Linh Dị Đau Thương Đến Chết - Quỷ Cổ Nữ (Full)

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Alpha Wolf

    Alpha Wolf Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/5/15
    Bài viết:
    1,211
    Được thích:
    169
    Đau Thương Đến Chết
    Tác giả: Quỷ Cổ Nữ

    Chương 39 - Khử độc 1


    Nguồn: truyenngan.com.vn



    Ánh mắt Tư Dao đọng lại trên cây liễu khô ngẳng bên ngoài cửa sổ. Gần đây nhiệt độ ngoài trời giảm mạnh, cây liễu ấy đã sớm xác xơ từ những ngày đầu mùa đông, lúc này trông nó lại càng run rẩy, hắt hiu. Nhưng thật bất ngờ, hôm qua có một chú chim đến đậu trên cây liễu đến nửa giờ đồng hồ, đã đem lại cho cái khung cửa sổ này một chút sức sống.

    Liệu hôm nay nó có đến nữa không?

    Sinh mệnh héo tàn của mình có thể bay đến với chú chim có thể đem lại hi vọng và sức sống đó không?

    Hiện thực đã bộc lộ cho cô nhìn rõ khía cạnh tàn khốc của nó, cô sẽ thoát khỏi "Đau thương đến chết".

    Điều đáng buồn hơn là, khi sắp phải ra đi, cô không có gì hết.

    Cha mẹ đã ra đi trước mình, điều ấy không hẳn là rất đáng buồn; người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh mới là đau xót cùng cực. Các bạn thân thiết bao năm, dù ít hay nhiều cũng đã vì cô mà phải ra đi; tình yêu cô đã từng nâng niu thì tan nát, Lâm Nhuận đối với cô như một người yêu, một người thân, nhưng những biến cố đã xảy ra khiến cô cảm thấy bất ổn, cô cần có thời gian để nguôi ngoai.

    "Dao Dao!". Một giọng nói thân quen vang lên. Diêu Tố Vân đã đứng trước cửa buồng bệnh nhân.

    Tư Dao có phần ngạc nhiên lo sẽ làm liên lụy đến bạn. Cô và Tố Vân đã lâu ngày không liên lạc với nhau. Sao Tố Vân lại tìm đến đây được?

    "Các vị cùng thuê nhà của cậu đã cho biết, nên mình đến thăm cậu.". Tố Vân đặt một túi quà lên trên mặt tủ nhỏ kê ở đầu giường, rồi ngồi xuống bên cô. "Mình muốn biết sức khỏe cậu thế nào".

    "Vẫn rất ổn. Mình mắc một chứng bệnh chưa xác định rõ, nghe nói những người từng mắc phải nó đều có tiên lượng khả quan". Tư Dao không muốn làm cho bạn phải lo lắng, và cũng không muốn tiếp nhận sự thương hại.

    "Nghe nói hiện giờ cậu không thể chịu nổi những xáo trộn mạnh về tâm trạng, đúng không?"

    "Ấy là nói vậy thôi! Mình vốn đâu phải người hơi một tý là giật mình nhớn nhác? Họ nói thế, không thật đáng tin đâu. Này, cậu định đem đến cho mình một tin vui gì đặc biệt chăng? Mình đã sẵn lòng đón nhận, cậu nói đi?". Tư Dao nhận thấy mình vẫn rất hiếu kỳ như trước. Chắc cũng là dấu hiệu của sức sống ngoan cường!

    Tố Vân quan sát kỹ Tư Dao: "Cậu không vấn đề gì thật chứ?"

    "Mình đâu có mềm yếu như vậy! Nào, cứ hù dọa mình xem sao?"

    Tố Vân gật đầu, ngoảnh ra phía cửa gọi: "Xin mời vào!".

    Một người đàn ông dáng tầm thước bước vào. Tư Dao chưa từng biết ông ta nhưng cô cũng hơi kinh ngạc: ông ta rất giống một thổ dân trên hòn đảo nào đó ở Thái Bình Dương! Mái tóc không chải, bù xù như đám rễ tre, râu ria lấp kín mồm, che gần hết khuôn mặt. Quần áo thì như lâu ngày không thay, và rách bươm. Tuy nhiên trông vẫn có vẻ hiền hoà tử tế.

    "Ông là..."

    "Cô Tư Dao! Chúng ta đã từng gặp nhau qua điện thoại..."

    Dù đã chuẩn bị tâm lý nhưng Tư Dao vẫn kinh ngạc bật dậy khỏi giường, quên cả mình đang truyền dịch, người cô vẫn đang vướng các dây nhợ.

    Cô đã nhận ra giọng nói này. Đây là ông Cố Trân – nhà phong tục học đã mất tích bấy lâu.

    Tố Vân vội đỡ Tư Dao trở về giường. Người y tá nhìn qua cửa kính thấy thế vội chạy vào hỏi han và cũng rất ngạc nhiên nhìn ông Cố Trân.

    Tư Dao vội nói: "Hai vị này đều là bạn vào thăm tôi".

    "Bác sĩ Tạ Tốn đã nhiều lần dặn dò không được để cô ấy bị xúc động..."

    "Không sao đâu, tôi không hề xúc động gì cả". Tư Dao nói ngay.

    Người y tá lại nhìn Cố Trân, rồi mới đi ra. Tư Dao nói: "Tạ ơn trời đất, bác Trân vẫn ổn cả!"

    Ông Trân thở dài: "Cô xem, tôi đã thành ra nhếch nhác thế này, chưa thể nói là tốt đẹp gì. Tôi nghe nói cô đã đến thị trấn Hoa Tây để tìm tôi, rõ thật là khổ!"

    "Không ạ! Lẽ nào tôi không nên làm như thế?"

    "Tôi đã trốn khỏi núi Vũ Di, rồi về thẳng đây tìm cô, nghĩ rằng những điều tôi đã trải qua và phát hiện được sẽ giúp cô giải toả một số nghi hoặc".

    "Tôi có nghe một cậu thanh niên ở Thôn quái dị kể rằng, bác đã bị dân thôn hành hạ rất kinh khủng, tôi nghĩ đến mà phát sợ".

    "Tôi đang định kể với cô chuyện đó. Tôi nói ngắn gọn nhé, tôi chuyên nghiên cứu phong tục học và có tính tò mò rất mạnh. Sau khi nghe các vị kể về Tân Thường Cốc kỳ dị, về hang quan tài, về chuyện hãi hùng phơi thây ngoài đồng, về Thôn quái dị... tôi không nén được nữa, quyết định phải đi Hoa Tây một phen. Trước đó, tôi đã vào hang quan tài treo".

    "Thế thì không hay rồi! Những người vào đó đều đã lần lượt qua đời, chỉ còn sót mình tôi. Tôi cũng chẳng còn sống được bao lâu nữa. Lẽ ra hồi đầu tôi không nên truyền bức E-mail đó cho bác".

    "Tôi không nghĩ nhiều đến thế đâu, bởi vì câu chuyện nghe quá huyền bí, tôi không tin tà ma gì hết. Nào ngờ lúc tôi đi ra rồi đến thôn quái dị, tôi mới thấy hối hận vì mình đã vào cái thôn ấy!"

    "Tôi đến nơi lúc nhá nhem tối. Tôi vào thôn, cảm thấy ở đây có một bầu không khí hết sức kỳ dị. Thật thế, nếu hai cô nhìn thấy... một cái thôn không lớn, đang có khoảng một trăm người đủ các lứa tuổi đi trên đường, họ đều mặc áo mưa với cái mũ nhòn nhọn đội trên đầu – mà lúc đó trời không hề mưa! Hình như trong thôn xảy ra việc gì đó hết sức đáng sợ. Người nào cũng lo lắng nghiêm sắc mặt, bước đi vội vã không nói một lời, lầm lũi đi ra khỏi thôn về một địa điểm mới ở trong núi. Hình như dân thôn đều từ bỏ cái chốn yên tĩnh, đã đủ để cách biệt thế giới này để chạy đến một chốn còn cách biệt thế giới hơn nữa. Điều kỳ cục là ngay cả những đứa trẻ đi trong đoàn người cũng câm như thóc.

    "Có vẻ như hàng ngũ đang nghiêm chỉnh của họ đã bị sự có mặt của tôi làm cho đứt đoạn. Đang đi ra khỏi thôn, họ bèn lục tục quay lại. Tôi đang kinh ngạc hãi hùng, liền bị họ vây kín. Cả bầy người mặc áo mưa xám xịt. Tôi vốn nghĩ mình đã đi khắp bốn phương, học rộng biết nhiều... nhưng lúc đó thấy phát hoảng, bèn kêu lên "Tôi là nhà phong tục học, chỉ ngẫu nhiên đi qua đây thôi!". Một người trung niên bước ra, có lẽ là "ông trùm" của thôn, nhìn tôi chằm chằm và hỏi: "Tôi không cần biết ông là nhà gỉ nhà gì, chỉ muốn hỏi ông có vào hang quan tài treo – có ba cỗ quan tài, hai to một nhỏ - hay không?" Tôi nhớ Tư Dao đã dặn, nên cứ một mực phủ nhận. Nào ngờ ông ta lại nói: "Những ai đã vào hang quan tài, họ đều công nhận cả; tiếc rằng ông lại hèn nhát cãi phăng!" Tôi lớn tiếng phản bác cái logic của ông ta nhưng không ăn thua. Ông ta nói: "Tôi sẽ cho ông biết một thứ logic tốt hơn: đã đến đây rồi thì ông là khách của chúng tôi, khách chiều ý chủ, cho nên ông phải theo chúng tôi vào núi."

    "Tôi hết sức tò mò muốn biết rốt cuộc họ định làm gì, đi đâu nhưng lúc này nỗi sợ hãi đã lấn át, tôi chỉ mong thoát khỏi đám người ấy. Tôi đành trả lời quấy quả là tôi đồng ý đi cùng. Đám người bèn giãn ra, tôi bị kẹp vào giữa rồi tôi đi theo họ. Tôi hỏi mấy người bên cạnh, trong thôn đã xảy ra chuyện gì, nhưng không ai trả lời.

    "Đi vào một con đường núi, tôi cố để ý các dấu vết dọc đường, các chỗ rẽ ngoặt, chỗ lèn dốc... đồng thời giả vờ đau chân, tôi dần tụt xuống cuối đoàn người, thế rồi rình được cơ hội tôi quay đầu bỏ chạy. Tôi vốn quanh năm đi thăm thú các địa phương nên có "đôi chân thép" thứ thiệt; mọi ngày dù không xuống địa phương nhưng tôi vẫn là dân đam mê Ma-ra-tông, nên tôi rất tin mình sẽ bỏ xa đám dân thôn ấy. Họ tuy mạnh khỏe, quen đi bộ nhưng chưa chắc đã đuổi kịp một vận động viên nghiệp dư giàu kinh nghiệm và thường xuyên luyện tập nghiêm chỉnh như tôi.

    "Tôi cắm đầu chạy. Tiếng chân bước, tiếng hô phía sau dần im ắng. Tôi không dám chủ qua, vẫn ra sức chạy – chạy một lèo đến thôn Quái dị vắng tanh vắng ngắt, rồi lại chạy một hơi đến Thị Trấn Hoa Tây đã là nửa đêm, cả thị trấn đều đang trong giấc ngủ. Tôi nhìn xung quanh không một bóng người, bèn lấy di động ra, thấy vẫn có sóng, tôi bèn gọi cho cô. Tôi không muốn làm phiền cô nhưng vì lúc đó tôi cảm nhận rằng đám người kia sẽ không dễ gì buông tha cho tôi, lỡ tôi gặp bất trắc gì thì cô có thể báo công an.

    "Nào ngờ, khi tôi đang nói thì một bàn tay từ phía sau bịt mồm tôi rồi giật luôn di động. Những người mặc áo mưa đã đuổi kịp, trói nghiến tôi lại, ném xuống đất. Tôi có thể thấy rõ ánh mắt căm tức và tàn bạo của họ. "Ông trùm" tuổi trung niên nói khẽ: "Rời chúng tôi, ông chỉ có chết!". Tôi nghĩ, thế là hết, họ sẽ giết mình.

    "Tôi nằm trên mặt đất, bọn họ thì đứng im không nhúc nhích, sau đó từ từ lùi lại, bước đi. Tôi dần dần thấy người ngứa ngáy như bị loài sâu bọ gì đó đang bò khắp người. Các cô khó mà tưởng tượng nổi tôi cảm thấy cực kỳ khó chịu thế nào. Lúc đó tôi nghĩ nếu bị đày xuống địa ngục thì cũng chỉ khổ đến thế này là cùng. Nhưng tiếp đó còn kinh khủng hơn: bị ngứa đã đành, tôi còn thấy toàn thân như bị kim châm, chứng tỏ đúng là đã có đàn bọ trên người, chúng đang cắn tôi. Khốn đốn hơn nữa là tôi cảm thấy máu của mình hình như đang bị rút mất, thì ra là lũ bọ đang hút máu! Tôi luôn coi mình là người can trường, thế mà lúc đó cũng phải kêu lên nhưng tôi lập tức bị nhét khăn mặt vào mồm. Giờ đây nhớ lại cái cảm giác bức bối đau khổ ấy, tôi lại sởn gai ốc".

    Tư Dao cũng rùng mình, cô nói: "Sau đó tôi đã đến thị trấn Hoa Tây tìm bác, rồi lại báo công an nữa. Có một cậu bé nhìn thấy cảnh bác bị hành hạ, đã kể lại với tôi. Tôi ngỡ là bác đã bị sát hại".

    Ông Cố Trân kêu lên "Ôi chao...", ông cảm ơn, rồi lại kể tiếp: "Lúc đó tôi thấy mình sống thế này thì còn khổ hơn chết, chỉ mong có ai đó đấm cho tôi ngất xỉu thì tốt. Nhưng rồi, bị khốn khổ như thế rất lâu, tôi đã chết ngất thật. Khi tỉnh lại, tôi thấy mình bị nhốt trong một căn buồng. Kể cũng lạ, căn buồng toàn làm bằng sắt: cửa sắt, cửa sổ chấn song sắt, tường sắt, giường sắt..."

    Tư Dao khẽ kêu lên: "Nhà bằng sắt... tôi đã nhìn thấy ở phía dưới hang Thập Tịch".

    Ông Trân gật đầu: "Đúng là nó bằng sắt, nhưng sau này tôi biết nó ở rất xa hang Thập Tịch. Chắc là trong núi không chỉ có một căn nhà bằng sắt. Lúc đó tôi bị trói chặt, có người vào bón cơm và cho uống nước nhưng không hề nói với tôi một câu. Cứ thế liền mấy ngày, tôi gần như sắp phát điên. Bị nhốt, không thể thoát thân, cảm giác này cũng khốn đốn chẳng kém bị bọ đốt!"

    Tư Dao gai người, cô thấy những cảnh ngộ mà ông Trân trải qua lại đụng chạm đến một cảm giác nào đó từ nơi sâu thẳm trong đáy lòng cô... nỗi sợ hãi đối với không gian khép kín! Tại sao mình lại mắc chứng sợ hãi không gian khép kín? Tại sao mình cứ có cảm giác như đã từng nhìn thấy Tân Thường Cốc và căn nhà bằng sắt ở đâu rồi?

    Ông Trân nói tiếp: "Rồi một đêm... thực ra là đêm hôm kia, tôi thấy nhức nhối đến cùng cực. Tôi đang ngủ chập chờn thì choàng tỉnh dậy vì những luồng hơi nóng kinh người. Tôi ngồi lên, nhìn thấy ngoài cửa sổ rực đỏ, căn nhà sắt bị nung trong biển lửa ngùn ngụt!"

    Chuyện này sao lại trùng hợp... giấc mơ ấy của mình... đây chính là tái hiện cơn ác mộng ấy! Tư Dao ngây người, lòng như sóng cuộn, hình như cô là người đang ở trong ngôi nhà bằng sắt đó, đang bị những làn khí nóng bỏng đó hành xác.

    Tất cả là thực hay ảo?

    "Lúc đó tôi nghĩ thế là mình đi đời rồi. Bọn họ vẫn muốn giết mình, sao cái đêm hôm đó không để mình chết luôn cho sướng, lại bắt mình phải chịu đau khổ thế này? Và tôi thấy mình cực ghét phải chết như thế này: chỉ ít phút nữa, căn nhà sẽ hết ô-xy, chết ngạt; hoặc là lửa nung nóng căn nhà, mình ở trên giường hay dưới đất thì cũng bị nướng chết! Tôi vừa ức vừa tuyệt vọng, tôi sắp phát điên, tôi lớn tiếng chửi mắng, nguyền rủa trời đất, nguyền rủa đám thôn dân quái dị kia.

    "Căn nhà sắt mỗi lúc một nóng, không khí cũng loãng dần, toàn thân tôi đẫm mồ hôi, tôi sắp héo khô gục xuống đến nơi. Khi tôi mím miệng chuẩn bị chấp nhận cái chết thì một điều hết sức bất ngờ xảy ra: trận mưa rào cực to, trút nước liền hai giờ, đã dập tắt đám cháy ghê gớm kia.

    "Sắp chết rồi lại thoát, tôi bàng hoàng nghĩ nhưng không rõ sẽ còn những thử thách gì đang chờ đợi tôi? Cánh cửa sắt bỗng bật mở, người đàn ông có vẻ là "ông trùm" của dân thôn bước vào cởi trói cho tôi, rồi nói: "Ông hãy tạ ơn ông trời, và cảm ơn cả chúng tôi nữa, kể từ nay ông lại là một người sạch sẽ. Hãy đi về. Không được kể với bất cứ ai về những chuyện ông đã trải qua, cấm ông không được viết sách về chúng tôi. Nếu không, ông sẽ phải hối hận đấy!" Tôi lấy làm lạ bèn hỏi: "Sao ông biết tôi viết sách?" Người đó nói: "Ông là Cố Trân – nhà phong tục học nổi tiếng của tỉnh này, đúng không? Vì tiền, máy di động, giấy tờ của ông đây... Chúng tôi không muốn bị quấy nhiễu, nhưng không có nghĩa là chúng tôi mù tịt mọi chuyện ở bên ngoài" Tôi đang định hỏi, tìm hiểu về Thôn quái dị, thì người đó lại nói: "Ông không sợ tôi đổi ý à?" Nghe nói thế, tôi lập tức nhận các thứ của mình rồi bước ra. Ra khỏi cửa, tôi vẫn không nén được phải hỏi một câu: "Tôi có gì mà không sạch sẽ? Không sạch sẽ thì sao?" Người đó lạnh lùng trả lời tôi bằng bốn chữ: "Đau thương đến chết!".

    Nói xong, ông Trân chăm chú nhìn Tư Dao. Cô như đang "nhập thiền", vẫn đang suy ngẫm về những cảnh ngộ ly kỳ mà ông Trân đã trải qua. Sau một hồi lâu cô mới hỏi: "Bác vừa trải qua những nỗi gian nan, cũng đã trở về an toàn, chưa kịp ổn định mọi việc bác đã đến Giang Kinh kể cho tôi biết mọi chuyện, thực hết sức cảm ơn bác Trân".

    "Sau khi ra khỏi núi, tôi đã gọi điện cho cô ngay. Bạn cô nói cô đang nằm viện, tôi bèn liên lạc với cô Tố Vân, thế là tìm đến đây. Mục đích của tôi là mong cô suy nghĩ kỹ xem, biết đâu sẽ có được gợi mở gì chăng..."

    "Gợi mở? Chẳng lẽ ý bác là..."

    "Mấy hôm nay tôi cứ nghĩ ngợi, dân Thôn quái dị bắt tôi chịu những cực hình, lại nói là để tôi được "sạch sẽ", liệu có phải họ giúp tôi trừ bỏ những thứ "không sạch sẽ" mà tôi bị dính ở hang quan tài không? Nói thế thì không có vẻ khoa học gì cả, nhưng còn có thể có cách giải thích nào khác?". Vẻ mặt ông Trân rất nghiêm túc.

    Nghe nói thế Tố Vân cũng ngớ ra, cô không nén được hỏi luôn: "Chẳng lẽ lại là dùng các con bọ ấy để chữa bệnh cho bác?".

    "Trong quá trình khảo sát phong tục dân gian, tôi đã ghi chép được những cách chữa bệnh lạ lùng trong dân, có cả cách dùng đỉa hoặc sâu độc để hút các chất độc ở các vùng trên cơ thể người bệnh. Rất có thể, cho các con bọ hút máu tôi, là một cách giải độc cũng nên".

    "Nếu thế tức là dân ở Thôn quái dị cho rằng bác bị nhiễm độc ở hang Thập Tịch, nên họ đã dùng sâu bọ hút bỏ chất độc cho bác?" Tố Vân hỏi.

    "Đúng. Làm thế thì tôi đã được "sạch sẽ", sau đó họ đốt lửa quanh ngôi nhà bằng sắt, liệu đó có phải là cách "khử độc bằng nhiệt độ cao" không? Còn về trận "cập thời vũ" (1) đó – tôi nhớ rằng Tư Dao đã từng nhắc đến ông già mặc áo mưa có thể dự báo chính xác thời tiết – thì có thể là dân ở Thôn quái dị cũng giỏi dự báo thời tiết? Họ đợi ngần ấy hôm, là để chờ một trận mưa; vì tôi nhớ rằng những ngày bị nhốt trong căn nhà bằng sắt thì trời không hề mưa một giọt, mãi cho đến cái đêm cuối cùng ấy..."

    Tư Dao gật đầu nói "có lý". Cô càng thêm cảm kích trước sự nhiệt tình của ông Cố Trân nhưng cô nghĩ thầm, suy đoán của ông quá ư hão huyền; nếu làm như đề nghị của ông Trân thì sẽ giải thích với các bác sĩ ra sao? Chẳng lẽ lại đến núi Vũ Di tìm những người dân ở Thôn quái dị để họ "xử lý" mình như ông Trân – cho bọ hút máu, rồi nhốt vào nhà bằng sắt... Mình vốn đã mắc chứng sợ hãi không gian khép kín!

    Tại sao mình lại mắc chứng đó? Tại sao mình lại có cảm giác đã nhìn thấy Tân Thường Cốc?

    Cô nghĩ đến bác sĩ Du Thư Lượng.

    Chú thích

    (1) Cập thời vũ: mưa kịp thời (nghĩa đen); biệt hiệu của Tống Giang – Cập thời vũ Tống Công Minh trong truyện Thủy hử: chỉ người chu đáo, biết giúp người rất đúng lúc (nghĩa bóng).

     
  2. Alpha Wolf

    Alpha Wolf Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/5/15
    Bài viết:
    1,211
    Được thích:
    169
    Đau Thương Đến Chết
    Tác giả: Quỷ Cổ Nữ

    Chương 40 - Thôi miên


    Nguồn: truyenngan.com.vn



    Khi bác sĩ Du Thư Lượng đến bệnh viện số 7 Giang Kinh thì Tư Dao đang ngằm ngay ngắn trên giường bệnh, nhìn lên trần nhà nghĩ ngợi. Thấy bác sĩ Lượng vào, cô ngồi dậy: Chào bác sĩ Lượng, em phiền anh đến để xin anh giúp tìm ra căn nguyên của chứng bệnh sợ hãi không gian khép kín. Em cảm thấy lần trước anh nói rất đúng: nguyên nhân của nó có lẽ liên quan đến những cơn ác mộng mà em gặp, liệu anh có thể bắt đầu từ chi tiết này không?

    -Em nên biết là... trước đây tôi có ý định áp dụng phương pháp thôi miên với em. Trong điều trị, tôi thường gắng hạn chế dùng cách thôi miên, đây hoàn toàn chỉ là phong cách cá nhân. Nhưng tình hình của Tư Dao khá đặc biệt, tôi cảm nhận rằng trong ý thức của em tiềm ẩn một ký ức về sự sợ hãi không gian khép kín nên chứng bệnh này hình thành và phát triển; do đó dùng phương pháp thôi miên là thích hợp. Liệu em có ghét việc thôi miên không? Bác sĩ Lượng luôn tin ở chân lý thẳng thắn công khai đối với mọi bệnh nhân, đây cũng là một tyếu tố để anh thành công.

    Tư Dao nói: Dù anh dùng phương pháp gì, chỉ cần có thể tìm ra căn nguyên rồi chữa khỏi bệnh cho em là được.

    Thư Lượng khẽ thở dài: Dù tìm được căn nguyên thì tôi cũng chỉ dám nói là sẽ cố gắng giúp em bình phục, còn khỏi hoàn toàn hay không, vẫn cần cả hai phía chúng ta cũng nỗ lực. Tôi sẽ nói với bác sĩ Tạ Tốn, mượn một gian phòng để chúng ta bắt đầu.

    Thao tác thôi miên kết thúc, bác sĩ Lượng cầm chiếc khăn giấy lau mồ hôi trên trán.

    -Thưa anh, thế nào rồi ạ? Tư Dao vẫn chưa hoàn toàn ra khỏi trạng thái lơ mơ nhưng cô thấy vệt nước mắt trên mặt mnhf vẫn chưa khô hết.

    -Cũng hơi khó nói. Chứng sợ hãi không gian khép kín của em có liên quan đến một sự kiện thời niên thiếu, đương nhiên đó là một sự kiện không vui.

    -Sao lại nói thế ạ?

    -Vì khi hỏi đến sự kiện lần đó thì em khóc và gọi "mẹ ơi"

    -Gọi mẹ?

    -Vậy đã xảy ra chuyện gì, tại sao em bông nghĩ đến việc điều trị bằng thôi miên? Em nên nhớ hiện nay em rất cần chú ý giữ sức khỏe...

    -Có lẽ em đã hơi biết tại sao em hay ngủ mê như thế, tại sao em mắc chứng sợ hãi không gian khép kín. Nhưng mới chỉ là cảm giác, vẫn cần có ít thời gian nữa ..

     
  3. Alpha Wolf

    Alpha Wolf Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/5/15
    Bài viết:
    1,211
    Được thích:
    169
    Đau Thương Đến Chết
    Tác giả: Quỷ Cổ Nữ

    Chương 41 - Khử độc 2


    Nguồn: truyenngan.com.vn



    Chương Vân Côn bước ra khỏi thư viện trường đại học Y số 2 Giang Kinh. Vì đọc quá nhiều, anh thấy mặt hơi cộm..nhưng thu hoạch thì chưa được là bao. Trong hai giờ liền, anh đã đọc các tài liệu về virut học, dịch tễ học, bệnh lý học..nhưng vẫn chưa tìm được gì khả quan. Virut tìm thấy ở Tư Dao và thi thể Thường Uyển thuộc nhóm virut Ke-sa-ji B. Nhóm virut này gồm sáu biến thể, nhưng các chuyên gia của khoa Bệnh lý học và Vi sinh vật học sau khi nghiên cứu phân tích, đã đưa ra kết luận hết sức kinh ngạc: virut có trong cơ thể Tư Dao và Thường Uyển không thuộc sáu loại hình này. Bệnh nhân nhiễm virut Ke-sa-ji thường chỉ bị cảm cấp tính, chứ không có các triệu chứng lâm sàng, nhưng loại virut mới này còn có đặc điểm là thời kỳ ủ bệnh dài ngắn khác nhau. Những người đã vào hang Thập Tịch đều trải qua ít nhất hai tháng mới phát bệnh rồi tử vong.

    Sau các kiểm tra tỉ mỉ, đọc hàng trăm bài nghiên cứu và luận án y học và thú y (vi rút Ke-sa-ji vốn bắt nguồn từ động vật), Chương Vân Côn không thấy có ghi nhận nào về loại hình Ka-se-ji mới và đương nhiên càng không nói đến tình hình dịch bệnh. Thật hết sức kỳ lạ, chẳng lẽ từ các ca này sẽ phát hiện ra một biến thể mới của Ke-sa-ji? Các chuyên gia vi sinh vật y học đều rất xúc động, nhưng Vân Côn cho rằng vẫn nên thận trọng, cần nghiên cứu thêm đã.

    Vân Côn về đến nhà thì đã quá giờ ăn bữa tối. Vợ anh- chị Âu Dương Sảnh đang có bầu, ngồi nghỉ ở đi văng, thấy anh chậm chạp lê buớc vào, bèn hỏi công việc đã tiến triển đến đâu. Âu Dương Sảnh là con người luôn sẵn nhhững câu hỏi trong đầu, bất cứ việc gì chị cũng đều muốn biết tận cùng mới yên; Vân Con cũng thường hay bàn luận với vợ. Anh biết, mình luôn dốc sức vào lĩnh vực giảng dạy và nghiên cứu y học cơ sở, còn Âu Dương Sảnh là bác sĩ giàu kinh nghiệm lâm sàng hơn hẳn anh. Vân Côn nói: Về mặt cấu trúc, thì gần như có thể khẳng định nó là loại virtu đã từng được biết đến.

    -Thế thì cũng không đến nỗi khiến anh phải đăm chiêu thế này!Bắt đầu từ thế kỷ trước gới y học đã thật sự biết đến virut. Một thời gian dài vì thiếu thiét bị nên người ta đã phải chật vật mầy mò, rất bí. Ngày nay người ta liên tiếp nhận diện ra các virut mới. Dù là các virut đã bị nhận diện, thì chúng không ngừng biến đổi, và các anh vừa khéo phát hiện ra, có khác gì các bậc tiền bối đã phát hiện ra hàng ngạn vạn chủng loại virut?

    -Anh suy nghĩ, không lo ngại, phá hiện mới này có mối liên hệ với vụ việc kia- sao có thể trùng hợp như vậy- Các cô cậu thanh niên đi vào vùng thung lũng ấy thì nhiễm luôn loại virut mới chư từng được biết đến này? Nghe nói. Lại còn có một người bí hiểm mặc áo mưa, đã cảnh báo họ...Nói cách khác, anh lo ngại rằng loại virut này sinh sôi và lây nhiễm là do có yếu tố con người cố tình gây nên.

    Âu Dương Sảnh hơi sững sờ, đây đúng là một "khả năng" đáng sợ. chị nghĩ ngợi, rồi nói: Anh có nghĩ rằng, nó làthứ virút nhân tạo không?

    -Virut nhân tạo? Anh chư từng nghe nói bao giờ. Chắc không phải em nói về virut máy tính đấy chứ? Vân Côn biết, chỉ Âu Dương Sảnh mới có những ý nghĩ bất ngờ như thế này.

    - Ở trong nước và nước ngoài, kỹ thuật sắp xếp lại gen ngày càng tiến bộ, lĩnh vực nghiên cứu virut tuy vẫn còn rất nhiều chằng đường phải đi, nhưng ở trình độ phân tử thì đã có không ít các bước đột phá. Gọi là 'tạo ra' virut đương nhiên chỉ là em giải thiết vậy thôi; người ta đã có thể tác động vào gen thì tại sao lại không thể xử lý virut? Các biến thể của một loại virut chính là những khác biệt rất nhỏ của chuỗi gen, nhưng tác dụng bệnh lý của virut thì lại có thể khác nhau rất xa.

    - Hơi có lý đấy.

    -Anh có muốn nghe thêm nữa không nào? Mọi ngày em làm về lâm sàng, ít ca không thể chẩn đoán chắc chắn, nhưng những trường hợp đó cũng không phải là quá hiếm hoi. Làm về dịch tễ học cũng vậy, có những căn bệnh bùng phát nhưng không thể tìm ra nguyên nhân. Em nghĩ anh cứ tìm các tài liệu về dịch tễ học hoặc hỏi thêm các chuyên gia dịch tễ học, xem có đợt bệnh tật nào bùng phát đáng nghi hay không, biết đâu lại có thể lần ra manh mối.

    - Nhưng, nước ta từ những năm 50 này sinh nhiều trận dịch, đất rộng người đông, tài liệu suốt nửa thế kỷ quá nhiều, sao có thể nhanh chóng tìm ra các ca điển hình tương ứng?

    Âu Dương Sảnh thường rất hay suy luận, chị nghĩ ngợi rồi nói: chúng ta thử phân tích: nếu căn cứ vào kết quả kiểm tra của các anh để suy đoán, thì các sinh viên chẳng may qua đời là vì đã vào thung lũng và hang quan tài nên bị nhiễm virut; nếu loại trừ khả năng do con người gây nên, thì khả năng lớn nhất có thể xay ra bệnh dịch tương tự là ở vùng nào?

    -Tất nhiên là quanh vùng núi đó.

    -Vậy anh đã rõ rồi chứ gì? Anh chỉ cần tìm các tài liệu về dịch bệnh ở khu vực núi Vũ Di.

    Vân Côn kêu lên : Ý kiến quá sáng suốt! Anh đứng lên quên cả ăn, rảo bước đến bàn đặt máy tính.

    -Thì anh cũng phải ăn đã chứ? Âu Dương Sảnh cười cười nhìn anh.

    Lúc này Vân Côn mới cảm thấy đói bụng, anh rẽ vào phòng ăn. Nhung một cú phôn đã khiến anh không thể nào ăn bữa tối.

    Lại một sinh viên Giang Kinh qua đời!

    Vân Côn miệng nahi bánh bisquy, bước đến cửa khu nhà giải phẫu. Anh gặp trưởng phòng bảo bệ đại học Y Giang Kinh Vu Tự Dũng đã đứng chờ sẵn ở đó với vẻ mặt nặng nề. Nếu nói rằng " Vụ mưu sát 405 mới" của năm ngoái là làn sóng đầu tiên dấy lên sau 10 năm "Vụ mưu sát 405" trôi đi thì kể từ đầu năm nay, cái chết này lại khiến cho các vị lãnh đạo nhà trường phải đau đầu.

    -Lần này thì càng không giống như một vụ giết hại. Nạn nhân là Tôn Yến, đang ngòi trong phòng làm bài thi cuối học kỳ thì ngất xỉu, được đưa vào bệnh viện trực thuộc số 1 cấp cứu, nhưng không kết quả" Vu Tự Dũng đi theo phó giáo sư Chương Vân Côn vào phòng giải phẫu.

    -Bệnh viện chẩn đoán là gì?

    -Là đột tử do tim bị tắc mạch máu dẫn truyền. Nguyên nhân cụ thể thì chưa rõ, họ đang lấy các mẫu bệnh phẩm để xét nghiệm. Nhà trường rất quan tâm, đã cùng bàn bạc với bệnh viện và gia đình Tôn Yến, để thống nhất cho giải phẫu bệnh lý. Vì lần trước khám nghiệm tử thi, thầy đã có phát hiện quan trọng nên lần này nhà trường cử tôi đến mời thầy tối nay sẽ mổ, lấy mẫu bệnh phẩm thì mọi người sẽ đều yên tâm.

    Các nghiên cứu sinh đã giúp Vân Côn mặc áo choàng chỉnh tề. Trước hết, anh cầm theo chiếc kính lúp để quan sát mắt cá chân của thi thể. Vu Tự Dũng nói: Tôi đã nhìn rồi, không thấy có dấu hiệu gì cả. Tôi đã hỏi các bạn học và phụ huynh của cô ta, họ nói nghỉ hè vừa qua cô ta không hề đi du lịch núi Vũ Di. Nhưng có một chi tiết này tôi cho là quan trọng: thấy còn nhớ một trong 5 sinh viên chết năm ngoái- trong đó có cậu Hoắc Chí Hùng thuê nhà bên ngoài trường, rồi trúng đọc khí gas? Tôn Yến chính là người yêu của cậu Hùng.

    -Thế ư? Anh có dò hỏi các bạn sinh viên khác xem, hai người có quan hệ tình dục với nhau không?

    -Tôn Yến đã từng đến ở với Chí Hùng ở gian nhà thuê ấy.

    Bản báo cáo vắn tắt tình hình dịch bệnh mà tỉnh Phúc Kiến nêu ra năm 1980, đã tổng hợp về bệnh trong toàn tỉnh, có một đoạn như sau:

    -Kể từ mùa xuân, một thôn vô danh thuộc thị trấn Hoa Tây huyện Sùng Anh đã có nhiều người và súc vật bị chết. Theo kết quả điều tra, người và động vật đều đột tử, không rõ nguyên nhân. Có nhiều nạn nhân là vợ chồng, hoặc cả nhà lần lượt tử vong. Các quan chức bộ phận phòng chống dịch bệnh đã sơ bộ nhận định đay là một loại dịch truyền nhiễm cấp tính. Việc điều tra dịch bệnh bùng phát gặp nhiều khó khăn, Khi các nhân viên phòng dịch đến thôn có dịch thì không gặp một ai, hình như dân thôn đã đột ngột bỏ đi. Các nhân viên vệ sinh dịch tễ đã phát hiện thấy xác chết bỏ lại ở một số gia đinh dân thôn, định đưa về xét nghiệm nhưng không thành công.

    -Huyện Sùng An chính là thành phố Vũ Di Sơn ngày nay.

    Người viết bản cáo cáo này là Đường Lễ Trung.

    Cái tên nghe rất quen.

    Vân Côn nghĩ ngợi một hồi, không nhớ ra dã nghe thấy cái tên này ở đâu. Anh lên mạng lục tìm.

    Đường Lễ Trung là người phụ trách trung tâm phòng chống dịch bệnh của tỉnh Phúc Kiến, là một chuyên gia về dịch tễ học.

    -Chào anh Trung, tôi là Chương Vân Côn, phó giáo sư công tác tại khoa giải phẫu đại học Y số 2 Giang Kinh. Tôi đã đọc bản báo cáo dịch tễ năm 1980 do anh viết, nói về trận dịch kỳ lạ ở huyện Sùng An..." Vân Côn gọi điện thoại, nói về mục đích của mình.

    -Anh ở Giang Kinh à?

    -Vâng. Vân Côn thấy câu hỏi này có phần kỳ cục.

    Ông Trung im lặng một lát, hình như đang cố moi lại ký ức xa xưa, cuối cùng ông chậm rãi nói: Tôi đã làm công tác phòng chống dịch bệnh 30 năm, dã viết rất nhiều bóa cáo dịch tễ, anh nói về bản báo cáo xa xưa ấy, tôi nhớ sao được?

    Vân Côn chẳng biết nói sao, nhưng anh cảm thấy ông Trung đang có ý lảng tránh. Tại sao? Vân Côn đang nhớ đến cảnh ngộ ông Cố Trân gặp phải mà hôm nọ anh được nghe kể.

    -Sở dĩ tôi làm phiên anh, là vì có những việc liên quan đến tính mạng con người. Tôi tin anh chưa quên trận dịch đáng sợ mà năm đó chưa kết luận được. Anh vẫn theo dõi tình hình dịch bệnh ở các địa phương, và không muốn ổ dịch tương tự lại tái phát. Chắc lâu anh đã yên tâm vì đúng là không có hiện tượng gì, nhưng có lẽ anh chưa biết cách đây không lâu, gần như bệnh dịch y hệt lần đó lại bùng phát ở chính cái thôn ngày trước. Lần này hơn chục thanh niên ở cách xa nơi ấy hàng nghìn cây số đã bị tử vong bởi cùng một căn bệnh.

    -Sao? Xảy ran gay ở tỉnh tôi mà tôi lại không nhận được thông tin gì cả?

    -Có lẽ... vì cái thôn ấy quá cách biệt với xã hội cũng nên.

    Ông Trung lại im lặng, nhưng rồi nói luôn: Đúng là tôi đã viết bản vắn tắt đó. Tôi còn nhớ lần đi điều tra ấy tôi suýt nữa thì mất mạng!

    -Anh có thể nói cụ thể được không? Bản báo cáo đó quá ngắn gọn, rất hay, nhưng có điểm này tôi không hiểu: anh nói là các nhân viện định mang các thi thể trong thôn về, nhưng không thành công là vì sao?

    -Các nhân viên đó, thực ra là tôi và một anh nữa. Chúng tôi đi trên chiếc xe lam chạy điện, xuất phát từ thị trấn Hoa Tây, còn phải đi qua đoạn đường xuyên bãi tha ma kia, tất nhiên điểm khác biệt duy nhất với các nghĩa địa khác là sự kinh khủng, đặc biệt là khi xe chúng tôi đang chở một xác chết. Ông bạn đồng hành với tôi đã từng nghe rất nhiều chuyện ma, nhưng ngồi trên xe ông chỉ nhắm tịt mắt, hình như đang thẩm cầu khẩn. Tôi thì hoàn toàn không tin chuyện quỷ thần, nhưng khắp người vẫn nổi gai óc.

    -Bỗng chiếc xe ba bánh vấp phải vật gì đó, nên lắc lư dữ dội. Chúng tôi bị xô tới xô lui trong cái thùng xe có mui che nửa vời. Cuối cùng xe chết máy. Anh lái xe lầu bẩu, nhả xuống xem xét, định sửa máy. Tôi ngồn trên xe, càng nghĩa càng thấy an. Bốn bề rất tĩnh mịch, chỉ nghe thấy tiếng gió vi vu cho nên khi anh lái xe kêu "ôi..." thì chung tôi nghỡ chắc anh ta đã gặp ma. Ngay tôi cũng nghĩ thế.

    Chúng tôi nó ra ngoài xe và phát hoản vì thấy một đám đông đã vây kín chiếc xe ba bánh. Họ đều mặc áo mưa màu xám, đầu đội mũ mưa nên không nhìn rõ mặt.Họ đều im lặng, cứ như là ma quỷ vừa chui từ dưới đất lên. Chắc anh Vân Côn cho rằng đó là cảnh đáng sợ nhất mà tôi gặp tối hôm đó. Không, cái đáng sợ nhất còn ở phía sau...

    Vân Côn nảy ra một ý: Xin lỗi, tôi ngắt lời Trung. Anh cho phép tôi tóm tắt các tình tiết sau đó các anh gặp phải- nếu tôi nói đúng, thì khỏi cần anh mất thì giờ nhiều nữa,vi anh là lãnh đạo, rất bận công tác...Thế rồi Vân Côn kể lại một lượt những điều mà ông Cố Trân đã nếm trải.

    Ở đâu dây bên kia, ông Trung thở nặng nhọc gấp áp, giọng run run: Đúng thế. Gần như không sai tý nào! Bọ hút máu, nhà bằng sắt, lửa cháy...hiện nay tôi vẫn thường ngủ mê thấy những cảnh này...

    -Sao anh nói là 'gần như không sai tý nào?" Sống bên Âu Dương Sảnh đã lâu, Vân Côn ngày cảng cẩn thận kỹ càng hơn xưa.

    Ông Trung ngập ngừng rồi nói : Khi chúng tôi bị hành hạ, thì trong đám dân thôn ấy luôn có một tiếng nói phản bác, nói là làm thế không ăn thua gì đâu. Người ấy nói tiếng phổ thông rất chuẩn, rất ít màu sắc phương ngôn, tôi cảm nhận người ấy có học vấn rất khá nhưng ý kiện của anh ta không lọt vào tai ai. Trận mưa sau đó đã dập tắt đám lửa. Người trẻ tuổi ấy vào cởi trói và thả chúng tôi ra khỏi núi. Khi trò chuyện anh ta không nói một câu về cái thôn đó, nhhưng tôi nhận ra rằng anh ta đã được học Y khá sâu, bèn hỏi thực ra anh là ai. Cảm thấy khó có thể giấu giếm, anh ta bèn nói thật, mình là một giảng viên trẻ ở đại học Y số 2 Giang Kinh. Ba chục năm trôi qua, tôi ngỡ mình đã quên họ tên người ấy, nhưng vì câu chuyện đó để lại ấn tượng quá mạnh...anh ta tên là Đậu Hoán Chi.

    -Điều mà tôi nhớ như in là anh ta nói rằng, mình đang vùi đầu nghiên cứu phương pháp điều trị căn bệnh quái ác này và đã có bước tiến mang tính đột phá.

     
  4. Alpha Wolf

    Alpha Wolf Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/5/15
    Bài viết:
    1,211
    Được thích:
    169
    Đau Thương Đến Chết
    Tác giả: Quỷ Cổ Nữ

    Chương 42 - Nguồn cơn


    Nguồn: truyenngan.com.vn



    "Anh Quách Tử Phóng phải không?"

    "Cứ nói đi!" Mấy hôm nay Tử Phóng đang bận tíu tít với các "bông hoa" ở trong và ngoài Dạ hội Mùa xuân, đồng thời vẫn băn khoăn cho bệnh tình của Tư Dao, tâm trạng lo lắng của anh thể hiện ngay trên cả máy điện thoại.

    Chương Vân Côn nhíu mày những vẫn nhẫn nại: "Tôi là Chương Vân Côn, phó giáo sư ở đại học y Giang Kinh".

    "À... giáo sư Vân Côn. Tôi đã nghe Dao Dao nhắc đến anh, rất ca ngợi anh". Tử Phóng thầm mắng mình đã quá bỗ bã.

    "Bác sỹ Tạ Tốn cho tôi số điện thoại của anh, anh có thể liên hệ với gia đình Tư Dao nhưng tôi không định trao đổi với anh về chuyện cô ấy, mà muốn nhờ anh tìm hiểu về một hai người..."

    "Việc của anh cũng là việc của tôi, tôi sẽ điều tra. Dao Dao còn có hai cậu bạn nữa hay ghiền máy tính, cũng là cao thủ về tìm người".

    "Chuyện này thực ra vẫn là liên quan đến Tư Dao... Gần đây tôi đã hỏi thăm, biết được một người rất có thể đã biết phương pháp chữa khỏi bệnh cho Tư Dao."

    "Thế thì quá tốt rồi! Dù tôi có bị mất việc cũng phải tìm bằng được người ấy!"

    "Người ấy vốn cũng là một giảng viên của đại học y Giang Kinh, nhưng hơi kỳ lạ - không tìm thấy tên ông ta trong kho lưu trữ hồ sơ nhân sự. Tôi đã đến hỏi ở Trung tâm nghiên cứu đông tây y kết hợp thì được biết trước kia ông ta làm ở đó, vào đầu những năm 80, vì có những biến động lớn trong cuộc sống nên ông ta đã đi khỏi trường. Hộ khẩu thì vẫn còn ở Giang Kinh, nhưng người thì bặt tin. Các đồng nghiệp cũ của ông ta phần lớn đều là thầy thuốc đông y, hầu hết đã qua đời; nhưng dù còn sống thì cũng không nhớ nổi đã xảy ra chuyện gì đối với ông ta, ông ta đã đi đâu. Cũng may có một bác kỹ thuật viên cao tuổi, đã giở tìm trong đam giấy tờ lưu cữu mấy chục năm thấy một tấm thiệp cưới - tức là ông ta đã kết hôn, tên người vợ còn ghi trên đó. Ông ta tên là Đậu Hoán Chi, vợ tên là Đỗ Nhược".

    Tử Phóng ghi lại tên hai người, anh nói: "Được. Dù có bỏ cả việc phỏng vấn dhmx thì tôi cũng phải tìm ra hai vị này giúp anh Côn!"

    Năng nổ bắt tay vào làm, là sẽ được việc; nhất là làm phóng viên. Có những việc bế tắc điều tra mãi cũng không ra, nhưng ở thời đại thông tin này Tử Phóng nghĩ chỉ tìm hai người thì không đến nỗi quá khó.

    Nhưng ngày hôm sau Tử Phóng lại nghĩ, lẽ ra mình không nên tìm tung tích hai nhân vật này.

    Theo công an nơi đăng ký hộ khẩu năm 1980, Đậu Hoán Chi đã bị coi là mất tích.

    Đỗ Nhược, năm 2004 bị ốm, qua đời ở tuổi 51, có một người con gái tên Mạnh Tư Dao.

    Điện thoại giữa ba người, Tử Phóng báo kết quả cho Chương Vân Côn và Du Thư Lượng cùng biết. Cả ba đều không nói gì nữa.

    Cuối cùng, Du Thư Lượng phá tan sự im lặng: "Anh Tử Phóng biết chứ, Tư Dao có một bà bác đang ở Giang Kinh, hình như quan hệ với Tư Dao không thân mấy; nhưng rất có thể bà ta biết rõ sự tình"

    "Tôi sẽ đối phó bà ta" . Tử Phóng xung phong ngay.

    "Tôi có cảm giác rằng, bên trong còn nhiều vấn đề đan xen rất phức tạp. Hay là anh Phóng để tôi thử xem sao?" Du Thư Lượng nói

    "Ôi, tôi chỉ mải thỏa chí tò mò mà quên rằng anh là chuyên gia về phương diện này. Vâng, anh làm vậy! Tôi sẽ nhờ hai chuyên gia máy tính giúp tìm xem người mất tích kia đâu"

    "Tôi cũng sẽ chú ý, tạm thời không để cho Tư Dao biết các thông tin này. Bác sỹ Tạ Tốn không mấy lạc quan về bệnh tình của Tư Dao, vì thuốc ổn định nhịp tim chỉ có hiệu quả lúc đầu, mấy hôm nay hiệu quả đang kém dần. Chính Tư Dao cũng cảm thấy sức khỏe rất không ổn; hiện cô ấy đang rất khó khống chế hiện tượng viêm cơ tim do virus gây ra. Ở giai đoạn này, các bác sỹ thường chỉ là "tọa sơn quan hổ đấu", hi vọng khả năng miễn dịch của Tư Dao sẽ chiếm ưu thế. Lúc này, mọi sự xáo trộn tình cảm tâm lý đều có hại cho cả chứng rồi loạn tim lẫn khả năng miễn dịch".

    "Em tưởng anh sẽ không bao giờ đến gặp em nữa: Tư Dao lạnh nhạt nói.

    "Sao thế? Em vẫn thấy ghét anh à?" Sự kiêu hãnh của Lâm Nhuận không hề suy giảm, nhưng đứng trước Tư Dao anh bằng lòng cầu xin tình yêu của cô.

    "Đâu dám! Em không ghét, cũng không yêu. Tất cả chỉ có thế thôi!"

    "Sao lại thế?"

    "Em đang rất cố gắng giữ bình tĩnh để không bị xáo trộn tình cảm". Tư Dao nhìn Lâm Nhuận đang ngơ ngác không hiểu ra sao, cô suýt nữa phì cười.

    "Anh biết mình không có cái phúc đó, cũng không đáng để em phải xúc động. Tại anh, anh đã không có can đảm đối mặt với hiện thực, sống mãi trong sự dối trá. Nếu anh ở địa vị em, anh cũng không thể tin được nên anh mong em sẽ lượng thứ cho anh". Lâm Nhuận cúi đầu.

    Thực ra lâu nay Tư Dao cũng đã nhìn nhận thấu đáo việc này. Lâm Nhuận thật sự yêu cô, anh đã nhất quyết đối lập với người cha đen tối kia. Nhưng anh đã giấu giếm bản thân quá lâu, anh không thể lựa chọn môi trường xuất thân nên đã dẫn đến tình thế đầy khó khăn hiện nay. Chắc chắn anh bị giày vò rất nặng nề nên mới năng đến khám chuyên gia thần kinh như thế. Mặt khác, đúng là anh đã mạo hiểm liều mình bất chấp sống chết để cứu cô vì thế anh chắc chắn sẽ là nạn nhân của "Đau thương đến chết" bất cứ lúc nào. Tình cảm sâu sắc của anh thực khó bề đền đáp.

    "Anh đã đến khám bác sỹ chưa?" Tư Dao dịu dàng hỏi.

    "Đến rồi, tất cả đều bình thường. Bác sỹ còn dặn dò kỹ, nếu anh tuân thủ nghiêm ngặt thì chắc chắn sẽ ổn cả".

    "Thế ư, thế thì hay quá! Cách dự phòng là như thế nào?"

    "Là, ngày nào cũng vào thăm em".

     
  5. Alpha Wolf

    Alpha Wolf Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/5/15
    Bài viết:
    1,211
    Được thích:
    169
    Đau Thương Đến Chết
    Tác giả: Quỷ Cổ Nữ

    Chương 43 - Chết đau thương


    Nguồn: truyenngan.com.vn



    Ông đã sớm biết mình không được cái thành phố này dung thứ hoặc nói cách khác, ông sẽ không được cái "thế giới bên ngoài" ấy chấp nhận.

    Vốn là một đứa con của núi rừng nhưng mọi thứ ông đã trải qua không phải như cách nói cũ rích "trẻ con nhà quê chỉ là hạt bụi của thành phố". Với ông, thành phố hay nông thôn hoàn toàn không phải là điểm mấu chốt mà vấn đề nhân tính - bản tính con người kể từ thời Bàn Cổ Nữ Oa, Adam Eva đến nay là phức tạp và quanh co nên đã dẫn đến bao nhiêu bi kịch. Ông chỉ đóng một vai rất nhỏ trong các tấn bi kịch đó.

    Tiếc thay khi ông nhận rõ điều này thì đã quá muộn. Sai lầm lớn nhất đã xảy ra, bát nước đánh đổ khó bề vét lại.

    Ông là con người không biết đến hai chữ hối hận, đã quyết định làm việc gì, dù sai cũng dám nhận, nếu có cả trăm cơ hội làm lại, cũng vẫn chỉ lựa chọn như cũ. Tuy các bô lão trong thôn kể đã trăm lần về câu chuyện lưu truyền trong cái vùng khuất nẻo của họ: những thanh niên nào bỏ thôn mà đi xông pha bên ngoài, ai cũng đau thương đến chết nhưng ông bỏ ngoài tai câu chuyện ấy.

    Cả thôn vài trăm người, ai cũng tin điều đó nhất là sau khi xảy ra rất nhiều câu chuyện đau thương đến chết. Hồi đó ông là đứa trẻ thông minh nhất thôn, không tin chuyện này đã dám phạm cái sai lầm ấy.

    Hồi ấy ông 14 tuổi cực kỳ ham học và cho rằng đã học hết y thuật của các bô lão trong thôn. Sau khi cha mẹ qua đời, ông sống với chị gái. Ông lén ra khỏi thôn, đi học nghề của một thầy thuốc đông y nổi tiếng khắp huyện Sùng An. Ngoài 20 tuổi, ông đã nổi tiếng gần xa.

    Lòng ham hiểu biết ngày một mạnh, ông trở nên uyên bác về đông y dược, nhưng cũng hiểu những điểm kỳ diệu của tây y dược. nhân cơ hội "công nông binh được đi học cử tuyển đại học", ông đã vào đại học Y số 2 Giang Kinh nổi tiếng cả nước, tốt nghiệp với kết quả cao, được ở lại dạy học và trở thành một nghiên cứu viên trẻ nhất của phòng nghiên cứu đông tây y kết hợp. Ít lâu sau ông lập gia đình với một cô gái xinh đẹp tuyệt vời.

    Cho đến khi ấy ông vẫn ngoan cố cho rằng, cách nói "hễ ra ngoài núi thì phải bị đau thương đến chết" chỉ là tập hợp của những câu chuyện đau khổ hoàn toàn không có căn cứ khoa học, nói khó nghe một chút thì đó là sự mê tín rồ dại vào số phận.

    Nhưng rồi "đau thương đến chết" đã xuất hiện, nó còn ngoan cố hơn cả ông.

    Ấy là một điều bí mật được giữ rất kín. Hết đời này sang đời khác, cứ sau hơn chục năm thì thôn của ông lại xảy ra một trận dịch kỳ quái, khiến hàng loạt người và gia súc bị đột tử. Không ai có thể nói rõ tại sao lại xảy ra trận dịch như thế, và lại có cái quy luật ấy, kể cả nguyên nhân tử vong. Nghe nói, thường là một người trong nhà chết trước, vợ hoặc chồng đau buồn, ít lâu sau cũng đột tử. cứ như thế mãi, dân thôn bèn gọi trận dịch ấy là "chết đau thương". Mỗi khi có dịch, bắt đầu có người chết thì dân thôn nhẫn nại quan sát ít lâu, không đụng vào thi thể, thậm chí không chôn cất. Họ chỉ đưa những ai đã tiếp xúc với nạn nhân đi xa, đến ở tại các gian nhà tạm đã cất sẵn, và dùng cách đặc biệt để "khử độc" cho họ. Nếu trong vòng một tháng có 5 cái chết tương tự xảy ra, thì cả thôn sẽ mặc áo mưa - tức là áo tang mà từ nhiều đời nay họ thường dùng – sau đó di dời vào sâu hơn trong núi, tránh xa cái nơi đã bị ô nhiễm. Địa điểm cũ sẽ bị đốt trụi. Sau khi trận dịch qua đi, họ sẽ lập cho người chết một tấm bia không chữ. Họ cũng rất gàn dở cho rằng, những người chết không rõ nguyên nhân như thế, tức là chết khốn khổ, là bị trời trừng phạt.

    Thôn này cứ sau hơn 20 năm lại di rời một lần là vì thế.

    Các bô lão của thôn cứ khăng khăng phải chuyển vào sâu trong núi, vì họ cho rằng cả thôn đã bị nguyền rủa, phải chịu tai họa dịch bệnh lặp đi lặp lại mãi. Càng tránh xa người đời sẽ càng đỡ mắc dịch bệnh.

    Tại sao lại là một lời nguyền? Ông nghĩ, nếu có thật thì chẳng qua chỉ là một thứ tập tục kéo dài hàng trăm ngàn năm ở trong thôn. Dân thôn già trẻ gái trai mỗi năm phải một lần "thay máu" tức là, để cho các loại côn trùng độc như rết, đỉa, bọ cạp... hút máu, nếu người lạ chợt nhìn thấy sẽ ngỡ là "chọn độc", thực ra nó hoàn toàn khác hẳn "chọn độc". "Chọn độc" là lợi dụng chất độc của chính con bọ để chế thuốc độc, còn "thay máu" là dùng côn trùng hút các chất độc đang có trong máu người. Dân thôn hiểu về sinh lý người là thế này: đời người ta lao động, ăn uống nghỉ ngơi... luôn bị chất cặn đọng trong người, vì thế mà cần có hệ bài tiết. Tại sao con người thường mắc các chứng bệnh và về già thì ốm đau mà chết? Vì "chất độc" trong máu chưa thải hết, nếu không bị đọng các "chất độc" thì con người có thể thọ đến ngàn năm, như các bậc thánh nhân mà sử sách cổ vẫn chép. Có vị bô lão trong thôn còn dẫn ra ví dụ trong "kinh thánh" rằng tổ tiên của người phương tây đã sống đến ngàn tuổi. Sau khi "thay máu", nếu có ai bị trúng độc do côn trùng cắn, thì dân thôn lại có các loại thảo dược và cao dán để giải độc. Cái lối "thay máu" kỳ cục này thường bị người bên ngoài cho là quái gở độc ác.

    Vì mọi người đều tin thôn này bị một lời nguyền, cho nên vào thời Minh, nhân một lần có bệnh dịch, quan phủ đã đem binh mã đến hủy diệt cả thôn, chỉ có hai hộ sống sót vì đang đi săn chưa về, nên đã giữ được "nòi giống" và truyền thống. Có lẽ vì chuyện này mà các bô lão kiên quyết xa lánh chốn phồn hoa.

    Đồng thời cũng có một truyền thuyết còn lâu đời hơn nữa, liên quan đến hang quan tài treo ở núi ngoài xa hơn chục cây số. Nghe nói ở hang đó có một lời nguyền, cấm vào, ai đã vào thì sau không đầy nửa năm sẽ phải chết. Một thầy giáo trong thôn đã từng dạy ông không nghe lời khuyên, đi vào đó một lần, sau ba tháng thì chết trong lúc ngủ. Người vợ mới cưới khóc than thảm thiết, chẳng bao lâu cũng chết, lúc chết, mặt vẫn đầy nước mắt.

    Các bô lão trong thôn cho rằng lời nguyền ở hang quan tài và chất độc ngầm ở gần đó liền với thôn này, là nguyên nhân dẫn đến dịch bệnh.

    Ông không thể quên năm 1980, nhận được bức thư của chị gái gửi từ thị trấn Hoa Tây kể, trong thôn có hai con gà và một con lợn bị chết, chết rất lạ lùng – không bị thương, không có dịch lợn ốm gà rù mà bỗng dưng lăn đùng ra chết. Các bô lão nói "chết đau thương" lại bắt đầu rồi đấy! Cuối thư, người chị còn nói là rất sợ, sợ ít lâu nữa mình cũng "chết đau thương"

    Người anh rể của ông bị tính tò mò thôi thúc, nên trước đó hai tháng đã vào hang quan tài.

    Ông và người chị gái hết sức yêu thương nhau. Cha mẹ qua đời trong trận dịch bệnh "đau thương đến chết" hồi trước. Người chị đã rất chịu khó lao động, dè xẻn thu vén để nuôi ông trưởng thành, rồi có thể sống độc lập. Ông còn nhớ, chị đang tuổi xuân nhưng quanh năm chỉ mặc áo vá chằng vá đụp. Ngày chị đi lấy chồng, cũng là lần đầu tiên được mặc áo mới.

    Nếu những chuyện đồn đại kia là thật, thì ông sẽ bất chấp tất cả để cứu chị gái mình.

    Ông trở về thôn, trong thôn đã có một người chết. Đêm hôm đó ông bí mật vào căn nhà có người chết, giải phẫu cái tử thi bị vứt nằm đó. Sau bao năm học y và trải qua thực tế, ông không thể lại tin cái tập tục cổ hủ của thôn. Ông biết, đã là bệnh dịch thì phải có virus hoặc vi khuẩn hoành hành, cần điều tra nguyên nhân tử vong, tìm căn nguyên bệnh tật – đó là con đường duy nhất để chữa và phòng bệnh

    Quả tim của người ấy đã chết bị to lên rõ rệt, cơ tim có nhiều vết rạn nứt.

    Ông lấy mẫu máu, mẫu các chất dịch khác, và lấy các mẫu tổ chức cơ tim, rồi trở về đại học Y Giang Kinh. Qua nghiên cứu, trưng cầu ý kiến, thực nghiệm... Ông có thể khẳng định, đó là đột tử do bệnh viêm cơ tim. Ít hôm sau, ông cũng đã nhận diện được virus Ke-sa-ji. Bằng tri thức và trực giác, ông cho rằng loại virus này lây nhiễm qua đường huyết dịch, cho nên mới xảy ra hiện tượng vợ chồng lần lượt tử vong. Còn tập quán hủ lậu "thay máu" chỉ tổ khiến virus càng dễ phát tán trong thôn mà thôi.

    Nhìn từ góc độ dịch tễ học, việc bùng phát dịch do nhiễm virus thường có tính chu kỳ và theo mùa. Có lẽ mới có hiện tượng cứ sau 20 năm lại xảy ra một lần.

    Ông lại trở về thôn, nhiều lần dặn dò nhấn mạnh người dân phải chú ý giữ vệ sinh, còn định sẽ báo cáo với cơ quan chuyên trách về phòng chống bệnh dịch. Cũng vì thế mà nảy ra xung khắc căng thẳng giữa ông với các vị cao niên trong thôn. Các vị bô lão cho rằng, nếu các cơ quan phòng chống dịch vào cuộc thì truyền thống "thay máu" sẽ bị chỉ trích, thậm chí sẽ tái diễn nạn cả thôn bị "tàn sát". Ông ra sức thuyết phục họ nhưng đều vô ích. Ông than thở, đầu óc con người ta, thậm chí cả những nét văn hóa hủ bại, tồn tại sao mà dai dẳng đến thế!

    Cuối cùng, vì tôn trọng các vị cao tuổi và truyền thống địa phương, ông hứa sẽ không đi báo cáo, nhưng vẫn dặn bà con không nên làm cái trò "thay máu" nữa. Khi ông sắp lên đường, thì người anh rể đã từng vào hang quan tài bị đột tử.

    Đó là ca tử vong thứ hai.

    Chị gái ông trở nên góa bụa, bỗng dưng bị coi là đồ "quái vật" đáng sợ, dân thôn đều biết người chết tiếp theo phải là chị ấy. Người chị gái ông chỉ còn biết khóc than.

    Ông bèn thay đổi ý định: ông viết thư nặc danh cho Trung tâm vệ sinh dịch tễ của tỉnh. Nào ngờ vị bác sỹ được trung tâm cử xuống, dân thôn viện cớ vì ông ta đã tiếp xúc với tử thi, nên bị cưỡng ép "khử độc", ông bị tổn thương tinh thần rất nặng nề. Sau sự kiện này ông cảm thấy mình không thể dính dáng đến cái nôi mà mình đã trưởng thành nữa, ông kiên quyết đưa chị gái trở về Giang Kinh.

    Sau khi về Giang Kinh, ông miệt mài trong cuộc tìm kiếm phương pháp điều trị. Ông cảm thấy mình thực chẳng khác châu chấu đá xe – vì xưa nay chưa từng có được phương án hữu hiệu để điều trị virus truyền nhiễm, nhất là đối với các loại virus lạ còn chưa rõ về mặt bệnh lý. Chẳng bao lâu sau, ông nhận thức rằng có lẽ con đường thật sự là đông tây y kết hợp – đây cũng là sở trường của ông.

    Đông y có một số cách điều trị không khác biệt nhiều so với tây y, coi nâng cao thể lực là chính, điều trị trực tiếp vào bệnh trạng, nhưng đã không thể chặn đứng tiến triển của bệnh tật. Người chị của ông đang đau buồn vì người chồng ra đi, sau đó cũng mắc chứng rối loạn nhịp tim rõ rệt, có thể bất chợt ngã gục và vĩnh viễn bỏ ông mà đi, điều này thường xuyên nhắc nhở ông không được quên: Ông còn chưa kịp báo đáp công ơn dưỡng dục của người chị. Bởi thế miệt mài đêm ngày với các thí nghiệm dược lý đối với động vật và thực may mắn, ông cảm thấy đang dần tiến đến mục tiêu.

    Chính vào lúc này thì tai họa lại nảy sinh.

    Ông đã không thể nhớ rõ, kể từ khi ông nhận được thư của chị gái, đã bao lâu rồi không liên lạc với vợ. Phần lớn thời gian của ông đều trôi đi trong phòng nghiên cứu và bệnh viện. Hầu như ông đã quên mình đang có một cô vợ xinh đẹp như hoa, rất cần ông âu yếm.

    Người vợ lại rất nhạy cảm và đa nghi nữa. Sau vài lần thăm dò, nàng cho rằng trái tim của người đàn ông rất tài ba đã không còn ở bên nàng nữa, Nàng tôn trọng tình cảm chị em và tình nghĩa của ông, nhưng nàng là một cô gái luôn cần đến rất nhiều tình yêu. Hơn nữa một người đàn ông rất khao khát tri thức, rất yêu nghề, có thể quên cả sinh hoạt đời thường để nghiên cứu khoa học – thì chẳng thể là một người chồng tốt. Điều duy nhất mà nàng cần, lại là một người chồng tốt, có thể cùng nàng đi xem phim, luận bàn tiểu thuyết, trao đổi với nhau những điều tâm đắc, có thể khoác tay nhau đi dạo trên đại lộ thoáng mát...

    Và, ngay gần bên nàng lại đang có một chàng trai cũng rất tài hoa, luôn mong mỏi được chiều chuộng nàng đủ bề và làm một người chồng tốt của nàng. Người chị gái của nàng - người rất hay xen vào cuộc sống của cô em – đã khuyên nàng rất nhiều, nhưng đều vô ích.

    Vợ chồng ông đi đến hai quỹ đạo khác nhau và ngày càng cách xa nhau.

    Xa thêm nữa, rồi vĩnh viễn chia tay.

    Ông hoàn toàn không ngờ vợ mình lại thay lòng đổi dạ vào lúc này. Và cũng chỉ đến lúc này ông mới nhận ra mình rất yêu vợ nên không sao chịu đựng nổi đớn đau đến cùng cực.

    Có lẽ tình yêu của ông chỉ có ngần ấy, chỉ có thể dành cho một người.

    Ông cố gắng níu giữ, nhưng ý người vợ đã quyết

    Rồi, họa vô đơn chí, chị gái ông lại đột ngột ra đi. Chứng rối loạn nhịp tim dẫn đến đột tử.

    Ông thật sự suy sụp!

     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Thành viên đang xem bài viết (Users: 0, Guests: 0)