lại chẳng gây thương tâm? Song, nghĩ cho kỹ, sống cũng không có thú vị gì, ai được chết sớm, cầm như giải thoát sớm. Nghe theo ta. nên đào huyệt vùi xác kẻ bạc mạng đi, ta sẽ giúp một tay, làm cho chóng xong việc.

    Bà đổi tay tả cầm trượng, còn tay hữu mò mò trong túi.

    Phượng Bửu Nhi kinh hãi thầm nghĩ:

    - Nguy! Nguy cho hai gã đó rồi! Bà ta lại định dùng hạt đào, hạt hạnh nhân, hạt mai, giết người nữa rồi!

    Vừa lúc đó, tượng gỗ vụt mở miệng:

    - Việc của Mộc Lang Quân, người ngoài không được can thiệp vào!

    Giọng nói hết sức lạnh lùng, hết sức tàn khốc. Từng tiếng nói buông rõ như tiếng mõ nện giữa canh trường vắng lặng, dội vào tai người như những tiếng búa đập.

    Giọng nói chẳng còn một điểm âm thanh của con người mà là một vật thể ngân ra.

    Vạn lão phu nhân cười nhẹ, gật đầu:

    - Cũng được!

    Mộc Lang Quân lạnh lùng gọi:

    - Đệ tử Cái Bang bước lại đây!

    Dù đang đau đớn về cái chết thảm của bạn đồng môn, người chân thọt và người ốm trước môn Thần Công siêu đẳng của Mộc Lang Quân, chẳng dám chẳng vâng lời, cùng đứng lên, cùng từ từ bước đến trước mặt lão.

    Mộc Lang Quân nghiêm giọng:

    - Nể mặt Gia Cát Thông, ta tha chết cho hai ngươi!

    Người chân thọt và người ốm mừng rỡ, đồng thốt:

    - Đa tạ tiền bối mở đức hải hà!

    Mộc Lang Quân lạnh lùng tiếp:

    - Các ngươi đã dùng tay hữu hốt châu báu của ta, hãy chặt cánh tay đó, để lại đây rồi tự do ra đi!

    Người chân thọt và người ốm xanh mặt run bắn mình, mồ hôi đượm quanh trán, mồ hôi đẫm ướt lưng, họ ấp úng:

    - Tiền bối... đã thương xin thương cho trót, đã nể mặt bang chủ chúng tôi, xin nể trọn niềm tha cho chúng tôi được toàn vẹn...

    Mộc Lang Quân thản nhiên:

    - Ta nói lần thứ hai, chặt cánh tay tận vai!

    Người thọt chân và người ốm càng run hơn:

    - Tiền bối... tiền bối...

    Mộc Lang Quân vẫn thản nhiên:

    .

    - Ta nói lần thứ ba, cắt luôn hai vành tai các ngươi!

    Người chân thọt và người ốm càng run rẩy hơn, đôi chân nhũn lại ngã sụm xuống tại chỗ, mặt họ trắng nhợt, chằng còn một hạt máu.

    Phương Bửu Nhi cũng lạnh người, chẳng khác chính hắn ở trong cuộc, lòng bàn tay của hắn ướt lạnh.

    Vạn lão phu nhân thở dài, dịu giọng thốt:

    - Ta khuyên các ngươi một câu nhé, đừng kêu ca van nài gì nữa. Nếu cứ nói mãi, đôi chân các ngươi cũng đứt luôn, cả chiếc đầu cũng chẳng còn nằm yên trên cổ.

    Bà tặc lưỡi, tiếp nói:

    - Mỗi một tiếng van xin là mỗi một bộ phận trên người các ngươi đứt lìa thân thể, hãy nhận chịu số phận đi!

    Hai gã hành khất biết là bà ta không nói ngoa, vội rút chủy thủ trong mình ra, tự chặt tay hữu, tự thẻo vành tai.

    Có lẽ bình thường, họ giết người rất diệu tay, ngọt đao, nhưng hiện tại họ lúng túng thấy rõ, bởi họ quá run sợ, tay cầm trủy thủ hầu như cầm một hòn núi, nghe nặng làm sao!

    Chặt cánh tay xem chừng dễ hơn, đến khi xẻo tai, họ cứa đến mấy lượt, vành tai mới đứt, mặc dù thanh trủy thủ sắc bén vô cùng.

    Trong lúc hai gã hành khất tự hủy đi mấy bộ phận thân thể của họ, Vạn lão phu nhân luôn luôn tặc lưỡi, luôn luôn lắc đầu, luôn luôn buồn thảm:

    - Đáng thương hại quá! Đáng thương bọn trẻ con quá!....

    Đột nhiên bà vung trượng lên, từ nơi đầu trượng ló ra một vật nhọn, dài độ ba thước...

    Chiếc trượng dài độ chín thước, thêm một vật nhọn đó, chiều dài của chiếc trượng tăng lên, nghiễm nhiên thành một chiếc sào.

    Sử dụng một chiếc sào dài như vậy, dĩ nhiên bà khỏi cần xê dịch cũng đâm trúng hai gã hành khất ở trong khoảng cách rất vừa tầm.

    Và hiện tại, vật nhọn cắm nơi đầu trượng sắp sửa đâm vào đầu hai gã hành khất.

    Bà muốn hạ sát họ? Tại sao bà có ý định đó?

    Nhưng hai gã hành khất trông thấy kịp, họ rú lên một tiếng kinh khiếp, nghiêng mình vọt lên theo một góc độ thuận lợi, tránh mũi nhọn của Vạn lão phu nhân rồi đáp xuống đất, không còn nghĩ đến xác đồng bạn nằm phơi lộ dưới sương đêm, mang thân vấy máu chạy bay xuống núi.

    Vạn lão phu nhân đã thu chiếc trượng về, mũi nhọn cũng thụt vào thân trượng, bà nhìn hai cánh tay, bốn vành tai đổ máu trên mặt đất lắc đầu thở dài:

    - Già rồi? Ta đã già quá rồi? Thủ pháp không còn linh hoạt như xưa.

    Rồi bà đưa lay vào túi, lấy ra một quả ô mai bỏ vào miệng nhai ngon lành, không vì thấy máu trước mặt mà gớm.

    Trước đó, khi Vạn lão phu nhân tung ám khí hạ sát bọn Phấn Bưu, Thiết Hổ và Nhất Trận Phong, Hồ Bất Sầu chỉ nghĩ là bà ta sở trường ám toán giết người trong lúc bất ngờ, giờ đây thấy bà vung trượng hết sức nhanh, y mới thức ngộ là bà có võ công kỳ diệu.

    Y còn biết thêm là chiếc trượng của bà, xem thì thông thường như bao nhiêu chiếc trượng trên đời, song thật ra, là một loại vũ khí hết sức lợi hại với bao nhiêu ám khí chứa đựng bên trong. Đúng là một vũ khí ngoại môn độc nhất vô nhị trong võ lâm.

    Mộc Lang Quân hừ một tiếng lạnh lùng nói:

    - Ai bảo ngươi xuất thủ?

    Vạn lão phu nhân điểm nụ cười:

    - Người ta thường nói, không ai nỡ xuống tay đối với kẻ đang cười tươi được, cũng như không ai nỡ khước từ cái hảo ý của kẻ khác mang đến cho mình. Già từ xa mang lễ vật đến đây cung hiến cho Thần Quân, chẳng lẽ Thần Quân lại bắt tội vì một phút vui hay sao?

    Mộc Lang Quân lại hừ một tiếng.

    Vạn lão phu nhân hoành tay để chiếc bọc nơi vai xuống, vừa mở bọc vừa thốt:

    - Nếu Thần Quân cho là không xứng đáng, già sẽ trở về thu góp thêm!

    Phương Bửu Nhi không cần phải nhìn kỹ cũng thừa hiểu những món đó do bà ta đoạt nơi tay ba tên cường đạo, hắn giương tròn mắt nhìn xem Mộc Lang Quân có thái độ gì.

    Bỗng Mộc Lang Quân vụt đứng lên, gương mặt của lão bốc ra một vầng thanh khí.

    Vạn lão phu nhân trông thấy vầng thanh khí đó biến sắc mặt, song bà ta lấy ngay bình tĩnh điểm nhẹ một nụ cười:

    - Thần Quân định làm gì?

    Mộc Lang Quân từ từ buông từng tiếng một:

    - Ai bảo ngươi đến đây? Đến đây để làm gì?

    Vạn lão phu nhân giương tròn mắt:

    - Làm gì? Làm gì?...

    Mộc Lang Quân cười lạnh:

    - Đừng vờ cái vẻ từ cung trăng rơi xuống!

    Tràng cười lạnh của lão càng lúc càng vang, lớn âm thanh gieo cái rợn chẳng những cho Vạn lão phu nhân mà đến cả Hồ Bất Sầu và Phương Bửu Nhi là những kẻ ngoài cuộc, vô can vẫn hãi hùng như thường. Tràng cười nhói tai họ còn hơn một tiếng sét bất ngờ.

    Tuy nhiên, chừng như có chủ trương vững, Vạn lão phu nhân qua phút giây giật mình, lấy lại bình tĩnh ngay, cũng bật cười lạnh nhưng chẳng to bằng đối tượng:

    - Thần Quân nói gì, già chẳng hiểu sao cả! Già nhận thấy mình thành thật quá, lòng nghĩ sao, thái độ biểu hiện làm vậy, có gì vờ vĩnh đâu?

    Dù cười lạnh, bà vẫn ngơ ngơ ngác ngác, thần tình nửa lấy làm lạ nửa sợ sệt, bất an.

    Mộc Lang Quân trầm giọng:

    - Tiện phụ họ Thủy kia, ngươi có biết là bổn tòa dùng Thần Mộc Lịnh điều động quần hùng cống hiến lễ vật làm lễ ra mắt Thuyền chủ Ngũ sắc Phàm chăng? Ngươi bắt được tin đó ở đâu rồi định đến đây phỗng tay trên ta?

    Hồ Bất Sầu kinh hãi thầm nghĩ:

    - Thì ra, sự việc này có liên quan đến vị thuyền chủ mà ta sắp sửa tìm đến bái kiến theo sự ủy thác của sư phó!

    Bỗng Vạn lão phu nhân đổi thái độ, từ cái vẻ ngơ ngơ ngác ngác, bà ta trở nên cao ngạo, và có ý khiêu khích rõ rệt:

    - Lời truyền thuyết trên giang hồ cho rằng Mộc Lang Quân toàn thân như gỗ, riêng chỉ có quả tim thì chưa thành gỗ, lời truyền thuyết đó chẳng ngoa tí nào, bởi còn quả tim con người nên Thần Quân nghi ngờ thiện ý của ta.

    Mộc Lang Quân bật cười ha hả:

    - Bổn tòa chẳng hề truyền lệnh đến ngươi, ngươi lại tự dấn thân đến đây, dĩ nhiên là phải có lý do chứ! Và cái lý do thầm kín của ngươi được che đậy bằng cái lý do thông thường, là ngươi cũng mượn cớ cống hiến báu vật cho ta để được đến đây. Ngươi định lấy mồi nhỏ nhử con cá lớn phải chăng?

    Lão bước tới mấy bước, vượt khối đống châu báu, chân và tay lão xem thì cứng đờ như gỗ nhưng động tác của lão nhanh vô cùng, trên mức linh hoạt thường.

    Vạn lão phu nhân thở dài:

    - Già đã bị Thần Quân khám phá tâm tư, giờ chỉ còn mong Thần Quân dung thứ cho thôi!

    Bà chống đầu trượng xuống đất, nương thế nhảy vọt tới.

    Phương Bửu Nhi thầm nghĩ:

    - Bà này lại thừa lúc người ta không phòng bị đột kích đây!

    Hắn chưa nghĩ tròn ý, thì bên dưới, Vạn lão phu nhân vừa chấm chân xuống đất, đầu trượng đã cất lên, ngang tầm Mộc Lang Quân bất thình lình bà đâm tới.

    Dĩ nhiễn mũi nhọn cũng ló ra như lúc bà định hạ sát hai gã hành khất.

    Một chiếc trượng dài chín thước, cộng với ba thước của mũi nhọn, thừa chạm vào người Mộc Lang Quân, gia dĩ bà đâm nhanh hơn con rắn độc thè lưỡi. Thân pháp của bà lại ảo diệu, tuy với một mũi nhọn bà đâm tới hầu như trên dưới tả hữu đều có đủ, phong tỏa hẳn đối phương trong vị trí chẳng cho xê dịch qua bên, hoặc tung lên hụp xuống.

    Dù cho mũi nhọn đó không trúng đích đi nữa, ít nhất bà cũng được cái lợi là đối phương chẳng nhập nội được. Địch tay không, lại chẳng nhập nội được, thì làm gì bà nổi, rồi nhân dó bà cứ đảo lộn chiếc trượng cầm chân địch trong một khoảng cách an toàn, tránh được cái hại, thong thả thừa cơ hội nắm cái lợi.

    Hồ Bất Sầu thấy thế giật mình thầm nghĩ:

    - Bà ta quả lợi hại thật! Dùng vũ khí dài, lại xuất thế công trước, giữ được khoảng cách an toàn, chẳng sợ địch nhập nội, khởi đầu cuộc giao thủ đã nắm cái ưu vị rồi, dù đối phương có xoay chiều cục diện cũng còn lâu!

    Nhưng Mộc Lang Quân nào phải tay vừa. Mũi nhọn của Vạn lão phu nhân linh hoạt ảo diệu đến đâu, thân pháp của lão cũng nhanh nhẹn chẳng kém. Lạ một điều là dù xê dịch cách nào, dù động tác trong giác độ nào, thân hình lão cũng vẫn cứng đơ như tượng gỗ.

    Trong thoáng mắt, chẳng rõ Vạn lão phu nhân đã xuất phát được bao nhiêu thức, chính Hồ Bất Sầu là tay khá mà cũng chẳng nhận định kịp, bỗng nghe Mộc Lang Quân hét lên một tiếng lớn trụ bộ lại đứng bất động.

    Vạn lão phu nhân cũng trụ bộ, bất động.

    Chiếc trượng chong ngay ngực Mộc Lang Quân trong khoảng cách độ ba tấc, nhưng chẳng phải do bà chống thẳng, hòng phóng tới nếu cần, mà chính do Mộc Lang Quân giữ khoảng cách đó.

    Không rõ lão xuất thủ cách nào, bàn tay của lão đang nắm cứng mũi nhọn, bàn tay đó chẳng hề bị thương tổn qua ánh chớp rùng rợn của mũi nhọn.

    Vạn lão phu nhân lộ hẳn vẻ hãi hùng trên gương mặt. Bà ta không tưởng là Mộc Lang Quân dám dùng tay không chụp vũ khí của bà, bà càng không tưởng hơn nữa là chiêu thức tiến công của bà lại bị địch phong tỏa quá dễ dàng như vậy.

    Tuy tạp niệm đột hiện trong tâm tư, Vạn lão phu nhân không vì sự hoang mang hãi hùng đó mà chậm phản ứng, vừa trụ bộ nhận ra vũ khí bị kềm chế, lập tức bà giật mạnh tay lại, vũ khí theo đà tay thu về, Mộc Lang Quân chừng như cũng chỉ chờ có thế nên đối phương vừa nhích động cánh tay, lão buông tay liền, đối phương vừa lùi lại một bước lão cũng vừa tiến lên nhập nội.

    Lão nhập nội khoảng cách thu hẹp, chiếc trượng dài hơn mười thước trở thành vô dụng, vũ khí vô dụng thì người cầm nó phải lúng túng ngay.

    Vừa nhập nội, Mộc Lang Quân xuất chưởng giáng xuống vai tả của Vạn lão phu nhân liền.

    Hồ Bất Sầu dù là một cao đồ của Thanh Bình Kiếm Khách Bạch Tam Không vẫn phải thán phục thân pháp và thủ pháp của Mộc Lang Quân. Tài nghệ đó ít nhất cũng ngang hàng với sư phó y trở lên, và như vậy là y chưa có thể sánh mình được. Dù muốn dù không, y cũng nhận thấy với những gì thọ huấn nơi sư phó, y chưa đủ mang ra sử dụng trên bước giang hồ.

    Y hết sức lo sợ cho Vạn lão phu nhân, đã từ cái thế chủ động trở về thế thụ động, và trong một cuộc ác chiến, chỉ thụ động một giây thôi cũng đủ giúp cho địch chuyển nguy thành an, chuyển bại thành thắng.

    Hiện tại, bà ta mất cả ưu thế, và sắp rơi vào thảm bại, bởi ỷ vào vũ khí trong khi địch tay không, mà còn chẳng làm gì được. Khi địch nhập nội rồi, vũ khí vô dụng, bà ta còn hy vọng gì nữa?

    Trong tình trạng đó, nếu bà tiếc rẻ chiếc trượng, chẳng chịu bỏ đi thì chẳng những bà giữ một vật thừa vướng bận, mà còn mất hết một cánh tay, trong khi địch có đủ hai tay.

    Mộc Lang Quân tiến tới, ngoài tay chưởng giáng xuống vai tả của bà, lão còn phát động một đạo âm nhu kình lực cuồn cuộn dồn tới, kình lực đó càng lúc càng mãnh liệt, càng mãnh liệt càng hiện màu xanh dờn, màu xanh chớp chớp dợn dợn như sóng nước đuổi nhau, dưới ánh dương quang chiếu sáng.

    Ở đây, đang đêm thiếu vắng ánh dương quang, thì còn có ánh sáng của bảy ngọn đèn. Mộc Lang Quân chập chờn trong ánh sáng kỳ diệu đó, trông huyền huyền ảo ảo vừa kỳ bí, vừa rùng rợn, chẳng khác nào một ác quỷ, một hung thần đang tác oai, tác phúc.

    Dĩ nhiên, Vạn lão phu nhân phải sợ hãi vô cùng. Có lẽ bà ta đã ước độ bản lãnh của đối phương quá thấp, giờ đây bà mục kích tài nghệ siêu nhiên của lão, bà mới nhận thấy dấn thân đến nơi này là một sự liều.

    Nhưng không phải với nhận xét đó, Vạn lão phu nhân nao núng. Dù sao thì bà cũng là một vị tiền bối cao tuổi đời, cao tuổi giang hồ, gặp hoàn cảnh khó nào, bà cũng thừa sức hóa giải, có khi nào bà chịu khoanh tay thọ nhận thảm bại?

    Nhận thấy không còn tránh né kịp trong cơn nguy cấp, Vạn lão phu nhân phải liều, bà hạ nhanh đầu chiếc trượng chỏi mặt đất nhún chân, nương theo cái chỏi đó, tung người lên không theo một góc độ đã tính toán kỹ, vừa nhích khỏi tầm chưởng của địch, vừa vượt qua đầu Mộc Lang Quân, thân hình uốn cầu vồng, đáp xuống phía hậu.

    Thoạt đầu, Phương Bửu Nhi thấy Mộc Lang Quân dồn bà ta vào nguy cảnh, hắn nhất định chẳng bao giờ bà ta thoát khỏi thủ đoạn của Mộc Lang Quân. Hắn mừng ra mặt và thầm nhủ:

    - Yêu bà thế nào cũng mất mạng. Phải chứ, tạo hóa chí công có khi nào lại để cho một nữ lão ma đầu ung dung hưởng an nhàn trong ngày tàn. Kẻ gây nhiều tội ác phải đền tội ác, không sớm thì muộn, như vậy mới hợp lý chứ.

    Nhưng hắn chưa mừng lâu thì chỉ một cái vọt đó, Vạn lão phu nhân đã thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa của Mộc Lang Quân dễ dàng. Từ cái nguy, bà nắm được cái an. Rất có thể nhân cái an đó, bà sẽ nắm luôn phần chủ động tình hình.

    Phương Bửu Nhi vừa mừng đó lại lo liền đó. Chẳng phải hắn lo cho sinh mạng của Mộc Lang Quân mà hắn tiếc cái cơ hội ngàn năm một thưở. Mất cơ hội này Vạn lão phu nhân sẽ sống thêm một thời gian.

    Trong thời gian đó bà ta sẽ sát hại bao nhiêu mạng người nữa, dù những nạn nhân trước đó và sau này chỉ là những tay đại cường đạo đáng chết cả.

    Mộc Lang Quân hụt chưởng đó, cấp tốc thu tay về, quay mình nửa vòng đối diện với Vạn lão phu nhân.

    Vừa đáp xuống đất, Vạn lão phu nhân gạt mạnh tay, chiếc trượng vụt gãy làm hai đoạn, tuy gãy làm hai đoạn nhưng chẳng rời nhau, như còn dính chung bởi một làn da mỏng. Nơi hai đầu đoạn gãy, hai đợt khói đen bắn ra.

    Trong thoáng mắt đã tỏa rộng, bao bọc quanh mình bà. Vầng khói lớn dần, từ trong làn khói có một đạo ngân quang xẹt tới Mộc Lang Quân.

    Đạo ngân quang đó, chính là chiếc trượng có mũi nhọn do Vạn lão phu nhân nấp trong vầng khói, đâm tới nhắm đúng ngực đối phương.

    Đúng như chỗ lo ngại của Phương Bửu Nhi, thoát khỏi cái nguy, bà ta trở về vị trí an toàn, dành phần chủ động. Rất có thể bà sẽ đoạt lại lợi thế đã mất.

    Hắn buột miệng kêu lên:

    - Không xong!....

    Chính lúc đó, Mộc Lang Quân ngã người, nằm dài trên mặt đất.

    Hắn tưởng đâu lão bị đạo ngân quang đó chạm phải, hắn lo sợ cho lão, vì quá lo sợ thành ra líu lưỡi không thốt nên lời, dứt trọn câu.

    Hắn đưa mắt nhìn sang Vạn lão phu nhân, thấy bà đã nhảy vọt ra xa ngoài mười trượng, bà cười hì hì thốt:

    - Đừng hy vọng chạm đến ta, Thần Quân ạ! Ít nhất ta cũng có bảy mươi hai cách biến hóa thừa ứng phó mọi biến chuyển bất ngờ, không ai làm gì thương tổn đến ta nổi.

    Câu nói vừa dứt, bà ta đã biến mất luôn.

    Hồ Bất Sầu hết sức kinh khiếp trước thuật khinh công của bà.

    Còn Phương Bửu Nhi thừ người ra, tắc lưỡi thở dài than:

    - Đáng tiếc! Đáng tiếc! Yêu bà đã thoát chết rồi! Nhưng lão già lại chết!

    Bỗng Mộc Lang Quân vụt đứng lên, ngẩng mặt nhìn về phía hắn và Hồ Bất Sầu, ánh mắt của lão sắc lạnh vô tưởng, lão cất giọng cũng lạnh lùng vô tưởng, nói:

    - Xuống đây!

    Phương Bửu Nhi xám mặt run run giọng rỉ bên tai Hồ Bất Sầu:

    - Lão ấy... không chết? Lão đã phát hiện ra chúng ta?

    Hồ Bất Sầu thở dài:

    - Một ngọn chưởng như thế làm gì nổi lão?

    Phương Bửu Nhi sanh tính quật cường:

    - Mình không xuống dưới xem lão làm gì mình!

    Hồ Bất Sầu cười khổ:

    - Vô ích. Không xuống cũng chẳng xong, mà dù có chạy đi cũng chẳng thoát, nên tuân theo lời lão là hơn!

    Y còn nói gì, cái họa đêm nay, nếu có, thì cũng do Phương Bửu Nhi tạo nên, giả sử hắn cứ tuân theo lời y, đừng lên tiếng, làm sao Mộc Lang Quân biết được cả hai đang nấp trong động, theo dõi mọi biến chuyển bên dưới? Bây giờ sự việc đã như thế rồi, có trách hắn cũng vô ích. Y điểm một nụ cười vòng tay ôm hắn, kẹp vào nách, nhún chân nhảy xuống.

    Cửa động cách bên dưới hơn trượng, trong một phút y đã đáp xuống trước mặt Mộc Lang Quân.

    Mộc Lang Quân nhìn cả hai một thoáng đoạn đưa tay vẫy Phương Bửu Nhi:

    - Tiểu tử bước lại đây!

    Hồ Bất Sầu toan đáp, Phương Bửu Nhi đã cất tiếng:

    - Bước tới đó để làm gì?

    Mộc Lang Quân cười lạnh:

    - Chính ngươi đã kêu lên vừa rồi, bên trên động, phải chăng?

    Phương Bửu Nhi đảo mắt nhìn quanh cục trường một lượt, hừ nhẹ:

    - Phải! Rồi có sao không?

    Mộc Lang Quân từ từ bước tới gần Phương Bửu Nhi, gương mặt lão lạnh như tiền, không thể biết rõ lão đến với thiện ý hay ác ý.

    Phương Bửu Nhi điềm nhiên chẳng tỏ vẻ gì sợ sệt cả, hắn trừng mắt ưỡn ngực bất động.

    Hắn điềm nhiên nhưng Hồ Bất Sầu thầm kêu khổ, dù biết là khổ, y vẫn chẳng làm sao được, phải đánh liều mặc cho sự việc xảy ra như thế nào, cam nhận thế ấy.

    Mộc Lang Quân vụt nhếch môi cười nhẹ, nụ cười giảm bớt phần giá lạnh của gương mặt lão.

    Phương Bửu Nhi lấy làm lạ hỏi:

    - Ngươi cười chi?

    Mộc lang Quân cười to tiếng :

    - Bình sanh bổn tòa giết người không đếm, thiên hạ giang hồ đều oán hận. Ai ai cũng muốn bổn tòa chết đi, chết gấp, chết bằng mọi cách.

    Song bổn tòa vẫn sống dai, thiên hạ giang hồ càng thêm oán hận.

    Chẳng một ai trông thấy bổn tòa thoát chết mà vui mừng. Chỉ có ngươi, vừa rồi ta đã lâm nguy dưới ngọn trượng của lão yêu bà họ Vạn, ngươi lại lo sợ cho ta, ngươi kêu lên tỏ ý tiếc thương ta. Ngươi là kẻ duy nhất biết thương hại ta, mà bình sanh ta mới gặp một kẻ biết thương tiếc ta.

    Ta cao hứng, ta cười...

    Lão cười lớn hơn, cười thích thú.

    Lão cười nhức, gương mặt lão bớt lạnh nhạt, nhưng lúc lão cười lớn, gương mặt lão đáng sợ vô cùng, còn đáng sợ hơn lúc lão lạnh lùng.

    Dù lão cười nhẹ, dù lão cười lớn ánh mắt của lão vẫn lạnh, ánh mắt đó phản ngược với nụ cười, tiết lộ rõ rệt tâm trạng của lão, tiết lộ luôn nụ cười man trá.

    Dù ai muốn dựa vào nụ cười đặt một niềm tin mong manh nơi lão, cũng chẳng tin nổi.

    Bỗng, lão ngưng bặt tiếng cười, trầm lạnh gương mặt, trầm lạnh giọng nói, quắc mắt nhìn Hồ Bất Sầu nói:

    - Ngươi là ai?

    Phương Bửu Nhi đứng trước mặt Hồ Bất Sầu trừng mắt hớt đáp:

    - Thúc thúc của ta đấy!

    Mộc Lang Quân hừ một tiếng:

    - Ngươi nấp trong chỗ kín nhìn trộm hành động của ta, tội ngươi đáng chết, song ta nể mặt tiểu tử tạm dung tha cho ngươi. Hãy thu xếp những vật dụng của ngươi rồi theo ta đến yết kiến thuyền chủ Ngũ Sắc Phàm.

    Phương Bửu Nhi kêu to:

    - Ai muốn theo ngươi mà hòng bảo?

    Mộc Lang Quân từ từ thốt:

    - Ta có cái ý muốn thu nhận ngươi làm đệ tử, ngươi hãy theo ta, đừng hỏi lôi thôi gì cả, nên nhớ phải vâng lời ta mới bảo toàn được tánh mạng.

    Phương Bửu Nhi thét lên:

    - Ta chẳng muốn học võ. Ta chẳng muốn nhận ngươi làm sư phụ!

    Mộc Lang Quân cười lạnh:

    - Trong thiên hạ, chẳng biết bao nhiêu người quỳ trước mặt ta van cầu ta thu nhận làm môn đồ mà ta đều từ chối, giờ đây chính ta tỏ ý muốn thu nhận ngươi, chẳng bởi ngươi van cầu, như vậy là một đại hạnh cho ngươi đó, đừng cự tuyệt, vừa mất dịp may cho ngươi, vừa chọc giận ta, chẳng ích lợi gì đâu!

    Phương Bửu Nhi hét to hơn:

    - Ta cự tuyệt.

    Nhưng Hồ Bất Sầu khẽ kéo chéo áo hắn, giật nhẹ, bảo:

    - Thần Quân đã có ý tốt, ngươi chẳng nên từ khước.

    Chuyến viễn hành này, Hồ Bất sầu lãnh sứ mạng của sư phó, tìm cho được thuyền chủ Ngũ Sắc Phàm, mà y thì chẳng biết thuyền chủ ở đâu. Nghe Mộc Lang Quân nói là y mang lễ vật đến bái kiến thuyền chủ, y cho là một dịp vô cùng may mắn. Tại sao không giả vờ ưng thuận để tháp tùng theo lão đến gặp thuyền chủ?

    Bởi nghĩ vậy, y mới khuyên Phương Bửu Nhi đừng cự tuyệt. Bất quá tạm thời ưng thuận theo lão, vừa giải thoát cảnh nguy hiện tại, vừa được việc mình, thiết tưởng biến phải tùng quyền, y cần lợi dụng cơ hội lắm chứ?

    Mộc Lang Quân gật đầu:

    - Ngươi nghĩ phải đó!

    Hồ Bất Sầu tiếp nối:

    - Nếu dọc đường, ngươi cứ càu nhàu, tỏ vẻ ương ngạnh, Thần Quân không thu nhận ngươi đâu nhé!

    Trong khi Mộc Lang Quân mỉm cười thì Phương Bửu Nhi lại nghĩ:

    - Chắc gì dọc đường ta mọi việc đều nghe theo ngươi? Để rồi ta kiếm chuyện chống đối ngươi, xem ngươi sẽ làm gì được ta!

    Hắn không thể cự tuyệt đi theo Mộc Lang Quân, vì Hồ Bất Sầu đã đồng ý rồi. Bây giờ hắn chỉ còn cách chọc tức Mộc Lang Quân thôi, và hắn nuôi dưỡng cái ý đó, nhất định có dịp là tỏ lộ liền.

    Với sức tưởng tượng của một đứa bé tinh khôn, hắn đã cấp tốc phác họa trong đầu óc hơn mười trò đùa ác, trò đùa nào cũng khiêu khích cực độ Mộc Lang Quân. Tuy chưa thực hiện những trò đùa đó, hắn thấy thích thú trước rồi và hắn đắc ý vô cùng.

    Trong niềm đắc ý đó, hắn thay đổi thái độ ngay. Từ chỗ cự tuyệt, hắn gần như tán đồng sự đi theo Mộc Lang Quân. Song hắn không thay đổi lối xưng hô, có lẽ còn lâu lắm mới chịu thay đổi, và chỉ khi nào cần.

    - Được rồi! Ta bằng lòng theo ngươi. Nhưng chỉ đi theo thôi nhé, còn việc ta có chịu nhận ngươi làm sư phụ hay chăng thì ta chưa có thái độ!

    Mộc Lang Quân khoái trá quá bật cười ha hả:

    - Được! Được! Cứ đi theo ta rồi việc gì phải đến sẽ đến.. Lão quay người nửa vòng, vung tay tung ra một chưởng. Chưởng phong cuốn tới thổi tắt bảy ngọn lửa.

    Lão giục:

    - Tiếp tay với ta, thu dọn những báu vật này, rồi mình lên đường.

    Hồ Bất Sầu thấy dự tính của mình có cơ thành tựu, mừng thầm vội đáp:

    - Xin tuân lệnh tiền bối!

    Sẵn có mấy chiếc bao, y gom số báu vật lại gói ghém cẩn thận cột chùm vào nhau. Nhờ tiếp tay với Mộc Lang Quân, y mới có thể đến gần chiếc bồn bằng đồng, nhìn vào bồn y thấy chứa một chất dầu màu đen.

    Không hiểu được đó là loại dầu gì, Hồ Bất Sầu đoán là một nhiên liệu cháy mạnh, dù có gió to ngọn lửa chẳng hề tắt.

    Cả ba chia nhau những chiếc bao, theo hướng đông tiến tới.

    Đêm đã tàn. Bình minh sắp trở về vạn vật, đường đi không lối tăm khó khăn lắm, Phương Bửu Nhi đỡ vất vả phần nào.

    Dọc đường hắn luôn luôn tìm dịp chọc tức Mộc Lang Quân, chọc một cách trắng trợn, lắm lúc Hồ Bất Sầu thấy hắn nghịch ngợm quá phải lo sợ thay cho hắn, nhưng Mộc Láng Quân chằng hề phẫn nộ. Mặc hắn nói gì thì nói, làm gì thì làm, lão vẫn thản nhiên như thường.

    Đi được một ngày đường họ tới một mũi đất nằm de ra tận ngoài khơi biển, ba phía đều nước, một phía đính với đất liền.

    Có lẽ nơi đây là một ngư thôn, gặp một đại biến cố nào đó, cư dân hoặc chết, hoặc bỏ đi nơi khác, thành ra hiện tại là một địa phương hoang vắng lạnh lùng, người dân trước đó sinh sống về ngư nghiệp, nên những dấu vết sinh hoạt vẫn còn như thuyền hư, lưới rách.

    Toàn địa phương chỉ còn lại độ mươi nóc nhà, cái nào cũng xiêu vẹo hoang tàn, nhưng cũng chỉ là những mái nhà hoang, chẳng có người ở.

    Hồ Bất Sầu lấy làm lạ thầm nghĩ:

    - Đây là địa phương nào? Thuyền Chủ Ngũ Sắc Phàm cư trú tại đây sao?

    Nghĩ sao thì nghĩ, y chẳng dám mở miệng hỏi han tiếng nào.

    Mộc Lang Quân tiến đến một ngôi nhà tương đối to lớn hơn các ngôi nhà khác.

    Phương Bửu Nhi cũng kinh dị như Hồ Bất Sầu, hắn tự hỏi làm thế nào lão lại ở trong một ngôi nhà như thế được? Rất có thể dưới cơn gió nhẹ, ngôi nhà sẽ đổ sụp, huống hồ đây thuộc vùng duyên hải, gió biển thổi lộng bốn mùa?

    Mộc Lang Quân không cần đưa tay mở cửa, lão đứng xa xa tung nhẹ một chưởng.

    Chưởng phong quất tới đẩy bật cánh cửa vào phía trong.

    Phương Bửu Nhi giật mình, sửng sốt, tưởng chừng như nằm mộng.

    Thì ra Mộc Lang Quân dùng ngôi nhà này làm một nghi trang. Bên ngoài thì trông điêu tàn xiêu đổ, nhưng bên trong lại là một ngôi nhà kiên cố tráng lệ, huy hoàng, đặc biệt nhất là vật trang trí gồm toàn da thú, treo đầy bốn phía vách.

    Đã là tráng lệ, huy hoàng tất nhiên chẳng thiếu vật dụng nào, mà lại là những vật quý giá cả.

    Trong ngôi nhà, hiện tại có hai đại hán vận áo gấm đang ngồi trên cẩm đôn, tay nâng chén pha lê nốc rượu.

    Đại hán bên tả vụt đứng lên, quát hỏi:

    - Ai?

    Phương Bửu Nhi trông thấy đại hán đó có thân hình cao ít nhất cũng chín thước, lưng to vai rộng, râu dài màu đen óng ánh. Tiếng quát của y sang sảng như tiếng chuông đồng, hắn thầm tán:

    - Đúng là một tay anh hùng hảo hán!.

    Hồ Bất Sầu giật mình, thầm nghĩ:

    - Nếu ta đoán không lầm, thì đại hán này là Hắc Tu Long Thọ Thiên Tề, một hải tặc lợi hại từng làm mưa gió vùng Đông Hải.

    Đại hán quát xong nhận ra ngay người mới đến là Mộc Lang Quân, vụt biến sắc mặt.

    Nhưng, Mộc Lang Quân chẳng hề nhìn y, ngang nhiên bước vào, quăng mấy chiếc bao lên nền, rồi ngồi ngay xuống đó, xếp bằng tròn, buông gọn:

    - Mang rượu lại đây!

    Đại hán càng biến sắc hơn, nhưng chẳng dám phát tác, lặng lẽ mang rượu đến, rót đầy chén hai tay trao cho lão, vừa trao vừa ấp úng hỏi:

    - Thần Quân bao lâu nay được bình an chứ?

    Phường Bửu Nhi thấy đại hán bỗng nhiên mất khí khái anh hùng, hắn cũng mất hứng luôn, thâm tâm của hắn muốn có một tay kiệt hiệt chế ngự nổi Mộc Lang Quân. Thoạt trông đại hán hắn đã có ý mừng cầm chắc là đại hán thừa sức lực hạ Mộc Lang Quân, nhưng y lại tỏ lộ sự khiếp nhược rõ rệt, thì hắn còn hy vọng gì nơi y nữa? Hắn vất mấy chiếc bao, cạnh đống bao của Mộc Lang Quân, rồi quay nhìn nơi khác, chẳng cần đề ý đến đại hán mà hắn cho là một kẻ vô dụng không hơn không kém. Bất quá y có thân hình hộ pháp, chứ thật ra cũng thuộc phường giá áo túi cơm.

    Mộc Lang Quân nuốt một ngụm rượu xong cười lạnh hỏi:

    - Thọ Thiên Tề! Ngươi cũng còn nhận ra ta nữa sao?

    Đại hán thứ hai từ lúc đầu vẫn tựa lưng vào cửa, không nhìn ai, không nói với ai một tiếng gì cứ rót, cứ uống.

    Vì y quay lưng về phía Phương Bửu Nhi, hắn chẳng trông thấy mặt mày y thế nào, chỉ thấy y vận chiếc áo hoa, thân hình bậc trung, bàn tay nâng chén rượu gầy guộc làn da tay vàng như sáp.

    Y nghe Mộc Lang Quân hỏi Thọ Thiên Tề liền bật cười hắc hắc.

    Giọng cười của y như nghe tiếng thép cọ sát vào nhau, kêu ken két nghe rờn rợn:

    - Thần Quân nhìn được Thọ Thiên Tề nhưng chẳng nhận ra tại hạ?

    Tuy nhiên tại hạ vẫn nhận ra Thần Quân. Được rồi, tại hạ xin kính Thần Quân một chén gọi là làm lễ ra mắt.

    Hồ Bất Sầu nghĩ đại hán đó đối ẩm với Hắc Tu Long, chắc phải là một tay hữu danh nhưng chưa thấy được mặt mày, họ Hồ không thể đoán y là ai.

    Mộc Lang Quân lạnh lùng gặng lại:

    - Đã nhận ra ta, tại sao ngươi chẳng đứng lên?

    Đại hán đó cười hắc hắc:

    - Tại hạ Ở đây trước, Thần Quân là người khách bất ngờ, không duyên không cớ đột nhập vào đây. Tại hạ là chủ nhân, không có đạo lý nào bắt buộc phải đứng lên nghênh đón cả.

    Mộc Lang Quân chớp mắt:

    - Từ giây phút này trở đi, ta là chủ nhân ngôi nhà này, những ai hiện có mặt tại đây đều trở thành khách cả, đã là khách thì ngươi phải đứng lên!

    Đại hán đó đầu đội một cái mão kết toàn châu ngọc, lắc lắc đầu, châu ngọc chớp ngời, điềm nhiên thốt:

    - Tại hạ đã biết Thần Quân thế nào rồi cũng định chiếm đoạt ngôi nhà này. Tại hạ cũng dự định nhường ngôi nhà này cho Thần Quân, nhưng chỉ sợ Thần Quân chẳng dám đó thôi.

    Mộc Lạng Quan bật cười lớn:

    - Ha ha! Bình sanh ta mới nghe câu nói đó. Bình sanh ta chẳng hề biết hai tiếng không dám! Ha ha! Không dám, có cái gì ta sợ? Ngươi thử nói cho ta nghe xem!

    Người đội mão ngọc từ từ tiếp:

    - Chi vì tại hạ đã trót hứa cho một người khác tạm mượn ngôi nhà này rồi. Thần Quân có biết không, người ấy định mượn ngôi nhà làm nơi trú chân để chờ nghinh đón thuyền chủ Ngũ Sắc Phàm. Tại hạ tưởng Thần Quân chẳng dám chạm đến người đó đâu!

    Mộc Lang Quân hừ một tiếng:

    - Người đó là ai?

    Người mão ngọc, buông gọn:

    - Là Thủy..... Y chưa buông tiếng kế, Mộc Lang Quân biến sắc, những thớ thịt trên gương mặt giật mạnh môi rung, mũi rung, mí mắt rung, nhưng chẳng rõ lão biến sắc vì sợ hay vì phẫn nộ.

    Qua giây phút kích động, lão bình tĩnh trở lại trầm giọng thốt:

    - Thủy Thiên Cơ! Thủy Thiên Cơ!....

    Lão rít lên:

    - Thủy Thiên Cơ! Ta gặp ngươi, nhất định thẻo từng mảnh thịt ngươi mới hả cho!

    Đến lúc đó, Ngọc Quan Nhân mới quay đầu đối diện với lão bật cười khanh khách:

    - Thật vậy, hở Thần Quân?

    Hồ Bất Sầu nhận ra, người đội mão ngọc có gương mặt vàng như sáp, chừng như gương mặt đó chẳng có một tí thịt nào cả, da xọp, ép sát xương. Gương mặt đó dĩ nhiên chẳng biểu lộ một cảm tình nào, ngoài cái vẻ lạnh lùng, lạnh như gương mặt của một xác chết.

    Phương Bửu Nhi giật mình, bình sanh hắn chưa trông thấy một con người nào đáng sợ như thế!

    Mộc Lang Quân nghiến răng ken két, thái độ đó chứng tỏ hắn có thù hận sâu nặng đối với Thủy Thiên Cơ nào đó, lão rít lên:

    - Nếu Thủy Thiên Cơ dám bước một bước vào nhà này, ngươi sẽ thấy thủ đoạn nào ta sẽ dành cho mụ ấy!

    Lão vụt nắm chặt bàn tay, chén rượu đang cầm nát nhừ như cát.

    Ngọc Quan Nhân không hề dao động thần sắc, thản nhiên cười, thản nhiên thốt:

    - Khá lắm! Võ công được như thế là khá lắm. Song rất tiếc Thần Quân đã chẳng làm gì nổi Vạn lão thái bà, một thuộc hạ của Thủy Thiên Cơ thì đừng hòng nói khoác lác đối với Thủy Thiên Cơ.

    Mộc Lang Quân vụt đứng lên quát:

    - Ngươi là ai? Sao biết được..... Ngọc Quan Nhân cười nhẹ:

    - Ta là ai? Đến bây giờ ngươi cũng chưa đoán ra à?

    Thân hình bất động, tay không cử động, chẳng rõ Ngọc Quan Nhân làm cách nào người vọt thẳng lên, xuyên thủng nóc nhà, phút chốc đã mất dạng. Y vừa qua khỏi lỗ hổng, năm sáu đạo ngân quang từ bên ngoài xuyên lỗ hổng đó bay xuống.

    Mấy đạo ngân quang trông nhỏ như những đường tơ bạc, chẳng rõ là những vật gì, Mộc Lang Quân có võ công thượng thừa oai bức đến cả những tên đại cường đạo, vừa trông thấy mấy đường tơ bạc đó, liền sợ hãi không dám đưa tay đón bắt, mà cũng chẳng dám đuổi theo Ngọc Quan Nhân, chỉ nhảy tạt qua một bên cửa né tránh.

    Phương Bửu Nhi hết sức lấy làm lạ, một người bản lĩnh như lão, lại sợ ám khí, mà là loại ám khí thông thường...

    Thì ra những đường tơ bạc đó là những giọt nước do ống đồng bắn ra, như trò chơi trẻ nít, nước rơi xuống những tấm da thú lót nền, da thú thủng lỗ. Trong thoáng mắt, những lỗ thủng lan rộng, cuối cùng bao nhiêu da thú lót nền tiêu tan mất.

    Mộc Lang Quân trở vào nhà, vừa giậm chân tặc lưỡi với lộ vẻ kinh khiếp:

    - Đúng là mụ ấy rồi! Đúng rồi!

    Bỗng từ xa, có tràng cười vọng lại tiếp theo tràng cười. một giọng nói đầy ngạo nghễ vang đến tai lão:

    - Ta ngồi trước mắt ngươi, ngươi chẳng nhận ra được ta. Vậy mà ngươi còn khoác lác được sao? Ta có ngờ đâu, giờ đây ngươi trở thành mù quáng như thế! Đáng thương hại cho ngươi quá..... Mộc Lang Quân biết có đuổi theo bà ta, cũng chẳng còn kịp nữa. Lão trừng mắt nhìn Thọ Thiên Tề, gằn giọng:

    - Ngươi đã biết sao ngươi chẳng nói với ta!

    Thọ Thiên Tề điềm nhiên thốt:

    - Địa phương này là nơi trước đây tại hạ cùng anh em đồng đạo tụ họp. Sau này mỗi năm thuyền chủ Ngũ Sắc Phàm đều cập thuyền, thành bất tiện cho tại hạ, nên bắt buộc phải tìm nơi khác lập căn cứ. Kể từ ngày đó, trên giang hồ bất cứ nhân vật nào muốn gặp thuyền chủ Ngũ Sắc Phàm đều đến tại đây, lưu lại chờ đợi kỳ cập thuyền của thuyền chủ.

    Dù đã lập căn cứ nơi khác, song tại hạ vẫn không bỏ nơi cũ, cứ giữ bổn phận mình là địa chủ phải nghinh đón hào kiệt bốn phương đổ về bái kiến thuyền chủ. Vì muốn che giấu hành tung của tại hạ cũng như của tất cả nhân vật trên giang hồ cần xuất hiện tại đây, tại hạ chẳng dám sửa sang ngoại diện ngôi nhà, còn trang trí bên trong được nhã lịch phần nào hay phần ấy, miễn sao có đủ nhu cầu cung cấp cho đồng đạo võ lâm thôi. Còn như ai đến ai đi, tại hạ có tìm hiểu lai lịch của họ làm gì?

    Cũng như tại hạ chẳng cần biết họ làm gì. Tuyệt nhiên tại hạ không hỏi han họ một tiếng nào, chỉ lo làm tròn bổn phận một địa chủ thôi.

    Y đừng lại một chút rồi tiếp:

    - Vừa rồi vị huynh đài đó đến đây, tại hạ chỉ nghênh tiếp đúng theo bổn phận một địa chủ, chứ đâu hỏi lai lịch làm gì, thành ra nào biết được vị huynh đài đó là ai? Thần Quân trách tại hạ thật oan quá!

    Dù bị Mộc Lang Quân oai hiếp, Thọ Thiên Tề không nao núng, cứ ung dung giải thích, tỏ rõ cái khí độ bất phàm, xứng đáng là một tên hải tặc có thủ đoạn. Mộc Lang Quân hừ lạnh một tiếng, tìm chỗ ngồi xuống chẳng nói năng gì cả.

    Lâu lắm chừng như tạp niệm đã lắng dịu, lão vẫy tay:

    - Ra đi!

    Thọ Thiên Tề vòng tay chào biệt đoạn quay mình tránh khoảng da thú bị nước độc của Thủy Thiên Cơ hủy diệt, vòng qua một bên, bước ra cửa.

    Phương Bửu Nhi vụt hỏi:

    - Người vừa rồi là một nữ nhân?

    Mộc Lang Quân lại hừ một tiếng:

    - Một mỹ nhân tối hiểm độc, tối dâm loạn, tối vô sỉ, tối đê tiện trên đời. Ngươi có gặp mụ ấy phải tránh xa, tránh gấp!

    Rồi lão tiếp:

    - Mụ ấy có tài cải sửa dung mạo tuyệt diệu, khi cải sửa dung mạo rồi mụ ta có thể qua mặt cả những người rất thân, chẳng nhìn ra được. Rơi vào tay mụ ta, dù có muốn chết đi cho khoẻ thân, cũng chẳng ai chết được với mụ!




    Ủng hộ BLH Vì một sân chơi mới, vì một Bàn Long Hội mới :oe76:
     
  3. biglove

    biglove Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/7/11
    Bài viết:
    9,835
    Được thích:
    14,144
    Ân Thù Kiếm Lục

    Tác Giả:Cổ Long

    -- o --

    HỒI 3: Giai Nhân Xuất Hiện


    Nguồn: vietkiem.com




    Giọng nói đó lạnh như giá băng, từng tiếng lọt vào tai Phương Bửu Nhi như những hạt tuyết rơi. Hắn cảm thấy rợn người, hai hàm răng chạm vào nhau cầm cập.

    Rồi một tràng cười vang lên, âm thanh rang rảng song cũng lạnh lùng như câu nói. Tràng cười dứt, một câu nói tiếp liền, lần này có phần nào ấm dịu:

    - Tiểu tử tên Phương Bửu Nhi kia, đừng nghe lão, lão là người vô sỉ nhất đời, ác độc nhất đời...

    Mộc Lang Quân hét lớn một tiếng, tung mình bay qua cửa sổ, thoát ra ngoài. Thân pháp của lão nhanh quá, cơ hồ Phương Bửu Nhi không nhận định kịp. Nhưng lão vọt nhanh, có người còn nhanh hơn lão, nhanh gấp mấy lần, người đó lao ngược chiều từ bên ngoài, cũng ngang qua cửa đó, vào trong phòng.

    Thân pháp người đó nhanh đến độ chính Mộc Lang Quân không trông thấy, và Hồ Bất Sầu đã chú mắt theo dõi mọi diễn biến, mà cũng chẳng nhận định rõ ràng diện mạo hình vóc thế nào.

    Khi bóng đó chạm chân xuống nền, Hồ Bất Sầu đứng lên quát khẽ:

    - Bằng...

    Nhưng với thân pháp tuyệt diệu như vậy, khi nào người vừa xuất hiện lại để cho họ Hồ nói gì? Cái chạm chân vừa rồi bất quá chỉ để lấy đà, thay vì đứng lại, người đó lại vọt tới sát Hồ Bất Sầu. Sau khi y thốt lên tiếng “Bằng”, thì người đó đã đưa tay điểm nhanh vào ba yếu huyệt của y nơi trước ngực, y chưa ngã xuống, người đó đã đảo bộ sang qua Phương Bửu Nhi, điểm luôn mấy huyệt nơi hông hắn, rồi bế xốc hắn nên, tung mình qua một khung cửa sổ khác ra bên ngoài.

    Khi Hồ Bất Sầu ngã xuống nền thì người đó đã mang Phương Bửu Nhi đi mất dạng.

    Bình sanh Hồ Bất Sầu chưa gặp mộc nhân vật nào có động tác cực kỳ nhanh nhẹn như người bí mật xuất hiện cướp Phương Bửu Nhi mang đi, động tác nhanh, thuật khinh công cũng tuyệt diệu. Y không tự vệ nổi, để người đó chế ngự dễ dàng, thì còn làm sao chiếu cố đến Phương Bửu Nhi kịp lúc?

    Thoát ra bên ngoài cửa sổ rồi, người đó khẽ vung bàn tay bắn ra một điểm ngân quang, rồi lập tức nhún chân nhảy vút lên mái nhà, nằm sát xuống bất động.

    Phương Bửu Nhi dù bị bắt đi như thế không chút sợ hãi, thầm nghĩ:

    - Quái thật! Tại sao y chưa chịu chạy đi, còn nằm lại đây, định làm gì?

    Nếu lão Mộc Lang Quân bắt gặp thì sao?

    Từ trong một gian phòng gần đó, Mộc Lang Quân lại hét lên, lao vút ra ngoài, nhảy lên mái lướt qua đầu cả hai, đuổi theo điểm ngân quang.

    Tuyệt nhiên lão không nhìn xuống, nên chẳng thấy người bí mật và Phương Bửu Nhi.

    Khi Mộc Lang Quân lao vút đi xa rồi, người đó lại bế Phương Bửu Nhi đứng lên, đến lúc ấy Phương Bửu Nhi mới biết là người ấy vừa bắn ngân quang để dụ cho Mộc Lang Quân chạy xa, nhưng Mộc Lang quân đã chạy quá xa rồi, y cũng chẳng chịu rời khỏi nơi này, trái lại còn nhảy trở xuống bên dưới, vào một gian phòng.

    Y rỉ bên tai Phương Bửu Nhi:

    - Tiểu tử! Ngươi có thấy bổn cô nương gạt Mộc Lang Quân bỏ mồi bắt bóng chứ?

    Âm thanh của người đó ngọc dịu dàng quá, êm ái hơn giọng oanh vàng trỗi lúc bình minh. Âm thanh đó phải là của một nữ nhân, mà nữ nhân phải là trang tuyệt sắc! Âm thanh có sức quyến rũ lạ thường, Phương Bửu Nhi dù chưa được bao nhiêu buổi đầu, vẫn nghe niềm rạo rực sôi động trong huyết quản. Hắn giương tròn mắt nhìn y, nhận ra chính là Ngọc Quan Nhân, con người xấu xí trông phát tởm, con người mà Mộc Lang Quân đã nhận qua âm thanh là Thủy Thiên Cơ.

    Nhìn gương mặt xấu xí ghê tởm đó, bất giác Phương Bửu Nhi rùng mình, niềm rạo rực lắng dịu ngay, hắn nhắm mắt lại.

    Bị Ngọc Quan Nhân Thủy Thiên Cơ điểm huyệt, hắn chẳag còn cử động được nữa, luôn cả lưỡi cũng cứng lại, hắn không thốt được lời nào.

    Hắn nhận ra so với lần bị Mộc Lang Quân điểm huyệt, cảm giác khác hẳn.

    Bỗng, một tiếng hú vọng ngân dài từ xa vang đến, tiếng hú càng lúc nghe càng gần, Phương Bửu Nhi biết ngay Mộc Lang Quân lùng gian tế không gặp đã trở lại.

    Lão trở lại, bắt đầu từ gian phòng thứ nhất, lão tung chưởng đẩy bật cửa vọt vào trong lục soát một chút rồi trở ra, tiếp tục lục soát gian thứ hai, sang gian thứ ba và những gian kế tiếp...

    Chưởng tung vù vù cửa bật ầm ầm, ngôi nhà chuyển động lên tưởng chừng sẽ ngã xuống bất cứ phút giây nào.

    Để khích nộ lão, Thúy Thiên Cơ chốc chốc lại gọi to một tiếng, lão chạy sang hướng Đông thì tiếng gọi vang lên hướng Tây, lão chạy sang hướng Nam tiếng gọi vang lên hướng Bắc lão lùng khắp nơi quần khấp chốn, nhưng chẳng bắt gặp bóng người nào cả.

    Không gặp người, không thể phát tiết phẫn nộ, lão đập phá đồ vật vỡ ầm ầm.

    Mặc cho Mộc Lang Quân lùng kiếm đập phá, Ngọc Quan Nhân Thủy Thiên Cơ ung dung bế Phương Bửu Nhi nhảy xuống đất thong thả bước đi, chẳng hề sợ hãi.

    Phương Bửu Nhi lấy làm lạ, tìm hiểu mãi tại sao bà ta không chịu bước gấp để mau rời khỏi tòa nhà này. Còn quanh quẩn tại đây là còn bị Mộc Lang Quân theo đuổi. Nhưng rồi, hắn vỡ lẽ biết ngay bà ta sở dĩ chậm, là để tránh gây tiếng động, có bước chậm, tiếng chân mới nhẹ nhàng. Huống chi bà ta lại mang hắn dưới nách, hắn dù còn nhỏ tuổi, cũng là một sức nặng đáng kể.

    Độ chừng đã cách ngôi nhà khá xa. Thủy Thiên Cơ gia tăng tốc độ bước nhanh và dài hơn...

    Tốc độ càng phút càng tăng, Phương Bửu Nhi nghe gió thổi ngược vù vù bên tai, hắn có cảm tưởng là bà đang cưỡi mây lướt di.

    Một lát sau, Thủy Thiên Cơ dừng chân lại.

    Phương Bửu Nhi nhìn quanh, nơi đó một vùng núi non hiểm tuấn, bên dưới là ven biển, sóng vỗ bọt trào trắng xóa.

    Thủy Thiên Cơ vừa giải huyệt đạo cho Phương Bửu Nhi, vừa thốt:

    - Ta với ngươi thỏa ước một điều kiện, nếu ngươi không toan tìm cách chạy đi thì ta chẳng điểm huyệt ngươi nữa.

    Phương Bửu Nhi cười khổ:

    - Chạy đâu cho thoát khỏi tay bà mà tìm cách chạy?

    Thủy Thiên Cơ vuốt sau lưng hắn dịu giọng tiếp:

    - Khá đấy! Tiểu tử thông minh thế là được lắm, ta rất thích những đứa bé thông minh như ngươi!

    Rồi bà nói:

    - Ta bắt ngươi rời xa sư phụ ngươi như vậy ngươi có thấy khó chịu chăng?

    Phường Bửu Nhi bĩu môi:

    - Tại sao lại khó chịu? Nếu được rời xa lão ấy vĩnh viễn thì đúng là một đại hạnh cho tôi chứ làm gì lại khó chịu?

    Bỗng hắn nhớ lại Hồ Bất Sầu còn kẹt trong tay Mộc Lang Quân, có lẽ vị thúc thúc đó đang nghĩ đến hắn rất nhiều mà cũng lo nghĩ cho số phận của y không ít.

    Hắn dự đoán, Thủy Thiên Cơ bắt hắn mang đi như vậy chắc không phải do một hảo ý gì. Rất có thể bà ta quản thúc hắn vĩnh viễn. Đã xa Hồ Bất Sầu lại còn bị quản thúc, làm thế nào trở về. nhà sống bên ngoại công?

    Hắn nhớ lại câu nói của Mộc Lang Quân vừa rồi:

    - Ngươi mà rơi vô tay bà ấy, dù có muốn chết cũng chẳng chết được với bà tạ..

    Hắn rùng minh tưởng đến viễn ảnh đầy bất ngờ của ngày mai.

    Còn nhỏ tuổi quá chưa hề tiếp xúc với đời, tâm tính còn thuần phác quá, nghĩ làm sao thần sắc hiện ra làm vậy, hiện tại hắn lộ vẻ ưu tư ra mặt.

    Thủy Thiên Cơ nhìn hắn bật cười khanh khách:

    - Ngươi đừng dối ta, ta biết miệng thì nói thế chứ lòng lại khó chịu lắm, có phải vậy chăng?

    Phương Bửu Nhi không thích nói chuyện với bà ta, vội nhắm mắt lại day mặt qua hướng khác.

    Thủy Thiên Cơ không ngừng rờ rẫm khắp mình hắn, xem chừng bà ta nâng niu, trìu mến hắn vô cùng, giả sử tuổi tác song phương không quá chênh lệch thì đúng là tình nhân ve vuốt mơn trớn người yêu. Cảnh trạng âu yếm rạt rào, như quá nhớ nhung khát vọng sau bao ngày xa cách...

    Bàn tay của bà ta như có phép lạ, sờ mó đến đâu là Phương Bửu Nhi nghe khoan khoái đến đó, dù hắn chưa đến tuổi bộc phát tinh cảm cũng nghe niềm đam mê chuyền khắp người..... Thủy Thiên Cơ nói giọng hết sức dịu dàng trầm ấm:

    - Đừng sợ! Chẳng có gì đáng sợ cả. Mà cũng đừng lo nghĩ gì cả. Cứ yên trí ở đây với ta mấy hôm, rồi ta sẽ đưa ngươi về...

    Hai tay ôm hắn, đặt hắn ngồi trọn trong lòng bà, hơi ấm từ người bà truyền sang hắn làm cho máu huyết hắn càng rạo rực hơn. Hắn không còn tìm cách rời xa bà ta được nữa, toàn thân bà như có sức hút mãnh liệt quá, dù hắn không muốn vẫn bị áp sát vào người bà.

    Hắn quên mất gương mặt bà xấu xí, kinh tởm, hắn nhắm mắt lại nghe niềm đê mê dâng trào, đưa hồn hắn phiêu phưởng, chơi vơi.

    Bỗng Thủy Thiên Cơ buột miệng thở dài:

    - Ta muốn cái lão Mộc xuẩn ngốc kia đáp ứng cho ta một điều kiện.

    Nếu không thì.....Ngươi thông minh thế kia, ta nỡ nào hạ thủ sát hại cho đành?

    Phương Bửu Nhi bừng tỉnh đê mê, vụt đứng lên, cao giọng hối gấp:

    - Bà dùng tôi làm con tin, tạo áp lực buộc lão ấy chấp nhận điều kiện của bà?

    Thủy Thiên Cơ mỉm cười dịu giọng:

    - Thông minh thật! Ngươi đoán đúng ý ta.

    Phương Bửu Nhi bật cười lớn:

    - Nếu vậy bà lầm to! Bà làm một việc hết sức sai lầm. Dù bà có chặt tôi ra làm trăm mảnh, Mộc Lang Quân cũng chẳng hề nao núng.

    Thủy Thiên Cơ trố mắt:

    - Thật vậy?

    Phương Bửu Nhi xì một tiếng:

    - Lão với tôi đâu phải là thân thích gì? Lão bắt tôi, mang từ xa về đó, dọc đường tôi làm đủ mọi cách chọc tức lão. Lão đang căm hận tôi, làm gì lão lại vì tôi mà đáp ứng điều kiện của bà? Nếu bà không tin, cứ làm thử xem lão có nao núng chăng! Tôi chỉ sợ bà phí công vô ích!

    Dù đã đứng lên, dù đang thốt với Thủy Thiên Cơ, hắn vẫn nhắm mắt, không thấy gương mặt bà.

    Thúy Thiên Cơ mỉm cười:

    - Tiểu tử! Lần này thì ngươi không thông minh rồi. Giả sử việc đó có thật như vậy, ngươi cũng chẳng nên nói ra cho ta hiểu. Bởi nếu ta biết được ngươi vô dụng, thì ta giết quách ngươi cho ta khỏi bận giữ gìn.

    Phương Bửu Nhi giật mình thầm nghĩ:

    - Bà ta nói đúng. Tại sao ta nói ra như thế. Đáng lẽ ta chỉ nghĩ trong lòng thôi đừng nói ra là hơn, ta đã không ưa bà. tại sao ta lại nói lên những điều ta nghĩ? Bà có đáng cho ta giãi bày tâm sự đâu?

    Hắn vụt mở mắt ra, nhìn thấy thần sắc của bà, nhưng thấy gương mặt đáng tởm quá, hắn nhắm mắt lại liền.

    Thủy Thiên Cơ cười nhẹ:

    - Ngươi không dám nhìn ta? Mặt ta xấu lắm phải không?

    Phương Bửu Nhi đáp gọn:

    - Nếu chỉ có xấu thôi còn nói làm gì? Đã xấu lại còn ghê tởm lạ!

    Thấy mặt bà là có chết đi được, chết gấp!

    Thủy Thiên Cơ bật cười khanh khách, một lúc sau gọi hắn:

    - Bây giờ, ngươi thử mở mắt ra nhìn lại xem nào! ' Phương Bửu Nhi lắc đầu quầy quậy:

    - Không không nhìn đâu? Tôi không có can đảm nhìn mặt bà nữa!

    Tuy nhiên hắn hi hí mí mất, nhìn qua khe hở, hắn giật mình chẳng những không khép mi mắt lại mà còn mở rộng hơn.

    Trước mặt hắn, hiện tại không phải là một nữ dạ xoa nữa, đối tượng có đầy đủ những nét của một giai nhân, chỉ nội một nụ cười của giai nhân thôi, cũng thừa ma lực khuất phục một đạo quân hùng mạnh mọp mình sát đất, sẵn sàng nhận mọi sự dày vò...

    Phương Bửu Nhi từng đọc sách sử, người xưa ghi lại bao nhiêu hình ảnh yêu kiều, hắn từng hình dung những mỹ nhân đó qua tưởng tượng, nhưng hắn phải nhìn nhận sự tưởng tượng của hắn quá nghèo nàn trước một con người bằng thịt, có nhiều nét quyến rũ mỹ lệ mà trí tưởng lượng của hắn chưa hề phác họa.

    Một con người đẹp trên chỗ tưởng tượng, có những nét ngoại sự tưởng tượng. Trời, hóa công quá ưu đãi một người như thế sao?

    Cái đẹp của Thủy Thiên Cơ, dù hắn đã đọc hàng muôn, hàng vạn chữ, qua bao nhiêu năm rộng tháng dài, hắn vẫn thấy không đủ chữ để mô tả.

    Trước đó hắn chết khiếp vì vẻ xấu xí ghê tởm, thì giờ đây hắn lại chết si chết mê, hắn thừ người ra đó, mắt giương tròn mồm há hốc.

    Thủy Thiên Cơ đưa tay ngoắc :

    - Lại đây!

    Phương Bửu Nhi như mảnh sắt bị viên đã nam châm hút mạnh, hắn không còn tự chủ được nữa, bước tới. Đúng ra là hắn nhào tới hơn là bước, vì sức hút quá mạnh.

    Thủy Thiên Cơ cất giọng hết sức dịu dàng:

    - Tiểu tử xem ta có đẹp không?

    Phương Bữu Nhi thở dài:

    - Tôi đã đọc qua rất nhiều sách sử, có sách ca tụng sắc đẹp, có sách ghi rằng sắc đẹp là nguồn gốc của mọi tội lỗi, sắc đẹp là mối hoạn họa của người đời. Tôi chẳng hiểu thế nào là nguồn gốc tội lỗi, thế nào là mối hoạn họa. Giờ đây trông thấy bà tôi thức ngộ ngay!

    Thủy Thiên Cơ đảo ánh mắt thu ba đầy tình tứ nhoẻn miệng cười duyên:

    - Tại sao là nguồn gốc của mọi tội lỗi? Tại sao là mối hoạn họa của người đời?

    Phương Bữu Nhi lại thở dài:

    - Tôi là một đứa bé tuổi non, trông thấy bà tâm thần tán loạn, bà đưa tay ngoắc tôi chạy đến ngay. Giả sử một thanh niên nào gặp bà, thì cái độ si mê cuồng nhiệt sẽ bốc cao đến đâu. Bà sai khiến họ giết người họ vẫn cúi đầu ngoan ngoãn vâng theo. Bà bảo họ lên trời, xuống đất, nhảy vào lửa, lặn trong nước sôi, họ chẳng từ nan. Bà có thấy chăng, những tội họ làm, những hoạn họa họ tạo cho đời đều có vẻ quyến rũ của bà sai khiến họ. Tất cả đều bắt nguồn từ nơi bà.

    Thủy Thiên Cơ bật cười khanh khách:

    - Ngươi tuổi thì nhỏ, sự hiểu biết rất rộng ta thích những tiểu tử như ngươi, ngồi mà nói chuyện với ngươi liền một đôi ngày vẫn không thấy chán.

    Đột nhiên bà rú lên một tiếng khủng khiếp, chụp tay Phương Bửu Nhi nắm chặt, mắt bà dán xuống đất Phương Bửu Nhi lấy làm lạ nhìn theo.

    Một con chuột to, một con chuột dài độ bốn năm tấc đang nhìn bà, bà sợ quá líu lưỡi, lí nhí:

    - Chuột... chuột Bà dù có võ công cao tuyệt vẫn là một nữ nhân, mà nữ nhân nào lại chẳng gớm chuột?

    Phương Bửu Nhi dù chẳng có võ công, dù còn nhỏ tuổi, vẫn là nam nhân. Đã là nam nhân thì chẳng sợ chuột. Hắn giậm chân miệng dọa hù hù, đuổi con chuột, nhưng nó chẳng chịu chạy đi cứ thu hình tại đó, giương mắt nhìn Thủy Thiên Cơ làm bà càng sợ hơn.

    Phương Bửu Nhi cúi xuống cởi một chiếc giầy quăng tới. Chuột hoảng sợ, quay mình chạy mất.

    Thủy Thiên Cơ thở phào mấy tiếng, đưa tay vuốt ngực:

    - Ghê quá! Ghê quá? Con chuột ác ôn làm ta suýt chết khiếp. May cho ta là có ngươi, ngươi chẳng sợ chuột?

    Phương Bửu Nhi bước tới nhặt chiếc giày xỏ vào chân rồi thốt lên:

    - Thật ra tôi cũng sợ chuột như bà!

    Thủy Thiên Cơ trố mắt:

    - Ngươi sợ chuội sao ngươi lại..... Phương Bửu Nhi nghiêm giọng chặn câu nói của bà:

    - Trời sanh nam nhân trên cõi đời này là để bảo vệ nữ nhân. Tôi thấy bà sợ chuột, nên quên mất là mình cũng sợ chuột cấp tốc đuổi chuột cho bà hết sợ.

    Thủy Thiên Cơ sáng mắt lên:

    - Tiểu tử đáng yêu quá...

    Bất thình lình bà lướt tới ôm Phương Bửu Nhi vào lòng, hôn vào má vào miệng hắn.

    Phương Bửu Nhi thẹn đỏ mặt, kêu to:

    - Bà buông tôi ra bà đừng làm thế chớ, nam nữ thọ bất thân mà.

    Bà không biết câu đó.

    Thủy Thiên Cơ vừa hôn, vừa cưới hắc hắc, rồi thốt:

    - Ta làm vậy đã sao. Ngươi chỉ là một đứa bé con, ta có muốn đi xa hơn nữa cũng chẳng được!

    Phương Bửu Nhi chỉnh sắc mặt:

    - Đành rằng hai cái tuổi chênh lệch rất xa, song tôi là nam bà là nữ. Thánh nhân có dạy, nam nữ là phải phân biệt, trừ khi nào thành vợ chồng mới được phép gần gũi nhau.

    Thủy Thiên Cơ cười tíu tít:

    - Thì ngươi hãy làm chồng ta, một người chồng nhỏ xíu, ngươi đã đuổi chuột cứu ta, ta có thể làm vợ ngươi để trả ơn cũng được chứ! Phải không ông chồng tí hon của ta?

    Phương Bửu Nhi bị bà ôm chặt quá, không vùng vẫy nổi, bà ta lại cứ ghì hắn tìm mặt mà hôn càng hôn càng ghì, làm hắn đỏ mặt lên như gấc chín. hắn thầm nghĩ:

    - Bà đã cố tình đùa cợt ta, tại sao ta chẳng đùa cợt lại bà?

    Thay vì vùng vẫy nửa hắn vòng tay ôm ngang hông bà, ngẩng mặt lên chờ bà ta ghé sát mũi xuống, đột nhiên hắn há miệng cắn chót mũi bà.

    Đau quá Thủy Thiên Cơ đưa tay vò vò chiếc mũi càu nhàu:

    - Ngươi... ngươi dám..:

    Phương Bửu Nhi cười hì hì:

    - Đã là vợ chồng với nhau cắn chót mũi một chút cũng không được sao? Thời Tuyên đế nhà Tây Hán, có quan Kinh Triệu Doãn là Thương Sưởng từng ca ngợi cái việc kẻ lông mày cho mỹ nhân là một trong những lạc thú khuê phòng kia mà?

    Thủy Thiên Cơ trố mắt nhìn sững hắn, không tưởng nổi một tiểu tử chưa ráo máu đầu lại biết những cái thú buồng the. Một lúc lâu, bà bật cười lớn nói:

    - Ngươi đúng là một đứa bé tinh quái! Rất đáng là chồng tí hon của Thủy Thiên Cơ này.

    Phương Bửu Nhi gật đầu đùa tiếp:

    - Xin mời hiền thê theo hạ quan!

    Hắn đã đọc những câu xưng hô như thế trên nhiều sách, ngày xưa hàng quan lại thường dùng đối với những mệnh phụ phu nhân. Hắn nghĩ là chẳng bao giờ có dịp sử dụng, ngờ đâu, hôm nay sử dụng rất đúng lúc, đúng việc.

    Nghe hắn xưng hô như thế. Thủy Thiên Cơ khoái trá cười híp mắt.

    Cười một lúc, bà ta hỏi:

    - Thượng quan định đưa tiện thiếp đi đâu đây?

    Phương Bửu Nhi đã đóng kịch. cứ đóng luôn:

    - Người xưa có nói gả cho gà, con gái phải theo gà, gả cho chó phải theo chó, chồng đi đâu vợ phải theo đó, còn hỏi đến nơi nào để làm gì?

    Thủy Thiên Cơ đột nhiên chỉnh sắc mặt nghiêm giọng thốt:

    - Ngươi đọc sách khá nhiều lại quên mất một câu của cổ nhân?

    Phương Bửu Nhi trố mắt:

    - Câu gì?

    Thủy Thiên Cơ tiếp:

    - Cưới vợ gà, phải tùy gà, cưới vợ chó, phải tùy chó!

    Phương Bửu Nhi lắc đầu:

    - Làm gì có câu đó lưu truyền đến nay?

    Thủy Thiên Cơ điềm nhiên:

    - Có chứ! Có ghi trong sách rõ ràng, tại ngươi hoặc chẳng đọc, hoặc có đọc song quên mất rồi!

    Phương, Bửu Nhi sửng sốt:

    - Sách nào? Ai làm ra sách đó?

    Thủy Thiên Cơ buông gọn:

    - Vợ Khổng Phu Tử!

    Buông xong bà gập người lại mà cười, Phương Bửu Nhi cũng ôm bụng mà cười, cả hai bò lăn ra mà cười. Họ cười lâu lắm, sau cùng Thủy Thiên Cơ ngưng cười, thốt:

    - Đã lâu lắm rồi ta không có dịp nào cười bằng thích như lần này.

    Rất tiếc là ta có việc cần phải làm gấp, nếu không thì chẳng rõ ta sẽ cười đến bao giờ mới hả. Ngươi cứ ở đây chờ ta nhé!

    Phương Bửu Nhi nói:

    - Bà định đi tìm Mộc Lang Quân để gây sự à?

    Thủy Thiên Cơ gật đầu:

    - Phải! Ta khuyên ngươi đừng bỏ đi đâu nhé.

    Phương Bửu Nhi chớp mắt:

    - Chưa biết được! Nếu thấy hứng ta có thể đi bâng quợ..

    Thủy Thiên Cơ dịu giọng:

    - Đi đâu làm chi! Cứ ở đây ngủ yên một giấc ngon lành để khi ta trở về, ta đánh thức.

    Bà đưa tay điểm vào huyệt ngủ của hắn, rồi tìm chỗ kín rồi đặt hắn nằm xuống, gài khuy áo cho hắn, vừa làm cái việc đó bà vừa lẩm bẩm:

    - Ngủ ngon nhé! Ông chồng tí hon của ta. Ta đi một chốc trở lại ngay!

    Nhìn gương mặt hồng hồng của hắn, bà không dằn lòng nổi lại cúi xuống hôn hắn mấy lượt rồi mang chiếc mặt nạ xấu xí như trước, dùng thuật khinh công lao mình vút đi như tên bắn.

    Thấy Thiên Cơ đi chưa được bao lâu, từ trong một cái động bí mật nằm khuất sau mấy tảng đá hình quá dị, hai thiếu nữ xuất hiện.

    Một nàng vận áo đỏ, nàng kia mặc áo trắng, nàng trước cao ốm, nàng sau lùn mập, nhưng cả hai có làn da trắng như tuyết, đôi mắt chớp ngời ánh thu ba.

    Cả hai độ mười bảy mười tám.

    Thiếu nữ áo đỏ điểm một nụ cười:

    - Võ công bà ấy cũng có hạng lắm chứ. Thú thật ta phải một phen khiếp vía với bà ta rồi đấy, nếu chẳng dè dặt tất phải bị bà ta phát hiện ra mình rồi?

    Nàng áo trắng bật cười khanh khách:

    - May là thơ thơ chộp đầu được một con chuột, buông ra đúng lúc dọa hãi bà ta, thành bà ta hoảng lên, quên lưu ý đến bọn mình?

    Thiếu nữ áo đỏ cười híp mắt:

    - Không ngờ bà ấy lại sợ chuột đến thế. Cái sợ của bà ấy cứu chúng ta thoát nạn!

    Cả hai trước khi nói một câu gì đều cười, nụ cười họ tươi quá, hấp dẫn quá, giọng cười ấm áp quá, trông thấy nụ cười đó, nghe giọng cười đó, còn ai giữ vững lòng đừng xiêu?

    Chừng như họ sanh ra trên đời này, chi để cười vui, sầu khổ đừng mong xâm chiếm tâm hồn họ?

    Thiếu nữ áo đỏ cúi mình xuống đưa tay xoa đầu Phương Bửu Nhi thốt:

    - Tiểu tử này có vẻ thông minh khác thường, lại ăn nói lanh lợi hoạt bát đáng yêu quá!

    Thíếu nữ áo trắng cười nhẹ:

    - Chắc thơ thơ có ý chọn hắn làm trượng phu?

    Nàng áo đỏ gắt:

    - Nói nhảm! Liễu đầu liệu hồn đấy nhé. Coi chừng chết với ta bây giờ?

    Nàng áo trắng nói tiếp:

    - Thơ thơ chẳng có ý đó sao chứ? Chính tôi, tôi cũng muốn mang hắn về với chúng ta Nàng áo đỏ vỗ tay:

    - Ta nói có sai đâu? Ngươi muốn chọn hắn làm tiểu trượng phu, lại đổ cho ta.

    Nàng bật cười khoái trá, vừa cười vừa xoa đầu Phương Bửu Nhi tỏ vẻ âu yếm lạ.

    Đến lượt nàng áo trắng gắt:

    - Tôi có giống thơ thơ đâu? Luôn luôn thơ thơ chỉ nghĩ đến mình thôi. Tôi thì khác, thấy tiểu tử thông minh, thơ thơ có ý chiếm hắn liền để tận hưởng khoái lạc với hắn. Chứ còn tôi thì không, tôi định mang hắn về, hiến cho tiểu công chúa của chúng ta đó!

    Nàng áo đỏ chớp chớp mắt reo lên:

    - Ý kiến hay! Hay lắm! Hắn với tiểu công chúa của chúng ta đúng là một đôi cân xứng. Trời sanh ra người này là dành để cho người kia, cả hai hiệp nhau đúng là giai ngẫu tự nhiên thành.

    Nàng áo trắng cười tít:

    - Dĩ nhiên rồi, đợi gì thơ thơ phải nói ra tôi mới hiểu. Nếu chẳng hiểu, có khi nào tôi nói ý kiến đó đâu? Tiểu công chúa của chúng ta ngày nào cũng như ngày nào, không có ai bầu bạn cả. Công chúa khoái trá, chúng ta được yên tịnh, khỏi nghe càu nhàu, hằn học, khỏi bị quấy nhiễu thường xuyên.

    Nàng áo đỏ bỗng trầm giọng:

    - Nhưng... nhưng chúng ta lén lút bắt ngay người chồng tí hon của bà ấy. Bà trở về đây thấy vắng chồng sẽ oán hận chúng ta đến đâu!

    Nàng áo trắng điềm nhiên:

    - Đến khi nào chúng ta thi hành công tác xong xuôi, âm thầm bế hắn đi, bà ấy làm gì biết được chúng ta phỗng tay trên mà oán hận?

    Chừng như thích thú với cái việc bắt cóc Phương Bửu Nhi mang về cho tiểu công chúa, nàng áo trắng bật cười ha hả, cười một lúc, rồi thốt:

    - Hai chị em ta hễ hiệp chung một chỗ thì làm được rất nhiều điều khoái trá. Cái lão ấy gần đây hay nổi tánh khí bất ngờ, không ai chịu nổi, nếu trông thấy tiểu tử, chắc chắn phải cởi mở không còn làm khổ chúng ta nữa!

    Cả hai mỗi người một câu, câu qua câu lại càng nói càng thích thú, càng cười vang cả hai cao hứng tột độ.

    Nàng áo đỏ gật đầu:

    - Vậy là kể như chúng ta đồng ý với nhau rồi, cứ như thế thi hành!

    Rồi nàng lòn tay dưới lưng Phương Bửu Nhi, bế xốc hắn lên.

    Nàng áo trắng hỏi:

    - Có nên giải huyệt trước cho hắn không?

    Nàng áo đỏ lắc đầu:

    - Không nên? Hắn tỉnh lại, hắn thấy mình sắp lên thiên đàng, biết đâu hắn chẳng đòi hỏi khoái lạc ngay, chúng ta mới làm sao? Vâng theo ý muốn của hắn, tiểu công chúa hay được quở trách chúng ta thì sao?

    Nàng lại bật cười lớn.

    Nàng áo trắng cũng cười to:

    - Thơ thơ lúc nào cũng nghĩ đến điều đó. Rõ thật là bị ám ảnh!

    Phải gấp lấy chồng đi, chứ không thì loạn óc mất!

    Cả hai thoát đi liền. Từ nơi mô đá họ lao mình xuống phía dưới, nhẹ nhàng như hai cánh yến.

    Bên dưới là ven biển, có một chiếc thuyền con, chế tạo hết sức tinh xảo, thuyền đang chao chao theo nhịp sóng nhồi, ngoài khơi là trời nước mênh mông, sóng cuộn chập chùng, gió gào ầm ĩ...

    Khi tỉnh lại, Phương Bửu Nhi đầu tiên cảm thấy cái lạnh của phiến đá, nơi Thủy Thiên Cơ đặt hắn đã tan biến mất, và hiện tại hắn nghe lưng êm dịu ấm áp lạ.

    Một mùi hương nhẹ thoang thoảng trong không khí. Hít phải, tâm hồn thư thái vô cùng.

    Hắn lấy làm lạ, đảo mắt nhìn quanh, quanh hắn toàn là màn gấm phủ giăng, bên ngoài màn thấp thoáng có sáu bảy thiếu nữ, nàng nào cũng xinh đẹp tuyệt trần, phảng phất thiên tiên trong các bộ y phục đủ màu. Màu sắc chớp ngời tăng thêm về huy hoàng rực rỡ của khung cảnh.

    Những tiên nữ đó nàng nào cũng gắn nụ cười tươi nơi miệng. Nếu sắc đẹp của họ có khuyết điểm, nụ cười đó cũng sẽ điểm xuyết cho toàn vẹn ngay, biến họ thành quyến rũ lạ lùng.

    Hắn nghĩ mình đang nằm mộng, nhưng hắn đưa tay sờ soạng quanh chỗ nằm. Hắn cắn môi, xem cảm giác thế nào và hắn ý thức ngay là đang sống với thực cảnh.

    Hắn nhảy xuống giường, mở mắt to, nhìn quanh rồi nhìn ra ngoài.

    Bọn thiếu nữ bên ngoài thấy bộ tịch hắn thì gập lưng lại cười, cười mãi.

    Phương Bửu Nhi trố mắt hỏi:

    - Đây.. đây là đâu?

    Trong bọn thiếu nữ, nàng mặc áo trắng chừng như cao hứng tội độ, chớp chớp mắt hỏi lại:

    - Ngươi xem đây giống nơi nào?

    Nàng có đeo đôi vòng, lủng lẳng nơi vành tai, cười lớn, đầu lắc lắc, đôi vòng cũng lắc lắc theo. Vòng bằng vàng, chiếu lấp lánh tạo cho nàng một sắc thái tân kỳ.

    Phương Bửu Nhi lại đảo mắt quan sát quanh mình lượt nữa. Thấy giường ngà, rèm gấm, màn nhung, đúng là một gian phòng, song không rộng lớn lắm. Gian phòng trang trí cực kỳ hoa lệ.

    Ngoại tổ của hắn lâ Thanh Bình Kiếm Khách Bạch Tam Không lãnh tụ trọn vùng Tề Lỗ, sản nghiệp to lớn chẳng thiếu món gì. Phương Bửu Nhi từ thủa ấu thơ sống trong khung cảnh giàu sang đó, hưởng dụng thừa thãi, từng quen với những kỳ trân bửu vật, nhưng nếu đem gia đình ngoại tổ so với địa điểm này thì còn sai biệt quá nhiều, nếu chẳng nói ngoa, thì đúng là trời với vực.

    Càng quan sát, Phương Bửu Nhi càng nhận thấy vẻ tráng lệ huy hoàng của gian phòng.

    Một gian phòng như thế này thì trọn khu gia cư sẽ còn ra sao nữa.

    Hắn thừ người đứng lặng, không còn biết ức đoán như thế nào cho đúng. Hoàng cung? Đế khuyết? Thâm khuê của hạng thiên kim?

    Thiếu nữ áo trắng cười duyên, giọng cười hết sức ấm dịu :

    - Sao? Ngươi đã đoán ra đây là đâu chưa?

    Phương Bửu Nhi thở dài:

    - Ta là Lưu Linh? Ta là Nguyễn Tịch? Ta lạc vào tiên cảnh, ta đang sống giữa quần tiên.

    Tất cả bọn thiếu nữ bật cười khanh khách:

    - Bọn ta đẹp như các nàng tiên à?

    Phương Bửu Nhi chỉnh sắc:

    - Đành rằng tôi chưa hề trông thấy tiên nữ lần nào. Đành rằng các vị thơ thơ đều là những trang tuyệt thế giai nhân, song nghĩ cho cùng người trần có đẹp đến đâu, cũng chẳng so sánh được tiên nữ là hạng vô ưu vô tự, vô tục niệm, vô dục tình. Thiết tưởng là một cuộc so sánh giữa hai giới đều là điều cuồng vọng.

    Bọn thiếu nữ thấy tiểu tử chưa ráo máu đầu đã có lập luận trang nghiêm thì không khỏi buồn cười, tuy nhiên chúng cũng đắc ý phần nào vì ít nhất cũng được hắn tán là đẹp.

    Thiếu nữ áo trắng đảo ánh thu ba, mỉm cười hỏi:

    - Người xem, bọn ta với cái bà vợ sồn sồn của ngươi ai đẹp hơn ai?

    Bà vợ sồn sồn với ông chồng tí hon!

    Những danh từ đó gợi thích thú cho chúng, tất cả lại bật cười lên, gập lưng mà cười, cười đến chảy nước mắt.

    Phương Bửu Nhi trừng mắt gằn giọng:

    - Các vị thơ thơ, làm sao biết được chuyện đó?

    Nàng áo trắng vừa cười vừa thốt :

    - Bọn ta là tiên nữ, tiên thì việc gì lại chẳng biết?

    Một nàng khác vận áo xanh, giục:

    - Nói mau đi! Ngươi thấy sao?

    Phương Bửu Nhi đảo mắt qua lại mấy lượt, bỗng thở dài:

    - Hoa lan mùa xuân hoa cúc mùa thu, hoa nào chẳng đẹp? Mỗi loại một vẻ, vẻ đẹp hợp với mùa, thật sự mà nói, không thể so sánh được?

    Nàng áo xanh cười nhẹ, tiếp:

    - Linh muội nói đúng quá? Tiểu tử này chẳng những tuấn tú khôi ngô mà khí chất thanh khiết, thần tình tao nhã, mở miệng là nhả ngọc phun châu!

    Bỗng có tiếng gọi từ phòng bên cạnh vọng đến:

    - Tiểu Linh Đang đâu? Vào đây mài mực hộ ta, đừng để ta chờ lâu đấy!

    Nàng áo trắng điểm một nụ cười thốt:

    - Tiểu công chúa đúng là chúa phiền nhiễu người ta. Bất cứ lúc nào cũng bắt người ta quanh quẩn bên mình. May mà ta tìm được gã này mang về đây, có người bầu bạn cho, vừa đỡ cho chúng ta, vừa làm cho công chúa thích thú.

    Nghe nàng nói, thấy đôi vòng bằng vàng lắc lắc dưới vành tai.

    Phương Bửu Nhi biết ngay nàng chính là Tiểu Linh Đang. Có lẽ do vật đó mà thành tên, hắn không khỏi cười thầm.

    Rồi nàng bước tới, nắm tay hắn, dịu giọng tiếp:

    - Ta đưa ngươi đến gặp tiểu công chúa của ta nhé! Tiểu công chúa còn xinh đẹp hơn tiên nữ đây. Ngươi bầu bạn với tiểu công chúa hay ngược lại cũng có thế, ngươi có thấy khoái chăng?

    Phương Bửu Nhi lắc đầu:

    - Tại đây là một tiên cảnh rồi, tuy vậy tôi chẳng muốn ở, tôi chỉ muốn về thôi. Các vị thơ thơ hãy đưa tôi về chỗ cũ đi, tôi chẳng muốn gặp tiểu công chúa nào cả, dù tiểu công chúa xinh đẹp hơn tiên.

    Linh nhi, nàng áo trắng cười nhẹ:

    - Thế ra ngươi không muốn xa bà vợ sồn sồn của ngươi à?

    Phương Bửu Nhi thẹn đỏ mặt:

    - Ai... ai muốn gặp mụ ấy? Cách xa mụ ấy càng lâu càng hay, chỉ vì tôi...

    Linh nhi dịu giọng chận lời hắn:

    - Nếu không muốn gặp mặt mụ ấy nữa, thì nên ở lại đây. Ta cam đoan nếu ngươi trông thấy tiểu công chúa của ta rồi, dù có đuổi ngươi cũng chẳng chịu đi?

    Phương Bửu Nhi nóng nảy:

    - Tôi... tôi...

    Bọn thiếu nữ nào để cho hắn nói được gì nữa, chúng cười lên ầm ĩ, nàng thì đẩy, nàng thì lôi hắn đi, hắn dù là nam nhân song có khác nào nữ nhân, vẫn bất lực trước áp lực của một đoàn nữ quái.

    Chúng đưa hắn đi thco con đường hành lang, dọc theo hành lang có bảy tám vọng cửa, mỗi ba bốn vọng, nàng áo xanh vỗ nhẹ lên đầu hắn, thốt:

    - Nghe lời bọn ta đi, vào bầu bạn với tiểu công chúa, nếu bất tuân chúng ta đưa ngươi trở lại mụ ấy đấy. Hoặc giả chúng ta đưa ngươi tới tận chân trời, cho ngươi chẳng bao giờ còn tìm về nhà được!

    Phương Bửu Nhi giật mình thầm nghĩ :

    - Bọn này xem thì đẹp đẽ, thùy mị ăn nói dịu dàng, nhưng hung dữ quá, chừng như chúng thuộc thành phần ác độc trong giang hồ thì phải.

    Ta còn lạ gì chúng định đưa ta đến chỗ tiểu công chúa của chúng, để làm một tên hầu hạ tùy sai trong các việc vặt vãnh, đỡ lụy phiền cho chúng. Chúng tưởng đâu ta không biết việc đó!

    Bị Thủy Thiên Cơ bắt đi, tuy hắn bất mãn nhiều, song ít nhất ở trong tay Thủy Thiên Cơ hắn còn hy vọng trốn đi, tìm đường trở về nhà ngoại tổ, nhưng kẹt ở trong tay bọn này thì mong mỏi gì thấy trời thấy đất nữa? Nơi đây theo cảm nghĩ đầu tiên của hắn, đúng là một nơi thần bí, một địa phương cổ quái biết đến bao giờ có dịp trở về? Rồi còn sự việc tìm tay đệ nhất kiếm khách đương thời, là thuyền chủ Ngũ Sắc Phàm, làm sao thực hiện công việc đó đúng lúc. Rồi còn Hồ thúc thúc?

    Hiện tại thúc thúc ra sao, bên cạnh Mộc Lang Quân?

    Tưởng tới tưởng lui, hắn chẳng tìm thấy một ánh sáng nào mang lại cho hắn chút hy vọng nhỏ mọn, rồi hắn đành lờ đi mặc cho số phận đưa đẩy thế nào phải chịu thế ấy.

    Cuối cùng hắn thấy hoàn cảnh hết sức trớ trêu đáng buồn cười quá, hắn lại nghĩ:

    - Người xưa nói, ngũ thập nhi tri thiên mạng, ta nay mới mười lăm, sao lại có ý phó mặc cho định mạng? Như vậy sao được gọi là con người có chí quật cường?

    Hắn thật sự chưa đầy mười lăm tuổi nhưng đã có những tư tưởng siêu việt hơn trang lứa của hắn nhiều, hắn lại còn có lối suy diễn chín chắn, không kém những người cao niên, nhờ đó hắn không đến nỗi quá tiêu cực để giòng đời lôi cuốn đắm chìm, hắn không thụ động, nếu có bất động là để tìm lối thoát thôi.

    Cho nên, hắn tự tạo cho mình được cái dửng dưng trước mọi nghịch cảnh, và hiện tại hắn yên lặng chờ xem bọn thiếu nữ còn giở trò gì nữa.

    Bọn thiếu nữ đã đưa hắn đến trước vọng cửa thứ nhất, nàng áo xanh mở ra, Linh Nhi đứng sau lưng hắn đầy hắn tới, hắn không gượng lại được bước trở vào trong phòng.

    Gian phòng đó, bày trí có phần hoa lệ hơn gian phòng hắn. Chính giữa, có một chiếc bàn cẩn ngọc xanh, trên bàn có bình ngọc, trong bình có cắm hoa bên cạnh bình có xấp giấy loại thượng hảo hạng, có nghiên mực, có giá bút, lại có một chiếc bát to cũng bằng ngọc, đựng nước xanh, có lẽ nước dùng để rửa bút.

    Ngồi bên cạnh chiếc bàn là một thiếu nữ tác độ mười hai, mười ba tuổi, vận y phục toàn trắng, màu trắng tinh khiết như tuyết, hai tay chõi má, chỏ tỳ lên bàn, đưa mắt nhìn bình hoa, nhìn chăm chú đến xuất thần.

    Trán rộng, mày thanh, mắt sáng, dĩ nhiên thiếu nữ phải xinh đẹp vô cùng, có xinh đẹp mới làm chủ tể một đàn tiên nữ đang quây quanh Phương Bửu Nhi ủng hộ hắn vào đây.

    Nàng nhìn hoa, hoa gần nàng, hoa thuộc loài quý kề bên mặt nàng như mất hẳn vẻ tươi.

    Thoáng nhìn qua Phương Bửu Nhi vốn tính cao ngạo, vốn giữ lễ độ, đạo đức, vẫn không tránh khỏi dao động thần hồn.

    Trời! Khung cảnh đó, giai nhân đó, trên thế gian này lại có một bức tranh sống như thế sao Bất giác hắn thu hình, thu ý, không còn cao ngạo nữa, không còn nghênh ngang nữa, hắn dè dặt đặt từng bước nhẹ tiến vào sợ làm kinh động nàng.

    Hắn vào đến bàn, không đợi ai mời, rón rén kéo nhẹ một chiếc ghế, rồi ngồi xuống đối diện với nàng. Hắn không dám nhìn thẳng vào mặt nàng, hắn nhìn hoa chăm chú, nhìn một lúc rồi cũng xuất thần luôn.

    Một lúc sau, hắn bừng tỉnh nhận ra hoa cắm tượng hình không theo một phương thức nào cả, hắn cười thầm, con người không có khiếu thẩm mỹ thì chơi hoa làm gì?

    Nhưng nhìn kỹ, hắn giật mình, nhận ra lối cắm hoa hỗn tạp đó, hẳn chẳng phải vì người chơi hoa không có khiếu thẩm mỹ, mà đúng là một lối kỳ diệu, trên thế gian này chưa nhấc có mấy tay sành cắm hoa như chủ nhân trong phòng.

    Khoảng cách từng đóa, màu sắc phối hợp, chồi thấp chồi cao, cách sắp xếp hết sức tinh xảo, dù ai khó tính đến đâu, dù ai không thích chơi hoa, ngắm bình hoa cũng chẳng tìm được điểm nào đáng chỉ trích cả, và thấy thích liền.

    Hoa đã đẹp, đó là lẽ dĩ nhiên rồi, sắp xếp khéo léo, hoa như tăng phần diễm ảo hơn, gặp tay chơi hoa như thế này, hoa sẽ tăng giá trị vô cùng.

    Bình sanh, Phương Bửu Nhi cũng thích chơi hoa, yêu hoa, cũng cắm hoa vào lọ, nhưng hắn có tưởng tượng đâu trên thế gian lại có nghệ thuật cắm hoa? Hắn chỉ cho là cắm hoa bất quá là một trò tiêu khiển, giờ đây hắn mới có nhận thức là có người nâng cái trò tiêu khiển đó lên thành một nghệ thuật.

    Hắn mê hoa, hắn suy tưởng về nghệ thuật cắm hoa, bất giác hắn quên hiện cảnh, buột miệng thở dài:

    - Trông thấy bình hoa này rồi mới biết, tất cả những bình hoa khác đều do tục tử phàm phu trang trí. Có lẽ ta cũng là một trong số ngốc tử đó đòi học chơi hoa.

    Hắn thốt rất khẽ, song ngồi đối diện nhau, khoảng cách giữa nhau là mặt bàn, tức nhiên không lớn lắm, tiếng nói của hắn phải vang mạnh vào tai thiếu nữ, nàng giật mình bừng tỉnh ngẩng mặt lên, giương tròn mắt nhìn sững hắn một lúc lâu, đoạn kêu lên:

    - Ngươi..... ngươi à quái vật từ đâu tới?

    Phương Bửu Nhi điềm nhiên dáp:

    - Tôi là người, chẳng phải là quái vật. Tôi từ nơi vô định mà đến, và không do ý định mà đến.

    Thiếu nữ chính là tiểu công chúa, nàng lại nhìn sững Phương Bửu Nhi một lúc nữa rồi mới hỏi:

    - Ngươi là người sao ngươi chẳng giống ta? Ăn mặc như thế đó mà là người?

    Phương Bửu Nhi vừa bực, vừa tức cười:

    :

    - Tôi là nam nhân! Phải ăn mặc khác hơn cô nương, nam nhân giống nữ nhân thế nào được?

    Thoạt tiên trông thấy tiểu công chúa đẹp, Phương Bửu Nhi nghĩ rằng hẳn nàng phải thông minh lắm, rồi nhìn lối cắm hoa, hắn lại cũng tin chắc là mình nghĩ đúng.

    Nhưng giờ đây qua hai câu nàng hỏi, hắn phát hiện ra nàng ngây ngô như kẻ si dại, hắn hết sức thương hại cho nàng và cũng có phần nào tiếc rẻ.

    Tiểu công chúa lại mở to đôi mắt nhìn hắn một lúc lâu, rồi lắc đầu thốt:

    - Không! Không phải vậy đâu! Là nam nhân sao ngươi không có râu?

    Phương Bửu Nhi hết còn cười nổi, hắn lắc đầu tỏ vẻ chán nản:

    - Tôi còn nhỏ tuổi làm gì có râu? Cô nương lại chẳng hiểu được một việc như thế sao?

    Tiểu công chúa lại nhìn hắn, bỗng bật cười:

    - Ạ! Ta biết rồi! Thì ra nam nhân còn nhỏ tuổi là không có râu!

    Muốn có râu dài phải chờ đến lúc cao tuổi. Cũng như những đứa bé con, lúc mới sanh không có răng, lớn lên răng mới mọc!

    Nàng thốt với giọng hết sức trịnh trọng, như người vừa phát minh ra một sự kiện lạ, như cho rằng sự kiện đó trên thế gian này không có ai nghĩ ra nổi.

    Thốt xong nàng lại cười cười khoái trá, tự tán thưởng mình bằng tiếng cười đó.

    Phương Bửu Nhi dù thương hại nàng đến đâu cũng không thể dằn lòng được nữa, bật cười to, hắn cười ngiêng ngửa, hắn đưa tay chỉ tiểu công chúa, cánh tay vươn ra quá dài suốt chạm vào bình hoa, hắn kêu lên:

    - Cô nương... cô nương...

    Thấy hắn bật cười, tiểu công chúa phẫn nộ, gằn giọng:

    - Tại sao ngươi cười? Có cái gì đáng cười đâu? Vì ta thấy gia gia có râu, ta cứ tưởng hễ là nam nhân tất phải có râu, do đó ta mới hỏi ngươi chứ!

    Phương Bửu Nhi sửng sốt, ngưng bặt tràng cười ngay, nhìn nàng hỏi:

    - Thế ra, từ bao lâu nay, cô nương chi trông thấy một mình lệnh tôn là nam nhân thôi à?

    Tiểu công chúa cau mặt:

    - Gia gia ta là người thông minh bậc nhất trên đời, anh tuấn bậc nhất trên đời mà cũng là người giàu bậc nhất trên đời. Ta chỉ nhìn người thôi, ta chẳng cần trông thấy một nam nhân nào khác!

    Có thật là sự nàng chỉ thích một nam nhân thần tượng đó chăng?

    Không ai hiểu được tâm tự nàng, có điều trong vẻ cao ngạo quật cường của nàng có ẩn ước niềm oán, do tịch mịch gây nên..... Phương Bửu Nhi thở dài hỏi tiếp:

    - Tuy nhiên từ trước đến nay, chẳng có ai giải thích cho cô nương sự đó sao?

    Tiểu công chúa lắc đầu:

    - Gia gia không nói gì cả, ta cũng chẳng muốn nghe.

    Bỗng như chợt nghĩ ra điều gì, nàng mở tròn đôi mắt tiếp:

    - Nơi đây chẳng hề có bóng nam nhân, ta quên hỏi ngươi làm sao ngươi đến được nơi này?

    Phương Bửu Nhi cười khổ:

    - Tôi đã nói rồi, cô nương quên lãng hay không lưu ý? Cô nương hỏi tôi như thế, rồi tôi phải hỏi lại ai? Khi tôi tỉnh lại bất phát giác hiện ra mình ở tại đây!

    Tiểu công chúa chớp chớp đôi mắt, thốt :

    - Ta đã hiểu rồi! Hẳn là Tiểu Linh Đang nhân xuất ngoại thi hành công tác gặp ngươi rồi mang ngươi về đây!

    Đối với quan hệ bình thường giữa nam và nữ nàng hoàn toàn mờ tịt, nhưng luận về tình lý, nàng suy diễn rất xác đáng, không kém bậc lão thành già dặn.

    Phương Bửu Nhi nhìn bình hoa lấy làm lạ hết sức, hắn nhận ra những cành hoa đều thay đổi vị trí bừa bãi không còn đúng theo lối cắm kỳ diệu như trước nữa.

    Hắn tự hỏi, chẳng lẽ một tràng cười của hắn lại có áp lực đảo lộn những cành hoa như thế? Và nếu đúng vậy thì hắn đã làm một việc vô cùng khiếm lễ, do đó hắn bứt rứt không an, đưa bàn tay sửa lại những cành hoa.

    Nhưng động tác của hắn làm cho tiểu công chúa sôi giận lên, nàng giậm chân xuống đất nện thình thịch gắt:

    - Ai mượn ngươi mó tay vào hoa chứ?

    Nàng đưa tay hất bàn tay của Phương Bửu Nhi vừa sờ đến một đóa hoa, đoạn rút cành hoa đó ra khỏi bình, nhúng vào bát nước trong xanh trên bàn, rửa qua rửa lại.

    Gương mặt đẹp của nàng bừng lên niềm phẫn nộ lẫn căm hờn.

    Đang lúc giận, nàng rửa khá mạnh tay làm cho đóa hoa đứt từng cánh, từng cánh, cuối cùng thì chỉ còn lại một vài cánh tận trong long, vừa đủ bao quanh nhụy hoa.

    Không vì nàng hất tay mà hờn giận, Phương Bửu Nhi thấy đóa hoa bị hủy diệt, hết sức tiếc rẻ, kêu lên:

    - Cô nương... cô nương làm gì thế?

    Tiểu công chúa hừ một tiếng:

    - Làm gì? Bàn tay thô tục dơ dáy của ngươi mò vào hoa của ta, ta phải rửa hoa cho sạch, chứ còn làm gì nữa?

    Phương Bửu Nhi trố mất:

    - Dù bàn tay tôi mó vào hoa, không xứng đáng lắm, song hoa vẫn còn nguyên vẹn chứ như cô nương rửa mạnh như thế thì còn gì là hoa?

    Hoa đã chẳng sạch được mà lại còn bị hủy hoại Đáng tiếc quá!

    Tiểu công chúa xì một tiếng:

    - Hủy diệt hay còn nguyên vẹn, mặc cho hoa, ta chỉ muốn rửa sạch hoa thôi, thà nó bị hủy diệt mà cái xác của nó được sạch sẽ hơn là nó còn nguyên vẹn mà dơ dáy.

    Phương Bửu Nhi sững sờ ngây người một lúc rồi thở dài.

    Lâu lắm hắn thở dài thốt:

    - Không ngờ cô nương lại chẳng biết thế nào là đạo lý..... Tiểu công chúa vụt đứng lên, bước tới trước mặt hắn cao giọng gắt:

    - Ngươi nói ai chẳng thông đạo lý? Ta hỏi tại sao ngươi lại mó tay vào hoa của ta?

    Hiện tại nàng tỏ rõ vẻ lanh lợi gần như chua ngoa, nàng chẳng còn ngây thơ thùy mị, đáng yêu như trước đó. Sự chuyển biến của nàng làm cho Phương Bửu Nhi thêm sững sờ.

    Chưa hết, nàng gắt xong, sôi giận bừng bừng, đưa tay vớ lấy chiếc bình bằng ngọc quăng xuống nền, rồi chộp luôn xấp giấy quý xé toạc thành từng mảnh vụn, đoạn gằn từng tiếng:

    - Ta phí tâm sư suốt ngày dài mới cắm xong một bình hoa, bình sanh chưa bao giờ ta cắm được một bình hoa thích ý như lần này, nhưng... giờ thì... giờ thì ngươi.. bị ngươi làm hỏng lất cả! Ta bắt đền ngươi, ngươi phải đền bình hoa cho ta!

    Phương Bửu Nhi chẳng biết làm sao đáp gọn:

    - Được tôi sẽ đền cho cô nương!

    Đáp gọn cho xuôi vậy thôi, chứ hắn làm sao đền bình hoa cho nàng được? Giảng giải về đạo lý nàng chẳng nghe, nàng lại cứ giở thói trẻ con ra, làm khó hắn, hắn còn nói gì được với nàng hơn là hứa càn, hứa bừa thử xem nàng còn giở trò gì nữa.

    Tiểu công chúa kêu to:

    - Ngươi đền? Ngươi đền được chăng? Ngươi đền bằng cách nào?

    Phương Bửu Nhi thở dài:

    - Đền, thì tôi bằng lòng đền, những chưa biết phải làm sao mà đền đây! Làm sao bây giờ?

    Chừng như Tiểu công chúa sắp khóc lên, đôi mắt của nàng rựng đỏ, nàng hằn học:

    - Ta không dung tha cho ngươi đâu! Không dung thứ được đâu. Vĩnh viễn ta chẳng tha cho ngươi được. Trừ rạ.. trừ rạ..

    Thấy nàng mở một lối thoát, Phương Bửu Nhi hấp tấp hỏi :

    - Trừ ra làm sao hở cô nương?

    Tiểu công chúa nhìn thẳng vào mặt hắn:

    - Ta nói ra, ngươi có bằng lòng hay không?

    Phương Bửu Nhi giục:

    - Thì... cô nương cứ nói ra cho tôi nghe đi có nghe rồi mới biết là mình làm được hay không chứ. Làm được thì chấp nhận ngay, làm không được thì ai dám bằng lòng?

    Tiểu công chúa nhảy choi choi, giậm chân thình thịch, lần này thì nàng òa khóc thật sự vừa khóc nàng vừa gào:

    - Tiểu tặc! Ngươi là một tên tiểu tặc. Một tiểu quỷ! Nếu ngươi không chấp thuận, ta sẽ rút gân ngươi, ta sẽ lột da ngươi. Làm được cũng chấp thuận, không làm được cũng chấp thuận, từ khước là chết với ta!

    Bình sanh, Phương Bửu Nhi chưa hề trông thấy một tiểu cô nương vừa khóc vừa làm huyên náo lên trước mặt hắn, do đó hắn có phần nào bối rối hắn hoang mang chẳng biết phải làm gì, nói gì cho cô bé dịu lại, nhưng cứ ỳ ra đó thì nàng càng khóc to càng gào to, thành trơ trẽn cho cả hai quá, bất đắc dĩ hắn đáp:

    - Được rồi! Cô nương nín đi, tôi chấp thuận!

    Tiểu công chúa vẫn khóc, vẫn gào:

    - Ta không chịu đâu! Giờ thì muốn ta nín, ngươi phải chấp thuận đủ mười điều kiện của ta. Giờ thì phải đúng mười điều kiện chứ không phải chỉ có một như trước đây.

    Nàng khóc to hơn một chút, gào to hơn một chút, chân giậm cũng nhanh hơn trước. Mắt nàng ướt đẫm lệ, lệ vẫn tuôn trào ra như suối.

    Phương Bửu Nhi đã liều một tất phải liều hai, đáp luôn:

    - Được rồi! Tôi chấp thuận đủ mười điều kiện chấp nhận tất cả, cô nương hãy nín đi?

    Tiểu công chúa hơi dịu lại một chút:

    - Mà ngươi đừng hối hận mới được!

    Phương Bửu Nhi gật đầu:

    - Nam nhân đã hứa làm sao giữ làm vậychẳng hề hối hận!

    Tiểu công chúa nhấn mạnh:

    - Nếu sau này ngươi hối hận thì sao?

    Phương Bửu Nhi đáp nhanh:

    - Thì tôi sẽ là một tiểu tặc, một tiểu súc sinh, tiểu quái vật!

    Tiểu công chúa vụt cười khanh khách, kêu lên:

    - Quỷ.' Tiểu quỷ. Ngươi đáp ứng điều kiện của ta thế nào được? Giả sử ta bảo ngươi cắt chót mũi trao cho ta, ngươi có bằng long chăng?

    Nàng vừa thốt, vừa lau mặt ráo lệ, với nụ cười vừa nở, gượng mặt nàng trở lại tươi xinh như trước, đôi mắt nàng sáng như trước, chẳng ai có thể ngờ là nàng Tiểu công chúa xinh đẹp đó mới khóc mùi mẫn, khóc đến chết người nghe, khóc đến nhọc phờ người khóc.

    Nghe nàng đặt một ví dụ xẻo mũi, Phương Bửu Nhi sững sờ đờ người trố mắt nhìn nàng.

    Đúng vậy, nếu nàng đòi làm thương tổn đến thân thể hắn thì sao?

    Xẻo mũi, cũng chưa đến nỗi nguy hại đến mạng sống, bất quá chỉ lưu lại cho hắn một vết sẹo, biến thành con người xấu xí thôi, giả sử nàng đòi móc mắt, giả sử nàng đòi moi tim thì sao?

    Mắng thì hắn đã bị Thủy Thiên Cơ mắng xiêng mắng xẹo rồi, hắn cũng bị tiểu công chúa mắng với giọng đó, gần như cả hai cùng một ngôn ngữ, một thái độ mắng hắn.

    Song, Thủy Thiên Cơ là người có tuổi tác, lại thành danh trên chốn giang hồ, dù chỉ là danh một đại nữ ma đầu, điều đó có thể chịu đựng được, bất quá Thủy Thiên Cơ dùng uy lực bắt hiếp hắn kém thì hắn phải chịu thua.

    Nhưng, tiểu công chúa bất quá chỉ là một cô bé, rất bé, kém hắn mấy tuổi sao lại có thể gọi hắn là tiểu tử. Nàng có uy lực gì mà lung lạc hắn như một món đồ chơi?

    Mới ngần ấy tuổi, nàng đã cao ngạo như vậy rồi đến lúc thành nhân, tạo được một danh vị trên giang hồ rồi, nàng còn khó chịu đến mức độ nào nữa?

    Dù sao thì nàng cũng là người thuộc giới giang hồ, bởi gia gia nàng là người chốn giang hồ kia mà?

    Giờ đây hắn kẹt trong khuôn khổ của nàng, nàng lại đặt mười điều kiện buộc hắn phải thỏa thuận đủ mười điều kiện đó, mà hắn chẳng biết những điều kiện gì.

    Nếu không làm cho nào vừa lòng, rất có thể lũ tiểu yêu kia sẽ chẳng buông tha hắn, như chúng đã hăm dọa.

    Càng nghĩ hắn càng lo ngại. Đúng ra chẳng phải hắn khiếp nhược sợ chết, nhược chết trong trường hợp này thì phi lý quá, hắn thấy tức.

    Tức song phải kiên nhẫn, tùy cơ tháo gỡ rối rắm, hắn thừa hiểu dục tốc bất đạt, và lại nàng công chúa bé bỏng kia ương ngạnh vô lý, độc đoán, dù có giải thích cách nào vị tất nàng chịu nghe cho?

    Do đó hắn lo lắng...

    Tiểu công chúa bật cười khanh khách:

    - Nói chứ ai lại bảo ngươi lại thẻo chóp mũi cho đành, phải vậy không hở tiểu tử. Thẻo mũi thì máu chảy, ta rất sợ máu, ta chẳng dám nhìn máu chảy, không ta không thích thẻo mũi ngươi đâu.

    Rồi nàng đảo mắt, ánh mắt chớp chớp màu xanh biếc từ từ tiếp:

    - Bình sanh, ta chưa từng trông thấy nam nhân khóc. Vậy điều kiện thứ nhất của ta là ngươi khóc lên, khóc cho ta xem, ta muốn xem gương mặt nam nhân lúc khóc sẽ như thế nào, tiếng khóc của nam nhân nghe ai oán, căm hờn tủi hận như thế nào!

    Phương Bửu Nhi trố mắt nhìn tiểu công chúa như nhìn quái vật.

    Một điều kiện lạ kỳ. Phải chăng có tâm tính bất thường? Nàng có loạn óc chăng? Trên đời này có một ước vọng kỳ lạ như thế? Khóc thì có gì thích thú mà đòi xem?

    Nhưng khóc, nào phải bỗng dưng rồi ai cũng có thể khóc rống lên một cách ồ ồ khóc mướt khóc tỉ tê?

    Tiểu công chúa hừ một tiếng:

    - Sao? Ngươi hối hận rồi phải không? Đó chỉ là một trong mười điều kiện, mới nói đến điều kiện thứ nhất, ngươi lại hối hận! Chắc chắn chín điều kiện còn lại ngươi cũng sẽ hối hận luôn!

    Phương Bửu Nhi ấp úng:

    - Tôi... tôi khóc không ra tiếng nổi!

    Tiểu công chúa xí một tiếng:

    - Rõ thật là vô dụng. Chi có mỗi một việc khóc mà làm không nổi thì còn làm nổi việc gì khác! Như tạ.. Ta nói khóc là khóc ngay, ta muốn nín là nín ngay, đang khóc ta muốn cười là cười liền, thiết tưởng rằng chẳng có việc gì dễ dàng bằng những việc đó.

    Phương Bửu Nhi vừa tức vừa buồn cười, thực nàng đóng kịch chắc khéo lắm. Tuy nhiên, làm được vậy kể cũng khá lắm chứ, bởi chưa chắc mọi người trừ hắn làm được như nàng?

    Rồi hắn thở dài, đưa tay che mặt bật khóc.

    Hắn khóc thành tiếng thật, nhưng đôi mắt ráo hoảnh, song nếu mắt ráo thì bao giờ nàng chịu cho hắn? Bất buộc hắn rà rà lòng bàn tay quanh môi, rỉ một chút nước bọt ướt bàn tay, rồi chà bàn tay quanh mắt, cho tèm nhem ướt át một chút.

    Tiểu công chúa không màng nhìn hắn, ung dung thốt:

    - Khi nào ta bảo ngừng ngươi mới được nín khóc nhé. Cứ khóc đi, khóc cho ta nghe!

    Phương Bửu Nhi vừa khóc vừa suy nghĩ.

    Hắn thấy hận nàng quá, bỗng dưng lại bắt hắn làm trò hề cho nàng xem. Và đây chỉ là một trò hề, còn chín điều kiện kia, chắc chắn là chín trò hề nốt.

    Hắn vẫn khóc, cứ khóc, khóc mãi nước mắt không rơi, nhưng mồ hôi rơi từng hạt to bằng hạt đậu. Khóc mãi mồ hôi đẫm ướt cả tóc, cả trán.

    Tiểu công chúa cười hi hì, hỏi:

    - Nam nhân khóc lệ không rơi nhưng mồ hôi lại đổ. Lạ thật!..... Rồi nàng phê bình tiếp:

    - Ngươi khóc không khéo chút nào, tuy nhiên ta nhìn nhận ngươi có cố gắng đấy. Thôi được rồi, nín đi!

    Phương Bửu Nhi không đợi giục lần thứ hai, nín liền, chắc là hắn quá mệt nên vừa nín khóc liền bật lưng tựa vào thành ghế, thở dốc.

    Tiểu công chúa chớp chớp mắt, thốt:

    - Điều kiện thứ hai...

    Nàng trầm ngâm suy nghĩ một lúc, định tìm một điều kiện khó khăn. Nêu lên cái số mười điều kiện, có lẽ nàng buột miệng mà nói chứ nàng chưa tính trước. Và giờ đây, nàng nghĩ từ từ chưa thấy điều gì hợp lý, nên còn nghĩ ngợi.

    Thoạt đầu, nàng định bảo Phương Bửu Nhi nhào lộn trên nền phòng đúng năm mươi vòng, rồi đổi ý định bảo hắn bò quanh phòng năm mươi vòng, lại định bảo hắn ngồi xếp bằng tròn trên mặt nền trong hai khắc thời gian liền, bất động, khiến cho hắn mệt đừ người ra, dở khóc dở cười...

    Gian phòng, không có một điểm ánh sang mặt trời, không rõ bắt đầu từ lúc nào, bên ngoài có người đưa cơm tới, đã bốn năm lượt rồi, nhưng bọn thiếu nữ thập thò, thập thò chẳng nàng nào bước vào, chúng nhìn hắn, chúng cười cười.

    Ngồi một chỗ, Phương Bửu Nhi tìm hiểu mãi, đây là địa phương nào, gia gia của Tiểu công chúa là nhân vật ra làm sao, tại sao lão ấy chẳng đến kiểm soát qua, xem con gái làm gì, bởi ít nhất, dù là nam nhân, bổn phận làm cha bắt buộc lão phải thinh thoảng đến kiểm soát sinh hoại của con gái chứ. Từ lúc Phương Bửu Nhi vào đây, thời khắc trôi qua đã lâu quá rồi mà chẳng thấy lão đến. Lão không đến, thì còn mẹ nàng nàng còn mẹ chăng hay mồ côi mẹ?

    Tiểu công chúa lại quay về với việc cắm hoa, nàng làm cái việc đó hết sức chăm chú nhờ vậy mà Phương Bửu Nhi được rảnh rỗi, trong khi chờ đợi thực hành những điều kiện kế tiếp.

    Hắn lặng lẽ nhìn nàng bận rộn với, việc cắm hoa.

    Có lẽ nàng thích thú với lối cắm hoa, mặt nàng tươi tỉnh lạ, ánh mắt ngời vẻ đắc ý.

    Nàng cắm hoa khéo quá, Phương Bửu Nhi hết sức thán phục, bất giác buột miệng khen, rồi hắn vỗ bàn tán thưởng, rồi hắn hỏi:

    - Thuật cắm hoa của cô nương học của ai thế?

    Tiểu công chúa đáp:

    - Gia gia có một vị bằng hữu, nghe nói vị đó là một bậc kỳ nhân trên đời này, mấy năm trước vị kỳ nhân đó đến đây một lần, gia gia ta hết lòng khẩn khoản lưu người lại để giáo huấn ta, nhưng người ch ở lại độ tháng, dạy ta cái thuật cắm hoa, chiều cắm hoa, ngày ngày cắm hoa, ta chán qụá, trái lại gia gia thì cao hứng quá, cho rằng cắm hoa càng có cái đạo lý riêng biệt, đạo lý đó bao hàm một bí quyết luyện võ công đến chốn thâm diệu vô cùng.

    Phương Bửu Nhi lắc đầu:

    - Tôi không tin như vậy!

    Tiểu công chúa mỉm cười:

    - Chính ta, ta cũng không tin, ta hỏi gia gia. Gia gia cũng chẳng biết giải thích làm sao cho ta hiểu, dù chính người nói ra như thế.

    Nhưng người khuyên ta cứ chăm cắm hoa, ta vâng lời lo cắm hoa. Ta cũng chẳng lưu ý nghiên cứu tìm một liên hệ giữa thuật cắm hoa và võ thuật. Đến một hôm ta chợt cảm thấy thích cắm hoa, cái hứng đã có rồi, ta càng chăm chú cắm hoa mãi đến lúc ta học xong cái thuật cắm hoa ta mới thức ngộ trọn vẹn đạo lý cao thâm của việc cắm hoa.

    Phương Bửu Nhi thở dài:

    - Có lẽ tôi cũng đã thức ngộ như cô nương? Cũng thời bao nhiêu đóa hoa đó, nếu là tôi, tôi có lối cắm khác, và dĩ nhiên kém cô nương. Cũng thời bao nhiêu hoa đó, cô nương có nhiều lối cắm, lối nào cũng tuyệt diệu. Suy rạ.. suy ra ...

    Hắn muốn đưa ra một thí dụ nhưng chưa tìm được một thí dụ xác đáng đành ú ớ.

    Tiểu công chúa tiếp:

    - Ví dụ như một thanh kiếm, cũng thời một kiếm pháp, người có võ công cao, có lối sử dụng ảo diệu hơn người học võ tầm thường.

    Phương Bửu Nhi tán đồng ngay lý luận đó:

    - Đúng vậy! Đúng lắm!.

    Hắn nhìn sững Tiểu. công chúa một lúc, sau cùng lẩm bẩm:

    - Kỳ quái thật? Những sực việc rất thông thường thì cô nương chẳng hiểu gì cả. Còn những điều cao thâm, huyền diệu thì cô nương lại quá tinh tường, một bậc lão thành chưa hẳn có nhận xét chí lý như cô nương?

    Tiểu công chúa mỉm cười:

    - Thật vậy à?

    Phương Bửu Nhi tiếp nối:

    - Nếu tôi đoán không lầm thì cô nương có biết võ công?

    Tiểu công chúa gật đầu :

    - Đương nhiên!

    Sanh trong nhà võ dĩ nhiên phải biết võ, nhưng giọng nói của nàng có cái ý nghĩa khác, không phải vì sanh trong nhà võ rồi đương nhiên biết võ mà thôi, chừng như nàng cho rằng hễ là ccon người là phải biết võ, nếu chẳng biết võ, chỉ là một quái vật không hơn không kém.

    Lâu lắm, nàng hỏi:

    - Ngươi có muốn ta thi triển một vài chiêu thức cho ngươi xem không?

    Phương Bửu Nhi cau mày lắc đầu:

    - Không! Không!

    Nói đến võ công là hắn nghe đầu nhức ngay còn nhìn người biểu diễn làm sao được?

    Hắn đã quá ngán rồi, từ lúc rời nhà ra đi đến nay, hắn đã mục kích hơn một lần cảnh đánh nhau, sát hại nhau, hắn gớm và cái ý chí không bao giờ luyện võ lại càng được hắn cũng cố hơn.

    Đối với võ công, hắn có cảm tưởng là nên sợ kính nhi viễn chi, như đối với quỷ thần. Gần quỷ thần là có hại, thì gần võ công cũng thế, gần võ công là gần máu đổ, thây rơi, gần tang tóc.

    Tiểu công chúa trừng mắt nhìn hắn, gắt:

    - Nếu ngươi nói không muốn xem, ta lại thích biểu diễn cho ngươi xem, nếu ngươi nói thích xem, ta lại cảm thấy biếng nhác biểu diễn.

    Phương Bửu Nhi vội đổi câu nói:

    - Tôi muốn! Tôi muốn!

    Tiểu công chúa bật cười khanh khách:

    - Ngươi đã muốn rồi đó. Đã muốn thì phải xem, không xem không được!

    Phương Bửu Nhi sững sờ, biết mình kẹt rồi, chỉ còn có nước ngồi ỳ ra đó, chờ xem.

    Hắn than thầm, vô luận là hắn nói thế nào tiểu công chúa cũng tìm cách xoay chiều, đưa hắn vào tròng. Điều đó làm cho hắn tức uất, song biết rõ có tức uất cũng vô ích, cho nên hắn cố lờ đi bởi càng nghĩ tới càng khó dằn lòng.

    Tiểu công chúa nhìn hắn, thấy thái độ của hắn nàng thích thú vô cùng, nàng vừa cười vừa thốt:

    - Ngươi đừng phát cáu lên chứ, trông ngươi khôi hài quá! Ta thích khiêu khích cho ngươi phát cáu, để xem mặt mày ngươi khôi hài như thế nào, nếu ngươi không giữ ý, thì chỉ làm trò cười cho ta thôi!

    Phương Bửu Nhi sa sầm gương mặt đôi mày cau lại.

    Tiểu công chúa đảo bộ, bước ra chỗ trống, tung mình lên không nhẹ như chim yến, rồi từ nơi không trung nàng xoay chuyển thân hình, tà áo trắng bay lả lướt, bật kêu phần phật, trông nàng mường tượng con bướm vờn hoa, chập chờn, nàng vung tay, đá chân, quay quay một lúc bỗng nàng đáp xuống bát nước trong.

    Tiếng là cái bát chỉ vì hình thức vật đó là cái bát chứ nó khá to lớn, to bằng một chiếc bồn thường, dĩ nhiên nước chứa khá nhiều.

    Phương Bửu Nhi tưởng đâu nàng sơ xuất rơi xuống đất, giật mình toan chạy tới đỡ nàng, nhưng chân nàng với chấm mặt nước nàng đã vút mình trở lại không trung, rồi đáp xuống đầu cành hoa trong chiếc bình cứ tư thế đó, nàng đứng một lúc Trừ loài bướm, trên thế gian này có loài động vật nào đáp trên cành hoa, nhẹ nhàng không chút lay động? Chỉ có loại dế trùng, nhưng các loại đó chẳng thích hoa.

    Vậy mà nàng đứng được, bình hoa chẳng ngả đóa hoa chẳng rung.

    Nàng đứng thư thả quá, chẳng khác nào đứng trên mặt đất.

    Màu hoa phản chiếu, màu áo phản chiếu gương mặt đẹp, thân hình có những đường cong tuyệt mỹ, tuy những đường cong đó chưa nẩy nở hoàn toàn trong lứa tuổi của nàng, lúc đó nàng đẹp tuyệt vời, đẹp hơn một tiên nữ hạ trần, duyệt hoa để so sánh sắc người và sắc hoa.

    Giàu tưởng tượng một chút người ta có thể cho nàng là một tiên nữ đang hiện trên mặt Bát Bửu Liên Trì...

    Phương Bửu Nhi thật sự không thích võ công, song cảnh trước mắt là một tiên cảnh, hắn khoái trá mê mệt nhìn và cuối cùng thì hắn không dè dặt nữa reo lên:

    - Tuyệt, tuyệt, cô nương có thân pháp phi phàm!

    Thân pháp đối với hắn chỉ là động tác của thân thể chứ hắn có hiếu thân pháp là gì theo võ đâu? Hắn vẫn dùng danh từ đó như thường theo ý của hắn.

    Tiểu công chúa khẽ nhún đôi chân bay vút lên không, tà tà đáp xuống nền phòng mỉm cười:

    - Chẳng có gì đáng khen cả. Chắc chắn những tay võ sư trên giang hồ trông ta biểu diễn sẽ nhận thấy nhiều sơ hở cần sửa chữa. Bất quá ta có chút thân pháp xoàng xoàng thôi.

    Phương Bửu Nhi thở dài:

    - Nếu những gì cô nương vừa thi triển mà gọi là xoàng thì trên thế gian này không có tay nào đáng đựợc người đời chú ý.

    Tiểu công chúa nhìn hắn:

    - Thế ra ngươi cũng biết võ công?

    Phương Bửu Nhi lắc đầu :

    - Tôi làm gì biết võ công? Tuy nhiên với đôi nhãn quang phàm tục tôi cũng có thể nhìn thấy cái giá trị thân pháp của cô nương. Vả lại trong gia đinh tôi, trừ tôi ra chẳng học võ công, chứ ngoại công tôi, gia gia tôi, mẹ tôi, tất cả đều biết.

    Hắn muốn nói cả ba người đó đều là cao thủ, nhưng qua một sự so sánh chớp nhoáng giữa những người thân và tiểu công chúa, hắn không dám quả quyết sự hơn kém của song phương, thành thử hắn không dám dùng mấy tiếng cao thủ.

    Còn một lý do khiến hắn không thể gọi ông ngoại và cha mẹ là cao thủ vì gia gia của công chúa là một nhân vật còn xa lạ quá đối với hắn, con người đó sống trong khung cảnh quá bí mật, hẳn phải có lai lịch bí mật, và như vậy hẳn cũng phải lợi hại lắm, chắc chắn lão chẳng kém ông cha hắn, thì làm sao hắn dám xưng ông cha là cao thủ?

    Hắn bỏ lửng câu nói ròi liên tưởng đến tình cảnh hiện tại của hắn, bị đưa về cái chỗ thần bí này, biết đến ngày nào hắn thoát ra được mà trở về nhà?

    Bất giác, hắn mơ màng đến xuất thần.

    Tiểu công chúa thấy hắn đột nhiên lại bỏ dở câu nói, lấy làm lạ nhìn hắn một lúc rồi hỏi:

    - Ngoại công ngươi làm sao? Gia gia và mẫu thân ngươi làm sao?

    Phường Bửu Nhi giật mình toan đáp, bỗng vừa lúc đó, cả tòa kiến trúc chuyển động kịch liệt đến độ Tiểu công chúa không còn giữ nổi thăng bằng, ngã nhào xuống nền phòng, mặt hắn xanh dờn, chẳng còn một hạt máu. Tiểu công chúa cười dịu :

    - Tiểu tử! Ngươi sợ à? Sợ gì chứ? Ta đỡ ngươi dậy cho lấy lại bình tĩnh đi!

    Nàng đưa cánh tay trắng nõn như ngà chuốt, nắm hắn kéo đứng lên.



    Ủng hộ BLH Vì một sân chơi mới, vì một Bàn Long Hội mới :oe76:
     
  4. biglove

    biglove Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/7/11
    Bài viết:
    9,835
    Được thích:
    14,144
    Ân Thù Kiếm Lục

    Tác Giả:Cổ Long

    -- o --

    HỒI 4: Cuồng Ngạo Chấp Vương Hầu


    Nguồn: vietkiem.com




    Nhưng nàng chưa chạm vào mình, hắn đã tự đứng lên được, đứng lên rồi hắn lại ôm chầm lấy Tiểu công chúa, run run giọng thốt:

    - Nguy! Nguy rồi cô nương ơi! Trời long, đất sụp.

    Chúng ta chạy nhanh lên, nếu không thì mất mạng cả.

    Tiểu công chúa bật cười khanh khách:

    - Tiểu tử! Ai bảo với ngươi là trời long đất sụp?

    Bất quá, chiếc thuyền của chúng ta vào bờ, chạm phải đất liền. Ngươi sợ đến thế ư?

    Phương Bửu Nhi sững sờ, một lúc lâu, mới cất tiếng được:

    - Chúng tạ.. đang ở trên thuyền?

    Tiểu công chúa gật đầu:

    - Không ở thuyền thì ở đâu?

    Phương Bửu Nhi trố mắt:

    - Nếu là ở trên thuyền, tại sao tôi không có cảm giác gì cả? Ít nhất con thuyền cũng chao chao, không mạnh cũng nhẹ chứ?

    Tiểu công chúa cười hì hì:

    - Chỉ vì con thuyền to lớn quá, vì nó to lớn nên sóng chẳng làm gì chuyển nó nổi, ngươi còn cảm thấy nó chao chao làm sao được?

    Rồi nàng gắt:

    - Thôi buông ta ra đi!

    Đến lúc đó, Phương Bửu Nhi mới nhận ra là trong lúc hoảng hốt, hắn ôm chầm lấy nàng, hắn thẹn đỏ mặt, buông nàng ra ngay, nhưng cũng liền lúc, hắn cảm thấy vòng tay chạm vật gì mềm mại quá, vật đó lại thơm thơm, lúc ôm cứng thì chẳng nghe gì, khi buông lơi rồi mới cảm thấy, tự nhiên hắn tiếc...

    Tiểu công chúa trừng mắt:

    - Nam nữ thọ thọ bất thân, vừa rồi ngươi ôm ta là ý tứ ra sao?

    Câu nói đó, cách không bao lâu thời gian, nhưng Phương Bửu Nhi đã nói với một người, bây giờ có người nói với hắn y câu đó. Hắn thoáng đỏ mặt, ngây người chết thẹn, đúng là cái cảnh dở khóc dở cười.

    Tiểu công chúa lại hét lên:

    - Nói! Nói đi chứ! Ý tứ ngươi ra sao mà dám chạm vào mình ta?

    Phương Bửu Nhi cúi thấp đầu, ấp úng:

    - Tôi... tôi...

    Hắn biết rõ là hắn khiếm nhã, nhưng nói làm sao cho xuôi đây? Y cần phải nói gấp, lại không có lời ổn thỏa, thành ra hắn khẩn trương ra mặt, hắn suýt bật khóc.

    Bỗng Tiểu công chúa bật cười khanh khách:

    - Thôi đừng quýnh quáng, ta nói đùa đấy. Thật ra thì ta cũng thích ngươi ôm ta lắm, ngươi ôm ta, ta nghe khoan khoái vô cùng!

    Rồi bất thình lình nàng vươn hai cánh tay tới ôm quanh cổ hắn, rồi nàng ngẩng mặt, tìm má hắn, đặt môi vào, môi cận má thì nàng im, môi rời má thì nàng cười hì hì, cười hắc hắc.

    Sau cùng nàng buông hắn ra, dang ra xa.

    Phương Bửu Nhi lúc đó chẳng rõ mình khoan khoái hay chua chát nữa, hắn ngây người nhìn nàng, dù sao thì hắn cũng cảm thấy sự cọ chạm vừa qua, môi nàng áp vào má hắn, ngực nàng ép sát ngực hắn, hơi thở nàng phều phào, nhịp tim nàng thình thịch, hắn nghe sự cọ chạm đó gây cho hắn một đê mê, một rờn rợn...

    Nàng bước đi được vài bước, dừng lại quay đầu nhìn hắn, chớp chớp mắt:

    - Ngươi câm à?

    Không câm thì còn nói gì? Chẳng lẽ bảo cho nàng biết là hắn đê mê, hắn rờn rợn, chẳng lẽ gọi nàng trở lại, tái diễn cảnh đó?

    Hắn vẫn ngây người đứng lặng.

    Nàng nói:

    - Ngươi còn thiếu mấy điều kiện nữa?

    Phương Bửu Nhi nhẩm tính, rồi đáp:

    - Bốn!

    Tiểu công chúa há miệng cười giòn, bày hai hàm răng trắng đều đặn:

    - Vậy mà ta tưởng ngươi bỗng nhiên lại câm ngay. Thì ra ngươi còn nói được. Còn nói được sao ngươi nín lặng? Ta hỏi ngươi đang nghĩ gì?

    Phương Bửu Nhi lắc đầu quầy quậy:

    - Chịu thôi? Không nói được đâu. Ai lại nói những ý nghĩ đó ra chứ.

    Tiểu công chúa hơi đỏ mặt một chút:

    - Nói! Nói! Ta muốn ngươi nói cho ta nghe? Ta nóng nghe đây?

    Phương Bửu Nhi né câu chuyện:

    - Tôi tưởng... tôi tưởng con thuyền này... đã cặp bờ, chắc trên bờ có nhiều sự lạ lùng đáng xem, nếu cô nương muốn xem...

    Tiểu công chúa sửng sốt trố mất nhìn hắn, chừng như nàng có vẻ thất vọng.

    Không rõ vì sao, nàng vụt quay lưng lại hắn, chừng như chẳng muốn nhìn thấy hắn nữa, rồi nàng cúi gầm đầu xuống chừng như nàng khóc.

    Phương Bửu Nhi vội bước tới, thấp giọng nói:

    - Cô nương... Cô nương làm sao thế!

    Tiểu công chúa cắn môi, giậm chân, không quay nhìn hắn, chỉ vẫy tay phía sau khoát khoát nói:

    - Đi đi! Dang xa ta!

    Phương Bửu Nhi dịu giọng:

    - Nói đi, cô nương nói cho tôi biết tại sao cô nương khóc?

    Tiểu công chúa căm hờn:

    - Tiểu tặc! Tiểu quỷ! Tiểu bại hoại! Ta không nói! Ta không bao giờ nói cho ngươi biết đâu. Hừ? Ta hiểu mà, vừa rồi nào có phải ngươi nghĩ ngợi về ta đâu. Ta hận ngươi! Ta chẳng nói gì với ngươi đâu!

    Nói như thế có khác nào sẽ cho hắn biết những gì nàng đang nghĩ, có điều đang lúc hận tràn lòng, nàng còn gay gắt vậy thôi, chung quy rồi nàng cũng nói. Vì hận, nàng hận vì Phương Bửu Nhi không dành trọn tâm tư nghĩ về nàng, lại nghĩ đến cái việc lên bờ xem cảnh.

    Trên bờ thì có gì đáng xem? Hắn không thích ở cạnh nàng sao, lại đề nghị lên bờ? Nàng không xứng đáng cho hắn nhìn ngắm sao, lại đòi lên bờ?

    Nàng hận như một đứa bé bị bạn lứa lờ đi để nghĩ đến chuyện gì khác. Nàng hận vì Phương Bửu Nhi không dành trọn tâm tư cho nàng.

    Nàng bị chạm tự ái.

    Phương Bửu Nhi thở dài:

    - Ai bảo là tôi không nghĩ ngợi gì về cô nương? Tôi luôn luôn nghĩ ngợi về cô nương, phút giây nào tôi cũng nghĩ đến cô nương, tôi nghĩ ngợi đến phát cuồng được đấy cô nương ơi! Nín đi, cô nương đừng khóc, đừng khóc nhé.

    Tiểu công chúa vụt quay mình lại đưa tay áo lau lệ, miệng điểm nụ cười, gằn từng tiếng:

    - Thật vậy không?

    Phương Bửu Nhi gật đầu:

    - Thật mà! Ai nói dối cô nương làm gì?

    Trong thâm tâm hắn tự trách mình:

    - Tại sao ta có thể nói như vậy được? Từ bao lâu nay, có khi nào ta nói dối lừa người đâu? Sao bây giờ ta làm được việc đó? Hừ? Thật sự thì việc lừa người chẳng tốt đẹp gì đó, song hiện tại ta chẳng còn cách nào làm khác hơn bởi ta muốn cùng nàng lên bờ, có lên bờ ta mới tìm được cơ hội thoát đi. Thì muốn trở về nhà, ta phải lừa nàng, thiết tưởng ta chẳng có lỗi gì cả. Như vậy là ta làm một việc rất hợp lý, bởi biến phải quyền, cứ cố chấp tiểu mãi thì ta phải kẹt mãi. Huống chi đó là có lừa nàng, bất quá là chỉ muốn nàng vui vẻ, cởi mở kia mà, ta có hảo ý chứ đâu phải có ác tâm đối với nàng...

    Đã có lý do tắc trách việc làm, Phương Bửu Nhi chẳng còn thắc mắc nữa.

    Hắn nhìn sang Tiểu công chúa thấy nàng ngóc đầu trên bàn tay ra chiều suy nghĩ xa xôi.

    Bỗng nàng hỏi:

    - Có thật trên bờ vui lắm không? Tạ.. ta muốn lên đó xem cho biết!

    Phương Bửu Nhi như cởi mở trong bụng, nhưng vẫn tỉnh bơ thản nhiên thốt:

    - Có lẽ vui lắm, bởi dù sao thì khung cảnh trên bờ cũng không giới hạn quá hẹp hòi như trên một con thuyền. Cô nương muốn lên đó, thì cứ lên!

    Tiểu công chúa thở dài cất giọng u buồn:

    - Mỗi năm khi thuyền cập bến, gia gia có cái lệ nghiêm cấm ta trong vòng năm mười hôm bước ra khỏi phòng dù là một bước. Hiện tại chỉ là ngày thứ ba mươi mốt, làm sao ta dám rời phòng lên bờ được?

    Phương Bửu Nhi thầm thương hại nàng, nghĩ:

    - Thì ra nàng luôn luôn bị cấm cố trên thuyền, chẳng có cơ hội lên bờ, nhìn trời cao đất rộng, thảo nào mà nàng chẳng thấy một nam nhân, ngoài gia gia nàng? Thảo nào mà nàng chẳng mù mờ thế sự, suốt ngày nàng có việc gì làm khác hơn là đọc sách, ngâm thi, rồi suy nghĩ vẩn vơ. Cho nên trong cái quẩn, nàng khó tránh mang phiền phức vào tâm hồn.

    Sống trong tịch mịch như thế, dù có ngồi trên bạc vàng cũng chẳng thú vị gì. Tưởng nên an ủi nàng một câu mà cũng vừa khuyến khích nàng, giả sử nàng chấp nhận thì hắn sẽ có dịp may, hắn dịu giọng thốt:

    - Nếu lệnh tôn cấm đoán như vậy thì chúng ta liệu cách lén lên bờ.

    Dù có bị phát giác ra, thiết tưởng cũng không phải là một tội nặng!

    Tiểu công chúa trừng mắt, trong ánh mắt của nàng có vẻ kinh khiếp vô cùng:

    - Lén? Gia gia sẽ phẫn uất, gia gia có thể chết vì sự phẫn uất đó!

    Qua khẩu khí của nàng Phương Bửu Nhi biết ngay từ bao lâu rồi, nàng chẳng hề làm điều gì trái ý thân phụ nàng. Nàng xử sự đúng theo câu áo mặc chẳng quá khỏi đầu, phận làm con, cha mẹ khiến sao hay vậy.

    Phương Bửu Nhi đưa ý kiến:

    - Lệnh tôn không hay biết thì làm sao phẫn uất?

    Tiểu công chúa lắc đầu không đáp.

    Phương Bửu Nhi nói tiếp:

    - Chúng ta len lén lên bờ, nhìn qua cảnh vật một tí, rồi xuống thuyền ngay, chúng ta sẽ thấy biết bao cái lạ, chẳng hạn liễu rủ đào hồng, chiếc cầu xinh, giòng nước nho nhỏ.

    Tiểu công chúa đảo mắt đen lay láy, ánh mắt chớp ngời, trong ánh mắt đó hiện rõ cái ý muốn liều lên bờ, sau cùng nàng cười nhẹ gật đầu:

    - Phải đấy? Gia gia không hay biết thì làm sao phẫn uất?

    Phương Bửu Nhi vuốt:

    - Tôi đã nói cô nương là con người thông minh tuyệt đỉnh, đã nghĩ đến việc gì nhất định là chu đáo lắm.

    Nghe hắn tán, Tiểu công chúa cao hứng vỗ tay nhưng vẫn làm ra vẻ thơ ngây lỏi:

    - Thật à? Ta thông minh lắm à? Hừ, ngươi dối gạt ta đó. Lúc ta lên năm tuổi, học kiếm thuật, gia gia ta thường mắng là ta ngu ngốc, rồi qua năm ta được sáu tuổi...

    Nàng kéo dài câu chuyện, cốt để nghe Phương Bửu Nhi lập đi lập lại là nàng thông minh, càng nghe hắn lán, nàng càng khoái trá.

    Phương Bửu Nhi sợ nàng nói mãi xa dần vấn đề chánh, và có khi nàng không còn thích lên bờ nữa, nên chỉ ấm ớ khen thêm mấy tiếng rồi buông gọn:

    - Chúng ta có thể qua lọt cửa trước chăng? Bọn nào canh giữ phía đó?

    Tiểu công chúa dù ngồi đấy mà nghe hắn tán tụng suốt ngày cũng chẳng chán, nghe hắn khen bâng quơ mấy tiếng, nàng tỏ rõ thất vọng ra mặt, đã thất vọng. thì còn gì cái hứng lên bờ, nàng đáp nhẹ:

    - Bên ngoài cửa có đông người lắm. Nhưng... nơi đây có một lối thông bí mật có thể theo con đường đó đi thẳng đến khách sảnh của con thuyền, mà khỏi lẩn ra lối cửa trước. Đến khách sảnh rồi ta có cách lên bờ mà không ai trông thấy.

    Phương Bửu Nhi mừng thầm thốt:

    - Vậy thì hay quá!

    Hắn trầm ngâm một chút tỏ vẻ lo ngại:

    - Nếu lệnh tôn có mặt tại khách sảnh?

    Tiểu công chúa lắc đầu:

    - Suốt ngày gia gia ở trong thư phòng, không khi nào người có mặt tại đại sảnh.

    Nàng vừa thốt vừa bước tới trước tấm gương bằng đồng. chải lại mái tóc.

    Phương Bửu Nhi giục:

    - Đi cô nương? Chúng ta nhanh lên một chút!

    Tiểu công chúa quay lại trừng mắt nhìn hắn, gắt:

    - Ít nhất ngươi cũng phải để cho ta sửa dạng lại một chút chứ! Nếu luộm thuộm quá ta còn làm sao nhìn thấy người trên bờ?

    Phượng Bửu Nhi lại tán:

    - Vậy là đẹp lắm rồi. Bình sanh tôi chưa từng thấy thiếu nữ nào đẹp bằng cô nương, dù cô nương không sửa soạn, cũng xứng đáng là đệ nhất giai nhân trong thiên hạ.

    Tiểu công chúa sáng mắt lên:

    - Thật vậy à? Tạ..

    Phương Bửu Nhi sợ nàng lại biến chứng, dần dà rồi mất cơ hội, hấp tấp gật đầu:

    - Nói thật mà, cô nương cứ tin tôi!

    Rồi hắn hỏi nhanh:

    - Lối đi bí mật ở chỗ nào đâu, cô nương?

    Tiểu công chúa đưa bàn tay trắng có ngón thon tròn chỉ bên dưới bức màn:

    - Phía dưới, bên trong bức màn đó.

    Nàng bước tới vẹt bức màn qua một bên, phía sau, quả có một lối đi hơi ăn sâu xuống lườn thuyền.

    Nàng đứng lại tại đó, quay đầu nhìn Phương Thiếu Nhi bám sát bên nàng, do dự:

    - Ta sợ quá? Tim ta bắt đầu đập mạnh rồi!

    Phương Bửu Nhi vội tìm lời trấn an nàng, rồi cả hai, theo lối đi bí mật đó tiến tới.

    Một con đường trong khoang thuyền tự nhiên không được rộng lắm, và phải khúc chiết quanh co, họ đi một lúc thì đến bậc thang.

    Tiểu công chúa khẽ thốt bên tai hắn:

    - Lên tới đầu thang, là lọt vào đại sảnh.

    Nàng với tay nắm cánh tay Phương Bửu Nhi từ từ tiến lên từng nấc thang.

    Từ lúc vào con đường bí mật, Phương Bửu Nhi hồi hộp vô cùng, càng đi tới hắn càng hồi hộp hơn, tim hắn đập mạnh, chân hắn run run cơ hồ ngã xuống.

    Đến đầu thang, Tiểu công chúa đẩy nắp ván lên chui ra. Phương Bửu Nhi chẳng chậm trễ theo liền.

    Trong con đường bí mật bóng tối dày bao nhiêu thì nơi đây sáng sủa bấy nhiêu. Tuy trong một khoang thuyền nhưng khách sảnh rộng rãi không kém tại một dinh thự nào, đủ biết con thuyền này to lớn đến đâu, có lẽ nó to hơn một tòa nhà nguy nga đồ sộ trên đất liền.

    Vào một khung cảnh lạ, Phương Bửu Nhi không còn tâm tưởng nào nhìn ngang nhìn dọc, chủ tâm của hắn là làm sao lên được đất liền, hắn vội bước đến cạnh cửa sổ nơi hông nhìn ra bên ngoài.

    Nhưng vừa lúc đó có tiếng chân người vang lên, tiếng chân càng lúc càng nghe lớn, chứng tỏ người nào đó đang tiến đến khách sảnh.

    Phương Bửu Nhi thầm kêu khổ:

    - Thế là hỏng ? Vĩnh viễn ta không còn cơ hội nào nữa rồi.

    Hắn nhìn qua Tiểu công chúa, trông thấy nàng biến sắc, mặt trắng nhợt, nàng run run giọng thốt gấp:

    - Nguy! Nguy rồi! Có người đến ? Làm sao bây giờ?

    Nàng nắm lay Phương Bửu Nhi ý chừng định lôi hắn trở lại khoảng trống chui xuống thang...

    Nhưng tiếng chân người mỗi lúc mỗi vang lên rõ rệt, nàng không còn kịp kéo Phương Bửu Nhi chui xuống, ngó quanh quẩn chợt nàng thấy nơi một góc khách sảnh có bức màn, rũ xuống sát sàn thuyền, cả hai không còn chần chờ được nữa vội nhào về phía đó, chui qua bên kia bức màn.

    Tiểu công chúa ghé sát miệng bên tai Phương Bửu Nhi thì thầm:

    - Đừng nhúc nhích! Đừng nhé! Nếu gia gia ta phát giác ra, ta sẽ khổ mà ngươi cũng chẳng an nhàn gì đâu!

    Phương Bửu Nhi bị hơi gió từ miệng nàng phào qua lỗ tai, nghe nhột nhột suýt buột miệng cười, nhưng hắn dằn lại được, khẽ gật đầu tựa lưng vào vách.

    Hắn đứng đúng một chỗ có lợi thế, nhìn được bên ngoài, nhưng muốn nhìn phải nhắm một bên mắt, nhìn bằng một bên, vì trước mặt hắn có một khe hở nhỏ.

    Bên ngoài bức màn, lúc đó một người xuất hiện có thân hình to lớn, người đó là một nữ nhân, song thân vóc lực lưỡng như một nam nhân, khom mình quét khắp mặt sàn thuyền, dù sàn thuyền đã sạch bóng.

    Quét xong, người đó lại lấy vải lau, tiếng lau nghe soàn soạt.

    Bỗng có tiếng vòng ngọc chạm vào nhau, vang bên tai hắn, hắn thầm nghĩ:

    Tiểu Linh Đang! Nàng đã đến!

    Đúng như Phương Bửu Nhi dự đoán, Tiểu Linh Đang bước vào hỏi:

    - Đã sạch sẽ chưa?

    Nữ nhân đáp:

    - Trình cô nương, đã sạch rồi!

    Nữ nhân vâng một tiếng, thu dọn chổi giẻ, rồi bước ra.

    Phương Bửu Nhi thầm kêu khổ, than khẽ:

    - Lại nguy nữa rồi? Khách đâu có khách tai hại thế! Trước không tới, sau không tới, lại chờ lúc ta có mặt tại đây mà tới! Tới đây rồi chừng nào mới rời đi?

    Đứng trong chỗ khuất, tiểu công chúa chẳng thấy gì bên ngoài bức màn, chỉ thấy Phương Bửu Nhi chăm chú nhìn qua khe hở, động tính hiếu kỳ, nàng tới gần hơn, khom mình nhìn như hắn.

    Lúc nàng ghé mắt vào khe hở, bên ngoài Linh Nhi hai tay kéo là áo cho thẳng và nhếch lên, mình hơi nghiêng tới, cất giọng cung kính thốt:

    - Chỗ tiếp khách đã lau sạch sẽ rồi, cung thỉnh Hầu Gia đến xem qua!

    Có tiếng cửa mở, cửa đóng mấy lượt, điều đó có nghĩa là có nhiều vọng cửa được mở, đóng, rồi tiếp theo đó, tiếng y phục vang lên...

    Mười sáu thiếu nữ vận cung trang, quần quét đất, tay cầm thẻ ngọc, tay cầm quạt tơ, từ từ bước vào, phân đứng hai bên.

    Kế đó, bốn thiếu nữ khác cũng vận cung trang, tay cầm dĩa vàng, ủng hộ một người vận áo màu tía, bước trên nệm gấm từ từ bước vào.

    Phương Bửu Nhi đảo mắt đủ mọi cách nhưng chẳng làm sao trông thấy mặt mày, hình dáng người áo tía, giữa bọn thiếu nữ cung trang, bất quá hắn chỉ thấy từng lõm y phục qua lỗ hổng giữa bọn thiếu nữ, chứ chẳng hề nhìn được độ nửa phần người, dù trên dù dưới.

    Tiểu công chúa vạch bàn lay Phương Bửu Nhi, dùng ngón viết vào lòng ba chữ:

    “Gia gia ta.” Phương Bửu Nhi gật đầu, hắn đang chăm chú nhìn người đó, nhưng không trông thấy gì cả, bọn thiếu nữ cung trang giăng hàng ngang, chặn tầm mắt của hắn.

    Chẳng những bọn thiếu nữ che khuất mà khi người đó vào trong đại sảnh, lại có một tấm bình phong ngăn chặn, nếu chàng cố nhếch đầu lên cao thì sợ gây nên tiếng động, còn như cúi thấp xuống bất quá chỉ thấy đôi chân.

    Chàng ước đoán, có lẽ đó là một kỳ nhân, tính hiếu kỳ, mỗi phút mỗi khích động, chẳng biết làm cách nào trông thấy rõ mặt mày được.

    Tuy nhiên, nhón cao không được, hắn lại cúi thấp cúi sát sàn thuyền, dù chẳng thấy gì nhiều, cũng thấy ít, thà có thấy còn đỡ tức hơn.

    Bên cạnh đôi chân người đó có một con mèo, nằm khoanh, lông trắng mượt.

    Hắn chỉ thấy được bao nhiêu đó thôi!

    Bỗng, có tiếng tiêu, tiếng sáo vang lên, rồi nhiều loại nhạc khí khác phụ họa, tiếng nhạc vang rền, Phương Bửu Nhi chẳng rõ phát xuất từ phía nào.

    Linh Nhi lại kéo vạt áo, nghiêng mình sát ván thuyền, kính cẩn hỏi:

    - Xin Hầu Gia cho biết có thể mở cửa được chưa?

    Bên trong bức bình phong, một giọng nói uể oải vang lên:

    - Ngươi là sứ giả tiếp khách, mọi việc tùy ngươi định liệu!

    Giọng nói tuy uể oải, nhưng hòa hoãn, dịu hiền, một giọng nói của hạng người bình sanh không hề khẩn cấp, nôn nao, bất cứ trong trường hợp nào. Giọng nói của hạng người bình tĩnh lạ.

    Không khẩn cấp, không nôn nao, tất nhiên không bao giờ quan tâm đến bất cứ sự việc gì, có lẽ trời sanh ra người đó, để hưởng đúng hai chữ vô sự.

    Linh Nhi vâng một tiếng, dập đầu lượt nữa đoạn đứng lên xoay mình bước đi.

    Phương Bửu Nhi chăm chú nhìn bên dưới tấm bình phong, bỗng thấy một bàn tay trắng như ngọc, không chút tỳ vết, hai ngón cái và trỏ kẹp đuôi một con lý ngư, cá màu vàng phản ánh với màu trắng của bàn tay, cả hai màu đều óng ánh chớp ngời.

    Rồi thì con mèo trắng muốt vươn dài mình ra, ngẩng mỏ đớp nhanh lý ngư, đớp xong cong mình khoanh tròn nơi chân của chủ nhân.

    Người vận áo tía đưa bàn tay đó, xoa xoa trên mình con mèo ra chiều quý mến nó lắm.

    Phương Bửu Nhi mục kích cảnh đó, vừa kinh hãi vừa mừng.

    Hắn kinh hãi vì lý ngư, màu vàng, một sinh vật rất quý, một con như thế trị giá ít nhất cũng trăm vàng, đắt giá như vậy mà người áo tía lại tìm cho kỳ được, chẳng tiếc rẻ gì đem cho con mèo ăn. Trên thế gian này có ai dám lấy vật trị giá trăm vàng nuôi thú? Và nuôi hằng bữa?

    Còn hắn mừng là vì chung quy rồi hắn cũng thấy được bàn tay của người đó.

    Thấy được một bàn tay, trong khi hắn mong muốn thấy toàn diện con người, kể ra cũng đủ lắm rồi, hơn là chẳng thấy gì hết.

    Lúc đó Linh Nhi đã ra khỏi cửa thuyền đứng trước mũi. Sóng nước vỗ mạn thuyền, bắn bọt tung tóe, bọt văng lên sàn thuyền. Trước mũi thuyền có ba chiếc bè, trên bè có độ mấy mươi người, cao có, thấp có, ốm mập bất đồng đang đứng thẳng người.

    Con thuyền rất lớn, lường sâu trong nước, vì sâu nên thuyền không cặp sát bờ được, từ thuyền vào bờ phải dùng bè.

    Mũi thuyền cao, bè dưới thấp, Linh Nhi đứng đó chẳng khác nào một tiên nữ hạ trần, chơi vơi nửa từng trời xanh nhìn xuống, còn người trên bè thì ngẩng mặt nhìn lên.

    Linh Nhi điểm nụ cười hòa dịu, cất tiếng hỏi:

    - Các vị đến đây, chỉ để nhìn tôi hay có ý tham kiến Hầu Gia?

    Mấy mươi người đó giật mình, chưa kịp nói gì, Linh Nhi tiếp:

    - Nếu các vị có ý tham kiến Hầu Gia, tôi xin mời tất cả lên thuyền!

    Bọn người trên bè nhao nhao, ai cũng muốn lên thuyền.

    Đột nhiên, Linh Nhi cao giọng:

    - Hãy khoan! Hầu Gia có trao tôi một bảng danh sách đây, chỉ những người nào có tên trong danh sách mới được lên thuyền, không có tên mà cứ lên, thì chừng muốn xuống bè cũng không được đâu đấy! Tôi có lời nói trước, nếu có vị nào chẳng tuân theo, lỡ có bề gì đừng trách tôi?

    Người trên bè thì thầm bàn tán.

    Có kẻ cao giọng nói:

    - Hầu Gia của cô nương vừa từ ngoài khơi cập bến, làm sao biết được những ai đến đây yết kiến mà lập bảng danh sách?

    Linh Nhi cười nhẹ:

    - Việc nhỏ mọn như vậy, làm gì Hầu Gia chúng tôi lại chẳng biết?

    Nàng lấy trong tay áo ra một mảnh giấy mỏng, buông mảnh giấy bay xuống bể.

    Người trên bè đinh ninh là thế nào mảnh giấy cũng bị gió tạt bay luôn ra biển, bất ngờ mảnh giấy như có bàn tay điều khiển, từ trên rơi xuống không chênh lệch chút nào, rơi đúng trên bè.

    Có kẻ thích chí quá reo lên:

    - Tuyệt! Tuyệt! Cô nương quả có công phu tuyệt đỉnh.

    Linh Nhi mỉm cười:

    - Các vị cứ đọc danh thiếp, ai có tên cứ tự tiện lên thuyền!

    Danh sách ghi đúng tất những người thành danh, hiện có mặt trên bè. Trong số những người hiện diện, có mặt vị thuộc hàng thông thường chẳng mấy được trọng vọng lắm, những người đó không có tên trong bảng danh sách.

    Tất cả đều lộ vẻ kinh hãi ra mặt.

    Linh Nhi trông thấy thần thái của họ, khẽ điểm một nụ cười đắc ý, ánh thu ba chớp lên, thốt:

    - Nào, xin mời những vị nào có tên trong danh sách, lên thuyền ngay.

    Nàng quay mình bước vào khoang thuyền.

    Bọn người trên bè lần lượt lên thuyền, họ gồm toàn những tay có thuật khinh công tuyệt diệu, từ dưới bè nhảy lên đáp xuống sàn thuyền, không gây một tiếng động.

    Nếu Phương Bửu Nhi có mặt tại chỗ lúc đó, hắn sẽ ức đoán là Linh Nhi đã lên bờ quan sát tình hình trước, kiểm điểm số người, hỏi rõ tên họ lai lịch rồi lập bản danh sách. Trong khi nàng làm công tác đó, gặp hắn bắt hắn mang luôn về đây, giao cho Tiểu công chúa.

    Nhưng hiện tại hắn bị kẹt sau bức màn trong đại sảnh, nên chẳng hiểu những gì đã xảy ra bên ngoài.

    Hắn nấp tại đó một lúc lâu, nghe Linh Nhi trở lại, hắn càng nép sát mặt xuống sàn thuyền, thấy hơn mười đôi bàn chân bước đều theo sau nàng.

    Những đôi bàn chân đó có hình thức bất đồng, màu và kiểu của những đôi giày cũng bất đồng luôn. Trong số đó có một cặp chân không mang giày.

    Phương Bửu Nhi lấy làm lạ, thầm nghĩ:

    - Cứ theo khí thái của Hầu gia, thì lão hẳn là một nhân vật phi thường, thế tại sao lão thỉnh số tân khách quái dị? Họ mang những kiểu giày hết sức quái đản, bình sanh ta chưa hề trông thấy.

    Linh Nhi cao giọng trình:

    - Tân khách đã đến, xin Hầu Gia phát lạc!

    Có giọng nói vừa trầm dịu vừa hòa hoãn vang lên:

    - Mời vào!

    Hai mươi đôi bàn chân từ từ bước qua Linh Nhi vượt qua cửa đại sảnh vào trong.

    Cớ kẻ mọp sát cung kính lạy, nhưng tất cả đều đứng lại không ai dám bước xa hơn ngưỡng cửa ngoài ba thước.

    Phương Bửu Nhi biết rõ những kẻ nào không lạy, hẳn phải nghiêng mình vòng tay vái chào, rồi phân ra dạt về hai bên vách đại sảnh ngồi xuống ghế đã được kê sẵn.

    Riêng có người đi chân không, từ lúc vào đại sảnh không hề dừng bước, cứ đi thẳng đến ghế ngồi xuống.

    Phương Bửu Nhi động tính hiếu kỳ muốn biết rõ dung mạo của người đó, để xem hắn là con người như thế nào lại thản nhiên đặt ngoài vòng cung cách sùng kính của tân khách dành cho Hầu gia.

    Hắn đứng lên, nhón gót, cố nhìn qua khe hở bức màn, từ bên trên đầu tấm bình phong, nhưng mười sáu nàng thiếu nữ vận cung trang, đứng thành hàng chắn ngang tầm mắt, hắn chẳng trông thấy gì cả.

    Bên ngoài Linh Nhi nhoẻn miệng cười tươi đảo nhìn quanh tân khách một lượt, đoạn cao giọng nói:

    - Các vị từ bốn phương tám hướng vượt nghìn dặm đến đây cầu kiến Hầu Gia, chắc cũng phải thỉnh giáo những điều cần thiết, chẳng hay vị nào cất tiếng trước?

    Một người đáp:

    - Bọn tại hạ, chẳng từ đường xa, đến chốn này, tức nhiên là phải có việc cần thỉnh giáo nơi Hầu Gia. Xét ra, người ở càng xa càng có việc tối quan trọng, vì quan trọng nên chẳng quản đường dài, và cũng vì cái lẽ tối quan trọng cần phải có nhiều thời gian mới trình bày cặn kẽ. Vậy những ai từ xa xôi đến nên nhường cho những vị Ở cần nói trước bởi ở gần thì khi nào đến đây cũng được, dễ đi, dễ đến, thì sự việc dù sao cũng chẳng quan trọng hơn.

    Giọng nói của người đó khó nghe vô cùng, mường tượng giọng của một con chim anh vũ nói tiếng người.

    Linh Nhi mỉm cười thốt:

    - Nếu thế vị nào ở gần mà có sự việc ít quan trọng xin lên tiếng.

    Bọn tân khách trầm lặng một lúc lâu, chưa ai chịu nói trước.

    Bỗng một người cất tiếng:

    - Các vị đã khiêm nhường thì Thiết Kim Đao tại đất Huỳnh Châu xin mạn phép thỉnh giáo Hầu Gia trước tiên!

    Câu nói buông dứt, một đại hán vận áo gấm bước ra.

    Nhờ người đó đứng lên, Phương Bửu Nhi mới trông rõ được mặt mày của y, một gương mặt ở khoảng giữa hai màu đen tím, oai khí bốc ngời, tóc và râu đều bạc nhưng thần thái trông còn cường tráng lắm.

    Tay cầm một chiếc hộp bằng gỗ đàn hương màu tím, hông giắt đao dài, vỏ đao có nạm ngọc chiếu sáng ngời.

    Phương Bửu Nhi nào biết Thiết Kim Đao là nhân vật ra sao, song nhìn vào phong độ của lão, hắn cho rằng lão không kém ông ngoại hắn là Thanh Bình Kiếm Khách, hắn không khỏi ngưỡng mộ thầm.

    Linh Nhi nhìn lão hỏi:

    - Thiết đại hiệp có biết quy củ của Hầu Gia chăng?

    Thiết Kim Đao nghiêng mình đáp:

    - Tại hạ có biết. Xin cô nương đừng xưng hô tại hạ như thế làm tại hạ áy náy quá.

    Linh Nhi điểm một nụ cười:

    - Với thanh kim đao đó, lúc thiếu thời Thiết anh hùng từng hạ sáu mươi bảy tướng cướp tại vừng Xuyên Ngạc thì hai tiếng đại hiệp nghĩ cũng thích đáng lắm chứ? Huống chi gần đây thanh danh nổi dậy như sấm rền tai, có thể bảo là công thành nghiệp tựu. Hôm nay đến đây chẳng hay Thiết đại hiệp có điều chi cần nhờ Hầu Gia giải quyết?

    Nàng nhấn mạnh:

    - Đã biết quy củ của Hầu Gia rồi, Thiết đại hiệp cứ trình lễ vật cho Hầu Gia xem đi!

    Thấy một thiếu nữ tuổi chưa tròn hai mươi lại biết được những hành động trong quá khứ xa xôi, không khỏi giật mình kinh hãi, lão kính cẩn nghiêng mình thốt:

    - Tuân lệnh!

    Đoạn lão hạ chiếc hộp bằng gỗ đàn hương xuống.

    Tiếng là hộp, nhưng nó cũng khá to, bằng một chiếc rương nhỏ, lão mở nắp ra, kiểm điểm lại một lượt, rồi hai tay nâng cao.

    Mọi người đều nghĩ là trong chiếc hộp đó phải có kỳ trân dị bửu, nhưng chiếc hộp chỉ đựng mấy quyển kinh, sách, giấy đã ngả màu vàng.

    Lão cung kính thốt:

    - Vãn bối chẳng có vật gì quý giá, chỉ có pho Phật Kinh của Vương Hy Chí xin mạo muội cung kiến Hầu Gia!

    Phương Bửu Nhi là con mọt sách, hắn thừa hiểu pho Phật Kinh của Vương Hy Chí bình chú là một pho sách quý giá vô cùng trên thế gian này không có một trân bửu nào sánh bằng, hắn giật mình, thầm hỏi lão ấy tìm đâu ra một pho sách quý, dâng lên cho gia gia tiểu công chúa.

    Giữa Hầu Gia và tân khách có tấm bình phong chắn ngang từ bên trong có tiếng trầm trầm dịu dịu vọng ra:

    - Thật vất vả cho ngươi quá. Linh Nhi hãy thu nhận đi.

    Giọng nói hết sức thản nhiên, chẳng biểu lộ một chút gì xúc động, chừng như vật báu do Thiết Kim Đao vừa cống hiến chẳng có giá trị gì đối với Hầu Gia cả. Phàm con người dù chẳng có tánh tham, thấy được một vật báu vô giá trên đời, cũng không tránh được phần nào xúc động, hoặc phải tặc lưỡi, hoặc phải trố mắt hoặc buột miệng khen, thái độ có ít nhiều dao động. Nhưng vị Hầu Gia này chẳng mảy may chú ý. Nghĩ cũng kỳ!

    Linh Nhi đưa tay tiếp lấy chiếc hộp, mỉm cười:

    - Hầu Gia đã chấp nhận lễ vật rồi, Thiết đại hiệp có gì xin cứ nói!

    Thiết Kim Đao lộ vẻ mừng, lại nghiêng mình kính cẩn hơn bao giờ hết.

    Lão suy nghĩ một chút rồi trấn tĩnh:

    - Bảy mươi năm trước đây, tại đất Huỳnh Châu, có nhóm Ngọa Hổ Đao, tại đất Tín dương, do nhóm Bàn Long Câu, cả hai nhóm cùng quật khởi một lượt trên giang hồ, người đương thời xưng là Ngọa Hổ Bàn Long Đao Câu Song Hùng oai phong chấn dội, đanh dự chói lòa... Nhưng...

    Linh Nhi cười nhẹ, chặn lại:

    - Nên vắn tắt một tí, Hầu Gia còn nghe nhiều người khác nữa mà thời giờ không thể kéo dài cho cuộc tiếp xúc này. Tránh những sự khoa trương rườm rà là hơn!

    Thiết Kim Đao thoáng đỏ mặt, đằng hắng một tiếng tiếp nối:

    - Trong mấy mươi năm qua, hai nhóm đối xử với nhau hết sức thuận hòa, từng đi lại thân mật với nhau, mãi đến thời gian gần đây, cách độ mười bảy năm, lúc Hàn nhất Câu tiếp thọ quyền điều khiển Bàn Long Môn, tình thế từ từ đổi khác, Hàn Nhất Câu cho rằng cái danh hiệu Bàn Long Môn phải đứng trước danh hiệu Ngọc Hổ, muốn vãn bối phải sửa lối xưng hô do giang hồ tặng từ trước, nếu không thì giữa hai môn phái có một cuộc quyết đấu để phân định tài nghệ song phương hầu điều chỉnh thứ tự của danh hiệu. Cuộc quyết đấu phải được khai diễn trước mặt quần hùng võ lâm, cho tất cả cao thủ giang hồ chứng kiến với tư cách trọng tài.

    Linh Nhi lại mỉm cười:

    - Cái danh hiệu đứng trước hoặc đứng sau có thêm lợi lộc hay mất mát gì chăng?

    Thiết Kim Đao thở đài:

    - Thực tế thì... cô nương nói có lý, song dù sao cũng hơi chạm vào tự ái con người, cô nương ạ? Nhường trên nhịn dưới nào phải là việc dễ làm, khi việc đó có liên quan đến danh dự! Cho nên...

    Lão dừng lại một chúi, câu nói hướng về Hầu Gia:

    - Vãn bối bắt buộc phải nhận cuộc đấu, chọn một khoảng đất trống ngoài thành Tích Dương làm chiến trường, và hào kiệt bốn phương tiếp được tin tức, cũng kéo về tấp nập, tạo nên cảnh nhiệt náo phi thường. Trong cuộc đấu đó đến chiêu thứ bảy trăm hai mươi, vãn bối bị Hàn Nhất Câu đánh trúng một câu...

    Linh Nhi vẫn giữ nụ cười mai mỉa:

    - Do đó Thiết đại hiệp hận? Hận vì bất phục Hàn Nhất Câu nên hẹn năm sau tái đấu?

    Thiết Kim Đao thở dài:

    - Cô nương đoán chẳng sai. Tại hạ tịnh dưỡng tròn năm thương tích lành, công lực khôi phục, cuộc tái đấu lại khai diễn, vẫn tại địa điểm cũ, vẫn số khán giả của năm qua, có tăng cường quan trọng với số người hiếu kỳ, chưa được chứng kiến kỳ đấu trước. Khung cảnh nhiệt náo hơn mấy phần. Tại hạ quyết phục thù nên dốc toàn lực, cùng Hàn Nhất Câu tử chiến. Qua hơn mấy trăm chiêu, cuộc chiến càng khai diễn, lại hạ càng thấy mình chiếm ưu thế dần dần, cái chuyện tất thắng hầu như cầm trong tay. Nhưng đến chiêu thứ bảy trăm hai mươi, như năm xưa, Hàn Nhất Câu đột nhiên phóng chiêu câu sang, dùng y thủ pháp xưa, đánh tại hạ trọng thương cũng y chỗ cũ...

    Linh Nhi cười nhẹ:

    - Thiết đại hiệp lại bại, bại đến hai lần song vẫn bất phục lại hẹn sang năm tái đấu, một cuộc đấu thứ ba?

    Thiết Kim Đao đáp:

    - Lần thứ hai đó, tại hạ bị thương nặng hơn lần trước, tại hạ phải tịnh dưỡng trong một thời gian rất lâu, mãi đến năm thứ năm cuộc tái đấu mới khai diễn để rồi... để rồi...

    Linh Nhi lại cười:

    - Để rồi đại hiệp thủ bại luôn?

    Thiết Kim đao lộ vẻ thẹn, trong vẻ thẹn có ẩn vẻ bi phẫn, lão ngửa mặt lên trần thuyền, thở dài:

    - Bại là cái chắc rồi, song lại bại với một chiêu câu duy nhất đó, y như hai lần trước.

    Linh Nhi có phần nào kinh dị, nhìn sửng lão:

    - Đại hiệp có võ công như vậy, lại hai lân thủ bại trước một chiêu duy nhất, thế chẳng rút được kinh nghiệm, tìm cách hóa giải độc chiêu của địch sao? Có ai lại giao đấu đến ba bốn lượt lại để mãi bị địch dùng một chiêu thức đánh bại? Ít nhất mình cũng đề phòng tránh né chứ?

    Thiết Kim Đao trầm ngâm một lúc đoạn thở dài:

    - Tại hạ làm gì không biết được điều đó hở cô nương? Tại hạ nghiên cứu tuyệt chiêu của họ Hàn, ngay sau lần thảm bại đầu tiên, tại hạ cũng có thỉnh hơn mười bằng hữu trong võ lâm quan sát cuộc chiến để nhận định chiêu thức đó góp ý trong việc nghiên cứu của tại hạ, nhưng...

    Lão trầm gương mặt lộ vẻ tuyệt vọng tiếp:

    - Bao nhiêu công trình đều cầm như dã tràng se cát lấp biển đông, chẳng một ai phát giác được một điều gì hữu ích!

    Lão mơ màng, tiếp:

    - Nếu đã thấy được chiêu câu của họ Hàn xuất phát như thế thì...

    Linh Nhi nói:

    - Rồi trong lần tái đấu thứ tư?

    Thiết Kim Đao trầm giọng:

    - Trong cuộc tái đấu lần thứ tư, tại hạ hết sức lưu tâm đề phòng, vả lại với công phu khổ luyện qua bảy năm dài, võ thuật của tại hạ phải có ít nhiều tiến bộ, song...

    Lão khẽ giậm chân, rồi lão cúi thấp đầu!

    Linh Nhi thốt:

    - Đại hiệp cũng bại luôn? Đại hiệp sẽ tái đấu lần thứ năm, đại hiệp nhất định làm mọi cách để thắng được Hàn Nhất Câu trong lân tái đấu sau cùng. Muốn thắng họ Hàn, phải biết cách hóa giải tuyệt chiêu đó, mà hiện tại thì đại hiệp chưa biết cách hóa giải! Và chưa biết cách nên tìm đến đây thỉnh giáo Hầu Giạ..

    Nàng dừng lại một chút rồi tiếp:

    - Nhưng chiêu đó Hầu Gia chưa hề trông thấy...

    Thiết Kim Đao hấp tấp đáp:.

    - Tại hạ có ghi chú chiêu đó rất kỹ, cùng bộ vị của lối xuất thủ, thời gian xuất phát, phương hướng, giác độ, hiện tại tại hạ có thể biểu diễn cho Hầu Gia xem!

    Linh Nhi thở dài:

    - Đã biết rành như vậy mà không nghĩ ra cách hóa giải, thiết tưởng chiêu câu đó lợi hại đến đâu!

    Thiết Kim Đao cố tất trách cái kém của mình:

    - Chiêu câu đó, hình thức thì chẳng có gì đáng chú ý, song chỗ lợi hại tiềm ẩn bên trong, nhất là lúc chiêu câu biến ảo, chính bọn tại hạ cố tìm hiểu sự biến ảo đó, mà chẳng ai tìm ra, thành thử tại hạ chuốc thảm bại mãi..... Lão rút kim đao bên mình cầm tay, nói:

    - Tại hạ tạm mượn đao thay câu xin diễn lại chiêu câu của họ Hàn, cho Hầu Gia duyệt lãm.

    Rồi lão múa đao, diễn tả lại chiêu câu từng gây thảm bại cho lão.

    Phương Bửu Nhi lắng nghe cuộc đối thoại bên ngoài, hắn giật mình nhận ra âm thanh của lão già có cái tên là Thiết Kim Đao, quá quen thuộc với hắn, âm thanh đó giống hệt âm thanh của Hồ Bất Sầu. Nhưng hắn không triền miên suy nghĩ lâu được, tiếng động bên ngoài làm hắn chú ý, hắn lại lắng tai cố tìm khe hở nhìn rạ..

    Một tràng cười sang sảng vang lên, tiếp theo là một câu nói oang oang:

    - Như vậy thì có gì tuyệt diệu, có gì lợi hại đâu. Một trẻ nít lên ba trong gia đình ta cũng thừa khả năng múa may như thế!

    Câu nói buông dứt, tràng cười kế tiếp liền, tràng cười đầy ngạo nghễ.

    Thiết Kim Đao phẫn nộ, dừng tay đao, cao giọng:

    - Chính Thiết tôi phải thảm bại đúng bốn lượt trước chiêu thức độc nhất đó, vậy mà bằng hữu cho rằng là một trò múa rối của trẻ con.

    Thiết tôi muốn thỉnh giáo bằng hữu...

    Người vừa cười vừa thốt, lại bật cười, rồi thốt:

    - Được! Được! Các hạ không nói, tại hạ cũng muốn chỉ giáo như thường. Thảm bại trước một chiêu quá thông thường như vậy, nghĩ cũng lạ, nếu không thể bảo là các hạ còn kém hết sức!

    Từ một góc gian thuyền, một bóng người đứng lên, bóng đó nhún chân định vọt ra khoảng trống trước mặt Linh Nhi.

    Nhưng liền lúc đó, một người khác vọt theo nắm bóng trước lại.

    Nhờ họ vọt lên cao, Phương Bửu Nhi trông thấy được, song thân pháp của họ quá nhanh, hắn cũng chẳng nhận định rõ ràng, đến y phục của họ thế nào hắn cũng chẳng nhận thức được.

    Rồi giọng nói như giọng anh vũ nối tiếp người trước đó lại vang lên:

    - Đây là quý địa của Tử Y Hầu, nếu lão huynh phóng túng hành động như vậy tất không tránh khỏi bị quở trách. Mà đã bị quở trách rồi, lão huynh còn mong vọng gì thỉnh cầu nơi người? Thành ra cái chuyến đi của lão huynh cầm như vô ích. Hãy trầm khí một chút.

    Một tràng cười tiếp nối như loạt tiếng ngựa hí, liền thco đó. một câu nói vang lên:

    - Phải! Phải! Tiểu đệ xin vâng lời. Tiểu đệ chẳng dám buông lung ngông cuồng nữa!

    Phương Bửu Nhi buồn cười quá, hắn muốn nhìn tận mắt con người đó, xem y có hình dáng như thế nào, nhưng hắn làm sao thực hiện ý muốn đó được? Nhỏng mình lên cao là lộ hẳn hình tích rồi, người ta có khi nào để yên cho hắn đâu?

    Thiết Kim Đao dằn cơn phẫn nộ, không thốt lên tiếng nào.

    Bên trong bức bình phong, Tử Y Hầu thong thả cất tiếng, hòa hoãn như lúc nào:

    - Chiêu thức đó có cái tên là Càn Khôn Phá Thiên, một chiêu thức phát nguyên từ một chiêu kiếm thời thượng cổ, biến đổi dần dần, để tiện dụng trong câu pháp, xem thì chẳng có gì siêu việt, xong rất khó hóa giải.

    Hầu Gia gọi:

    - Châu Nhi đâu, ngươi có học qua đao pháp, câu pháp hãy bước ra chỉ điểm cho hắn!

    Chừng như nói một câu dài, thành mệt, Hầu Gia dừng lại nghỉ xả hơi. Có lẽ bình sanh lão chưa hề nói một câu dài như thế.

    Từ sau bình phong, một tiếng vâng dịu dàng đáp lại lịnh Hầu Gia, rồi một thiếu nữ vận cung trang yểu điệu bước ra, trên mái tóc đen huyền những hạt châu kết thành vòng chớp sáng.

    Thiết Kim Đao thấy Hầu Gia nhận thức chiêu câu mà y bị bại dễ dàng như nhìn vào bàn tay, y không khỏi sợ hãi, càng sợ hãi y càng khâm phục sức học uyên thâm của Hầu Gia, y định mở miệng tán một câu, nhưng lúc thảng thốt, y chẳng tìm được lời nào xứng đáng, cũng vừa lúc đó, một thiếu nữ xuất hiện dáng dấp yếu đuối lừng chừng không chịu nổi một cơn gió nhẹ thoảng qua!

    Thấy thiếu nữ ẻo lả quá, Thiết Kim Đao thất vọng vô cùng. Một con người bạc nhược như vậy làm gì có đủ sở năng chỉ điểm cho y?

    Y thầm nghĩ:

    - Ta đã đem chiêu thức đó hỏi khắp anh hùng hào kiệt trên sông hồ, chẳng một ai giải thích nổi, thì một thiếu nữ với ngần tuổi đó, với thân vóc đó thì làm gì lãnh hội được chỗ huyền diệu câu pháp và đao pháp mà hòng chỉ điểm ta? Hay là Hầu gia định đùa ta? Lừa ta?

    Nhìn qua thần sắc của Thiết Kim Đao, Châu Nhi đã biết y đang nghĩ gì rồi, nàng cười nhẹ, đưa tay nắm cánh tay y lay mạnh:

    - Đi theo ta!

    Thiết Kim Đao dĩ nhiên dù muốn dù không cũng phải đi theo nàng.

    Không phải vì lễ độ mà vì nàng lôi y quá mạnh, tường chừng y có cưỡng lại cũng không xong.

    Đến lúc đó y mới nhận ra, dù thân hình bạc nhược, thiếu nữ có một công lực thâm hậu vô cùng, có công lực đó hẳn nhiên nàng phải hoài bão một võ công trác tuyệt.

    Sau Thiết Kim Đao là bọn Tư Đồ Thanh, Thích Trường Lâm, Đoàn Ngọc Từ Tả Xa và Vũ Nhất Bình năm người lần lượt cùng hiến lễ vật.

    Năm người đó là những nhân vật thượng đỉnh trong võ lâm hiện đại.

    Họ từ nghìn dặm đến đây, vất vả vô cùng, tất nhiên sở cầu của họ phải quan trọng lắm, và sở cầu quan trọng thì lễ vật phải quan trọng.

    Tử Y Hầu bằng một câu năm bảy tiếng, cởi mở thắc mắc của họ dễ dàng, lão không lưu ý đến giá trị của lễ vật, chừng như sự cống hiến lễ vật là một nghi thức được đặt ra để chứng tỏ sự tôn quý của lão, và sự kính ngưỡng của người cầu cạnh vậy thôi.

    Nhưng có ai dám xem thường nghi thức đó? Cho nên ai cũng cố tìm vật quý để hiến dâng, mong làm đẹp lòng Hầu Gia.

    Đó cũng là một lối thông thường của hạng người cầu cạnh, ai ai cũng muốn được trọng vọng hơn, được ưu đãi hơn...

    Khi năm người đó đều lui lại, thì Thiết Kim Đao bước ra, mặt lộ niềm hân hoan rõ rệt. Y hướng về bức hình phong, quỳ xuống gật đầu ba lượt.

    Linh Nhi cười nhẹ:

    - Ngươi đã thỏa mãn rồi chứ.

    Lần này nàng không gọi y là đại hiệp nữa, nàng giở cái giọng cao của kẻ tùy bậc đại quý lên mặt với bọn người cầu cạnh.

    Thiết Kim Đao cung kính thốt:

    - Một cuộc đàm thoại với Châu Nhi cô nương trong mấy phút, cầm bằng ba mươi năm khổ luyện, tại hạ thu thập được kết quả phi thường, dĩ nhiên phải thỏa mãn. Chẳng biết...

    Hầu Gia từ trong bức bình phong thốt vọng ra:

    - Chẳng có gì khó khăn! Hiện tại ngươi đã học qua cách hóa giải chiêu câu rồi, hãy trở về đi!

    Đúng là Hầu Gia không muốn cho y nói tiếp, bởi Hầu Gia biết rõ, y sẽ tán tụng, chứ chẳng có gì lạ phải nghe.

    Thiết Kim Đao lại cúi đầu ba lượt nữa, vâng một tràng lớn đoạn bước ra ngoài.

    Linh Nhi dõng dạc gọi:

    - Vị nào muốn kế tiếp, xin bước ra!

    Một giọng nói khàn khàn vang lên:

    - Hãy nhường cho con ngựa đó hí trước!

    Phương Bửu Nhi giật mình!

    Hắn nhận ra ngay người vừa thốt lên câu nói mỉa mai đó không ai khác hơn là Mộc Lang Quân!

    Mộc Lang Quân đã đến đây, như vậy thì vị Tử Y Hầu chính là Ngũ Sắc Phàm thuyền chủ.

    Và như vậy, Hồ Bất Sáu đại thúc của hắn cũng phải đến đây. Song hiện tại có mặt Hồ Bất Sầu trong số người bên ngoài đó chăng?

    Nếu có thì hắn làm sao xuất hiện để hội kiến?

    Hắn vừa sợ, vừa mừng lại vừa giận.

    Bên ngoài, người bị Mộc Lang Quân gọi là ngựa, sôi giận hét to:

    - Mộc lão đầu, ngươi ám chỉ ta?

    Mộc Lang Quân điềm nhiên:

    - Ngươi có ăn cỏ chăng?

    Linh Nhi đưa tay che nĩiệng cười khúckhích.

    Người bị gọi là ngựa lại hét lớn hơn:

    - Còn ngươi, ngươi ăn... ngươi ăn..... Bình sanh y chẳng hề chịu khuất phục trước một ai, hiện tại bị hạ nhục trước đông người, nhưng tại địa điểm này, y còn làm gì hơn? Dù vậy y quát:

    - Ngươi có giỏi cứ bước ra!

    Tiếp theo câu nói, một bóng người vọt ra khỏi đám đông.

    Người đó có thân hình quá ốm, quá cao, lưng gù, gương mặt quá dài, dài bằng ba bốn gương mặt thường, mũi to, mũi chênh lên đang lúc giận, hai cánh phập phồng, đúng là mũi ngựa thở hồng hộc qua đoạn đường dài.

    Gọi lão là ngựa, dù có hàm cái ý khôi hài mai mỉa, thật cũng đúng quá!

    Phương Bửu Nhi định bụng, thế nào Mộc Lang Quân cũng mắng y như tát nước vào mặt, hắn chờ nghe, hắn thích thú, cơ hồ bật cười thành tiếng.

    Mộc Lang Quân cười lạnh:

    - Nơi đây là đâu, ngươi có biết chăng, lại toan sanh sự?

    Người mặt ngựa vươn hai cánh tay ra, tiếng xương cốt kêu răn rắc, gằn từng tiếng:

    - Ngươi không bước ra, ta sẽ chụp ngươi quăng ra cho xem!

    Y xòe mười ngón tay, từ từ bước tới.

    Phương Bửu Nhi thầm nghĩ:

    - Họ định đánh nhau tại đây? Tử Y Hầu có thể để yên cho họ được sao?

    Nghĩ vậy, hắn vẫn hy vọng họ đánh nhau, để được xem một trận khoái mắt.

    Bỗng hắn thấy mắt mình hoa lên, có một vầng sáng màu vàng, tròn tròn, ngăn trước mặt người mặt ngựa.

    Hắn nhìn kỹ, nhận ra vầng sáng tròn tròn đó là một người vừa lùn vừa mập, đầu đội chiếc mão vàng, vận áo dài cũng màu vàng, dung mạo cực kỳ cổ quái.

    Đội mão vàng, mặc áo vàng, tất nhiên y phải thuộc hạng giàu có, nhưng giàu có mà lại chẳng có vẻ sung sướng thư thái tí nào cả, gương mặt y đượm nét u buồn.

    Phương Bửu Nhi cười thầm:

    - Hắn suốt ngày mang niềm tâm sự nặng nề, con người lo âu sầu muộn như vậy lại mập mạp được kể cũng lạ!

    Người mặc áo vàng từ từ thốt:

    - Người ta tranh trước thì có, ai lại giành sau? Thật bình sanh ta chưa hề thấy một người nào như lão huynh. Mình hãy nói chuyện với nhau một lúc đi!....

    Người mặt ngựa hằn học:

    - Nhưng Mộc lão đầu...

    Người áo vàng chận lại:

    - Lão huynh hận lão Mộc? Hận tức là thù, quân tử phục thù chờ đến ba năm cũng chưa gọi là muộn. Nếu lão huynh muốn phục thù, còn thiếu chi ngày, tại sao lại phải hành động ngay hôm nay? Đúng vậy không?

    Đúng không hở lão huynh?

    Sau bức bình phong, Tử Y Hầu bỗng thở dài:

    - Linh Nhi, nếu hai kẻ đó còn tranh chấp nữa, ngươi hãy lôi chúng đi đi, đổi lấy rượu ngon vào đây cho ta.

    Linh Nhi vâng một tiếng rồi co gập người lại mà cười.

    Thoạt đầu Phương. Bửu Nhi không hiểu tại sao nàng cười thích như thế, đột nhiên hắn nhớ đến câu thơ của Lý Bạch:

    Ngũ Hoa Mã Thiên Kim Cừu Hô Nhi tương xuất, hoán mỹ tửu...

    Ngựa năm sắc hoa, áo ngàn vàng, đúng là hai gã đang lý luận bên ngoài. Hắn bất giác cao hứng quá, nhưng kịp dằn cơn cười nôn, vì dằn gấp, thành tức bụng một chút.

    Hắn nhìn lại, thấy tiểu công chúa bò lăn dưới sàn thuyền mà cười, nàng cười đến đỏ cả mặt mày.

    Người áo vàng không cười, không giận, chỉnh sắc mặt thốt:

    - Bọn chúng tôi xa từ thành Đại Uyển đến đây, quân hầu có thể đem đổi rượu được sao?

    Linh Nhi vừa cười, vừa đáp:

    - Được lắm! Được lắm! Các ngươi từ xứ lạ đến đây, có lễ vật gì, hãy trình xem, có thắc mắc gì, hãy bày tỏ ngay, cho Hầu gia giải quyết.

    Phương Bửu Nhi thức ngộ ngay, vì cả hai không phải là người Trung Nguyên, nên có tướng mạo khác thường. Nhưng, đã là người khác nước, họ đến đây để thỉnh cầu sự gì?

    Người áo vàng ung dung đưa tay vào mình lấy ra một vuông khăn bằng lụa trắng có lấm tấm như hoa đào, đỏ như máu.

    Phương Bửu Nhi cau mày, thầm hỏi:

    - Vật gì quái lạ thế?

    Linh Nhi nhìn chiếc khăn, cau mày hỏi:

    - Vật gì thế?

    Người áo vàng đáp:

    - Xứ Đại Uyển của tại hạ từng sản xuất loại ngựa quý, chính Hán vũ Đế ngày xưa thân bút phê cho là Thiên Mã. Chiếc khăn này có điểm lấm tấm như hoa đào, là dấu mồ hôi máu của loài ngựa đó. Vị quốc chủ của tại hạ, sai tại hạ đưa đến đây ba cặp ngựa, đủ đực cái, cống hiến Hầu gia.

    Phương Bửu Nhi từng đọc Hán sử, biết rõ việc đó, xứ Đại Uyển có loại ngựa quý, mồ hôi đỏ như máu, người địa phương gọi là Hãn huyết bửu mã, tuy hắn chưa thấy ngựa như thế nào, hắn vẫn cho là một lễ vật đáng giá lắm.

    Linh Nhi cười nhẹ:

    - Không ngờ vị quốc chủ xứ Đại Uyển lại có việc cần phải thỉnh cầu nơi Hầu gia! Nhưng ngựa hiện giờ ở đâu? Chẳng lẽ ngươi chỉ xuất chiếu mấy giọt mồ hôi ngựa như vậy là đủ?

    Người áo vàng tiếp:

    - Lão huynh nói Hán ngữ thông thạo, có thể đáp thay cho ta được chăng?

    Dĩ nhiên, câu đó phải hướng về người mặt ngựa.

    Người mặt ngựa không đợi đến lần thứ hai, đáp liền:

    - Ba cặp ngựa hiện tại ở nơi bờ biển, do mười tám dũng sĩ bảo thủ, bất cứ phút giây nào cũng có thể đưa đến đây.

    Y đưa tay chỉ người áo vàng, tiếp:

    - Vị này là Cam Tôn, chức đệ tam quốc sư tại Đại Uyển, sở dĩ bọn tại hạ đến đây, trước hết vì quốc chủ của bọn tại hạ hết lòng ngưỡng mộ kiếm pháp của Hầu gia, mang lễ vật kết thân, sau đó thỉnh Hầu gia sang Đại Uyển, đương nhậm chức vị Đệ nhất Quốc sư, rất cao, chỉ kém Quốc chủ thôi. Thiết tưởng Hầu giạ..

    Đột nhiên, Tử y Hầu hừ một tiếng, chận lời:

    - Nghe giọng nói của ngươi, ta độ chừng ngươi là người Hán?

    Giọng nói của lão khác hẳn các lần trước.

    Người mặt ngựa định ưỡn thẳng ngực, song lưng gù thì còn ưỡn ngực làm sao thẳng? Y cố lấy dáng kiêu hãnh đáp:

    - Tại hạ vốn là người Hán, thọ ân lớn của Quốc chủ Đại Uyển, thành ra về với Quốc chủ...

    Tử y Hầu không hừ nữa, mà lại quát, tuy tiếng quát chưa hẳn là to, vẫn tỏ lộ sự bất mãn rõ rệt:

    - Ta không ngờ, là dòng dõi của Hoàng Đế, Hiên Viên, ngươi lại vong bội căn cội phủ nhận tổ tông, thật cái tâm của ngươi đáng bỉ vô cùng! Thật cái hạnh của ngươi đáng miệt vô cùng! Có giết chết ngươi, ngươi cũng chưa rửa được sỉ nhục đó! Nếu ngươi không là tân khách của ta hôm nay, ta lấy thủ cấp ngươi ngay! Lần sau, đừng để ta thấy mặt ngươi! Còn gặp ta là ngươi phải táng mạng đấy!

    Đang dương dương tự đắc, người mặt ngựa bị mắng như tát nước vào mặt, thẹn quám sắc diện tái xanh.

    Phương Bửu Nhi cao hứng vô cùng. Nếu không bị ràng buộc trong cảnh khó, hắn chẳng ngần ngại vỗ tay reo lên, hắn thầm nghĩ:

    - Tử y Hầu đúng là con người biết trọng đại nghĩa! Lão có đầy đủ khí tiết, đáng mặt anh hùng, một bậc đại anh hùng! Nếu mỗi phần tử trong toàn dân đều có khí tiết như lão thì có lo gì bờ cõi chẳng mở mang, nước chẳng giàu, dân chẳng mạnh, uy tín quốc gia chẳng được bảo tồn?

    Người áo vàng xuất mồ hôi hạn, đẫm ướt đầu, ướt trán, rung rung giọng ấp úng:

    - Nhưng... Hãn Huyết bảo mã...

    Tử y Hầu sôi giận:

    - Ngươi cho ta là một nhân vật như thế nào? Về mà báo trình lại với quốc chủ ngươi, đừng nói là ba cặp ngựa, dù cho ba ngàn cặp, ba vạn cặp, cũng chẳng nên mong ta đến Đại Uyển đâu!

    Người áo vàng mặt vàng như đất:

    - Việc ấy... việc ấy...

    Đột nhiên, một người mặc áo dài trắng, tóc vàng, đôi mắt xanh biếc từ trong đám đông vọt ra ngoài, tuy khoảng cách từ chỗ đứng đến cục trường chẳng xa lắm, song người đó vẫn biểu diễn một thân pháp cực kỳ ngụy dị, đã ngụy dị tức nhiên tuyệt diệu.

    Người đó bật cười ha hả, cao giọng thốt:

    - Tử y Hầu lấy mặt biển làm giang san, có cần dùng ngựa làm gì?

    Ngươi đem ngựa đến dâng, là làm một việc không hợp lý. Không hợp lý, thì lui lại, nhường cho ta hiến dâng vật hợp lý hơn!

    Người đó, nói tiếng Hán rất rành, nhưng giọng nói rất khó nghe.

    Người đó, nói được một câu bằng tiếng Hán, ra chiều đắc ý lắm, càng đắc ý hơn nữa là y tưởng câu nói đó, những người hiện diện tại cục trường đều hiểu rõ, y lại cười, cười mấy tiếng rồi tiếp:

    - Tôi, từ Lỗ Sỉ, An Tức, đến đây, mang theo lễ vật gồm... gồm... của đại vương... đại vương...

    Lỗ Sỉ, An Tức, là những địa danh thuộc xứ Ba Tư ngày nay, như vậy người đó không phải Hán tộc rồi. Tự nhiên, dù hiểu tiếng Hán, y chẳng thể phát âm đúng giọng được.

    Y muốn xưng mình là sứ thần của đại vương quốc gia y, song chỉ nói lên được hai tiếng đại vương, rồi không biết tiếp nối làm sao nữa, đành ấp úng, bỏ dở...

    Phương Bửu Nhi biết rõ như vậy, hắn thấy thương hại cho y mang một sứ mạng nơi mình, không đủ ngôn ngữ để diễn tả sự tình, nghĩ cũng khổ, hắn muốn thay y, giải thích hộ, song làm sao ra được bên ngoài mà chen vào việc của thiên hạ?

    Y ngưng bặt câu nói dở chừng, khiến toàn thể anh hùng hiện diện thì thầm, bàn tán, điều đó làm cho y thêm bối rối hơn.

    Chợt một người khác, cũng áo trắng, tóc vàng, trang phục theo người Ba Tư, có thân pháp cũng ngụy dị, tuyệt diệu như người trước, vượt đám đông xuất hiện tại cục trường, cao giọng thốt:

    - Chính ta đây mới thực sự là sứ thần của đại vương, ngươi là cái quái gì, từ đâu đến, lại dám mạo...

    Giọng nói của người này cũng khó nghe vô cùng, song dù sao thì y vẫn nói thoát được hai tiếng sứ thần, kể ra còn tiến bộ hơn người trước.

    Người trước thoáng biến sắc:

    - Ngươi? Ngươi là ai? Ngươi từ đâu đến?

    Người sau cười mỉa:

    - Ta là ai, từ đâu đến? Ta đã nói rồi, ta là sứ thần của đại vương, dĩ nhiên phải từ Lỗ sĩ An Tức mà đến. Ta đến hiến dâng lễ vật cho Hầu gia.

    Y vỗ tay kêu bộp một tiếng.

    Bốn gã áo trắng tóc vàng khiêng một chiếc rương to đi vào.

    Người trước tức quá, dùng Hán ngữ không đủ tả ý tứ, y bật tiếng Ba tư với người sau. Người sau khoát khoát tay, không dùng tiếng Ba tư, mà chỉ dùng tiếng Hán đáp lại, cốt cho những người Hán tại cục trường biết:

    - Đừng! Đừng! Trước mặt người Hán, chúng ta không nên nói quốc ngữ, như vậy là vô lễ, khiếm nhã! Người ta có thể bảo mình nói xấu họ đấy!

    Người trước vừa bối rối, vừa khẩn trương, dậm chân thình thịch xuống sàn thuyền:

    - Lễ vật, do ta mang đến đây, ta là sứ thần, ngươi chẳng phải...

    Người sau bĩu môi:

    - Chính ta mới thực sự là sứ thần, ngươi chẳng phải là sứ thần!

    Rồi cả hai cãi vã với nhau, càng phút càng hăng, những người hiện diện lại được một dịp cười vỡ bụng.

    Ngoài họ ra, chỉ có trời mới biết kẻ nào thật là sứ thần, kẻ nào là giả sứ thần! Nhưng, ai giả, ai thực, điều đó có quan hệ gì với đám đông, gặp việc khôi hài, họ cứ cười, cười bằng thích, chẳng ai cấm mà cũng chẳng ai đòi tiền mà sợ!

    Linh Nhi bực, hét to:

    - Hầu gia của ta suýt bị các ngươi làm nhức đầu đấy, muốn tranh luận, cứ lui ra một góc mà tranh luận, khi nào ra lẽ rồi, vào đây mà trình!

    Người Ba Tư sau gật đầu:

    - Phải! Phải!

    Y đưa tay nắm người trước, lôi đến một góc, rồi tiếp tục cãi.

    Người trước cứ giậm chân, cứ lắc đầu, cứ gân cổ cãi, nhưng y không hoạt bát bằng người kia.

    Bỗng, y nghe nhói ở nơi sườn, rồi toàn thân mềm nhũn, mất cả tự chủ, tuy nhiên, y chưa ngã xuống.

    Người Ba Tư sau cười nhẹ:

    - Khá lắm, vậy là ngươi biết mình sai quấy, không cãi nữa, có thế mới được chứ! Thôi, cứ ngồi đấy mà nghỉ!

    Y đưa tay xô nhẹ, người trước sụm xuống, ngay trên chiếc ghế trừng mắt nhìn, môi mấp máy song không thốt được tiếng nào.

    Bên trong bức bình phong, Tử y Hầu thốt vọng ra:

    - Ngựa hí, chim kêu, thật làm phiền phức quá! Hãy cho người nào đó, thật sự nói tiếng người, ra trình bày sở cầu đi!

    Linh Nhi đưa mắt sang Mộc Lang Quân, điểm phớt nụ cười, hỏi:

    - Ngươi có nói được tiếng người chăng?

    Mộc Lang Quân đứng thẳng người lên, tay ôm một bọc khá lớn, bước tới, cất tiếng:

    - Hôm nay đã có đủ dân các nước Đại Uyển, An Tức, Thân Độc, Giao Chỉ đồng đến đây, như vậy chứng tỏ thinh danh của Hầu gia vang dội khắp bốn biển năm hồ, họ có những kỳ trân, dị bảo cung hiến Hầu gia, còn tại ha..... thì dù sao cũng chằng so sánh được với họ, cho nên lễ vật của tại hạ chẳng có gì đáng giá lắm, chỉ bằng vào một tấc lòng thành, mong Hầu gia châm chế cho tại hạ.

    Linh Nhi cười nhẹ:

    - Đúng là tiếng người rồi! Nghe được rồi! Ngươi cứ tiếp đi!

    Mộc Lang Quân mở chiếc bọc ra, những vật trong bọc chiếu sáng ngời ánh sáng bắn vào mặt lão, gương mặt bình thường mường tượng vỏ cây, giò đây lại càng giống gỗ vô tưởng.

    Phương Bửu Nhi trông thấy lão, lửa giận phừng lên trong tâm, tuy chẳng làm gì được lão, hắn cứ bĩu môi, tỏ vẻ khinh bỉ như thường, mặc dù những biểu lộ đó chỉ để cho mỗi một mình hắn biết.

    Mộc Lang Quân tự nhiên không trông thấy hắn, lão chăm chú vào sự việc của lão:

    - Tại hạ là Mộc Lang Quân, từ Đông Phương Thanh Mộc Cung đến đây, gia phụ là Mộc Vương...

    Tử y Hầu từ từ thốt:

    - Không cần phải nương tựa vào oai phong của gia tộc, ngươi đến đây, là ta biết lai lịch ngươi rồi, khỏi kê khai rườm rà.

    Mộc Lang Quân tiếp:

    - Hôm trước đây, gia phụ bất cẩn, bị yêu nữ Bạch Thủy cung đánh trọng thương toàn thân gần như nát bấy, võ công gần như tiêu tán, những danh y trên giang hồ đều thúc thủ, không phương cứu chữa.

    Trong thiên hạ ngày nay, chỉ có Hầu gia là có thể ban phúc đức cho gia phụ, bởi loại thuốc quý Đại Phong cao của Hầu gia có hiệu dụng chữa trị thương thế đó, cho nên tại hạ không quản ngàn dặm, tìm đến đây, bái kiến Hầu gia, cầu mong Hầu gia đoái thương, cứu một mạng người! Tại hạ xin cung hiến trân bảo của tệ cung.

    Tử y Hầu cười thành tiếng:

    - Chủ nhân Thanh mộc cung, ngày trước là lãnh tụ của lục lâm hắc đạo toàn quốc, bổn hầu chỉ sợ những trân bảo đó chẳng phải là vật của Thanh Mộc cung.

    Không là vật của Thanh Mộc cung, tức nhiên là vật cướp đoạt trên giang hồ, mà vật cướp đoạt có giá trị gì, đối với một người thanh bạch truyền gia? Vật có trọng, là do người có hạnh cao đức trọng, chính Hầu gia muốn nhấn mạnh ở điểm đó.

    Mộc Lang Quân không phiền gì câu nói đó, điềm nhiên tiếp:

    - Vô luận như thế nào, tại hạ cầu mong Hầu gia xét cho cái tâm thành của tại hạ.

    Còn ai biết thần sắc của lão có vì một câu nói mà biến cải đâu bởi gương mặt lão là gương mặt gỗ, do đó, lão có vẻ điềm nhiên như thường.

    Tử y Hầu từ từ thốt:

    - Ngươi cũng có lý! Việc này nghĩ chẳng có khăn gì...

    Bỗng, một người cất tiếng oang oang:

    - Không được! Không! Việc đó, khó khăn lắm chứ!....

    Buông xong câu nói, người đó vượt đám đông bước ra.

    Người đó, chẳng phải ai xa lạ, chính là tên Ba tư sau cùng, đã chế ngự xong tên kia, trở lại.

    Mộc Lang Quân sôi giận:

    - Tên man di, dị tộc kia, dám buông lung dã tánh, chen vào việc người?

    Tên Ba tư không lưu ý đến Mộc lang Quân, hướng thẳng bức bình phong thốt vọng vào Tử y Hầu:

    - Chúng tôi trình diện trước, thỉnh cầu trước, Hầu gia phải cứu xét trước, hoặc chấp thuận sở cầu, hoặc từ khước, cho rõ rệt thái độ đối với chúng tôi, rồi sau đó mới định đoạt việc của người khác!

    Y nói rành Hán ngữ, nói đủ nghĩa, song âm thanh khó nghe quá, thành chói lỗ tai của mọi người.

    Mộc Lang Quân hừ một tiếng:

    - Tại sao phải nghe ngươi trước rồi mới đến lượt ta sau? Ngươi có quyền gì tranh phần ưu tiên?

    Linh Nhi từng nghe người Ba tư có thủ công vô cùng tinh xảo, muốn xem y mang những lễ vật gì cống hiến Hầu gia, vội cười đáp thay y:

    - Hãy để cho y trình bày đi, y ở xa, y có nói trước cũng là hợp lý, còn ngươi nên chờ một tý, chẳng việc gì phải gấp!

    Mộc Lang Quân chẳng còn biết làm sao hơn, đành hừ một tiếng rồi lùi lại sau.

    Tên Ba tư vỗ tay, bọn tùy sai của y mang đến chiếc rương thứ nhất.

    Y mỉm cười thốt:

    - Nơi này, Hầu gia bày trí chẳng khác gì một thiên cung, nhưng còn thiếu một vật!

    Linh Nhi trố mắt:

    Vật gì?

    Tên Ba tư mở chiếc rương ra, lấy một tấm thảm trải nền, bảo kẻ tùy sai căng rộng.

    Đúng là một tấm thảm quý, màu sắc huy hoàng, không rõ cấu tạo bằng chất liệu gì. Với tấm thảm đó, gian đại sảnh biến đổi trạng thái ngay, trước đó cũng huy hoàng, cũng tráng lệ, song chỉ là cái huy hoàng tráng lệ thông thường trong những khung cảnh giàu sang, hiện tại rực rỡ hơn mấy phần, vừa tân kỳ, vừa cao quý...

    Trên mặt thảm, có bức đồ ghi lại cuộc hành lạc trong hậu cung, quanh cuộc hành lạc đó, có trên trăm người, người nào cũng giống như sống. Đặc biệt nhất là thần tình của mỗi người mỗi khác, nam thì hoặc say khướt, hoặc đang nâng chén, hoặc đang ôm mỹ nữ trong lòng, có kẻ giương mắt nhìn một đám vũ nữ đang hiến tuyệt nghệ.

    Còn nữ nhân thì người nào cũng đẹp như tiên nữ, yểu điệu, dịu dàng, người nào cũng lồ lộ phong tư tình tứ.

    Tất cả những người có mặt tại gian đại sảnh đều trố mắt, há mồm nhìn.

    Đến Tử y Hầu cũng buột miệng thở dài:

    - Người tại địa phương An Tức quả có thủ công tinh diệu quán thế!

    Tên Ba Tư từ từ thốt:

    - Tại nước tôi, nghề dệt thảm này truyền từ đời cha đến đời con, bất tuyệt, mỗi nhà đều có bí quyết riêng, tấm thảm này do đại vương của nước tôi tập hợp những người từng nổi tiếng trong nghề, cộng tất cả độ hai trăm thợ khéo, ngày đêm dệt nên, tổn phí phỏng hàng ngàn vạn, phải mất ba năm mới xong. Tôi dám quả quyết, dưới gầm trời này, chỉ có tấm thảm đó thôi, một tấm thảm duy nhất tự cổ chí kim!

    Y cao giọng tiếp nối:

    - Nếu Hầu gia dùng tấm thảm này, trải trên nền khách sảnh, hoặc một nơi nào đó, thì còn gì bằng?

    Linh Nhi khích động rõ rệt:

    - Ngươi mang vật quý đến đây, vậy sở cầu của ngươi như thế nào?

    Tên Ba tư cười đắc ý:

    - Tuy vậy, tấm thảm đó chưa phải là vật quý, so với mấy món sau.

    Y lại vỗ tay. Bọn tùy sai khuân vào chiếc rương thứ hai.

    Mọi người đều công nhận tấm thảm là vật báu vô song, lại nghe y cho rằng chưa quý bằng những món khác, bất giác, động tính hiếu kỳ, trố mắt nhìn chiếc rương thứ hai, chờ xem trong đó có vật gì.

    Nhưng Tử y Hầu đã thốt:

    - Ngươi hãy nói sở cầu cho ta biết đi, còn vật gì thì hãy thư thả mà trình ra.

    Tên Ba Tư mỉm cười:

    - Hầu gia sợ rằng sở cầu của tệ quốc giống như sở cầu của nước Đại Uyển chăng, nên chẳng dám nhìn đến các báu vật khác, nhìn rồi động tâm, khó từ chối chăng?

    Tử y Hầu điềm nhiên:

    - Ngươi khá thông minh đấy!

    Tên Ba Tư tiếp:

    - Hầu gia có đại nghĩa vì dân tộc như thế, còn ai chẳng kính trọng?

    Nhưng xin Hầu gia yên trí, việc tệ quốc thỉnh cầu, không khó khăn gì, bất quá, mong Hầu gia, trong vòng ba năm thôi, đừng bao giờ cấp cho bất kỳ ai, loại thuốc quý Đại Phong cao!

    Từ An Tức đến đây, vượt hàng ngàn dặm đường, mang lễ vật quý báu, chỉ để thỉnh cầu một việc như thế, đơn giản như thế, không làm hao phí mảy may công lục, tâm trí của Hầu gia, khiến cho mọi người lấy làm lạ.

    Tên Ba Tư trước, hiển nhiên đã bị tên sau điểm huyệt, tuy bất động song vẫn nghe lọt những gì tên sau trình bày, bất giác gân xanh nổi vồng khắp trán, khắp mặt, biến gương mặt y thành xanh dờn, gương mặt càng xanh, mắt y càng mở to, mặt xanh nhưng mắt đỏ, chừng như tóe lửa.

    Nhưng chẳng phải một mình y sôi giận, Mộc Lang Quân cũng sôi giận, có lẽ còn cao độ hơn y:

    - Quái vật nào ở đâu, dám đến đây toan phá hòng việc của ta?

    Linh Nhi đã kịp thời ngăn chặn lão:

    - Hầu gia chưa đáp ứng thỉnh nguyện của hắn kia mà? Ngươi nóng nảy làm chi? Cứ xem chiếc rương kia chứa đựng vật gì trước, rồi hãy đề cập đến việc khác.

    Mộc Lang Quân hằn học:

    - Nhưng..... Linh Nhi trầm gương mặt:

    - Giả sử Hầu gia đáp ứng hắn, liệu ngươi có ngăn trở được chăng?

    Mộc Lang Quân biết rõ, nàng thích xem vật gì trong chiếc rương nên có giọng nói đó, chứ chẳng phải ác ý gì đối với bên nào, che chở bên nào, song lão không khỏi tức uất. Rồi lão nghĩ, tức uất cũng chẳng làm gì được ai, thành lão dằn lòng, day qua tên Ba Tư gằn giọng:

    - Ngươi đợi chừng nào mới mở rương ra?

    Tên Ba Tư đáp nhanh:

    - Mở liền! Liền bây giờ.

    Câu giục đó, đáng lý Mộc Lang Quân để cho Linh Nhi mới phải, vì lão nóng quá, muốn cho việc xuất trình báu vật chóng qua, để còn nghĩ đến việc khác, nên hớt trước mà hối thúc tên Ba Tư.

    Nắp rương vừa hé lên, một điệu nhạc du dương từ trong phát ra, kế tiếp, một gã lùn, cao không quá ba thước, tay cầm đàn năm dây, nhảy vọt ra ngoài, vừa ra khỏi rương là nhào lộn trên sàn thuyền, nhào đến trước tấm bình phong, đứng lại, dạo đàn liền.

    Gã lùn trông như một trẻ nít, nhưng gương mặt giống kẻ trưởng thành, mọi người đều kinh dị, không ngờ một chiếc rương có thể chứa được người.




    Ủng hộ BLH Vì một sân chơi mới, vì một Bàn Long Hội mới :oe76:
     
  5. biglove

    biglove Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/7/11
    Bài viết:
    9,835
    Được thích:
    14,144
    Ân Thù Kiếm Lục

    Tác Giả:Cổ Long

    -- o --

    HỒI 5: Buồm Gấm Hứng Phong Ba


    Nguồn: vietkiem.com




    Gã lùn ra khỏi rương rồi, mọi người chỉ tưởng là trong ấy chẳng còn gì nữa, bất ngờ một bàn tay ló lên, bàn tay đó trắng như ngọc, năm ngón no tròn như búp măng, bàn tay lên cao, cổ tay bày rõ, tròn trắng như ngọc ngà, nơi cổ tay có xâu lục lạc vàng.

    Bàn tay đó, cổ tay đó phải là của một mỹ nhân, đúng như vậy, vì người trong rương đứng lên trước sự kinh ngạc của toàn thể tân khách.

    Một tiếng “Ạ” vang lên, sau đó đại sảnh chìm trong im lặng, đến cánh ruồi lướt qua, người ta cũng có thể nghe lọt.

    Người trong rương là một thiếu nữ có sắc đẹp mê hồn.

    Dùng danh từ mỹ nhân gán cho thiếu nữ cũng chưa diễn tả đúng cái nhan sắc của nàng. Không một bộ phận nào trong người nàng có mang một khuyết điểm nhỏ nhặt, chừng như tạo hóa đã dồn cả tinh hoa của vạn vật hun đúc riêng cho nàng, duy nhất nàng thôi!

    Người Trung Nguyên có suối tóc đen huyền, nhưng mỹ nhân ớ đây có suối tóc vàng dài quá gối.

    Đừng nói bọn khách nam trông thấy phải bạt vía tiêu hồn, đến cả những khách nữ nhân nhìn nàng cũng phải say mệ..

    Phương Bửu Nhi còn nhỏ tuổi chưa biết ái tình là gì, nhìn mỹ nhân đến xuất thần một lúc lâu, hắn lắc đầu nghĩ thầm:

    - Dân di dịch lại có người đẹp tuyệt trần như thế thật là lạ!

    Thiếu nữ vận y phục bằng lụa mỏng nàng gần như trần truồng, do đó thân hình nàng toa? ra một sức hấp dẫn vô tưởng...

    Nàng ra khỏi rương, bước đến gần gã lùn, theo nhịp đàn múa một điệu lạ, tay cử động khua vang lục lạc, tiếng lục lạc hòa với giọng đàn tạo thành một khúc nhạc vừa quái dị vừa tuyệt vời...

    Phương Bửu Nhi trố mắt theo dõi từng cử động của thiếu nữ, lắng tai nghe từng cung đàn, hắn suýt buột miệng tán, song tiểu công chúa đã nhanh tay bụm miệng hắn. Còn tay kia nàng chụp tay hắn dùng ngón vẽ vào lòng mấy chữ:

    “Không cho ngươi nhìn!” Một lúc lâu nàng lại vẽ tiếp mấy chữ:

    “Tiện nữ đó trơ trẽn quá!” Trơ trẽn? Tại sao trơ trẽn chứ? Người ta đến đây cốt để biểu diễn tài nghệ, mong làm vui lòng gia gia nàng, cái nghiệp đã sử nhiên, không làm không được, tại sao lại trơ trẽn? Đã trơ trẽn thì ai bảo nàng nhìn?

    Tiếng đàn càng lúc càng du dương, tuy chẳng nhìn được thiếu nữ múa, Phương Bửu Nhi vẫn nghe. Bàn tay của tiểu công chúa đưa lên miệng lên mắt hắn, rồi từ mắt hắn xuống miệng. Nàng thấy hắn mấp môi là hạ tay xuống bụm miệng liền, nếu hắn ngậm miệng lại nàng đưa nhanh tay lên che mắt hắn.

    Hắn căm hận, nghĩ nếu chẳng sợ gây náo động thì hắn đã cắn mạnh vào bàn tay nàng.

    Rồi tiếng đàn dứt, vũ điệu ngừng, tiếng lục lạc ngừng theo. Qua lớp y phục mỏng, tân khách nhìn rõ từng hạt mồ hôi điểm sáng trên mình thiếu nữ chẳng khác nào ngọc dát vào người.

    Nàng ngừng vũ, mà mọi người còn mê mẩn ngây ngất, thần hồn như còn phiêu phưởng tìm dư hưởng êm dịu trong không gian...

    Tên Ba Tư điểm một nụ cười:

    - Đây là đệ nhất mỹ nữ tại tệ quốc, nhan sắc vô cùng, ngoài ra còn...

    Y cười, y không dứt câu tròn ý. Y không nói tiếp, nhưng nam nhân thừa hiểu nếu nói tiếp y sẽ nói như thế nào, và ai ai cũng biểu lộ sự đồng tình với ý nghĩ úp mở của y.

    Nữ nhân cũng hiểu như vậy, nhưng khác hơn nam nhân là họ chẳng biểu đồng tình, bởi họ đố kỵ. Có nữ nhân nào thấy kẻ đồng đồng phái đẹp hơn mình, có nhiều điểm hơn mình lại chẳng đố kỵ?

    Trong số nữ nhân đố kỵ, chẳng biểu đồng tình hiện tại có Linh Nhi, nàng cười lạnh gằn giọng:

    - Có gì đặc biệt đâu?

    Phưởng Bửu Nhi thầm nghĩ:

    - Ganh rồi! Qúa ganh nên phủ nhận cả những cái diệu của người!

    Tên Ba Tư cũng biết vậy, tuy nhiên y không giận, trái lại bật cười khanh khách:

    - Cô nương nói cũng có lý, dù có phần nào ganh tài kỵ sắc. Nhưng thiết tưởng nếu hoa khôi của tệ quốc không có giá trị gì thì trên thế gian này, vị tất có một mỹ nhân nào đáng được Quân Hầu ghé mắt?

    Tử Y Hầu chưa kịp nói gì, Linh Nhi lạnh giọng tiếp:

    - Nếu cho nàng ấy là tuyệt sắc giai nhân thì dưới gầm trời này ai cũng được gọi là mỹ nữ cả. Nếu vậy giai nhân quá nhiều, còn gì trọng giá nữa? Đừng nói đâu xa, bọn chị em ta đây, có ai xấu xí kém nàng ấy chăng? Hà huống chị em ta vừa đọc sách vừa làm được thi từ, ca phú, vừa biết đàn, biết hát, biết vũ, lại tinh luyện võ công, ngoài ra lại thông minh vô tưởng, chỉ nhìn thoáng qua kẻ nào là hiểu rõ tâm ý của kẻ đó.

    Chị em ta thừa khéo léo cùng bằng hữu đối ẩm, luận đàm, liệu bọn thiếu nữ di dịch của ngươi có sánh được chăng?

    Mộc Lang Quân nghe lòng nở hoa rộ lên, lão nghĩ:

    - Hay quá, ta khỏi cần phải xuất thủ rồi! Sở nguyện của tên Ba Tư này chắc chắn là chẳng được Hầu Gia chấp nhận!

    Tên Ba Tư cười nhẹ, từ từ thốt:

    - Cô nương lại có lý một lần nữa. Người dù đẹp đến đâu mà nếu thiếu vị tâm tình, thì có khác gì một pho tượng vô tri giác?

    Linh Nhi bĩu môi:

    - Ngươi khá thông minh đó. Hãy dẹp sự khoa trương hoa khôi của ngươi lại đi!

    Tên Ba Tư suy nghĩ một chút:

    - Nếu tại hạ tìm được một người đủ những đặc điểm như cô nương vừa kê khai đó, thì cô nương nghĩ sao?

    Linh Nhi bật cười sằng sặc:

    - Làm gì tìm được? Ngươi tưởng dễ lắm sao chứ? Mà chừng nào ngươi mới đi tìm?

    Tên Ba Tư điềm nhiên:

    - Đi đâu làm chi cho phí công hở cô nương?

    Linh Nhi trố mắt:

    - Nghĩa là sao? Ngươi phịa?

    Tên Ba Tư lắc đầu:

    - Có gan to bằng trời cũng chẳng dám phịa trước mặt Hầu Gia! Mỹ nhân đầy đủ đặc điểm như cô nương vừa nói ở ngay đây!

    Linh nhi vụt cười lớn:

    - Ngay tại đây? Từ thiên cung rơi xuống hẳn? Từ địa phủ vọt lên chăng?

    Tên Ba Tư thản nhiên:

    - Từ thủy cung đến, và đã đến từ lâu. Y cười nhẹ, từ từ cởi bỏ chiếc áo ngoài, bày ra một bộ y phục màu tuyệt đẹp bên trong, y phục đó cũng mỏng như y phục thiếu nữ đẹp, thành ra thân hình y cũng phô rõ những đường cong như thiếu nữ, những đường cong nảy nở tự nhiên hoàn toàn.

    Mọi người đều kinh hãi, suýt nhảy dựng lên, tất cả trố mắt nhìn y, trong khi y thản nhiên đưa tay lên đầu gỡ mớ tóc giả bỏ đi, mớ tóc thật bày ra đen huyền óng ả, rồi bàn tay đó lại vuốt mặt, chiếc nạ da người xấu xí rớt theo Hiện tại tên Ba Tư đã biến thân một trang tuyệt thế giai nhân có phần mặn mà, hấp dẫn hơn thiếu nữ tóc vàng.

    Một sự kiện hiện ra, trên chỗ tưởng tượng của mọi người. Trời!

    Trên thế gian sao lại có người đẹp lạ lùng như thế?

    Người kinh hãi hơn hết chính là Phương Bửu Nhi, hắn nằm mộng cũng không tưởng nổi là tên Ba Tư lại là một nữ nhân đẹp tuyệt trần, và nữ nhân đó lại chính là Thủy Thiên Cơ.

    Bất giác hắn rú lên một tiếng khẽ.

    May cho hắn, tiếng rú của hắn phát xuất đồng thời với câu nói của Linh Nhi, bởi nàng cũng nhận ra Thủy Thiên Cơ và nàng kinh hãi chẳng kém hắn:

    - Ngươi... ngươi là vợ sồn sồn của hắn à?

    Mộc Lang Quân thét lên một tiếng lớn, nhún chân nhảy vọt lên không quát:

    - Ta chỉ tưởng kẻ nào to gan đến khuấy sự việc của ta, thì ra là ngươi!

    Thủy Thiên Cơ hướng mắt sang lão:

    - Ngươi mạnh giỏi chứ?

    Hỏi xong nàng bật cười.

    Mộc Lang Quân hét:

    - Mạnh! Mạnh giỏi lắm. Vì mạnh giỏi nên chỉ tưởng phải giết ngươi, thoát bớt nhựa sống ứ dồn trong người ta.

    Lão nhoài người tới, hai cánh tay vươn mười ngón tay khô đét chụp vào yết hầu của Thủy Thiên Cơ.

    Thủy Thiên Cơ vẫn giữ nụ cười duyên dáng, không hề nhúc nhích thân hình, nhẹ nhàng hỏi:

    - Ai dám gây án mạng tại chốn này?

    Tử Y Hầu cũng trầm giọng quát:

    - Ai dám gây án mạng tại chốn này?

    Một người khác cũng buột miệng hỏi:

    - Ai dám gây án mạng tại chốn này?

    Một câu nói do ba người khác nhau, ba giọng nói khác nhau, một giọng dịu hiền, một giọng gây oai khí còn một giọng thì đầy mỉa mai thách thức!

    Ba giọng nói gần như phát ra cùng một lượt nhưng Mộc Lang Quân chỉ chú trọng tới giọng nói của Tử Y Hầu thôi, lão chẳng thể không rút tay về.

    Vừa lúc đó, một người đầu trọc, chân không, vận áo gai, da đen như sắt, từ từ tách đám đông bước ra. Đầu trọc, tức nhiên người đó là tăng nhân.

    Tử Y Hầu trông thấy người đó hỏi liền:

    - Đại sư có phải là Dà Tinh Pháp Vương từ Thiên Trúc đến?

    Giọng nói của Hầu Già có phần nào xúc động, chứng tỏ Hầu Gia xem trọng sự có mặt của nhà sư hơn bất cứ sự có mặt của nhân vật nào đây.

    Tất cả hào kiệt nam cũng như nữ quy tụ tại đây đều xanh mặt.

    Dù chưa diện kiến lần nào, ít nhất cũng có nghe nói đến con người có pháp hiệu Dà Tinh Pháp Vương đang đứng sừng sững trước mắt ho.....

    Đại sư tuy ở Thiên Trúc, song võ lâm Trung Nguyên từng truyền thuyết về lão. Lão có nội công cực cao, lão còn luyện được một bí thuật Du Dà trong Phật Môn Mật Tông, xuống nước bảy ngày không chết, chôn sống nửa tháng không chết, chân không đi trên than hồng lửa đỏ không cháy.

    Thiên hạ võ lâm Trung Nguyên xem Dà Tinh Pháp Vương như một nhân vật thần thoại, luyện thành một thân Kim Cương Bất Hoại, một con người mà trên thế gian chẳng ai chế ngự nổi.

    Hiện tại người đó đã có mặt tại đây, khiến ai cũng kinh hoàng, khủng khiếp dù nhà sư không tìm họ để gây sự.

    Dà Tinh Pháp Vương day qua Mộc Lang Quân gằn giọng:

    - Đi ra đi!

    Sợ Dà Tinh Pháp Vương đành rồi nhưng không thể để cho bất kỳ ai chà đạp tự ái của lão, Mộc Lang Quân ít nhất cũng phải giữ thể diện trước quần hùng, đâu phải ai muốn đuổi lão ra khỏi nơi này cũng được?

    Lão trừng mắt nhìn Dà Tinh Pháp Vương:

    - Ngươi dựa vào oai lực gì mà dám đuổi ta ra khỏi chốn này?

    Thủy Thiên Cơ cười nhẹ chen vào:

    - Pháp Vương đã bảo ngươi cút đi, ngươi cãi lịnh sẽ khổ cho thân ngươi chứ chẳng ích gì, hãy đi đi, đi mau đi!

    Giọng nói rất nhẹ nhàng, nhưng hàm chứa một niềm khiêu khích làm cho Mộc Lang Quân càng sôi giận hơn.

    Lão chưa kịp có một phản ứng gì, Dà Tinh Pháp Vương nhanh như chớp vươn tay dùng lưng bàn tay quạt nhẹ vào mặt lão.

    Thủ pháp của đại sư nhanh, Mộc Lang Quân cũng đưa tay nhanh đón cái tát đó.

    Nhưng cánh tay của Dà Tinh Pháp Vương dường như chẳng có xương, chạm phải cánh tay cửa Mộc Lang Quân uốn lại nửa vòng cung, bàn tay vẫn ngoặc xuống, tát trúng gò má hữu của lão như thường.

    Tay chạm vào má, dù tiếng chạm khô khan đến đâu cũng là tiếng da thịt chạm da thịt, nhưng ở đây, tiếng chạm nghe “Cạch”, chẳng khác nào tát vào gỗ.

    Dĩ nhiên cái tát đó không làm Mộc Lang Quân đau đớn gì, vậy mà lão thấy khổ vô cùng, bởi lão hổ thẹn, bởi danh dự của lão bị tát trước mặt quần hùng.

    Kinh hãi vì thủ pháp tuyệt diệu của Dà Tinh đại sư, sôi giận vì mất danh dự, Mộc Lang Quân hét lên một tiếng nhào tới đại sư.

    Trong thoáng mắt, lão xuất phát đúng bảy chiêu, toàn là những chiêu tuyệt độc, ảo diệu vô cùng.

    Nhưng bảy chiêu qua rồi, một tiếng cạch khác vang lên, lão hứng thêm một cái tát nữa lên má tả.

    Trong võ lâm hiện tại có năm ma cung phân theo ngũ hành, Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ, chủ nhân mỗi cung luyện một môn công kỳ diệu, trong giang hồ không ai dám trêu vào năm ma cung đó.

    Đông Phương Thanh Mộc Cung do cha con Mộc Lang Quân điều khiển, chuyên luyện Khô Mộc Công, có đấu pháp vô cùng quái dị, thân thể họ gần như trở thành vô cảm giác, không một loại độc, không một công lực nào gây thương tổn cho họ nổi. Ở đây Dà Tinh Pháp Vương cũng biết vậy, song lão vẫn tát tay chẳng qua cốt ý hạ nhục đối phương thôi, chứ sát hại thì nhà sư chưa có thể làm. Với thân phận là người thừa kế ngôi vị cung chủ Đông Phương Thanh Mộc Cung, bị hạ nhục như vậy, Mộc Lang Quân tức uất người lên được.

    Nhưng tức để làm gì, khi tự lượng sức mình biết rõ không làm sao thắng nổi đối phương!

    Mộc Lang Quân nhanh như chớp vọt mình ra khỏi cửa gian đại sảnh, chạy thẳng đến mũi thuyền, nhảy ùm xuống nước.

    Nghe tiếng nước vang lên, Thủy Thiên Cơ mỉm cười, thốt bâng quơ:

    - Đánh nhau không thủ thắng nổi, lại nhảy xuống nước tự tử.

    Dà Tinh Pháp Vương trầm giọng:

    - Nhất định hắn chẳng khi nào bỏ qua việc hôm nay đâu. Hắn sẽ trù mưu liệu kế, quyết rửa hận. Nữ đàn việt từ đây phải cẩn thận cho lắm.

    Thủy Thiên Cơ nghiêng mình:

    - Đa tạ Pháp Vương chỉ giáo!

    Phương Bửu Nhi bên trong bức màn cười thầm nghĩ:

    - Luận về mưu kế thì Mộc Lang Quân còn lâu mới lừa được Thủy Thiên Cơ vào tròng. Hòa thượng khéo dư công lo sợ cho mụ! Rồi hắn lại nghĩ:

    - Mụ ta đã theo dõi bọn Ba Tư này từ lâu nên hiểu sự việc của chúng quá rõ ràng, chẳng ai khám phá nổi kế hoạch của nàng cả. Xem đó đủ biết dù ngàn năm sau nữa Mộc Lang Quân cũng chẳng theo kịp nàng. Lão ấy chỉ còn mang tức uất đến suốt đời thôi, mong gì báo hận?

    Dà Tinh Pháp vương hướng thẳng về phía Tử Y Hầu, lấy ra xâu chuỗi bằng gỗ đàn hương đưa cao lên:

    - Bần tăng ở xa xôi chẳng có vật gì quý giá cung hiến Hầu Gia, phải tạm dụng vật này, mong Hầu Gia không từ khước.

    Tử Y Hầu thốt:

    - Đa tạ đại sư!

    Rồi lão gọi:

    - Linh Nhi hãy tiếp nhận tặng vật của đại sư đi!

    Linh Nhi vừa đưa tay dón lấy xâu chuỗi đàn hương, vừa cười nhẹ:

    - Pháp vương là bậc kỳ nhân trên đời này, có việc gì mà chẳng làm nổi, lại còn đến đây thỉnh Hầu Gia giải quyết hộ?

    Dà Tinh đại sư thản nhiên:

    - Vậy mà vẫn có việc nhờ đến Hầu Gia!

    Tử Y Hầu nói:

    - Chẳng hay đại sư có việc chi cần chỉ giáo?

    Dà Tinh đại sư tiếp:

    - Bình sanh bần tăng giao thiệp với người đời chỉ có thắng chứ không bao giờ bại. Do đó hôm nay đến đây hy vọng được đấu với tay đệ nhất kiếm khách để nếm mùi thất bại như thế nào?

    Không ai tưởng là lão quái tăng từ Thiên Trúc đến đây không thỉnh cầu điều gì có lợi cho mình lại xin giao đấu. Phàm giao đấu với Tử Y Hầu là giỡn với tử thần, lợi đã không có, hại lại ở bên cạnh mình, nếu không có sự tự tin vững chắc, hẳn phải ngông cuồng. Người nào cũng trố mắt nhìn lão.

    Hồ Bất Sầu cau mày thầm nghĩ:

    - Lại có một cuộc đánh nhau! Đánh! Lúc nào cũng đánh, luôn luôn đánh nhau. Cứu cánh của bọn võ lâm là thế!

    Tử Y Hầu cười nhẹ:

    - Tại hạ đã bỏ phế võ công từ lâu lắm rồi, đâu còn là địch thủ của đại sư nữa mà hòng giao đấu? Nếu đại sư muốn nếm mùi thất bại thì đúng là đại sư chọn lầm người.

    Dà Tinh đại sư lạnh lùng:

    - Hầu Gia khiêm tốn quá! Ở đây tuy cục diện không rộng lắm, song vẫn vừa cho hai chúng ta so tài, xin Hầu Gia cho bần tăng lãnh giáo mấy chiêu đi!

    Tử Y Hầu điềm nhiên điểm một nụ cười:

    - Hơn hai mươi năm qua tại hạ không cùng người đời giao thủ. Hơn nữa đại sư là khách từ xa đến tại hạ là chủ, nếu động thủ thì còn đạo lý gì nữa?

    Dà Tinh đại sư gằn giọng:

    - Bần tăng không quản đường xa vạn dặm tìm đến đây, chẳng lẽ Hầu Gia lại để cho bần tăng thất vọng?

    Tử Y Hầu lắc đầu:

    - Chịu thôi, đại sư ạ ? Tại hạ không thể vâng theo ý muốn của đại sư được!

    Dà Tinh đại sư thoáng biến sắc mặt trầm giọng hỏi:

    - Hầu Gia khinh thường bần tăng? Bần tăng là kẻ vô danh bất tài không đủ tư cách cho Hầu Gia động thủ?

    Tử Y Hầu lấc đầu:

    - Không đâu, không làm gì có việc đó thưa đại sư? Lý do như thế nào lại hạ đã phân trần rồi, đại sư hãy lượng xét cho, đừng bức người phải làm cái việc khó làm.

    Dà Tinh đại sư trầm ngâm một lúc lâu, đoạn từ từ thốt:

    - Bần tăng nào dám bức bách Hầu Gia.

    Đột nhiên lão cởi chiếc áo gai bên ngoài để lộ thân hình gầy đét và lớp đa đen sì, rồi lão vớ chiếc bọc bên mình, mở bọc lấy ra một chiếc búa con và vô số đinh dài độ ba tấc, tay tả cầm đinh, tay hữu cầm búa, đinh ấn lên làn da, búa đập vào đinh, dinh ghim sâu vào thịt, lão vừa nện búa vừa thốt:

    - Nếu Hầu Gia từ khước động thủ với bần tăng thì bần tăng phải tự tìm phương giải thoát!

    Một chiếc đinh lún vào da thịt, rồi hai chiếc, rồi ba chiếc, trong giây phút lão đóng hơn mười chiếc đinh ba tấc lún sâu hơn hai tấc Thần sắc của Da Tinh đại sư thản nhiên không biểu lộ sự đau đớn nào cả, lạ một điều là chẳng có một giọt máu nào rỉ rạ..

    Toàn thể quần hùng kinh hãi thất sắc.

    Hồ Bất Sầu xám mặt lè lưỡi, lắc đầu mãi.

    Tử Y Hầu cười nhẹ:

    - Đại sư tự làm khổ mình chi thế?

    Dà Tinh đại sư không ngừng tay nện búa vào đinh:

    - Nếu Hầu Gia đáp ứng, bần tăng ngừng tay liền!

    Tử Y Hầu khẽ thở dài:

    - Đại sư thật sự có ý đó thì tại hạ đành lấy mắt nhìn chứ chẳng còn biết phải làm sao hơn.

    Bỗng có tiếng nhạc nhẹ vang lên, rồi có mấy tên hải tặc bước vào, nghiêng mình cung kính thốt:

    - Vãn bối đã chuẩn bị yến tiệc sẵn sàng, chẳng hay Hầu Gia định chừng nào mới khai diễn?

    Tử Y Hầu mỉm cười:

    - Thật làm phiền các ngươi quá!

    Mấy tên hải tặc nghiêng mình thấp hơn chút nữa:

    - Được Hầu Gia chiếu cố là một vinh dự lớn lao, dù có vào nguy ra hiểm làm mọi điều Hầu Gia sai khiến, bọn vãn bối cũng hân hoan mà, làm sá gì một tiệc mọn?

    Tử Y Hầu gật đầu:

    - Vậy các ngươi cho thuộc hạ sắp đặt đi. Ta định vào tiệc ngay bây giờ.

    Mấy tên hải tặc chào Tử Y Hầu bước ra, lão liền đưa mắt quanh bọn tân khách một lượt đằng hắng một tiếng:

    - Sự việc các các vị cầm như giải quyết đã xong, tạm thời cuộc họp hôm nay kết thúc. Nếu ai thấy hứng cứ ở lại dùng mấy chén rượu với tại hạ, còn vị nào gấp ra về xin cứ tự tiện.

    Bỗng có tiếng thốt oang oang:

    - Hãy thư thả!

    Một người đầu to, thân lùn bước ra, người đó có hai cánh tay dài quá gối, vì đầu to nên trán phải rộng mắt lớn mày dài.

    Phương Bửu Nhi nhận ra người ấy ngay, hết sức kinh ngạc thầm nghĩ:

    - Hồ đại thúc của ta! Làm sao người đến được nơi đây? Người có điều gì thỉnh cầu nơi Tử Y Hầu? Tiền không đủ để mua cơm ăn hàng ngày, lấy đâu sắm sửa lễ vật ra mắt chứ? Mà người sẽ trình hiến những gì đây?

    Hồ Bất Sầu không cầm một vật gì nơi tay, y lại chẳng có kẻ tùy hành, dĩ nhiên y chẳng có lễ vật gì rồi. Không lễ vật thì mong chi Hầu Gia chấp nhận thỉnh cầu?

    Linh Nhi cau mày sẵng giọng:

    - Ngươi có việc thỉnh cầu sao chẳng trình bày sớm?

    Hồ Bất Sầu giữ sắc mặt trang nghiêm:

    - Vì tại hạ không có thân phận cao quý, nên chẳng dám tranh giành với ai cả.

    Hình dáng của y tầm thường quá chẳng có điểm nào đáng cho ai chú ý, song khí độ ung dung, cử chỉ khoan thai trang trọng xem chừng cũng là hạng người biết trọng đạo nghĩa lắm.

    Linh Nhi nhìn thoáng qua y rồi hướng vào tấm bình phong:

    - Hầu Gia có cho phép hắn nói chăng?

    Hồ Bất Sầu vụt thốt ngay:

    - Vãn bối hấp tấp đến đây, thành chẳng kịp mang lễ vật...

    Linh Nhi “Hừ” một tiếng:

    - Ngươi có biết quy củ của Hầu Gia như thế nào chăng lại đến đây với hai bàn tay không?

    Hồ Bất Sầu điềm nhiên:

    - Tuy tại hạ chẳng có lễ vật, song việc thỉnh cầu này chẳng vì cái lợi riêng cho mình mà có có liên quan đến đồng đạo võ lâm, nếu Hầu Gia từ khước lại hạ e rằng sẽ có rất nhiều cao thủ chết oan và võ lâm phải trải qua một đại họa.

    Đến lúc đó quần hùng mới chịu lưu ý, lắng nghe y nói.

    Tử Y Hầu lạnh lùng thốt:

    - Cao thủ trong võ lâm, sống thì họ nhờ chết thì họ chịu có can hệ gì đến ta đâu? Giả như ta chết đi, họ có tìm đến tận nơi nhỏ lệ thương la chăng?

    Hồ Bất Sầu sững sờ một lúc lâu, ấp úng:

    - Nhưng... nhưng...

    Tử Y Hầu tiếp nối:

    - Ba mươi năm trước ta đã phát nguyện là không vì người đời mà xuất thủ, ba mươi năm trước đã vậy thì hôm nay ta lại càng không tưởng là phải xuất thủ, bất cứ trong trường hợp nào. Người còn trẻ quá ta khuyên ngươi đừng chuốc lấy việc người, bởi trường thị phi không đem lại một hào hứng nào đâu!

    Hồ Bất Sầu càng sững sờ hơn. Y đưa mắt nhìn láo liên.

    Phương Bửu Nhi biết ngay, cái tập quán của y là mỗi khi cần suy nghĩ một mưu mẹo gì, đôi mắt của y nhìn ngang ngó dọc, hắn nghĩ:

    - Hồ đại thúc chỉ sợ rồi thất vọng thôi! Đừng hòng tìm được một mưu mẹo gì khích động nổi Tử y hầu.

    Nhưng bên ngoài đại sảnh, Hồ Bất Sầu ung dung thốt:

    - Tuy nhiên việc này có liên quan đến Hầu Gia!

    Tử Y Hầu hỏi:

    - Liên quan như thế nào, ngươi thử nói cho ta nghe?

    Hồ Bất Sầu bình tĩnh giải thích:

    - Cái kiếp vận võ lâm sắp trải qua, đó là do một kiếm khách quái dị, không rõ từ đâu đến, kiếm khách đó tìm tất cả danh thủ trên giang hồ khiêu chiến!

    Tử Y Hầu cười nhẹ:

    - Vị kiếm khách đó có khẩu khí quá lớn, gần như khoác lác.

    Hồ Bất Sầu tiếp:

    - Khoác lác hay không điều đó vãn bối chẳng dám nói, có điều y hết sức ngông cuồng, và vãn bối thành thật nhìn nhận là kiếm pháp của y rất cao siêu, có thể bảo là tay kiếm đệ nhất đương thời, dù Hầu Gia cũng...

    Y ngưng bặt câu nói, không tiếp cho tròn ý nhưng ai ai cũng đoán ra được y muốn nói gì. Y muốn nói Hầu Gia cũng chẳng thắng nổi tay kiếm đó.

    Tử Y Hầu cười lạnh:

    - Đệ nhất kiếm khách đương thời? Chỉ sợ vị tất...

    Hồ Bất Sầu đã biết lão bị khích động rồi, mừng thầm song ngoài mặt vẫn giữ vẻ lo ngại thở dài:

    - Chẳng phải vãn bối khoa trương tài nghệ của người, tự hạ thấp mình xuống, song phải thành thật mà xét, trên thế gian này khó có một người nào khả dĩ gọi là đối thủ của vị kiếm khách đó.

    Tử Y Hầu trầm ngâm một lúc lâu đột nhiên bật cười lớn:

    - Tên trẻ tuổi kia, ngươi định dùng phương pháp khích tướng đối với ta? Vô ích, dù kẻ đó là tay kiếm đệ nhất trên đời thì sự việc đó đối với ta có liên quan gì?

    Hồ Bất Sầu nao núng:

    - Nếu vậy, vãn bối xin cáo từ! Nhưng, rất tiếc... hừ!

    Y nghiêng mình chào Tử Y Hầu, rồi quay mình bước đi.

    Vừa được mấy bước, Tử Y Hầu vụt gọi:

    - Trở lại!

    Hồ Bất Sầu nhìn lại chứ chưa chịu quay mình:

    - Hầu Gia có điều chỉ dậy bảo?

    Tử Y Hầu hỏi:

    - Rất tiếc là làm sao? Ngươi nói cho ta nghe!

    Hồ Bất Sầu thản nhiên:

    - Phàm ai học qua cách múa kiếm cũng cần phải xem cho biết đường kiếm của ngươi đó. Không thấy được, là một điều đáng tiếc!

    Tử Y Hầu hừ một tiếng:

    - Kiếm pháp của kẻ đó có những đặc điểm gì?

    Cái lối úp úp mở mở của Hồ Bất Sầu quả có hiệu lực câu nhử Tử Y Hầu vào tròng. Y cười nhẹ thốt:

    - Thực sự thì vãn bối chẳng biết hình dung chỗ tuyệt diệu của kiếm pháp không tiền khoáng hậu!

    Y dừng lại một chút cho tánh hiếu kỳ của mọi người sôi động hơn đoạn tiếp:

    - Vãn bối có mang theo đây một vật xin trình lên Hầu Gia, xem rồi Hầu Gia sẽ phải chịu là vãn bối không nói ngoa.

    Tử Y Hầu không dấu được vẻ náo nức môt chút:

    - Ngươi đưa ra đây cho ta xem nào!

    Mãi cho đến bây giờ, Hồ Bất Sầu mới bằng lòng đưa cành cây ra cho Tử Y Hầu. Y cố giữ vẻ hết sức thản nhiên.

    Nhưng y vừa cho tay vào mình, không rõ nghĩ sao, lại lấy tay ra.

    Tử Y Hầu lấy làm lạ hỏi:

    - Người làm gì thế?

    Hồ Bất Sầu cười nhẹ:

    - Hầu Gia không có ý xuất thủ thì không nên xem làm gì!

    Tử Y Hầu “Hừ” một tiếng:

    - Ai nói là ta không xuất thủ? Ngươi cứ đưa vật gì đó cho ta xem đi!

    Hồ Bất Sầu chắc ý rồi liền lấy cành cây hai tay trao cho Tử Y Hầu.

    Một cành cây ư? Như vậy có nghĩa gì? Một cành cây khô thì làm gì chứng minh được một kiếm pháp không tiền khoáng hậu?

    Tất cả mọi người đều lấy làm lạ, chính Tử Y Hầu cũng lấy làm lạ như toàn thể, song nhìn cành cây rồi lão từ từ lấc đầu, lại thở dài mấy lượt, đoạn thốt:

    - Kiếm pháp tuyệt diệu! Nhanh chuẩn, tinh ảo phi thường.

    Tử Y Hầu là tay kiếm đệ nhất đương thế cũng phải thán phục thì còn ai nói gì được?

    Hồ Bất Sầu tỏ vẻ lo ngại:

    - Giả sử Tử Y Hầu cũng không phải là địch thủ của kiếm khách áo trắng thì ta biết làm thế nào?.. Linh Nhi không dằn được tính hiếu kỳ, vụt hỏi:

    - Không lẽ Hầu Gia chỉ nhìn cành cây khô đó rồi hiểu được kiếm pháp của người ấy cao tuyệt vô tưởng sao?

    Tử Y Hầu gật đầu:

    - Phải! Chỉ cần nhìn cành cây khô này cũng thừa hiểu kiếm pháp của người đó ra sao rồi!

    Linh Nhi trố mắt:

    - Bằng một đặc điểm nào của cây khô?

    Tử Y Hầu thở dài:

    - Khi nào ngươi luyện kiếm pháp đến mức độ của ta, ngươi sẽ có thể nhìn vào lằn kiếm chém vào cành cây mà suy đoán kiếm pháp của người đó. Nếu không thì ta có giảng giải ba ngày ba đêm, vị tất người hiểu nổi!

    Linh Nhi giật mình nhếch nụ cười khổ:

    - Thế ra hạng người như tiểu bối chẳng thể nào hiểu thấu triệt được!

    Câu hỏi vừa rồi của nàng chính là câu hỏi của toàn thể những người hiện diện, trong số đó có cả Hồ Bất Sầu song chẳng ai dám mở miệng hỏi. Nàng nêu lên rất đúng với tâm nguyện của họ. Nghe Tử Y Hầu đáp như thế, tất cả đều thất vọng. Tất cả cùng buột miệng thở dài.

    Tử Y Hầu nói:

    - Người đó hiện giờ ở đâu?

    Hồ Bất Sầu có ý mừng:

    - Hầu Gia định xuất thủ?

    Tử Y Hầu thản nhiên:

    - Ta không có ý định xuất thủ thì y ở đâu mặc y can gì đến ta mà ta hỏi? Hừ! Được cùng người ấy so kiếm, thiết tưởng kiếp sống một con người không đến đỗi quá vô vị.

    Không ai nghĩ là Hồ Bất Sầu đến không lễ vật việc thỉnh cầu lại khó khăn mà Tử Y Hầu lại đáp ứng như thường. Tất cả đều hết sức kinh ngạc.

    Họ nào có biết được, phàm học võ công càng đạt đến mức cao, càng cảm thấy mình cô độc, bởi chẳng có bao nhiêu người khả dĩ cùng mình giao thủ. Cái danh vô địch càng cô đơn quạnh quẽ, có thể bảo quanh năm suốt tháng mình mang một bóng lẻ đi khắp sông hồ, thiên hạ võ lâm dù có xem minh là thần tượng, chung quy cũng tránh xa mình, đúng như câu “Kính nhi viễn chị.. ” Vả lại cuộc đấu võ cũng như đấu cờ, gặp kẻ đồng tài đồng sức, thì cuộc đấu mới gây phần hứng thú, chứ đấu với những kẻ kém cỏi quá thì còn gì chán nhạt bằng, cho nên nghe ở nơi nào đó có một tay siêu việt, khả dĩ cùng mình đọ qua vài đường kiếm vài chiêu quyền tự nhiên mình không bỏ lỡ cơ hội nổi, cái cơ hội giúp mình gặp người kiếm hữu, cũng như làn bút mực tìm biết văn hữu. Họ đạt đến mức độ quá cao, họ chỉ cần chú trọng đến nghệ thuật, mà không cần thắng, không sợ bại như hạng bình thường.

    Tuy giao đấu với những chiêu thức tân kỳ, có thể giết người trong đường tơ kẽ tóc, song họ xem nhau như tri kỷ. Cái thú của loại tri kỷ kiếm là thế, bởi kiếm thì bao giờ cũng ác hơn bút, kiếm càng ác hứng thú càng lớn, họ có thể giết nhau bằng một đường kiếm, nhưng chẳng phải vì thù nhau mà tương sát, mà chỉ vì cái hứng của tao ngộ vọt lên cao độ.

    Bỗng có tiếng quát vang lên, âm thanh lạ kỳ, mường tượng là tiếng lụa xé:

    - Hãy khoan!

    Tiếng quát đo do Dà Tinh Pháp Vương phát ra. Nhà sư mang tấm thân chơm chớm những đinh đến trước mặt mọi người.

    Ai ai nhìn nhà sư cũng phải rùng mình kinh hãi, mang một thân hình đinh như vậy chắc chắn phải đau đớn lắm.

    Tử Y Hầu vẫn điềm nhiên hỏi:

    - Đại sư còn điều gì chỉ giáo cho tại hạ nữa đây?

    Dà Tinh Pháp Vương hỏi lại:

    - Hầu Gia đã chấp thuận cùng người giao thủ, vậy trước hết nên giao thủ với bần tăng đi, chẳng lẽ Hầu Gia khinh khi bần tăng không bằng vị kiếm khách nào đó?

    Tử Y Hầu thở dài:

    - Đại sư hãy xem nhát kiếm của người đó như thế nào!

    Từ phía hậu tấm bình phong, cành cây khô bay lên, uốn cầu vòng ra đến ngoài chúc đầu xuống, đứng trước mặt Dà Tinh Pháp Vương cành cây đi từ từ, chẳng khác nào có bàn tay vô hình nâng nhẹ và đưa ra ngoài.

    Cành cây đến trước mặt Dà Tinh Pháp Vương, pháp vương chưa đưa tay ra đón lấy, cành cây vẫn lơ lửng nơi đó, không bay tới xa hơn mà cũng chẳng rơi xuống sàn thuyền.

    Phương Bửu Nhi nào có biết cành cây được Hầu Gia dụng nội lực chuyển đi, hắn lấy làm lạ thầm nghĩ:

    - Kỳ quái thật! Tại sao nó không rớt xuống mà cứ lơ lửng nơi đó?

    Hắn lấy làm lạ, nhưng toàn thể những người hiện diện đều xám mặt, họ kinh hãi đến độ chẳng ai dám thở mạnh. Họ chưa từng mục kích một biểu dương nội lực như Tử Y Hầu vừa làm. Và làm được như vậy, Hầu Gia quả đúng là thần tượng của võ lâm!

    Dà Tinh Pháp Vương hươ hươ đưa tay tiếp lấy cành cây khô nhìn vào chỗ đường kiếm phớt qua.

    Nhìn một lúc lâu, nhà sư vụt biến sắc mặt, không nói năng gì cả, quẳng cành cây xuống sàn thuyền, quay mình nhảy vọt ra ngoài liền.

    Cành cây đã khiến Dà Tinh Pháp Vương khiếp đảm thì còn ai chẳng khiếp đảm chứ?

    Hồ Bất Sầu bước tới nhặt lấy cành cây lên thở dài:

    - Gia sư sai vãn bối đến đây, gặp Hầu Gia rồi, ngoài cái việc trình báo về người kiếm khách áo trắng còn thỉnh cầu Hầu Gia một việc, nhưng giờ đây... giờ đây...

    Tử Y Hầu hỏi:

    - Lệnh sư là ai? Ngươi còn thỉnh cầu điều chi nữa?

    Hồ Bất Sầu đáp:

    - Gia sư là Thanh Bình Kiếm Khách...

    Tử Y Hầu chận lời:

    Thì ra là Bạch Tam Không! Lúc thiếu thời, ta từng uống với y mấy chén rượu... hừ, trên ba mươi năm rồi!

    Hồ Bất Sầu tiếp nối:

    - Gia sư mong cầu nơi Hầu Gia một điều thứ hai là... là...

    Đột nhiên y quay mình lại đưa tay chỉ Thủy Thiên Cơ tiếp:

    - Hầu Gia hãy hạ lệnh bắt nàng ấy trói lại!

    Thủy Thiên Cơ điềm nhiên nở một nụ cười duyên dáng hỏi:

    - Ta có làm gì nên tội tình đối với ngươi, ngươi lại van xin Hầu Gia bắt ta? Không lẽ một gã to đầu như ngươi lại có một người cha hoa sắc cỡ cha của Mộc Lang Quân, bị ta làm thương tổn rồi cầu thuốc trị?

    Nàng không sợ Hồ Bất Sầu tố cáo hành động, trái lại còn kích thích cho sự việc sôi nhộn lên, điều đó không ngoài thủ đoạn thường dùng của nàng, cốt làm sao cho kẻ đối thoại phẫn nộ rồi mất bình tĩnh, khi bình tĩnh đã mất thì dễ bị lệch lạc.

    Nhưng Hồ Bất Sầu có cái tâm kiên định như núi Thủy Thiên Cơ dù thừa thủ đoạn cũng chẳng làm sao lung lạc được y.

    Y làm như chẳng nghe Thủy Thiên Cơ nói gì bình tĩnh thốt:

    - Nàng ấy đã cướp mất đứa cháu ngoại duy nhất của gia sư.

    Thủy Thiên Cơ bật cười khanh khách:

    - Hầu Gia không nên tin lời hắn. Hắn chịu không nổi tiểu tử đó, bỏ rơi dọc đường rồi đổ triệt cho tôi. Dù hắn có cho tôi tiểu tử đó tôi cũng chẳng ham, nói gì đến cướp mất.

    Thật ra Hồ Bất Sầu chỉ nghĩ quyết chính nàng đã cướp Phương Bửu Nhi mang đi chứ chứng cớ thì làm gì mà trưng ra được chứng cứ buộc tội nàng?

    Tuy nhiên y cao giọng hỏi:

    - Ngươi không cướp đi, thì còn ai cướp chứ?

    Thủy Thiên Cơ càng cười lớn:

    - Ngươi cứ vu khống cho ta, thử hỏi ngươi có bằng cớ gì không? Có ai trông thấy ta cướp tiểu tử đó không? Hừ! Đã không chăm nom chu đáo tiểu tử để sổng mất rồi muốn đổ tội cho ai thì đổ.

    Phương Bửu Nhi bên trong bức màn sôi giận thầm nghĩ:

    - Có mặt ta, nàng tỏ vẻ âu âu yếm yếm, vắng mặt ta rồi nàng xem ta như một phế vật! Rõ đáng hận!

    Hồ Bất Sầu đuối lý, đứng lặng người.

    Linh Nhi quá hiểu sự tình, song chưa tỏ thái độ, đưa mắt nhìn quanh chờ một sự huyên náo diễn ra, xem cho bằng thích, bởi nàng chắc chắn là phải náo nhiệt.

    Thủy Thiên Cơ được thể tấn công luôn:

    - Hầu Gia thấy đó, trước mặt Hầu Gia mà hắn còn dám ngậm máu phun người, khi phụ đến cả những thiếu nữ đáng thương hại như tôi...

    Hồ Bất Sầu gằn giọng:

    - Rõ ràng là ngươi...

    Thủy Thiên Cơ giậm chân thình thịch xuống thuyền, tru tréo:

    - Đó! Đó! Hầu Gia thấy chưa. Hắn vẫn ngoan cố cứ vu oan cho tôi mãi. Hầu Gia bảo hắn trưng bằng cớ ra đi, nếu không thì....thì... hắn phải cúi đầu tạ lỗi với tôi. Như vậy mới công bình.

    Nàng càng phút càng làm ra vẻ khổ sở, bi thương, cái khổ sở, bi thương của một nữ nhân bơ vơ côi cút bị người đời lấn hiếp đủ mọi cách.

    Ai nhìn vào mà chẳng xúc động tâm tình?

    Tử Y Hầu thở dài:

    - Đã không có chứng cứ, ngươi không nên đề quyết cho người ta như vậy!

    Thủy Thiên Cơ càng được nước:

    - Phải đó, Hầu Gia! Tại sao hắn vu cho tôi chứ?

    Nàng nhích tới gần Linh Nhi nắm chéo áo Linh Nhi to tiếng van cầu:

    - Thơ thơ thương tôi, thơ thơ chủ sự việc này hộ tôi. Tức lắm, tôi chỉ muốn chết thôi thơ thơ!

    Nàng dụi đầu vào ngực Linh Nhi rồi nhoi lên vai, thì thầm bên tai:

    - Tiểu liễu đầu! Ngươi đã cướp gã trượng phu tí hon của ta mang về đây hay đưa đi đâu?

    Linh Nhi đang bật cười khanh khách nghe nàng nói thế thì giật mình nhưng miệng chẳng ngừng cười, vừa cười vừa hỏi:

    - Ai bảo với ngươi như vậy?

    Thủy Thiên Cơ vẫn khóc để che lấp tiếng rỉ bên tai Linh Nhi:

    - Nếu ngươi không cướp đi, tại sao ngươi biết ta là vợ sồn sồn của hắn?

    Linh Nhi vỡ lẽ, thì ra vừa rồi nàng nói hớ, thầm nghĩ:

    - Nàng này lợi hại thật?

    Thủy Thiên Cơ tiếp:

    - Nếu ngươi không trợ giúp ta ứng phó với cái tên to đầu có giọng nói âm dương kia, ta sẽ lôi cuốn ngươi vào việc này cho xem!

    Linh Nhi cười khổ:

    - Trợ giúp ngươi bằng cách nào?

    Thủy Thiên Cơ thét:

    - Ta nói sao ngươi nói vậy y theo ta, nhất định là cái gã to đầu đó sẽ điên đầu, hắn điên đầu thì còn nhiều điều thú vị lắm!

    Mọi người chỉ trông thấy hai nàng quấn quýt ôm nhau, một cười một khóc nhưng chẳng ai nghe họ nói gì với nhau, chẳng ai hiểu gì cả, cũng lấy làm lạ nhìn họ.

    Chợt Linh Nhi ngẩng mặt lên hỏi:

    - Tên to đầu kia ngươi nói vậy mà có chứng cứ gì chăng?

    Hồ Bất Sầu bối rối:

    - Việc đó... việc đó...

    Linh Nhi chặn lại:

    - Đã không có chứng cứ, ngươi chẳng nên vu oan cho người ta như vậy. Không lẽ bọn nữ nhân như chúng ta dễ dàng bị ngươi khi phụ sao?

    Ngươi hãy cúi đầu tạ lỗi đi!

    Hồ Bất Sầu cố dằn uất hận, vì quá dằn nên mặt mày y đỏ lựng, y quẫn quá kêu lên:

    - Nếu Hầu Gia không tin cho cho đòi Mộc Lang Quân trở lại đây, lão ấy hiểu rõ sự việc, lão ấy tường thuật cho Hầu Gia nghe.

    Thủy Thiên Cơ lại rỉ bên tai Linh Nhi:

    - Hắn hận ta thấu xương tủy, ngươi hãy liệu cách nào ức chế hắn giúp ta!

    Có người cho rằng Hồ Bất Sầu bịa chuyện, mượn tay Tử Y Hầu thỏa mãn niềm riêng nên cất tiếng:

    - Hắn phải cúi đầu tạ lỗi mới được! Cho hắn biết một lần, sau này không còn dám nói oan cho người khác!

    Hồ Bất Sầu nhìn quanh, thấy tất cả đều đổ dồn ánh mắt về mình, những ánh mắt đó chẳng có cảm tình chút nào, y đâm lo, vừa lo vừa hận, hận quá đến run người.

    Thủy Thiên Cơ thoáng nhìn y, hết sức khoan khoái trong lòng.

    Tử Y Hầu thở dài:

    - Nếu không có chứng cứ, chỉ còn cách cúi đầu lạ lỗi mà thôi.

    Hồ Bất Sầu chết lặng, chưa biết phải phản ứng làm sao bỗng một giọng nói trong trẻo vang lên:

    - Ai bảo là không có chứng cứ? Chứng cứ đã đến đây này.

    Câu nói từ sau bức màn vọng ra, rồi một đồng tử có đôi mắt to, chiếc mũi cao, gương mặt hồng hào, làn da trắng như tuyết từ từ bước ra.

    Hồ Bất Sầu vừa kinh hãi vừa mừng rỡ vội kêu to:

    - Bửu Nhi? Ngươi ở đây? Tại sao ngươi ở đây?

    Phương Bửu Nhi xuất hiện tại đây, đúng là một sự kiện trên chỗ tưởng của y.

    Phương Bửu Nhi đáp:

    - Việc dài dòng lắm, để thư thả tiểu điệt sẽ thuật lại cho đại thúc nghe, bây giờ thì tiểu diệt phải giải quyết việc này, giải tỏa uất ức cho đại thúc trước!

    Hồ Bất Sầu trố mắt:

    - Ngươi giải tỏa uất ức cho ta?

    Phương Bửu Nhi gật đầu:

    - Phải!

    Hắn day lại đối diện với Tử Y Hầu. Đến lúc này hắn mới trông thấy rõ dung mạo của Tử Y Hầu... Lão vận chiếc áo gấm màu tía, đầu đội mão hàng vương, gắn ngọc, mặt trắng, toàn thân bốc ra một uy lực đáng khiếp, gan lì như Phương Bửu Nhi nhìn lão cũng phải rợn người.

    Chừng như Tử Y Hầu đã biết là có người nấp sau bức màn cho nên hắn xuất hiện rồi Hầu Gia vẫn bình thản như thường, chẳng tỏ vẻ gì kinh ngạc, hơn thế, gương mặt lão còn lạnh lùng hơn.

    Phương Bửu Nhi vòng tay vái chào xong, đoạn cất tiếng:

    - Tôn Hầu ngao du bốn biển, vui thú trăng nước trời mây, chẳng khác nào một thần tiên, trí thân vật ngoại, chẳng hay Tôn Hầu còn nghĩ đến lễ giáo chốn nhân gian chăng?

    Tử Y Hầu thấy hắn còn nhổ tuổi mà ăn nói chững chạc như hạng trưởng thành, lão liền hết sức lấy làm lạ, gương mặt lạnh giờ đây hiện rõ vẻ hiếu kỳ, lão từ từ thốt:

    - Tuy quanh năm bổn Hầu lênh đênh mặt biển, dạo khắp đó đây, song chẳng phải là kẻ hóa ngoại ngang tàng, dù sao cũng giữ gìn lễ giáo chứ?

    Lời nói của Tử Y Hầu chứng tỏ lão không khinh thường kẻ đối thoại là một đồng tử.

    Phương Bửu Nhi lại vòng tay vái chào một lượt nữa:

    - Tam cang, ngũ thường, là căn bổn của lễ giáo, nếu có kẻ bất chấp cang thường luân lý thì theo ý Hầu Gia, phải trừng trị kẻ đó như thế nào?

    Bây giờ đến lượt quần hùng kinh ngạc, tất cả không ngờ một đồng tử có phong độ chững chạc lão luyện như một nhà đạo đức.

    Tiểu công chúa còn núp sau bức màn, chưa dám xuất hiện nghe Phương Bửu Nhi đối đáp với Hầu Gia bên ngoài, nàng nóng nảy quá song còn biết làm sao hơn, chỉ có giậm chân nhè nhẹ cho hả tức.

    Hầu Gia điềm nhiên đáp:

    - Kẻ nào phạm lễ giáo, kẻ đó phải bị trừng phạt không thể dung tha được.

    Phương Bửu Nhi tiếp:

    - Lời xưa có ví:

    Vua là trời của bầy tôi, chồng là trời của vợ, nếu có người vợ nào không tròn đạo nghĩa đối với chồng, thì ngườivợ đó có phạm lễ giáo không?

    Tử Y Hầu nhẹ cười thốt:

    - Ngươi còn nhỏ tuổi quá làm gì có vợ mà nói đến đạo nghĩa vợ chồng!

    Mọi người phụ họa theo nụ cười của Hầu Gia, cũng nhếch mép cười.

    Nhưng thản nhiên như thường, Phương Bửu Nhi buông gọn:

    - Tôi có vợ rồi!

    Tử Y Hầu cười lớn hơn một chút:

    - Vợ ngươi là ai?

    Đưa tay chỉ Thủy Thiên Cơ, Phương Bửu Nhi đáp:

    - Nàng ấy!

    Theo cái chỉ tay của hắn, con thuyền to lớn như thế hầu như dao động dưới áp lực của những tiếng cười vang dội. Mọi người đều cười như quên đi trước mắt mình có bậc lãnh tụ võ lâm đáng kính, đáng sợ, ai ai cũng phải dè dặt từ cử động, tránh xúc phạm đến oai phong, cũng có người không tin được lời nói của hắn, vì không tin họ cho rằng hắn điên khùng mới hồ đồ như vậy.

    Hắn buông câu xác nhận ra rồi, Linh Nhi nghe Thủy Thiên Cơ càng bám sát vào mình nàng, véo mạnh vào vai nàng đau điếng.

    Nàng đảo mắt nhìn quanh mấy lượt, chẳng hiểu nàng làm thế có ý tứ gì, chợt nàng vỗ tay reo lên:

    - Tiểu tử đó nói thế mà đúng với sự thật đấy!

    Tử Y Hầu hỏi:

    - Sao ngươi biết được?

    Linh Nhi mỉm cười:

    - Lúc vị Thủy cô nương này và tiểu tử thành thân, tôi cùng Châu Linh tình cờ trông thấy dĩ nhiên phải biết rõ.

    Thủy Thiên Cơ mắng khẽ:

    - Ngươi....ngươi.. là một quỷ liễu đầu!

    Linh Nhi cười nhẹ.

    Thủy Thiên Cơ xì một tiếng:

    - Thừa nhận thì đã sao chứ?

    Rồi nàng cao giọng:

    - Lại đây ông chồng tí hon! Lại đây vợ chồng mình thân thiết một chút nào!

    Nàng đưa tay định nắm Phương Bửu Nhi lôi hắn về phía nàng.

    Phương Bửu Nhi mở tròn đôi mắt trừng nàng:

    - Đã là vợ của ta, ngươi xúc phạm đến đại thúc là vô lễ đó , bây giờ thì ngươi thừa nhận nhưng trước đây ngươi lại phủ nhận ăn nói đảo điên, như vậy là vô tín đó... Đã là vợ người lại buông lung tính nết, cốt đạt được mục đích, tự hiến mình làm tặng vật cho người khác, là vô sỉ đó.

    Thủy Thiên Cơ cười sằng sặc:

    - Ngươi mắng nghe hay quá!

    Phương Bửu Nhi thản nhiên không lưu ý đến nàng, day qua Tử Y Hầu hỏi:

    - Một người vô lễ, vô tín, vô sỉ như thế xin hỏi Hầu Gia có nên phạt chăng?

    Tử Y Hầu cười nhẹ.

    Phương Bửu Nhi chớp chớp mắt:

    - Trước hêt nàng phải cúi đầu tạ tội trước đại thúc tôi, sau đó...

    Bỗng có tiếng thốt vọng ra từ bức màn ra ngoài:

    - Sau đó phạt nàng lưu lại ở đây ba năm làm khổ công cho chúng tôi, đọc sách cho chúng tôi nghe, viết chữ thay cho chúng tôi.

    Giọng nói nhẹ nhàng ấm dịu quá, đúng là giọng nói của tiểu công chúa.

    Nàng được nâng tiu chiều chuộng từ nhỏ, từ lười biếng thành tánh, cho nên mới xem việc đọc sách, viết chữ là khổ công.

    Mọi người nghe nàng nói thế đều bật cười vang.

    Thủy Thiên Cơ cũng khó nín cười:

    - Được, loại khổ công như vậy tôi có thể làm suốt ba năm.

    Tử Y Hầu gật đầu:

    - Tốt lắm!

    Thủy Thiên Cơ giật mình:

    - Tốt, tốt làm sao? Việc gì tốt?

    Tử Y Hầu điềm nhiên:

    - Ngươi nói có thể làm, thì phạt ngươi làm việc đó trong ba năm.

    Thủy Thiên Cơ cau mày:

    - Nhưng... nhưng tôi vui miệng mà nói...

    Tử Y Hầu buồng gọn:

    - Trước mặt ta đâu có việc vui miệng mà nói đùa?

    Thủy Thiên Cơ tiu nghỉu ấp úng:

    - Tôi... tôi...

    Linh Nhi chớp chớp mắt, rồi cùng Châu Nhi và hai thiếu nữ nữa áp đến vây quanh Thủy Thiên Cơ cười thốt:

    - Ngươi muốn gì? Định trốn phạt phải không?

    Thủy Thiên Cơ đảo mắt nhìn quanh, biết có thoát đi cũng chẳng lọt, đột nhiên thay đổi chủ ý, nở nụ cười duyên:

    - Được rồi! Tôi bôn tẩu mãi, rày đây mai đó cảm thấy mệt mỏi lắm rồi, giờ có dừng chân tại đây ba năm, tưởng cũng là một dịp tốt. Nhưng tôi đã có chồng, tôi lưu lại đây thì chồng tôi cũng phải ở lại đây, sớm hôm có bạn với nhau!

    Tiểu cô nương vỗ tay cười lớn:

    - Tự nhiên! Nhất định là hắn phải ở lại rồi:

    Hồ Bất Sầu hân hoan thốt:

    - Hiện tại hắn cũng chẳng có việc gì đáng làm, hắn có thể lưu lại đây đọc sách, làm văn, có lợi cho hắn lắm!

    Phương Bửu Nhi chận lời:

    - Hãy để cho nàng cúi đầu tạ lỗi với thúc thúc, rồi sau đó hẵng tính gì thì tính.

    Hồ Bất Sầu khoát tay cười nhẹ:

    - Cái cúi đầu của nàng ta chẳng nhận đâu, miễn cho nàng đi!

    Tử Y Hầu quát to:

    - Ai đấy!

    Bên ngoài có hai giọng nói còn vọng vào mỗi giọng một câu nhưng thốt lên đồng thời gian:

    - Tôn Hầu có thính giác lợi hại đấy!

    - Quái sự thì năm nào cũng gặp, nhưng năm nay lại gặp nhiều! Ghế ngồi đặt trên vách, đá tảng biết trên gò. Tiểu đồng hơn mười tuổi, lấy vợ cỡ sồn sồn. Làm cho Vương lão nhị này cười vỡ bụng.

    Một tràng cười tiếp theo câu nói thứ hai.

    Hai câu nói có một âm thanh lạnh lùng khô khan, còn một thì hào sảng, phóng túng, hai câu nói với hai giọng khác nhau đồng thời phát xuất nhưng nghe rất phân biệt. Câu nào vào câu ấy, mọi người trong sảnh thuyền phải nghĩ là có hai người cùng phát xuất. Và tất cả đều phải công nhận hai người đó có võ công rất cao, bằng cớ là họ xuất hiện trên sàn thuyền, họ phát âm rất gần, chỉ cách có một vách gỗ, mà không ai phát giác ra được, nếu Tử Y Hầu không lên tiếng hỏi.

    Chừng như đã biết người vừa đến là ai, Tử Y Hầu dịu nét mặt ngay, bình tĩnh thốt:

    - Thì ra huynh đài...

    Giọng nói lạnh lùng khô khan tiếp nối:

    - Đúng là tại hạ! Hôm nay bỗng nảy ra cái ý đến đây bái phỏng Hầu Gia!

    Liền theo câu nói, một người từ bên ngoài bước vào.

    Người đó có thân vóc cao nhưng rất ốm, da mặt xanh, vận chiếc áo vá nhiều mảnh, nhưng giặt giũ rất sạch sẽ, áo màu lam, mầu đã bạc theo thời gian, đôi bàn tay trong như ngọc, ngón giữa bàn tay hữu có đeo một cái khoen hình dáng kỳ dị, bằng ngọc xanh, thần sắc lạnh lùng hết sức, đôi chân di động nhẹ nhàng như áng mây vờn, chẳng gây nên một tiếng động khẽ.

    Vừa rồi có hai giọng nói tức nhiên phải do hai người phát ra, nhưng bây giờ chỉ có một người đi vào, quần hùng vô cùng kinh ngạc, tự hỏi người kia là ai, họ muốn biết mặt mày con người có tánh khôi hài đã thốt lên một câu nói đùa ý nhị quá.

    Từ Y Hầu cười nhẹ :

    - Mười năm cách biệt nhau, gặp lại rồi mới biết huynh đài tiến bộ vô cùng. Thiết tưởng cái danh đệ nhất khinh công trong thiên hạ phải dành cho huynh đài mới đúng!

    Người áo lam mỉm cười:

    - Mười năm không gặp, gặp rồi mới nhận ra nhĩ lực của Hầu Gia chẳng suy giảm chút nào. Đáng phục! Đáng phục!

    Rồi lão tiếp:

    - Năm ngoái đây, tại hạ cùng Phong đạo nhân tỉ thí khinh công, suốt một ngày một đêm, thắng lão ấy được nửa dặm đường. Chỉ vì tại hạ không thích thinh danh, nên nhường cho lão ấy cái chức đệ nhất khinh công trong thiên hạ.

    Gương mặt lão lạnh lùng, khẩu khí của lão cao ngạo quá, khi lão thốt vẻ tự đắc ngời trong ánh mắt. Có lẽ ngoài Tử Y Hằu ra, tại sảnh thuyền chẳng có nhân vật nào đáng cho lão thoáng nhìn qua.

    Tiểu công chúa không chịu nổi vẻ cao ngạo đó, buột miệng thốt:

    - Khoác lác quá!

    Phương Bửu Nhi lập tức phụ họa:

    - Mèo khen mèo dài đuôi!

    Đột nhiên người áo lam quay lại nhìn cả hai.

    Bây giờ cả hai mới thấy rõ ràng. Gương mặt thì lạnh như giá băng, song đôi mắt sáng rực nhiệt tình.

    Lão hỏi:

    - Hai bé con kia nói về ta phải không?

    Thủy Thiên Cơ bước tới đứng án trước mặt Phương Bửu Nhi điểm nụ cười tươi:

    - Người lớn không nên tỏ lộ hung hăng với trẻ con.

    Rồi nàng hỏi:

    - Còn một người nữa ở đâu? Đã đến đây chưa?

    Người áo lam đáp:

    - Đến rồi!

    Thủy Thiên Cơ lại hói:

    - Đến rồi mà ở đâu, sao chẳng thấy?

    Bỗng có giọng nói khôi hài như vừa rồi đầy nhiệt tình vang lên.

    - Ở đâu? Ở đây chứ còn ở đâu nữa? Ngươi tuy chẳng thấy ta chớ ta thì thấy ngươi rõ ràng!

    Câu nói được điểm xuyết bằng mấy tiếng cười ròn rã.

    Thủy Thiên Cơ, Phường Bửu Nhi, cùng giật mình đưa mắt nhìn về hướng vừa phát ra câu nói, chẳng thấy ai cả, chỉ thấy người áo lam đang đứng trước mặt, vẫn lạnh lùng, vẻ lạnh lùng đó chứng tỏ không phải chính lão vừa thốt lên câu vừa rồi, và người lạnh lùng như lão hiển nhiên chẳng cười thành tiếng vui tươi như vậy được.

    Vậy người vừa nói vừa cười đó là ai? Người đó có thuật ẩn hình chăng?

    Phương Bửu Nhi rợn người, nép sát mình vào Thủy Thiên Cơ.

    Giọng nói đó, giọng cười đó lại tiếp tục vang lên:

    - Đôi bạn đó thân mật với nhau quá trước mặt đông người.

    Bỗng Phương Bửu Nhi kêu lên:

    - Chính lão! Hai giọng nói cùng do một người? Người đó là lão? Lão có thể phát âm bằng bụng cũng như bằng miệng.

    Tiếng cười tuy dứt, ý cười còn ngời trong ánh mắt của người áo lam.

    Ánh mắt và sắc diện của lão không hòa hợp chút nào, ánh mắt đầy nhiệt tình, còn sắc diện hết sức lãnh đạm. Ánh mắt và sắc diện đó phải ở hai người, chẳng thể cùng nơi một người được.

    Thủy Thiên Cơ nhìn người áo lam một lúc bông vỗ tay cười lớn:

    - Vương Bán Hiệp! Ông chính là Vương Bán Hiệp, Ngoài lạnh trong nóng, một hiệp chia làm hai, nửa hiệp nửa cuồng, nên chỉ được xưng bán hiệp chứ không toàn hiệp. Đáng lẽ tôi phải nhận ra sớm.

    Người áo lam đúng là Vương Bán Hiệp, thản nhiên thốt:

    - Hiện tại cũng chẳng muộn gì.

    Thủy Thiên Cơ tiếp:

    - Từ lâu nghe đồn Vương Bán Hiệp đã được giang hồ liệt vào danh sách quái nhân võ lâm, một quái nhân tuyệt diệu, không ngờ hôm nay được gặp mặt, thật hân hạnh vô cùng!

    Vương Bán Hiệp cười nhẹ:

    - Chứ ngươi không được liệt vào danh sách quái nhân võ lâm à?

    Phương Bửu Nhi nhìn lại một lúc hỏi:

    - Ông... Ông phát âm bằng bụng được à?

    Thủy Thiên Cơ mỉm cười, đáp thay Vương Bán Hiệp:

    - Được chứ, ông ta luyện được phúc ngữ công phu, rồi ỷ trượng vào công phu đó, làm thành hai người, cho nên mới tự đặt cho mình một ngoại hiệu nữa là Hóa Thân Song Hiệp. Từng gieo hoang mang trên giang hồ, võ lâm phải đau đầu vì ông ta, ai ai cũng tưởng là hai người, chẳng ai biết được chỉ là một người!

    Vương Bán Hiệp lạnh lùng:

    - Phàm gặp người biết người nhìn chánh nghĩa, thì ta làm Vương Bán Hiệp, còn gặp bọn hung gian ác đạo, thì ta là Vương Bán Cuồng, cũng như ngươi, bỗng có lúc là nam chợt có lúc là nữ. Cái lẽ tương đồng rất đơn giản như vậy đó.

    Tử Y Hầu cười nhẹ:

    - Vương huynh có tuyệt kỹ thân ngoại, hóa thân du hí phong trần, hôm nay đến đây chẳng rõ trong cái bản thân Bán Hiệp hay Bán Cuồng?

    Vương Bán Hiệp đáp:

    - Nếu là Bán Cuồng thì không bao giờ tại hạ đến đây. Chỉ vì có một sự việc mà sự việc đó lại chẳng quan hệ gì đến tại hạ, tại hạ phải vượt ngàn dặm đến đây. Nghĩ ra tại hạ cũng hay gánh vác việc người.

    Lão đưa mắt nhìn quanh một lượt đoạn hỏi:

    - Ai là đồ đệ của Bạch Tam Không?

    Hồ Bất Sầu nghiêng mình:

    - Chính vãn bôi! Chẳng hay tiền bối có điều chi chỉ giáo?

    Vương Bán Hiệp lại hỏi:

    - Sư phó ngươi giao cho việc đó, ngươi đã thi hành xong chưa?

    Hồ Bất Sầu đáp:

    - Hầu Gia vừa chấp thuận.

    Vương Bán Hiệp gật đầu:

    - Hay lắm! Tôn Hầu đã chấp thuận, tại sao ngươi chưa đi? Ngươi há chẳng biết việc đó chậm trễ một ngày là hào kiệt võ lâm chết thêm mấy mạng.

    Tử Y Hầu thốt:

    - Thì ra Vương huynh vì việc đó mà đến đấy!

    Vương Bán Hiệp gật đầu:

    - Đúng vậy! Chính vì việc đó mà tại hạ đến đây. Cho đến hôm nay, có hơn hai mươi hào kiệt anh hùng đã táng mạng trong tay người áo trắng!

    Tử Y Hầu cau mày:

    - Tên đó có thủ đoạn tàn độc đến thế à?

    Vương Bán Hiệp đáp:

    - Hắn từ phương Đông đến, đầu tiên hắn hạ sát Phi Hạc Liễu Tòng, kế đó suốt con đường từ Lỗ Đông xuống Tây Nam với thanh trường kiếm kỳ hình quái trạng, lần lượt hắn hạ từng người từng người, trong số có Trung Châu Nhất Kiếm Thiệu Văn Sanh, Thanh Bình Kiếm Khách Bạch Tam Không, phải biết họ Thiệu và họ Bạch là những tay danh kiếm đương thời, mà cũng phải thảm bại trước kiếm pháp tân kỳ của hắn!

    Phương Bửu Nhi rú lên một tiếng, lảo đảo thân hình, run run giọng:

    - Ngoại công tạ..

    Vương Bán Hiệp nhìn hắn:

    - Ông ngoại ngươi là ai?

    Vương Bửu Nhi nắm chéo áo của Hồ Bất Sầu, không đáp lời Vương Bán Hiệp mà chỉ hỏi họ Hồ:

    - Đại thúc, ông ngoại tôi như thế nào, chắc đại thúc biết chứ?

    Hồ Bất Sầu trước hết đáp lời Vương Bán Hiệp thay cho Phương Bửu Nhi:

    - Tiểu tử đó là cháu ngoại của gia sư.

    Rồi y trở lại Phương Bửu Nhi:

    - Ông ngoại ngươi....ta chỉ sơ.....

    Vương Bán Hiệp chận lời:

    -Bạch Tam Không chưa chết!

    Phương Bửu Nhi thở phào, mừng trên chỗ tưởng.

    Hồ Bất Sầu trố mắt nhìn Vương Bán Hiệp:

    - Gia sư còn sống?

    Vương Bán Hiệp gật đầu:

    - Nhát kiếm của người áo trắng không trúng chỗ nhược, nhờ vậy mà Bạch Tam Không chẳng đến đỗi vong mạng. Lão ấy là người duy nhất thoát chết dưới đường kiếm siêu nhiên của người áo trắng!




    Ủng hộ BLH Vì một sân chơi mới, vì một Bàn Long Hội mới :oe76:
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Thành viên đang xem bài viết (Users: 0, Guests: 0)