FULL  Linh Dị Mô Kim Hiệu Úy Cửu U Tướng Quân - Thiên Hạ Bá Xướng - Full 20C

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,686
    [​IMG]
    [Tiểu Thuyết Trộm Mộ]
    Mô Kim Hiệu Úy Cửu U Tướng Quân
    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng
    Chương 1: Thôi lão đạo bắn thiên cẩu.

    Người dịch: Đinh Thảo, Lưu Hà
    Nguồn: Lachoncoc

    Giới thiệu bộ truyện:
    [​IMG]

    Seri "Mô Kim Hiệu Úy" là kiệt tác mới nhất của Thiên Hạ Bá Xướng, có thể sánh vai cùng bộ truyện nổi tiếng "Ma thổi đèn" ở thể loại thám hiểm truyền kỳ!
    Bộ truyện là phần nối tiếp của bộ tiểu thuyết Ma Thổi Đèn với nhân vật chính là tổ 3 người trộm mộ nổi tiếng trong MTĐ: Hồ Bát Nhất, Răng Vàng, Tuyền Béo, với tình tiết ly kì, hấp dẫn, thêm nhiều nội dung hành động nhưng vẫn không hề biến chất, chắc chắn sẽ không làm các bạn thất vọng.

    Giới thiệu nội dung:

    Những năm 80 của thế kỷ trước, "Nhóm ba người" mô kim hiệu úy quyết định rửa tay gác kiếm tu chí làm ăn.
    Không ngờ trong một lần ba người đi Tây An thu mua đồ cổ văn vật bị một người tên là Mã Lão Oa Tử chủ tâm hãm hại, thiếu chút nữa bỏ mạng.
    Trong lúc vô tình vào Tần Vương Huyền Cung, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, còn thu thập được từ trong mộ hoang một hộp sắt mạ vàng.
    Hộp sắt mạ vàng là một bộ kim sách (sách vàng), là bảo vật trấn quốc của Tây Hạ, trải qua mấy nghìn năm chưa hề bị hư hại.
    Vật này vừa xuất hiện liền chấn động khắp giang hồ. Tổ ba người mô kim phát hiện bí mật kinh thiên động địa được lưu giữ từ nghìn năm trước.
    Bọn họ lại một lần nữa lên đường, chuẩn bị tiến vào "Vong giả thế giới" (thế giới người chết), nghênh đón bọn họ chính là một hành trình u tối đầy mê hoặc!


    Giới thiệu tác giả:
    Thiên Hạ Bá Xướng là tác giả người Trung Quốc có óc tưởng tượng vô cùng phong phú, tác giả bộ truyện "Ma Thổi Đèn" vô cùng nổi danh trên diễn đàn Hoa ngữ. Tới nay là bộ tiểu thuyết được truyền bá rộng rãi bậc nhất tiếp theo các tác phẩm võ hiệp của Kim Dung.
    Thiên Hạ Bá Xướng đã mang văn hóa thần bí của phương Đông kết hợp với yếu tố phiêu lưu mạo hiểm của văn học thế giới vào trong tác phẩm của mình, tạo ra một loại hình tiểu thuyết thám hiểm đậm dấu ấn Trung Quốc.
    Điểm đặc biệt ở tiểu thuyết thám hiểm của anh luôn nằm ở hành động và suy nghĩ đầy thú vị của nhân vật trong các hoàn cảnh bất ngờ.
    Anh đã không câu nệ mà thoải mái đưa vào truyện của mình các truyền thuyết cổ xưa, di tích thần bí, tình cảm anh em, sinh tử vô thường, cộng thêm câu từ hài hước, phong phú, đầy màu sắc, ngập tràn văn hóa dân gian khiến cho câu chuyện của tác giả xây dựng khác biệt với "giang hồ".
    Tác giả đang sáng tác thiên tiểu thuyết vĩ đại "Mô Kim Phù" hệ liệt, kính mong độc giả đón nhận.

    Nhận xét của truyền thông:

    "Kim bài" giám chế Trần Quốc Phú:
    Chữ cái đầu tiên của bộ sách được viết, ta giành mua bản quyền chuyển thể điện ảnh và truyền hình, lúc nhìn thấy chữ cái cuối cùng của sách, tác phẩm hoàn thiện, ta liền cảm thấy lúc trước mình thật may mắn!
    Ta còn nghĩ tới một chữ: Đáng giá!

    Đạo diễn trứ danh Ô Nhĩ Thiện:
    Trong tác phẩm của Thiên Hạ Bá Xướng, mỗi người, vật đều vô cùng tươi mới, vô cùng có sức sống. Đám người "Mô Kim Hiệu Úy" có tình có nghĩa, có dũng có mưu, thoải mái đi về giữa hai giới âm dương sinh tử. Thiên Hạ Bá Xướng dùng óc tưởng tượng thiên tài của mình, sáng tạo một không gian mà con người có thể tự do xuyên qua giữa thế giới thực và thế giới kỳ ảo.

    Diễn viên nổi tiếng Trần Khôn:
    Thiên Hạ Bá Xướng luôn là tác giả mà tôi trân trọng, trí tưởng tượng của anh ta, năng lực điều khiển chuyện xưa của anh ta, phong cách ngôn ngữ của anh ta, cá nhân tôi đều vô cùng thích thú và tán thưởng.

    Diễn viên nổi tiếng Hoàng Bột:
    Điện ảnh của chúng tôi dựa vào "cao nhan giá trị" (bộ mặt được đánh giá cao), mà câu truyện đặc sắc của Thiên Hạ Bá Xướng, kỳ thật cũng là một loại "cao nhan giá trị".

    Editor:
    Một chút về nguồn gốc tên truyện: Từ ngàn năm trước, ở Trung Quốc đã có nghề trộm mộ, gồm bốn phái là Mô Kim, Phát Khâu, Ban Sơn đạo nhân và Xả Lĩnh. Mô Kim và Phát Khâu vốn từ một mạch mà ra nên thủ đoạn trộm mộ cũng gần tương tự nhau, Mô Kim có bùa Mô Kim không sợ tà ma, Phát Khâu có Ấn Phát Khâu, bên trên khắc tám chữ: Thiên quan tứ phúc, bách vô cấm kỵ”, cả hai đều được coi là bảo vật trấn phái. Đến thời Tam quốc, hai phái ấy được Tào Tháo sử dụng như một đội chuyên đi đào mộ. Tào Tháo đặt ra hai chức quan là Mô Kim Hiệu Úy và Phát Khâu Trung Lang Tướng để hợp thức hóa việc đào mộ quật mả của mình.







    Từ cổ xưa, thời điểm vẫn còn hoàng thượng, thành Bắc Kinh, chín cửa thành đều có vật trấn. Vật trấn ở cửa thành phụ là bức chạm trổ hoa mai ở bên phải Ủng thành (bức thành nhỏ ở ngoài cổng thành). Vì vận chuyển than đá qua lại cửa thành phụ lâu ngày, đường đi bên dưới ám toàn than đá đen kịt. Rất nhiều phu kéo lạc đà chuyển than cũng cư trú luôn ở đó, mà chỗ họ ở chẳng có mấy cái giống nhà, chỉ toàn là "Hàng rào đèn". Thực ra "hàng rào đèn" cũng chỉ là tiếng lóng, người nghèo ở đó không làm được nhà ngói, dựng đại mấy cây cột gỗ thành cái khung, trên nóc rải cỏ, lấy thân cây cao lương quét vôi trắng làm vách, vì thế nên người ở đó mới gọi là "hàng rào đèn".
    Ở nơi bần cùng khốn khổ "hàng rào đèn" đó có một sạp bói quẻ. Thầy xem bói khoảng chừng hơn ba mươi, vốn xuất thân từ gia đình đại phú, tổ tiên truyền lại ba cửa hiệu, một hiệu kinh doanh thư họa cổ, một hiệu kim châu bảo ngọc, một hiệu kinh doanh tơ lụa. Có điều truyền đến đời gã thì gia cảnh sa sút, của cải bạc vạn đều tiêu tán, gã cùng con gái nhỏ tới kinh thành bốc quẻ, với chút hiểu biết trong bụng kiếm phần cơm tạm bợ qua ngày.
    Đối diện sạp coi bói của gã là một hàng sửa giày da, thợ giày tuổi chừng ba mươi, tướng mạo hung dữ. Nhà hắn ở Sơn Tây, vì đói kém thiếu nợ quá nhiều, bất đắc dĩ phải bán xới tới thành Bắc Kinh vận chuyển than đá kèm thêm nghề vá giày, cả ngày đi sớm về khuya, không nỡ ăn, không nỡ mặc, tính toán xem còn bao nhiêu tiền, mang về cho vợ con. Thầy bói có bụng dạ tốt, thấy thợ giày không có chỗ nương tựa, gặp khi mưa gió không mở hàng được đều mời thợ giày tới nhà gã ăn cơm, ngủ lại qua đêm. Qua lại thường xuyên, hai người liền trở thành bạn tốt.
    Một hôm như vậy, thợ giày kiếm được một món bảo vật từ đồng hương. Vị đồng hương kia là một kẻ gian chuyên đào trộm mộ. Trước đó không lâu móc được một cái nhẫn ngọc bích, bóng loáng xanh biếc. Vương công quý tộc nhà Thanh cưỡi ngựa bắn tên, trên tay đều có nhẫn ngọc, người bình thường không dám dùng.
    Đồ này là đồ tốt, có điều đến lúc cần dùng tiền thì mấy mối béo bở đều bỏ của chạy lấy người, dưới chân thiên tử, trước mặt là vương pháp, ai mà không sợ rơi đầu chứ? Vị kia nhất thời không tìm được người mua, đành phải tới cầu cạnh đồng hương. Thợ giày cho rằng cơ hội tới rồi, có thể phát tài, liền bỏ tiền mồ hôi nước mắt khốn khổ suốt ba năm đổi lấy cái nhẫn ngọc này. Hắn không dám trưng ra quầy hàng mà chạy thẳng đến tìm thầy bói. Đóng cửa lớn lại, hắn bảo thầy bói đốt đèn, rút gói vải từ trong ngực ra, mở tiếp mấy lớp da dày bọc bên ngoài, vừa mở vừa nói: "Thợ giày thối tôi, ở thành Bắc Kinh không ai vừa mắt, chỉ có lão huynh xem trọng, chiếu cố tôi không ít, đang không biết báo đáp thế nào thì trời liền cho tôi vận lớn. Tôi kiếm được từ trên tay bọn trộm mộ một cái nhẫn ngọc. Vật này quý giá vô cùng, là một trong thập đại trân bảo của Thanh triều, Hãn Vương xưa chỉ huy quân Bát Kỳ vào cổng thành, một con ngựa ba mũi tên định thiên hạ, chính là dùng cái nhẫn ngọc này giữ dây cung!"
    Thầy bói hoảng sợ nhảy dựng lên: "Trân bảo chôn theo vương tôn công tử đương triều không phải chuyện đùa, anh phải biết rằng da thịt còn có tình, vương pháp vô tình. Thành Bắc Kinh lại là nơi nổi tiếng nghiêm khắc, ngộ nhỡ bị buộc tội “nhanh tay lẹ mắt”, kẻ phạm tội bị chém đã đành, phần mộ tổ tiên cũng không yên nổi đâu!"
    Có điều dưới ánh nến, nhìn qua gói vải một chút, gã liền yên tâm nói với thợ giày: "Anh á! Còn không mau ra ngoài mua lấy cục băng ướp lạnh nó đi!"
    Thợ giày khó chịu nói: "Ý anh là gì? Cần băng làm gì?"
    Thầy bói nói: "Anh bị lừa chứ sao, cái này làm bằng đường thỏi, không mang ướp lạnh, nó chảy ra mất toi thì sao?. Thành Bắc Kinh này nơi nơi đều là hàng giả, ngay cả thần tiên còn không tránh khỏi có lúc nhìn nhầm, cứ tưởng rằng được mối lợi, ai ngờ lại mắc mưu chịu thiệt. Toàn bộ tiền ba năm sửa giày cực khổ kiếm được đều đã không còn, gã lại là người ngắn học, nhất thời trong lòng bứt rứt không biết làm sao, liền chạy ra nhảy xuống con sông đào hộ thành.
    Thầy bói đuổi đến, mượn móc câu, kéo gã lên, khuyên nhủ một hồi lại đưa cho gã chút tiền, khuyên hắn bỏ suy nghĩ tự tìm cái chết.
    Đảo mắt đã sang tháng Chạp, thợ giày từ biệt thầy bói về nhà ăn Tết. Thời gian này làm ăn không tốt, nghe nói vải bố Sơn Tây vừa bền vừa rẻ, thầy bói muốn đánh một lô hàng, nhân dịp cuối năm kiếm chút tiền chênh lệch giá, chủ ý đã định, gã cũng mang theo lộ phí đi Sơn Tây. Không ngờ giữa đường gặp phải chiến trận, chậm trễ mất mười ngày, nửa đường lại gặp loạn quân, gã hoảng hốt chạy bừa chốn vào núi hoang, đi mấy ngày không thấy đường.
    Chẳng mấy chốc đã tới đêm ba mươi nhưng chỉ thấy mây đen dày đặc, gió bắc thổi qua, trời đầy tuyết giăng, núi non trùng điệp, thoáng trông không có dấu chân người. Thầy bói vừa lạnh vừa đói, đi không nổi nữa, nghĩ mình có lẽ phải chết cóng ở chỗ này. Chợt thấy trong gió tuyết có một căn nhà tường lở ngói vỡ, hình như có người ở, trong đó hắt ra ánh đèn mờ ảo. Gã thấy đường sống, vột vã chạy tới gọi cửa. Cửa nhà vừa mở, một người bước ra, vạn lần không thể ngờ, căn nhà này lại chính là nhà của thợ giày kia. Thợ giày thấy thầy bói vẻ mặt đầy tiều tụy, vội vàng mời gã vào nhà, nấu canh nóng cho gã uống, thầy bói lúc này mới từ cõi chết trở về. Hai người hàn huyên lại nguyên do xa cách đều xúc động rưng rưng. Thợ giày kêu vợ con ra dập đầu trước ân công, vợ gã là người phụ nữ nông thôn bình thường, chưa từng thấy qua chuyện đời, thằng nhỏ ước chừng bảy tám tuổi, bộ dạng khỏe khoắn, kháu khỉnh, tên mụ là Hổ Oa, thấy người lạ cũng ngại không dám lên tiếng.
    Thầy bói vốn chạy thẳng một mạch tới nơi đây, không mang theo gì, sờ thấy trên người còn một cắc bạc vụn. Người Bắc Kinh coi trọng lễ nghĩa, ngày tết gặp trẻ nhỏ, đều phải mừng tuổi chút tiền. Thầy bói không có gì, lấy cắc bạc ra đưa cho Hổ Oa, Hổ Oa lắc đầu không nhận.
    Thầy bói nói với thợ giày: "Anh xem thằng nhỏ nhà anh này, cũng thật là phép tắc quá đi, tôi cho nó bạc nó còn không nhận."
    Thợ giày liền nói với Hổ Oa: “Bác con không phải là người ngoài, cho con bạc con có thể cầm."
    Hổ Oa vẫn lắc đầu không chịu đưa tay ra nhận bạc.
    Thợ giày nói: "Con còn nhỏ chưa từng nhìn thấy, không biết được là gì, cái này gọi là bạc đó!"
    Hổ Oa nói: "Thứ này có rất nhiều, con cần nó làm gì."
    Thợ giày nói: "Đúng là mồm con nít, cái gì cũng nói được, nếu như có rất nhiều bạc, cha với bác của con còn phải nghèo khổ như thế này không?"
    Hổ Oa nói: "Thật là có cả đống mà, mấy ngày hôm trước con lên núi kiếm củi, nhìn thấy một sơn động, bên trong toàn là thứ này."
    Thợ giày cùng thầy bói nửa tin nửa ngờ, hôm đó ăn tối xong, hàn huyên một lúc rồi liền lên giường đi ngủ. Qua ngày hôm sau, gió tuyết ngừng, thợ giày bảo Hổ Oa dẫn bọn họ đi xem. Ba người đi vòng sau thôn, quanh co trong núi một hồi thì tới một chỗ, trên sườn núi chỗ đó chôn một tấm bia đá. Trải qua thời gian quá lâu tấm bia đã bị vỡ, xung quanh cỏ ngải mọc um tùm che kín. Hổ Oa gạt cỏ dại sang hai bên, phía dưới là một huyệt mộ. Thợ giày bảo Hổ Oa chờ ở bên ngoài, hắn và thầy bói đốt đuốc, xách dao đốn củi một trước một sau đi vào.
    Vừa giơ đuốc lên soi liền thấy trên sườn bia đá có chữ viết: "Gặp hổ thì mở, có rồng thì hưng thịnh". Hai người nhìn nhau không nói được lời nào. Lại thấy bốn chiếc rương nằm đó, nắp rương mở một nửa, phủi bụi đất đi, bên trong toàn là đĩnh vàng bạc nguyên bảo, hai người nhìn thấy mắt đều dựng lên.
    Trong huyệt mộ cũng không có quan tài, chỉ có một bộ xương khô nằm rải rác trên bệ đá, không biết là người nào. Bên cạnh đặt một cái tráp bọc da phủ đầy tro bụi.
    Hai người lạy bộ xương khô vài cái, tiến tới mở cái tráp da ra, bên trong tráp là một quyển sách cổ, trang sách vô cùng cũ nát. Thợ giày vốn không biết nhiều chữ nghĩa, chỉ dán mắt vào vàng bạc trong rương, hắn nói với thầy bói: "Trời cho hai cha con tôi phát tài, lúc trước không nhờ có lão huynh cứu giúp thì tôi cũng không thể có ngày hôm nay, bốn rương vàng bạc này, chắc là nên chia đều đi."
    Thầy bói ngẩng đầu, qua làn ánh sáng mờ ảo thấy mặt gã thợ giày hiện lên như ác hổ hung tợn muốn lập tức cắn xé người. Thầy bói vốn là kẻ hiểu biết, có một câu thành ngữ thế này "Nói chuyện nghe tiếng nhỏ, chiêng trống nghe âm nhỏ"* Nghe qua lời trong lời ngoài của gã thợ giày, thầy bói cũng có thể hiểu được hàm ý, trong lòng lay động, vội nói: “Lão đệ nói gì vậy, không phải nhờ anh cứu giúp, tôi cũng đã chết ở chân núi rồi, cho nên anh vốn không có nợ tôi. Con của anh tìm được cổ mộ, đồ bên trong đó đều là của nhà anh, mệnh trời đã như vậy, lại có thể tính toán được sao!"

    * Nói chuyện nghe tiếng nhỏ, chiêng trống nghe âm nhỏ: Ý là qua giọng điệu của muột người mà đoán biết tính cách của họ, qua âm thanh của chiêng trống mà phán đoán nó tốt xấu.
    Thợ giày vẫn nói muốn chia đều: "Ít nhiều huynh cũng phải lấy một chút chứ, không thì chính là huynh khinh thường tôi đó."
    Thầy bói đành nói: "Vậy thế này đi, bốn rương vàng bạc toàn bộ đều là của anh, quyển sách cổ trong hộp thì cho tôi."
    Thợ giày hỏi: "Trong sách có viết pháp thuật thần binh sao?"
    Dưới ánh đèn cầy, thầy bói thử lật giở trang sách, cuốn sách dường như viết về thuật tầm long trong phong thủy, xem ra bộ xương khô trong mộ kia khi còn sống là một vị "Thiên quan" (chỉ dân đạo mộ), dân bản xứ ở đây có truyền thuyết về "Thiên quan" nhân, gần giống với chân nhân trong đạo gia, hiểu biết bát quái, thông tỏ âm dương, có thuật tầm long.
    Thợ giày vốn không hiểu biết gì, hắn chỉ là: ếch ngồi đáy giếng vừa nhìn thấy không phải là đạo pháp thần thông gì, hắn cũng không muốn tranh giành, liền tiện thể đưa luôn cho thầy bói. Đào bới đồ trong cổ mộ, dù sao cũng đã phạm vào vương pháp, chia cho thầy bói một chút cũng có thể khiến cho gã ngậm miệng, thợ giày liền an tâm.
    Hai người thu dọn đồ xong liền hướng về phía bộ xương khô lạy ba lạy, đào huyệt mai táng, sau đó mang bốn rương vàng bạc kia xuống núi. Nói đến mấy chiếc rương, chính là loại rương đặt trên giường lò của vùng nông thôn Trung Quốc, một chiếc đặt dọc theo vừa vặn bằng mép giường, một chiếc đặt ở đuôi giường sát mép tường, nhét vừa hai người lớn. Trong rương chứa đầy vàng bạc, một mình mang không nổi, hai người gói lại cho vàng bạc vào từng bao cõng mấy ngày mới hết. Thầy bói không dám ở lâu, sau khi từ biệt thợ giày liền ra đi suốt đêm. Về đến ngoài cổng thành rồi nghĩ lại mà trong lòng vẫn còn run.
    Gã xuất thân là gia đình giàu có, lúc hạ sinh gã mẹ gã mơ thấy có hổ đến cướp, không biết lành dữ thế nào, nên mới đặt tên cho gã một chữ "Triết" (thông minh, sáng suốt), tự là "Ngộ Hổ" (gặp hổ). Nửa câu đầu khắc trên bia đá là "Gặp hổ thì mở", chẳng phải là chỉ gã đó sao? Gã cũng nhìn ra thợ giày là người thế nào, cũng bởi quá bần cùng, nghèo khổ mà ra, người như vậy đừng để cho hắn thấy hơi tiền, thấy hơi tiền liền nổi máu tham, không có chuyện gì là không làm được.
    Sau khi trở về, thầy bói vẫn mở hàng ở gò đất bên cổng thành xem bói, những lúc vắng khách, gã lại mở xem sách cổ, ghi nhớ từng câu từng chữ trong lòng. Trang cuối cùng cuốn sách chỉ có bốn câu: "Cần tìm chính xác để xem hình dạng thật, quẻ âm dương cân nhắc trong lòng. Sáu mươi tư quẻ không có quẻ nào biết được, chỉ e rằng tầm long đến tận cùng chỗ ấy..." Bên dưới vẽ một quẻ đồ hình, trong hộp da còn dấu một miếng ấn quan, trên có hai hàng chữ Triện: "Thiên quan ban thưởng, không phải kiêng kỵ".
    Gã là người có tư chất thông tuệ, người khác xem có thể không hiểu, đến tay gã vừa xem liền hiểu ngay, vì vậy cũng học được căn cơ của thuật tầm long. Sau đó người này không chỉ biết xem bói, còn kiêm luôn cả xem phong thủy cho người, phán chính xác cả chuyện âm dương, từ đó danh tiếng nổi khắp thành Bắc Kinh.
    Không ngờ có một ngày thợ giày lại tìm tới nhờ xem phong thủy, kể rằng sau khi phát tài, những thứ người sống nên có gã đều có, cuộc sống tột cùng sung túc, liền nghĩ tới liệt tổ liệt tông, hắn không chỉ muốn xây Từ Đường mà còn muốn di dời phần mộ tổ tiên, đến nhờ thầy phong thủy tìm giúp hắn chỗ đất phong thủy hưng vượng.
    Thầy bói nghe người đồn đại thợ giày làm giàu bất nhân, lòng tham không đáy, không định qua lại với người này nữa, có điều biết người này vốn không thể chọc vào, liền trầm ngâm một hồi lâu rồi nói: "Một phần đất tốt một phần phúc, phúc phần không đủ, đất tốt cũng vô dụng. Người vô phúc mộ tổ tiên chôn ở đâu cũng vô ích. Anh cứ suy nghĩ thật kỹ, nếu như thật sự muốn động phần mộ tổ tiên, tương lai cũng phải làm thêm nhiều việc nhân nghĩa. Không cần tìm đâu xa, ngọn núi phía đông huyện thành của anh chính là long mạch. Đón thần tránh quỷ, mộ phần không định trước, không được tự ý dời quan tài mà phải theo đúng thời gian tôi chỉ dẫn mà khiêng quan tài ra ngoài, cứ hướng lên núi mà đi, lúc nào dây thừng nâng quan tài đứt, chỗ đất quan tài rơi xuống chính là long huyệt!"
    Thợ giày hỏi thầy bói thời gian cụ thể rồi về nhà chuẩn bị, dời quan tài trong phần mộ tổ tiên vào từ đường cúng bái. Lễ động thổ dời mộ cũng được tổ chức như đưa tang lần thứ hai. Hắn tiền muôn bạc vạn, bày trò phô trương lãng phí, trước thời hạn đã định hắn rình rang dựng lều phía trước từ đường, niệm kinh, dựng đạo trường, mời danh quán "Tụ hợp thuận" tới đặt tiệc tang lễ, đặt mấy chục bàn, rượu thịt trên bàn như nước chảy, chỉ có thiếu người chứ không thiếu tiệc. Cho dù là người không quen biết, chỉ cần tới dập đầu hai cái là có thể tự do ăn uống. Lại tìm hơn một trăm hòa thượng, đạo sĩ, ni cô, lạt ma, niệm "ngũ phủng đại kinh", mở pháp hội sơn hào hải vị đầy nhà.
    Lần đưa tang thứ hai này, rình rang tới hơn một trăm ngày, theo giờ tốt đã định khiêng quan tài ra khỏi thành. Theo lệ cũ chú ý "Đổi mộ phần không đổi quan", tránh mở quan tài kinh động tổ tiên, chỉ làm một cái lọng lớn che bên ngoài quan tài, lọng được trang trí bằng ngọc bội Vân Hải, mép viền vàng, kim tuyến, rủ xuống tua vàng, cần bao nhiêu khí thế có có bấy nhiêu. Thời đó quan tài phủ lọng, sáu mươi bốn phu khiêng đã là hoành tráng lắm rồi, thợ giày còn chơi trội dùng xà kép, thuê một trăm năm mươi phu khiêng đòn thay nhau nâng quan.
    Đội ngũ mở đường phía trước mang đăng đựng đồ cúng, cờ, chiêng, ô, lọng, giáo mác búa rìu hướng lên trời, lại có hai đoàn nhạc công, vừa vặn một trăm lẻ tám đồng nam đồng nữ, ai nấy đều bưng lư hương, khói hương lượn lờ. Đội ngũ phía sau mang theo "tang phổ", là thứ mà trước kia người ta hay dùng để thị uy. Chắc các bạn sẽ thắc mắc: "Phổ là cái thứ đồ chơi gì?". Giống như quan chức đi tuần có bài gỗ, trên viết "Yên lặng, tránh đường" gọi là “quan phổ”, "quan phổ" cũng được dùng để chỉ người miệng lưỡi kiểu cách, ra vẻ quan cách.
    Tang phổ là loại phổ nhiều màu sắc, đầu thẻ gỗ bôi phấn vàng, hai bên có treo đèn lồng tua rua, trên viết tên họ, đạo hiệu, ngày sinh cùng với ngày giờ mất. Thời đó người ta quan niệm có đạo hiệu là có thể thăng thiên, tổ tiên hắn còn nghèo hơn cả hắn, lúc chết chỉ có ông nội hắn là có được cỗ quan tài còn lại toàn bộ đều ném ở núi hoang làm mồi cho chó hoang, tên còn không có, lấy đâu ra đạo hiệu, cái này cũng là sau khi giàu có hắn bỏ tiền ra mời người về phong cho. Một nghìn tám trăm người tiền hô hậu ủng đưa quan tài phủ lõng ra khỏi huyện thành đi về phía đông, gióng chống khua chiêng, uy thế rung động cả vùng.
    Ngoài cửa đông của huyện thành có một ngọn núi không cao lắm, thế núi vững trãi. Nhóm người khiêng quan tài lên trên sườn núi, chợt thấy dây nâng quan tài đứt, lập tức đào huyệt mộ chôn quan tài. Ứng với âm dương phong thủy trong câu nói kia.
    "Hữu địa phi nhân bất hạ, hữu nhân phi thì bất hạ". Những lời này nghĩa là gì? Tức là có đất phong thủy tốt không có người thích hợp thì không chôn được. Có người thích hợp nhưng không vào giờ phù hợp thì cũng không chôn được. Thợ giày có được thời vận này, phần mổ tổ tiên nhà hắn có được vị trí vô cùng đắc địa. Nếu không phải người tinh tường thì không nhìn ra được, nếu là người có con mắt nhà nghề, nhìn qua liền giật mình. Ngọn núi phía đông huyện thành hình dạng giống như một cái ghế ngồi đối diện với cổng thành phía đông, giống như một cái bàn thờ thiên tạo vậy, nhân dân trong trấn ngày ngày nhóm lửa thổi cơm, chẳng khác nào bày đồ cúng phần mộ tổ tiên nhà hắn. Quanh năm suốt tháng không ngày nào không thờ phụng. Đối với phong thủy mà nói, vừa hay hợp thành một cách gọi là "Ngày hưởng ngàn mâm cúng, đêm nhận vạn ngọn đèn". Theo Yêu Giản Thư nói lại, từ khi thợ giày dời phần mộ tổ tiên, hắn giống như gặp được vận lớn, làm gì cũng phát tài, mà không chỉ vận làm giàu, quan lộc của hắn cũng suôn sẻ, có thể nói là một bước lên mây. Về sau, con của hắn cũng làm quan, nhận nhiều bổng lộc, thăng chức rất nhanh. Tục ngữ có câu: "Mèo quen ngủ trong buồng thì đời sau của nó cũng vậy", lòng tham của hắn cũng truyền lại, con của hắn còn tham lam hơn hắn, tiền càng nhiều thì càng tham lam, tâm địa càng đen tối, vô ơn, dối trên gạt dưới, tàn hại người lương thiện. Hai cha con hắn lo lắng có người tới phá phong thủy phần mộ tổ nhà mình, nghĩ ra một kế nhổ cỏ tận gốc. Liền ra lệnh cho thủ hạ mời thầy bói tới xem phong thủy cho từ đường nhà mình, nửa đường đánh lén một gậy, cột vào tảng đá lớn rồi ném xuống sông Hoàng Hà.
    Thầy bói trước khi đi đã dặn dò vợ nhiều lần: "Thợ giày lần này tìm ta, chỉ sợ là lành ít dữ nhiều. Nếu ta không chỉ điểm long mạch cho người khác cũng không đến mức lãnh họa sát thân này. Ta tự làm tự chịu, không oán hận ai được. Mọi người nhanh chóng trốn về quê, rồi chôn quan ấn và sách cổ, đời sau của ta không được phép ăn chén cơm phong thủy này nữa, cũng không cần báo thù cho ta, không quá ba năm, kẻ thù ắt gặp báo ứng."
    Không ngoài dự đoán của gã, ba năm trôi qua, tường thành phía đông huyện thành vì quá cũ nên đổ sụp, cửa thành bị đá rơi xuống bịt lấp lại. Chỗ đó ngày một suy sụp, nghèo khổ. Nhà nước không cấp bạc sửa lại cổng thành, lý do vì phía đông đều là núi, không có người lui tới, còn lại ba cửa thành vẫn đủ dùng, cửa đông bị phá hỏng cũng không quan trọng.
    Chỉ có điều không ai biết được cửa thành này bị lấp đã chặn đi nguồn thờ cúng của tổ tiên gã thợ giày kia, giống như người ở trong phòng kín thở không nổi, gia thế ngày một xuống dốc không phanh. Vận làm quan của cha con hắn cũng chấm dứt, bị hạch tội khi quân phạm thượng, cả nhà bị tịch thu tài sản, cả nhà bị chém, phần mộ tổ tiên đều bị san phẳng.
    Về phần đời sau của thầy bói, vẫn luôn sinh sống ở nông thôn, gia cảnh vẫn nghèo khó, cũng không còn xem long mạch cho người khác. Tổ truyền như vậy, truyền đến đời Bạch Bán Lạp, quan ấn cùng với sách cổ vẫn chôn ở quê nhà, trước sau không dám dùng tới. Bạch Bán Lạp có người huynh đệ kết nghĩa, tên là Lão Nghĩa Mù, theo sư phụ học phép thần thông, thầy của hắn là Kim Toán Bàn, sư tổ là Trương Tam Thái Gia, tất cả đều là Mô kim hiệu úy tiếng tăm lừng lẫy, nói tới thủ đoạn đào trộm mộ, không mấy người qua nổi lão ta. Chỉ có điều Lão Nghĩa Mù thị lực không được tốt, ban ngày ban mặt ra cửa cũng có thể đâm đầu vào tường nên không ăn nổi chén cơm này.
    Lão Nghĩa Mù nghe Bạch Bán Lạp kể lại chuyện của tổ tiên mình thì nói: "Thứ mà Tổ tiên anh trước kia truyền lại gọi là "Lăng Phổ", còn gọi là bí quyết tầm long, thực tế không phải là sách về xem âm dương phong thủy trên giang hồ, mà chính là bí quyết của Phát khâu, Mô Kim. Sách của sư tổ tôi là Trương Tam Thái Gia truyền dạy lại cũng chưa được đầy đủ, toàn vẹn bằng sách này, cái kia mới dạy mười sáu chữ ứng với mười sáu quẻ, còn cái này là những sáu mươi tư quẻ ứng với sáu mươi tư chữ. Ấn kia là ấn Phát Khâu, là vật chí bảo từ cổ xưa, sao lại có thể bị chôn vùi ở nơi trần tục thế này. Một người không thể đoạt bảo vật từ âm ty, cần có năm ba tinh hoa nhân lực, nhiều cũng vô dụng. Anh hãy nhập bọn với chúng tôi, chỉ cần hai người chúng ta lĩnh xướng là có thể xuất nhập chốn âm dương như đi trên đất bằng!"
    Bạch Bán Lạp khi đó nghèo đói tới mức sắp không có gì ăn rồi nhưng vẫn mặc cho Lão Nghĩa khuyên sống khuyên chết, một mực không động lòng. Không phải gã không muốn phát tài, cũng không phải là không có lá gan, vậy thì lý do tại sao?
    Cái đó cần phải xem lại chuyện trước kia, lúc gã còn là một tiểu tử chừng mười tuổi, không người thân thích, chạy nạn đến biến giới Liêu Hà, sống bằng nghề chăn trâu thuê. Ở nơi đó, ông chủ gọi bọn đầy tớ nhỏ như gã là tiểu bán lạp, nghĩa là làm một nửa việc, ăn một nửa cơm. Ông chủ này của gã tuy không phải là địa chủ, nhưng có mấy thưởng đất (1 thưởng = khoảng 1ha), hai con trâu cùng vài con la, ngựa, tìm tiểu bán lạp để ban ngày chăn trâu, ban đêm cho gia súc ăn, một ngày cho gã hai bữa cơm, buổi sáng ăn khô, buổi chiều ăn cháo loãng.
    Phía đông nhà có một cái sân, phòng lát gạch vuông, tường cũng lát gạch vuông. Đầu phía tây gần một tòa điện trấn sông, trong điện thờ Long Vương, lâu rồi không ai hương khói, giăng đầy bụi đất mạng nhện, bên ngoài hiên đã sụp một nửa. Điện tuy rằng đổ nát nhưng truyền thuyết nói rằng nơi này có thần tiên.
    Ông chủ là người từ nơi khác đến, vốn không tin ba cái chuyện cũ rích kia, lại muốn mở rộng sân viện, hắn mượn bức tường phía sau điện trấn sông, làm hai gian nhà gạch mộc. Tường điện bằng gạch viên, tường nhà làm bằng gạch mộc đắp đất, ba mặt tường nhà đất bám lấy một mặt tường gạch. Dù sao người cũng không dám ở, chỉ để làm kho chứa củi nên cũng không lo sụp. Trước vựa củi làm một cái chuồng gà, nuôi một ổ gà, hàng ngày đẻ trứng. Mỗi buổi sáng cũng nhặt được khoảng hai chục trứng. Ở góc vựa củi có một cái hũ lớn đựng trứng có nắp đậy rồi lại dùng tảng đá chẹn lên trên để tránh cáo hoang ăn trộm. Nhưng điều kỳ quái là, qua ngày hôm sau nhìn vào hũ, toàn bộ trứng bên trong đều không thấy, chỉ còn lại vài cái vỏ trứng rỗng.
    Từ lúc có vựa củi, trứng gà ông chủ đặt trong hũ không giữ được quả nào. Cái hũ kia vừa sâu vừa lớn, mèo chui vào đó cũng không ra được, lại dùng một tảng đá lớn đè lên trên, vậy thứ gì có thể mang trứng đi đây?
    Người khai hoang làm ruộng, vốn không muốn gây thù chuốc oán, có điều nhịn không được, ba lần bảy lượt mất trứng cũng không phải là việc nhỏ nữa rồi. Ông chủ đứng ngồi không yên, sau khi trời tối, một mình hắn ngồi xổm ở bên ngoài vựa củi, đợi tới nửa đêm thì nghe được bên trong có tiếng động. Vựa củi làm bằng gạch đắp đất, trên nóc phủ cỏ tranh, che không kín hết. Ông chủ vịn cửa nhìn vào chỉ thấy ánh trăng đầy trời, sương giăng đầy đất, một con rắn lớn từ giữa nóc nhà trườn xuống, chỉ thấy đầu mà không thấy đuôi, nó dùng đầu đẩy tảng đá trên hũ đi, nuốt từng quả từng quả trứng gà, quấn trên xà giũ vài cái rồi phun vỏ trứng ra, rồi lại bò lên nóc nhà đi mất, chớp mắt đã không thấy tung tích.
    Ông chủ xem rõ rồi, sợ tới mức lông tóc trên người dựng đứng, đầu túa ra đầy mồ hôi. Một hôm, hắn dẫn người tới điện bắt rắn, mọi người đều khuyên hắn, rắn lớn như vậy không thể đánh được. Hắn căn bản không nghe, lo rằng sau này khó mà sống yên ổn được, liền đem theo mấy người gan lớn, cầm súng săn đi vào, tìm trong ngoài vài lần cũng không phát hiện con rắn, gần đỉnh điện tìm thấy một cái hang lớn. Nghe người dân xung quanh đó nói lại, điện này có từ thời Liêu, quy mô vô cùng lớn, thời đó hương khói cực phồn thịnh. Rất nhiều người cao tuổi đã từng gặp rắn tiên ở đây, có khi rắn tiên quấn trên cột, có khi lại cuộn tròn ở đỉnh điện, miệng to như cái chén, vảy đen lưng bạc, có công che chở điện cho Long Vương, chưa từng gây hại. Còn có một lão đầu bán dầu chiên nói, năm đó lão gánh thúng qua đường, thấy một con rắn dài lượn quanh đỉnh điện ba vòng như đang tìm rạch nước để uống. Dưới nóc hiên có một cái động, có lẽ là động rắn, để cho rắn lớn trấn điện lui tới.
    Người xưa ít ai không mê tín. Gia đình ông chủ mặc dù là người nơi khác đến khai hoang nhưng nghe dân bản xứ khẳng định như vậy, cũng nghi ngờ không biết có phải là thật hay không, khó tránh khỏi cảm thấy sợ hãi, mặc dù vẫn sai người đi đánh rắn nhưng không ai dám đi. Gã nhanh trí nghĩ ra một cách, ra ngoài tìm gỗ đẽo thành hai mươi quả trứng gà, độ lớn như trứng thật, bên ngoài quét phấn trắng, đặt vào bên trong hũ ở vựa củi, phía trên vẫn dùng tảng đá đè lên.
    Nửa đêm hôm ấy, ông chủ lại nằm sấp ở ngoài cửa nhìn vào bên trong, con rắn lớn từ nóc nhà bò xuống nuốt trứng gỗ trong hũ, dốc sức quấn trên xà một hồi lâu, có điều ăn cả một bụng trứng mà không ép vỡ được, dùng nhiều sức lực mà cũng không nhả vỏ trứng ra được, nôn nóng đập loạn xạ khắp nơi. Ông chủ hết hồn liền trốn vào trong buồng trong, không dám nhìn nữa.
    Sau đó, tới hừng đông qua xem vựa củi, vẫn không nhìn thấy xác con rắn, không biết chết ở đâu.
    Một buổi sớm, tiểu bán lạp ra bờ sông chăn trâu, nhìn thấy con rắn lớn chết ở dưới tán cây, cuốn mấy vòng quanh thân cây, bụng bị vỏ cây mài rách, hai mươi mấy quả trứng gà gỗ rụng đầy đất, vết máu loang lổ khắp nơi. Nó không đành lòng liền đào đất chôn. Ngày hôm đó thời tiết nóng bức ngột ngạt, trâu không ăn cỏ mà nằm ở bờ sông hóng mát, nó ngồi trên lưng trâu, bỗng không biết một lão nhân từ nơi nào đến, nó thấy người này rất quen, chỉ có điều không nhớ nổi đã từng gặp qua ở đâu. Người đó đến trước mặt nó, không nói gì mà chỉ đưa cho nó một con cá mời ăn.
    Tiểu Bán Lạp nói: "Tôi không quen biết ông, vì sao vô duyên vô cớ lại mời tôi ăn cá?"
    Người kia nói: "Ngươi không cần hỏi, mau ăn đi! Ngươi ăn con cá này rồi, từ nay về sau sẽ không còn là người bình thường nữa!" Tiểu Bán Lạp nghe không hiểu gì: "Không phải người bình thường? Tôi khác người chỗ nào?"
    Người kia nói: "Ngươi ăn con cá này, toàn thân có sức lực, chờ khi trời tối, ngươi trèo lên nóc hiên của điện trấn sông, ba ngày không bị đói, qua ba ngày, ngươi trở xuống lại con đường này, đi đến cuối đường có một tòa Kim Loan điện, trong điện đó bên trên là vua, bên dưới là hạ thần, bên phải là quan võ, bên trái là quan văn, ở đó có một chỗ dành cho ngươi, đó là một tòa tháp chắn trước Kim Loan điện. Ăn con cá này, ngươi mới đi được ..."
    Tiểu Bán Lạp nghe không hiểu lời nói của lão nhân kia, có điều đang lúc đói bụng liền nhận cá, ăn vài miếng. Mới ăn chưa hết một nửa thì ông chủ tới đạp nó một đạp, mắng chửi không chịu chăn trâu cho tốt lại ngủ gật ở bờ sông. Nó hoảng hốt xem lại thì trong tay không có cá, người lạ trước mặt cũng không thấy đâu, hóa ra là một giấc mộng, nhưng nó cũng không thấy đói bụng nữa.
    Đuổi trâu trở về, đi qua điện trấn sông, đột nhiên nhớ ra hình dáng lão nhân kia tại sao lại giống với Long Vương thờ trong điện như vậy? Trong lòng nó vô cùng khó chịu, nửa đêm, cho gia súc ăn xong liền trèo lên nóc hiên đại điện, nhìn khắp mọi nơi, không thấy điều gì bất thường, đang lúc buồn bực thì chợt thấy biến cố kinh hoàng.
    Đúng lúc nó định trèo xuống thì nghe phía xa xa tiếng động ầm ầm, giống như âm thanh của thiên binh vạn mã, Liên Hà lụt lớn rồi. Chỉ chớp mắt lũ lớn đã tràn đến, phòng ốc, gia súc của ông chủ cùng cả nhà lớn nhỏ đều bị hồng thủy nuốt hết, chỉ có điện trấn sông là không bị lũ xô đổ, người dân mê tín cho rằng Long Vương tới báo thù.
    Tiểu Bán Lạp trốn ở đỉnh điện, tránh thoát được một kiếp nạn. Hồng thủy ba ngày mới lui, ba ngày nó không ăn không uống, cũng không biết tại sao vẫn cầm cự được.
    Đợi tới lúc lũ rút đi, nó mới trèo xuống tìm đồ ăn, đi nhiều ngày nhưng không tìm thấy Kim Loan điện đâu. Sau đó nghe người ta đồn đại: "Trên giang hồ có một người là Thôi lão, là thầy tướng số tinh thông phép thuật." Nó liền nảy ra ý niệm đi tìm Thôi lão. Nhắc tới Thôi lão kia, trước tiên cần nói rõ nguồn gốc của gã, phía đông thành Thiên Tân nước Vệ có một tòa miếu thờ rất lớn, tục gọi là "Nương Nương Cung", thờ thánh mẫu nương nương. Miếu lớn, thần tiên được thờ cúng trong miếu cũng nhiều. Chính điện ở giữa thờ thánh mẫu, tiền điện thờ Vi Đà, chếch một bên cạnh thờ tứ đại kim cương, còn cả con cháu nương nương cùng mắt thần của nương nương. Hương khói quanh năm suốt tháng không ngừng. Thiện nam tín nữ đến đây thắp hương bái tế cầu con nối dõi thì tìm điện con cháu nương nương, bệnh về mắt thì cầu mắt thần nương nương, đều không tới tay không, đốt hương xong, ít nhiều đều cung tiến một chút gọi là tiền đèn đuốc, tiền dầu thắp.
    Thời đó trong miếu có một lão đạo trụ trì, chuyên thu tiền nhang đèn. Càng nhiều người đến cúng bái, lão càng kiếm được nhiều tiền. Lão còn thu hương chưa tàn hết, bán cho nhà làm hương, tái chế rồi lại mang bán ở trước cửa miếu, bản chất là kinh doanh không vốn. Từ xưa có câu nói rằng: "Thắp hương không được bỏ sót thần", người đến miếu cầu thần, cần có thành tâm, phải phục lạy lần lượt các điện, dâng hương xung quanh, cả con cháu của lão nương nương cũng phải cúng. Khi đó, làm ông từ ở "nương nương cung", chỗ nào cũng có thể thu tiền, cuộc sống giàu sang phú quý cho dù là Huyện thái gia cũng không sánh bằng.
    Tiền điện, chính điện và hai điện hai bên của nương nương cung hương khói càng ngày càng vượng, hậu điện ngược lại vô cùng đìu hiu. Do hai nguyên nhân chính, thứ nhất do vị trí hẻo lánh, thứ hai chính là vì hậu điện thờ vị "Vương Tam nãi nãi". Có lẽ bạn đang nghĩ tới Hồ Tam nãi nãi, Hồ Tam thái gia, không cần hỏi cũng biết là hồ tiên, trong thành còn có miếu Hồ Tam thái gia, nhưng ba thái gia trong miếu Hồ Tam đó vốn không liên quan gì tới Vương Tam nãi nãi. Đến nỗi vị Vương Tam nãi nãi được thờ trong hậu điện là ai, thực ra cũng không ai biết. Nhìn qua thì tượng Vương Tam nãi nãi tạc bằng gỗ, không thấy mũ phượng, khăn quàng vai, áo quan, đai ngọc, cũng không có tướng mạo lão bà phúc hậu, dáng vẻ giống như một mụ già quê mùa, trông rất khó coi?. Vì thế qua mười năm mở hội, tiền điện luôn tấp nập chen chúc tới ngã ngoài cửa miếu mà hậu điện cũng không mấy khi được hương khói tử tế.
    Không biết từ khi nào, quan phủ bỗng ban bố một quy định, bố trí một nhóm đạo sỹ luân phiên trông coi hậu điện. Đạo sỹ không ở tại miếu, mà nhà ở trong vùng, bình thường không mặc đạo bào. Mỗi người đảm nhiệm một năm, đến phiên ai thì người ấy đi. Trong một năm ở đây, hậu điện có chuyện lớn chuyện nhỏ gì, tiền thu được bao nhiêu, đều thuộc quyền quản lý của đạo sỹ trông coi. Có điều cũng chẳng ai muốn đi, chẳng qua là vì sợ vương pháp, không đi là bị ăn gậy mà thôi.
    Năm đó, đến phiên Thôi lão đạo trông coi hậu điện Vương Tam nãi nãi. Lão cả ngày ủ rũ, chán nản. Người ta ở bên ngoài, làm cái gì cũng dễ, xuống thung lũng nhặt củi, trộm gà trộm chó, không lo lắng tới cái ăn, còn trông coi hậu điện, mười ngày nửa tháng không thấy có mống nào vào thắp hương, gió Tây Bắc cũng không có mà hít, qua một năm, chẳng phải sẽ chết đói ở đây sao?
    Có điều Thôi lão đạo là kẻ lắm mưu nhiều kế, hắn nghĩ tới nghĩ lui, nghĩ ra một cách. Hắn nghĩ các điện phía trước hương khói cực thịnh bởi vì đều tương truyền là có linh ứng. Thực sự là có linh ứng sao? Cũng chưa chắc, bất kể tâm nguyện của bạn là gì, kết quả có linh ứng hay không đều có lý do cả, không ứng thì là do ngươi làm việc thiện chưa đủ.
    Có thể thấy rằng linh hay không linh cũng là thứ yếu mà thôi, chủ yếu là do đầu năm nhiều người mê tín, nhờ thần dựa quỷ, tin rằng cái gì cũng có cả. Nhìn xem điện Vi Đà phía trước, quá khác với Vi Đà ở nơi khác, hai tay tượng đất trống trơn không có chày hàng ma. Không có chày hàng ma, Vi Đà còn có thể coi là Vi Đà sao? Có người nói là chày hàng ma của Vi Đà trấn trụ tại mắt biển, Vi Đà ngồi cạnh trên, phù hộ một phương này không bị lũ lụt. Như vậy là chỉ một truyền thuyết dân gian thôi cũng có thể làm cho rất nhiều thiện nam tín nữ tin là thật. Vậy nếu Vương Tam Nãi Nãi hiển linh, còn lo không có ai vào thắp hương sao?
    Thôi lão đạo quyết tâm để Vương Tam Nãi Nãi hiển linh. Ngày hôm sau có một vụ ồn ào, gần đến trưa, trước cửa miếu vô cùng hỗn loạn. Có một phu xe chặn trước cửa miếu, giọng như thanh la hướng vào trong miếu hò hét. Rằng có một lão thái thái, mặt mũi hiền từ, phúc hậu, mặc áo dài, tà áo màu xanh nhạt, quần đen quấn xà cạp, chừng bảy mươi tuổi, thân hình rắn rỏi, sáng sớm đã tới kêu xe của hắn tới miếu thắp hương đầu ngày, nói xong việc sẽ đưa cho hắn năm đồng. Nhưng mà lão thái thái kia vào miếu, tới trưa vẫn chưa thấy đi ra, một nhà già trẻ trông vào tiền kéo xe của hắn, hắn phải về nhà mua bột ngô không đợi được, liền ở trước miếu gây ồn ào, khiến cho rất nhiều người vây quanh xem náo nhiệt.
    Ông từ quản lý trong miếu đi ra, hỏi rõ ràng chuyện xảy ra, nói lão cũng rất ngạc nhiêu, từ sáng sớm tới bây giờ, lão đều ở trong miếu, không có lão thái thái nào như vậy đi vào thắp hương.
    Phu kéo xe tiếc năm đồng kia, mượn dây xích khóa xe lại, đi vào trong miếu tìm người. Những kẻ xem náo nhiệt bên ngoài cũng kéo vào theo. Điện trước không có, chính điện không có, điện thờ hai bên cũng không có. Tìm đến hậu điện, phu xe liếc mắt một cái liền nhận ra lão thái thái ngồi xe của hắn, tà áo dài xanh nhạt, quần đen quấn xà cạp, chính là vị ở hậu điện này. Người xem náo nhiệt theo vào toàn bộ đều choáng váng, đây không phải là người, mà là tượng gỗ của Vương Tam Nãi Nãi phía trước tượng gỗ còn bày ra mười đồng tiền.
    Phu xe vừa nhìn thấy, vội quỳ rạp xuống đất, lạy như tế sao, hô là: " Vương Tam Nãi Nãi hiển linh, thương cảm người nghèo chúng tôi, đã nói chỉ cần năm đồng, lại thưởng cho những mười đồng!"
    Đương nhiên, toàn bộ trò này đều do Thôi lão đạo một tay sắp xếp, hắn đã thuê gã phu xe đến cửa miếu gây một trận náo loạn. Kể từ đó, một truyền mười, mười truyền trăm, truyền khắp đông tây. Thiện nam tín nữ từ bốn phương tám hướng đều đổ về thắp hương, quyên tiền hiến vật nhiều vô kể, đều kháo nhau rằng Vương Tam Nãi Nãi hiển linh, cầu được ước thấy.
    Có điều người tới thắp hương cầu thần đều thắc mắc không biết Vương Tam Nãi Nãi ở hậu viện cai quản sự vụ gì? Thôi lão đạo thấy trong điện có bày một cái cung tên, hắn nhanh trí nói vói thiện nam tín nữ, Vương Tam Nãi Nãi là vị nhũ mẫu của con cháu nương nương, hậu điện có cung tên bắn chó trời. Trước đây có câu nói mê tín: "Đuổi đi chó trời, con cháu tiến vào". Dân gian mê tín, nghĩ chuyện hai vợ chồng không có con cái là do thiên cẩu chặn trẻ con đi đầu thai, nhất định phải dùng cung tên bắn lên trời, dọa thiên cẩu đi mới có hậu thế. Lại có truyền thuyết thiên cẩu chui trong ống khói, dọa nạt trẻ con, dễ dọa cho linh hồn đứa bé rơi rụng. Hễ là vợ chồng nào cần cầu sinh con cái hoặc là trẻ nhỏ trong nhà gặp tai họa, liền mang tiền nhang đèn cúng cho Thôi lão đạo ra để hắn giả bộ bắn ba mũi tên lên trời. Thôi lão đạo mượn việc Vương Tam Nãi Nãi hiển linh, bắn chó trời ở hậu điện, thu được không ít tiền tài. Phải nói rằng đối với những người mê tín, đã tín thần tiên thì đương nhiên cũng tín số mệnh. Không ít người cũng tìm đến Thôi lão đạo nhờ xem số, đều nói lão xem vô cùng chính xác. Thôi lão đạo sẽ nói là: "Ngươi hỏi mệnh là gì? Nói cho ngươi biết trước cũng vô dụng, ngươi sống sẽ không thể nhìn thấy, sau này ngươi biết cũng không còn kịp nữa, mới hiểu ra rằng cái này gọi là mệnh!"
    Bóc mẽ Thôi lão đạo là để nói tới chuyện lão coi bói cho Tiểu Bán Lạp. Nó vốn nghĩ rằng Thôi lão đạo là chân nhân đương thời, không quản ngàn dặm xa xôi mà chạy tới tìm Thôi lão đạo để hỏi mệnh. Thôi lão đạo nói với nó như vậy: "Ngươi mơ thấy Long vương mời ngươi ăn cá, cái này là phúc của ngươi không nhỏ, vận may này người bình thường khó mà có được. Bát tự của ngươi cũng tốt, sinh ngày mười tám tháng tám, gặp phải bát tự có Mã Kỵ, nên có số làm vương làm tướng, thậm chí là mệnh được ngồi cung điện, sao không tìm đường xuất thân trong nghiệp binh?"
    Nó cũng không hiểu, ngày trước xem số đầu năm, thầy tướng số cũng nói như vậy, nhìn đĩa thức ăn nhà nó, hắn liền bảo nó phải đi nhập ngũ, nói rằng có mệnh được làm quan lớn, được cưỡi ngựa khỏe.
    Hễ đầu quân binh nghiệp, đương nhiên không thể tránh khỏi việc chết đi sống lại giữa đám đao thương, chỉ cần có thể sống sót, là có cơ hội được làm quan. Làm quan rồi nghĩ đến lời phán của thầy tướng số, sao có thể biết rằng lời phán xằng này của hắn đã khiến cho bao nhiêu người chết oan. Thầy tướng số Thôi lão đạo kia cũng đều là quen miệng nói láo, mượn danh Vương Tam Nãi Nãi hiển linh để lừa bịp, bắn thiên cẩu cầu con cái cho người thu tích tiền tài. Có điều Bạch Bán Lạp vốn là người không có chủ kiến, lỗ tai mềm yếu, người khác nói gì hắn cũng tin, hơn nữa lại cực kỳ mê tín, không may mắc lừa đều là vì thế. Hắn tin lời nói của Thôi lão đạo là đúng, cho rằng mình có mệnh ngồi cung điện, một lòng muốn phong vương bái tướng. Hắn đưa "lăng phổ" mà tổ tiên truyền lại cho Lão Nghĩa Mù, chạy đi đầu quân, mất đi tiền đồ.
    Qua thời kỳ chiến tranh, không đếm nổi bao nhiêu lần vào sinh ra tử, cuối cùng đánh tới Tháp Sơn, Tháp Sơn thực ra không hề có tháp, cũng chẳng phải núi, có điều trong tên dịa danh có chữ "Tháp" mà thôi. Có thể do hắn chỉ ăn có nửa con cá, tới Tháp Sơn không qua được, bị nổ mất một chân. Hắn nghĩ đây là mệnh, luôn nhắc tới việc hắn chỉ ăn có nửa con cá, đường Long Vương chỉ cho chỉ có thể đi được một nửa.
    Vì hắn luôn nói như vậy nên bạn bè cũng thường gọi hắn là "Bạch Bán Lạp" (Bạch nửa đường). Năm 1966, hắn qua đời, Bạch Kỳ con của hắn đi trấn thủ biên cương ở vùng biên cương phía bắc, không chịu đổi nghề.
    Trước đây tổ tiên Bạch gia có được một quyển sách cổ, ứng với bốn chữ "Gặp hổ thì mở", truyền lại hai trăm năm, vẫn không ai biết "Có rồng thì hưng thịnh" ứng nghiệm ở đâu. Kết quả lại thành ra ứng với câu nói của Thôi lão đạo- Người ở trong thì nhìn không thấy, sau này thấy được rồi thì đã muộn, đây không phải mệnh thì là gì?



     
  2. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,686
    Mô Kim Hiệu Úy Cửu U Tướng Quân
    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng
    Chương 2: Hội tranh trống.

    Người dịch: Đinh Thảo, Lưu Hà
    Nguồn: Lachoncoc






    Những năm tám mươi, thị trường đồ cổ ở thành Bắc Kinh phân ra làm bốn khu vực lớn, phía đông có hai cái chợ âm phủ hay còn gọi là “chợ sớm”, một cái ở Sùng Văn môn, một cái ở Tuyên Vũ Môn, canh ba mở chợ, canh năm tan chợ, hai trăm năm nay vẫn luôn như vậy, bán hầm bà lằng các loại hàng bất chính vàng thau lẫn lộn, đồ tốt ở đó giá cũng không hề rẻ chút nào. Còn có hai nơi khác nữa, một là Xưởng Lưu Ly, ra đời và phát triển từ hai triều đại trước, còn một cái khác ra đời sau chót hiện cư ngụ tại chợ đồ cũ Phan Gia Viên. Mặc dù sinh sau đẻ muộn nhưng người ta vẫn truyền tai nhau rằng, nếu muốn tìm đồ cổ chất lượng thực sự thì phải đến Phan Gia Viên.
    Lúc ấy mặt hàng buôn bán ở chợ đồ cũ Phan Gia Viên có thể nói là thượng vàng hạ cám, từ đồ cổ đến tang vật trộm cắp. Trong chợ, kẻ gian nhan nhản, rùa, thỏ tạp nham loại người nào cũng có. Các sạp hàng ở vỉa hè đồ giả như mây mà đồ thật trên tay cũng không ít. Hôm nay ở chợ tôi đụng trúng một gã béo đeo bùa Mô Kim, kiếm chén cơm đổ đấu. Hồi đó ở Phan Gia Viên nhắc tới tên tôi, tốt xấu gì dù sao cũng có chút số má.
    Gã béo đó là Lão Nghĩa mù, hôm đó, lão tới thăm tôi. Nếu xét về vai vế tôi phải gọi lão một tiếng sư thúc. Lão tìm tới, giao cho tôi một cái túi vải lớn, trong túi có dù kim cương, bát chu sa, vuốt phi hổ, roi đả thần, móng lừa đen, áo thủy hỏa, áo da chuột, giày may mắn, ấn Phát Khâu, túi càn khôn, còn cả một cuốn "lăng phổ" nữa. Tôi nghe lão Nghĩa mù nói roi đả thần, bát chu sa, dù kim cương, túi càn khôn, vuốt phi hổ, áo thủy hỏa chính là do sư phụ lão tức sư tổ của tôi truyền lại.
    Đó là toàn bộ trang bị hành nghề của dân đổ đấu. Mấy thứ này người ngoại đạo có cũng vô dụng, chỉ nằm trong tay người được trân truyền bùa Mô Kim mới có thể phát huy khả năng chân chính của nó.
    Tôi vốn tưởng rằng lão Nghĩa mù niệm tình hương hỏa mà chiếu cố tôi, đâu biết rằng thực ra không phải lão định cho không. Mắt lão không tốt, lại lớn tuổi, tay chân chậm chạp, kiếm ăn không nổi nữa, muốn tôi đi kiếm đồ rồi chia cho lão một nửa. Kỳ thật cho dù lão không nói tôi cũng sẽ không để lão phải chịu thiệt. Có điều từ sau khi chui ra được từ núi quan tài, tôi đã không còn đổ đấu nữa. Theo tôi được biết, Mô Kim Phát Khâu nổi lên từ thời Hậu Hán, người đeo bùa là Hiệu úy, lưng cõng con dấu gọi là Thiên quan, đều có thuật tầm long.
    Nói đến tầm long, long là gì? Long có thể sáng có thể tối, có thể lớn, có thể nhỏ, bay lên trời, lặn xuống vực sâu. Nhiều người cho rằng chỉ là chém gió, làm gì có ai nhìn thấy long? Người khác nhìn không ra nhưng Mô Kim hiệu úy có thể nhìn ra. Cái gọi là tầm long, chính là nhờ vào xem hình thế núi, xem thiên văn tìm nơi có long mạch, long huyệt. Tầm Long Quyết có nói: "Đi theo đường lớn sẽ gặp rồng, đỉnh tinh tú chiếu sáng là thân rồng, tứ chi phân ra bốn thế giới, soi sáng nhật nguyệt thành hình núi!" Bùa Mô Kim là vật hộ thân của dân đổ đấu Mô Kim Hiệu Úy, không có bùa Mô Kim, không phải là Mô Kim Hiệu Úy. Mô Kim Hiệu Úy đeo bùa tầm long, đào trộm mộ lấy bảo vật cứu nhân độ thế. Tổ sư gia lập ra quy củ: Mô Kim Hiệu Úy có hai điều đại cấm kỵ: Một: Không đi một mình; Hai: Không truyền cho người trong nhà. Không đeo bùa thì không sao, đeo bùa Mô Kim rồi, dám không tin hai đại kỵ này sao?
    Điều hai đại kỵ này muốn dăn dạy đó là, không phải kiêng lúc gà gáy tắt đèn không được trộm mộ mà là tối kỵ việc hành động một mình, riêng lẻ. Bất luận bạn tài giỏi, nhiều kỹ năng thế nào đi chăng nữa, phạm vào đại kỵ, quay đầu lại đều không có kết quả tốt! Nghe nói ấn Phát Khâu tầm long bị hủy vào đời Minh, tôi không biết vật mà Lão Nghĩa mù lấy được này là thật hay giả, còn bùa Mô Kim truyền lại tới đời sau chỉ còn ba miếng, tới những năm cuối triều Thanh lại rơi vào tay Trương Tam thái gia, một mình lão đeo ba cái, cũng không dám tách bùa Mô Kim ra. Trương Tam thái gia có bốn đồ đệ, bùa Mô Kim truyền lại cho ba người đồng thời còn truyền lại một câu: "Hợp thì sống, chia thì chết". Mấy người bọn họ không tin lời này của Trương Tam thái gia, kết quả là toàn bộ đều bị chôn vùi trong lòng đất.
    Ban đầu do hoàn cảnh bức bách tôi mới bất đắc dĩ phải đi trộm mộ, tôi cũng không phải loại người lúc ngã sông thì hô cứu mạng, được cứu lên bờ mặc quần áo vào rồi lại còn khóc đòi xuống sông, chân không dài ra trên cơ thể người khác, đường đều do mình tự chọn mà đi, không nên nói hai chữ hối hận, nhưng mà cái nghề đổ đấu này, vất vả khổ cực thì không nói, nguy hiểm đến tính mạng mà cũng chỉ thu được vẻn vẹn một hai món đồ chôn theo người chết, tôi càng nghĩ càng cảm thấy không đáng. Minh khí (đồ chôn theo người chết) cho dù có đáng tiền, vẫn không đáng giá bằng mạng người. Người đời thường nói trộm mộ đoạt bảo có thể phát tài, đó là trong truyền thuyết cổ xưa thôi, thời đại bây giờ, tên lửa cũng phóng lên vũ trụ rồi, vài ba thủ đoạn trộm gà, trộm chó này cơ bản đã lỗi thời lâu rồi?
    Nói khó nghe hơn một chút thì trộm mộ tổn hại âm đức, không cần biết là anh kiếm lời bỏ vào túi riêng hay là giúp đỡ người nghèo khổ, nói thế nào cũng vẫn là lấy đồ vật của người chết bán lấy tiền. Đồ người chết là đồ không nên lấy, kỳ trân dị bảo trong mộ cổ một khi thấy lại ánh mặt trời, tất nhiên sẽ dẫn tới chuyện tranh giành, cướp đoạt, tất có người mất mạng, nguyên nhân cũng đều đổ lên đầu Mô Kim Hiệu Úy. Bởi thế mới nói, chén cơm đổ đấu bới mộ này, không thể ăn cả đời được, tôi đã quyết tâm phải cao chạy xa bay.
    Lão Nghĩa mù không đồng ý: "Hổ không rời núi, rồng không rời vực, cao chạy xa bay, nói dễ vậy sao!"
    Lão tin cũng được mà không tin cũng chẳng sao, tôi đã quyết tâm là phải ra đi, tôi mang toàn bộ vốn liếng trong tay đưa hết cho Lão Nghĩa mù, lão chê không đủ, tôi cũng không có thêm nữa.
    Đêm hôm ấy, tôi hẹn Tuyền Béo cùng Răng Vàng, đến quán cơm Đông Tứ. Nửa đêm không còn đồ ăn, chỉ còn bát bánh canh. Ba người ngồi xuống, tôi mang những việc đã trải qua nói với bọn họ một lượt.
    Răng Vàng nói: "Hồ gia, buôn bán thứ đồ này không sợ thua lỗ, anh nên thuận theo chớ có coi thường số mệnh, mệnh của anh đã định là phải ăn chén cơm đổ đấu này rồi, không thì những thứ này cũng không tự nhiên mà rơi vào tay anh!"
    Tôi nói: "Tôi đổi lấy roi Đả thần, bát Chu sa, dù Kim Cương, áo Thủy hỏa, cũng không phải là vì muốn hành nghề đổ đấu, chỉ vì không thể bỏ vật mà tổ sư truyền lại mà thôi. Hai người các anh không cần phải lo lắng, hiện giờ, tuy rằng tôi một đồng xu cũng không có, nhưng tôi đã nghĩ thông rồi. Sau này ra ngoài, ba anh em ta cũng không thể không ăn không uống, nghề mới thì làm không nổi, vả lại nghĩ kỹ lại thì sao phải đổi nghề chứ, trăm hay không bằng tay quen mà. Chúng ta vẫn cứ làm con buôn thì tốt hơn. Nghe đồn Quỷ thành có một kỹ nghệ tuyệt đỉnh, làm đầu phật giả cháo đầu thật, người bình thường căn bản không thể phân biệt. Anh mà có được một cái đầu Phật khiến cho hai ba mươi gã nhà nghề chong mắt mười ngày, nửa tháng cũng không dám chắc là thật hay giả, không sợ không bán được hàng, bán một cái cũng đủ ăn nửa năm. Chỉ có điều kỹ nghệ đó cũng không dễ có được, tôi còn phải nghiên cứu nữa, nhưng dù sao cũng tốt hơn đến nơi rừng sâu núi thẳm móc mộ cổ có phải không?”
    Tuyền Béo nói: "Mẹ kiếp! Bán một cái mà đủ ăn cả nửa năm, vậy còn trần chừ gì nữa? Hai hoành dựng lên đánh một chữ - Kiền thôi!*
    (Chữ Kiền干 hay là can nghĩa trong câu này là theo, do hai thanh ngang có một thanh dọc ở giữa dựng lên tạo thành nên mới có câu: hai hoành dựng lên đánh một chữ Kiền)
    Răng Vàng bực bội: "Ôi trời hai vị đại gia, các người đừng trách Răng Vàng ta nói chuyện không lọt tai nha, bán một cái mà đủ ăn nửa năm, vậy cũng còn phải xem là ăn cái gì nữa kìa, ăn bánh canh nửa năm cũng còn chưa chắc, thật đó! Hồ gia anh đừng có chê tôi nói năng dông dài, anh nói xem anh cũng già đầu rồi, vì sao vẫn phải tối ngày lăn lộn ở cái chỗ không ra gì, thực ra chỉ cần qua lại với mấy người có lai lịch thôi thì cuộc sống của anh cũng đã khác lắm rồi. Ngược lại anh cái gì cũng không muốn, chỉ chăm chăm buôn bán đồ giả, không phải là muốn làm muối mặt tổ tông sao? Không để cho anh gặp vố thua lỗ lớn, đồ đạc trong nhà đội nón đi sạch, thì anh còn chưa trắng mắt ra! Tôi cũng không muốn múa lưỡi với anh nữa, anh ngồi đây mà tự ngẫm lại đi, đừng khiến cho toàn bộ nước miếng của Răng Vàng tôi phải lãng phí trôi theo dòng nước!"
    Răng Vàng lại tiếp: “Béo ca ca, anh cũng đừng có chỉ biết quan tâm đến bánh canh như thế, nói vài câu đi!
    Tuyền Béo nói: “Nói cái khỉ gì? Tôi theo Hồ huynh thôi, giống như anh nói vừa rồi đó, sau này sợ rằng cả bát bánh canh cũng không được húp nhiều nữa, nên giờ tôi còn không tranh thủ húp hai bát được sao?
    Răng Vàng nói: "Bố khỉ, lại còn hai bát nữa? Đầu óc thằng béo anh giản đơn vừa thôi, đổi lại là tôi, nuốt cũng chẳng trôi!"
    Tuyền Béo nói: "Mẹ kiếp, bánh canh còn húp không được? Anh dựa vào cái gì mà đòi làm việc lớn? Dựa vào tổ tiên nhà anh à?”
    Răng Vàng thấy Tuyền Béo không để ý tới lời của hắn, xì mũi chán nản một cái, xoay đầu lại nì nèo tiếp với tôi.
    Tôi nói: "Anh phun ra cả chậu nước miếng, rốt cuộc là muốn nói gì? Không phải là muốn tôi đi đổ đấu đó chứ?”
    Răng Vàng nói: "Không phải, anh đường đường là Mô Kim Hiệu Úy, vậy mà lại buôn bán "lược giao hàng", còn mặt mũi đi lại bên ngoài sao? Anh không thấy có lỗi với tổ sư gia sao? Trên tay không có đồ thật mà có thể là Mô Kim Hiệu Úy sao? Chỉ có bùa Mô Kim thôi chưa đủ, muốn kiếm nhiều tiền vẫn là phải có hàng thật, không cần tham nhiều, chỉ cần có một hai món đồ thật, từ nay về sau tuyệt đối có thể phát tài!"
    Tôi cùng Tuyền Béo đều biết Răng Vàng không giỏi chửi bậy, hắn ta đầu tóc suốt ngày chải keo bóng nhẫy, giọng thì lơ lớ Bắc Kinh pha tiếng Mỹ, ít chửi bậy nhưng giọng điệu thì đầy vẻ lên lớp, rất biết ra oai, nhìn qua thì là “nhân mô cẩu dạng” * có điều người ngoài chỉ cần mạo phạm tới hắn một chút thôi, hắn dám bán con của họ lấy tiền, để họ khóc tới mù mắt chứ đừng đùa! Loại thương nhân như hắn, cần bạn thì nói trước mặt, không cần bạn sẽ nói xấu sau lưng, bình thường kiếm cơm bằng cái miệng. Có điều những lời này của hắn cũng không phải hoàn toàn vô lý, "lược giao hàng" là tiếng lóng trong nghề chỉ hàng giả đồ cổ, nói cách khác, người mua bán thứ đồ này chẳng khác nào để cho người ta ném qua ném lại, chẳng may mua bán thất bại ngã sứt đầu mẻ trán như chơi. Hơn nữa giới buôn bán “lược giao hàng” ở thành phố thường phải có nhiều mánh lới đối phó với người ngoài, muốn phát tài ở nghề này, tuyệt không hề đơn giản.
    * Nhân mô cẩu dạng: thành ngữ có ý châm chọc chỉ những người hình dung, cử chỉ, không giống người như dáng vẻ giả bộ nghiêm trang, lịch sự thái quá …
    Buôn bán đồ cổ không giống với những loại hình kinh doanh khác, có đổi vật ra tiền được hay không, hoàn toàn dựa vào con mắt và kiến thức, sau này phát giác ra bị mắc lừa, cũng đành ôm hận nhận phần thiệt thòi mà thôi. Xét trên đạo lý này mà nói, trước mắt thật giả khó phân, sau này dù biết được rồi cũng chỉ là "cánh tay gãy trong ống tay áo", ngã ngựa rồi dậy không nổi, phải tranh thủ lúc còn sớm kiếm bãi nước trong tránh lội nước đục. Ở Phan Gia Viên "lược giao hàng" có thể dễ bán, tôi lại đeo bùa Mô Kim, đồ trên tay tôi ai dám nói không phải là đồ thật? Nhưng ra ngoài rồi, không có đồ thật thì đương nhiên là không ổn. Muốn bán được "lược giao hàng", ít nhất cũng cần có một hai món đồ thật để ngụy trang, nếu không thì khó mà có chỗ đứng.
    Răng Vàng nói: "Hai người các anh nghe tôi một lần, không phải bảo chúng ta đi đổ đấu, mà là ra ngoài một chuyến, thu mua mấy món đồ mới được đào lên rồi nói là Mô Kim Hiệu Úy chúng ta móc được, Răng Vàng tôi nhận chi tiền vốn, cho dù bất kể kiếm được bao nhiêu tiền, anh đây ba phần ăn một, thế nào? Hồ gia, Bàn gia hai người các anh đều là người thẳng thắn, nói một câu xem, có được hay không, một lời quyết định đi!"
    Tôi với Tuyền Béo vốn là những kẻ không thích ngồi mát ăn bát vàng, ưa lao đầu vào mấy nơi mạo hiểm, nghe con đường Răng Vàng vẽ ra như vậy thấy cũng có lý, không thể không động lòng, vấn đề là đồ thật ngày nay không dễ tìm, không móc ở mộ thì lấy đâu ra?
    Vừa hay ở Quan Trung (Lưu vực Sông Vị ở tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc) có một gã là Mã Lão Oa Tử, không lâu trước đây nhờ người bắn tin, tuyên bố rằng mới lượm được bảo vật trên núi. Bọn chúng tôi bao gồm cả Răng Vàng cũng chưa từng gặp Mã lão Oa Tử, không biết tin này chính xác được mấy phần.
    Răng Vàng nói nếu thực sự muốn thu mua đồ thật, không phải là không có khả năng. Quan Trung- Thiểm Tây xưa kia vốn là vùng đất Đế vương, Nhà Chu hưng thịnh như rồng, đất Tần vững như hổ, từ thời Lưỡng Hán (Tây Hán và Đông Hán) đến nay đều vô cùng coi trọng Quan Trung. Ở đó cổ mộ nhiều, dân trộm mộ cũng nhiều, có điều cổ mộ cho dù nhiều, trộm mãi cũng cạn. Nhất là đối với những vùng quê nghèo hoang vắng, mười năm thì tới chín năm không cấy hái gì được.
    Từ hai triều Tần, Hán tới nay, trộm mộ đã trở thành phong trào. Đạo tặc đào nhiều năm như vậy, không có ngôi mộ cổ nào mà chưa bị động vào. Có đến trên trăm cái mộ sắp bị rỗng như cái rổ rồi, cũng chẳng còn đồ gì có giá trị để trộm nữa. Dân chúng địa phương ăn chén cơm này quả thật cũng vô cùng vất vả, buông bỏ thì không được, đói ăn vụng, túng làm liều, quyết tâm chuyển sang làm “lược giao hàng”. Tay nghề chế tác “lược giao hàng” nghe nói cũng truyền qua nhiều đời, làm đồ giả tráo đồ thật. Người mua chỉ cần sơ sót một chút, chẳng những không thu được chút tiền lời nào, mà còn có thể lỗ nặng vì mắc lừa.
    Cũng may Răng Vàng có cái mũi rất thính, hắn không cần nhìn mà chỉ dùng lỗ mũi cũng ngửi ra được thật giả, hơn nữa hắn có mối khách hàng lớn, cổ nhân thường nói "Hàng xuống đất thủ lĩnh chết"*, có người mua mới dám kiếm hàng. Ba người thảo luận hồi lâu, quyết đinh đi Quan Trung một chuyến, tìm một hai món đồ thật làm màu để từ nay về sau đi lừa đảo.
    *(Hàng xuống đất thủ lĩnh chết- ngạn ngữ Trung Quốc ý nói nếu người bán không chuẩn bị thương lượng với khách hàng trước, sản xuất số lượng lớn, đến lúc chuyển tới bị ép giá hoặc không lấy nữa người bán sẽ chịu thua thiệt)
    Theo hoàng lịch, bốn ngày sau là ngày tốt, thích hợp xuất hành. Hôm đó, tôi cùng Tuyền Béo, Răng Vàng gấp rút tới Quan Trung. Vận trang phục mang theo đạo cụ đổ đấu bất li thân, trước giờ chúng tôi ra ngoài làm ăn buôn bán cũng đều dựa vào mấy thứ này để dọa người.
    Ba người tới Tây An trước, không hổ danh là đất cố đô, tám trăm dặm đất Tần bụi vàng tung bay, danh lam thắng cảnh cổ xưa nhiều vô số. Nói tới ẩm thực, sủi cảo Đức Phát Trường, phao mô hay thịnh tường (các món đồ ăn vặt ở TQ) có thể nói là cái gì cần có cũng đều có đủ. Có điều chạy qua chạy lại ở đây lâu cũng không được, còn phải về vùng nông thôn hẻo lánh nữa. Chúng tôi đi dạo ở Tây An nửa ngày, rồi lại ngồi xe đường dài tới Hàm Dương, qua Kỳ Sơn, lại đi về hướng tây, đều là núi non trùng trùng điệp điệp. Thế núi hoang dã oai phong, hùng vĩ như rồng xanh, từng ngọn từng ngọn như lầu rồng bảo điện.
    2
    Lại nói mèo có đạo của mèo, chó có đạo của chó, chớ lẫn lộn sang nhau. Muốn thu mua đồ dưới đất phải tìm chỗ có hang động. Theo tin tức chúng tôi nhận được, tòa núi lớn như lầu rồng bảo điện đó có một khe núi lớn gọi là "Cửa điện", lác đác có mấy chục hộ dân sinh sống. Mặc dù dân cư ở đây thưa thớt nhưng cổ mộ lại nhiều vô kể, minh khí phát tán ra ngoài dân gian không ít, đầu giường đất (giường lò) của người dân ở đây toàn là bảo vật.
    Sinh sống ở "Cửa điện" có một gã là Mã Lão Oa Tử, từ nhỏ đã chui hầm móc cổ vật, thường xuyên qua lại với lái buôn đồ cổ. Ba người chúng tôi lên đường đi tìm lão, đi tới lúc sắc trời sắp tối thì gặp được. Lão khoảng hơn sáu mươi tuổi, mặt tím hơn gan dê, cằm lại có một nhúm râu dê. Có điều lạ là mặc dù lão chăn dê chứ không có chăn ngựa, nhưng ở đây từ xưa người ta vẫn gọi lão là Mã Oa Tử - trẻ chăn ngựa, chẳng mấy người gọi là Phóng Dương Oa Tử - trẻ chăn dê, lớn lên cũng không đổi cách gọi, cùng lắm là thêm vào một chữ "Lão". Mã Lão Oa Tử thấy người từ Bắc Kinh tới, liền ra đón từ xa, dẫn đường vào nhà, nấu mỳ sợi cho chúng tôi ăn. Hắn tự xưng là kiếm sống nhờ vẽ tranh tết, bận bịu làm việc cả một năm, đầu năm mở hàng được mười mấy hai mươi ngày. Chi tiêu, ăn uống cả một năm phần lớn là tiền kiếm được từ vẽ tranh. Mã Lão Oa Tử vẽ tranh môn thần- loại tranh hộ pháp trấn yểm để trừ tà trên cánh cửa rất đẹp, một phòng toàn môn thần, đỏ thẫm lại xanh đậm, người đi vào không có chỗ đặt chân.
    Ngồi một lát, Mã Lão Oa Tử mang mỳ lên, mỗi người múc một tô. Tuyền Béo ăn như hổ đói, húp hai ba cái đã hết bát mì, lau miệng, quay đầu nói với Răng Vàng: "Từ nơi xa xôi chạy đến cái khe núi rách nát này, chân cẳng mệt mỏi rã rời, xoắn lại như củ tỏi lấy nhíp cậy cũng không ra, đương nhiên không phải là tới chỉ để ăn bát mỳ. Lúc bình thường không phải anh mồm năm miệng mười sao? Vừa mới bưng chén cơm lên mà sao đã thành như hồ lô mất miệng rồi? Anh xem trời đã nhá nhem tối rồi, mau hỏi Mã Lão Oa Tử xem hắn có đồ tốt gì hay không?"
    Sau khi vào phòng, tôi đã để ý xung quanh, Mã Lão Oa Tử quả thực rất nghèo, trong nhà không có đồ thừa, tất cả đều là tranh môn thần, không đợi Răng Vàng mở miệng, tôi liền hỏi Mã Lão Oa Tử trước: "Tôi nhìn thấy lão vẽ môn thần, không chỉ có Úy Trì Cung và Tần Thúc Bảo, lại còn có thêm cả tranh lừa! Trên cửa mà lại dán hai cái đầu lừa đen, đó là là phong tục gì?"
    Theo như truyền thuyết mê tín thời xưa, cương thi tấn công người sống, nghe tiếng lừa đen hí mới buông ra, cho nên dân đổ đấu phải mang "Móng lừa đen". Tôi đã từng nghe qua chuyện ba ba cắn người chứ chưa từng nghe lừa không hí thì không nhả miệng. Không biết có phải truyền thuyết cương thi sợ lừa hí có xuất xứ từ nơi này không. Chỉ có điều trong truyền thuyết dân gian, tướng quân lừa có thể hàng yêu trừ quái, trước đây thường xuyên xảy ra hạn hán, nơi có hạn hán bệnh tật thường có miếu thờ tướng quân lừa, có điều đều là miếu nhỏ, hương khói cũng không vượng. Đông bắc, tây bắc vốn là hai vùng mê tín nhiều, cũng chưa từng thấy có người dùng lừa làm môn thần.
    Tranh Tết thường thấy ở Quan Trung là tranh môn thần, táo quân, mặt hoa*, mặt tịnh*, hay là tranh Lưu Hải câu cóc vàng*, Vương Tiểu Nhi ôm cá lớn, cũng có thể là ba ngôi sao Phúc Lộc Thọ, còn cả Thương thần và Ngưu Ma Vương. Ngưu Ma Vương tương truyền là thần phù hộ cho mùa màng bội thu vẽ vào tranh tết thì còn có lý. Cả một phòng tranh tết của Mã Lão Oa Tử toàn là lừa đen thì thật không thể hiểu nổi, trên cửa vẽ hai cái đầu lừa đen, vậy thì là cầu phù hộ cái gì? Phù hộ cho cả nhà ngu như lừa sao?
    * -Mặt hoa, mặt tịnh: diễn viên trong hý kịch trong đó mặt hoa hay là mặt vẽ thường đóng vai có tính cách mạnh mẽ hoặc thô bạo, mặt trắng thường đóng chính kịch không vẽ mặt
    - Lưu Hải câu cóc vàng: hình vẽ Lưu Hải hai tay cầm một xâu tiền, dưới chân có cóc ba chân gọi là Kim Thiềm, cóc này là cóc thần
    Mã Lão Oa tử lớn lên ở một khe núi nghèo xác, những thứ truyền thuyết dân gian mê tín mà hắn nói là của địa phương có lẽ toàn từ trong bụng hắn chui ra, hắn nói đây là phong tục của “Cửa điện”, vẽ lừa đen chắn ở cửa để cho người chết không đi vào nhà. Đất ở Quang Trung vừa cứng vừa dầy, người chết chôn xuống trăm năm thành hung, ngàn năm biến thành sát, toàn thân mọc đầy lông dài, ban ngày núp trong huyệt mộ, nửa đêm ra ngoài ăn thịt người, cái này gọi là "Phệ mao sát" tức là hung thần khoác lông!
    Tuyền Béo nói: "Mã Lão Oa Tử ông chớ thấy bọn tôi mới tới mà nói láo gạt ngươiif, tôi chẳng tin đâu, người chết ở “cửa điện” rồi không phải là cả đời ăn hương ăn hoa, được chủ đất cung phụng bánh bột ngô, bột mì đó sao? Sao còn sinh ra tâm địa độc ác như vậy được?
    Răng Vàng xem chừng Mã Lão Oa Tử vẫn còn muốn nói tiếp liền nháy mắt với bọn tôi.
    Tôi gật đầu hiểu ý lại đưa sang Mã Lão Oa Tử điếu thuốc bảo hắn nói tiếp.
    Mã Lão Oa tử nói hắn vẽ lừa đen chắn ở cửa, màu vẽ thì dùng máu gà trộn với mực đỏ vẽ lên, có thể trừ tà, trong vòng vài trăm dặm quanh đây có thể nói độc nhất vô nhị không tranh nào qua nổi.
    Thổ ngữ địa phương thường gọi tranh đẹp là tranh trống. Tranh giống như đồ, tiếng trống bừng lên, sống động, linh hoạt, vút lên lại hạ xuống, vô cùng phấn khích. Có điều tay nghề của hắn bây giờ vẫn chưa đuổi kịp ông tổ nhà hắn, ông tổ nhà hắn vẽ tranh trống vô cùng sống động, có thể nói là kỳ tài ảo diệu, gần xa không ai không biết. Ông tổ hắn vẽ một con lừa, treo ở trong nhà, nửa đêm trăng sáng sao thưa con lừa trong tranh sẽ đi xuống. Có người nhìn lén ở ngoài nhà, chỉ thấy con lừa này chân đỏ, tai như đóa hoa, mõm trắng, móng trắng, viền mắt cũng trắng, toàn thân đen lay láy, còn đẹp hơn cả khoác áo gấm, trên bức tranh tết chỉ còn là tờ giấy trắng! Tổ truyền nhà hắn mỗi năm mở hội tranh trống một lần, qua mấy trăm năm, cho tới bây giờ bức tranh vẫn còn, chính là vật chí bảo gia truyền nhà Mã Lão Oa Tử! Dứt lời, hắn đứng dậy vào trong phòng lục tung đồ đạc tìm bức vẽ tổ truyền nhà hắn.
    Hai mắt Răng Vàng sáng lên, sáp lại gần tôi nói: "Hồ gia, anh có nghe thấy không, Mã Lão Oa Tử này có bức tranh cực quý!"
    Tôi nói: "Anh tin lời hắn nói nhảm sao? “Kịch đánh người chẳng phải kịch hay” *, hắn có cái tranh trống cổ quý giá gì đó liệu còn chịu ở cái nhà ngói rách nát này sao?
    * Thành ngữ: Kịch đánh người - Cổ đại có tiết mục biểu diễn đánh người, ý câu này là chê trách màn kịch vụng về chẳng có gì hay ho
    Tuyền Béo nói: "Bố tiên sư! Cái thằng con giời này, thì ra hắn định làm quảng cáo hả!"
    3
    Răng Vàng vào phòng trong gọi Mã Lão Oa Tử nói hắn đừng tìm nữa, tìm được chúng tôi cũng không cần.
    Mã Lão Oa tử nói: "Bức tranh quý của tôi không phải gặp ai cũng mang ra khoe, tôi thấy ba người các vị không tầm thường mới định cho các vị xem thử một chút, các ông không định mở rộng tầm mắt sao? Ra khỏi thôn này rồi muốn xem thứ này cũng không có!"
    Hắn còn nói ở “cửa điện” thứ gì cũng là đồ tốt chỉ tội nghèo, bình thường hắn chăn dê, tranh thủ chợ phiên đi bán tranh tết, cũng không kiếm được bao nhiêu, hắn vốn lại là kẻ tham ăn lười làm, nợ nần chồng chất trả không nổi, bức bách quá không biết làm sao mới nảy sinh ra ý định bán đi bức tranh quý tổ truyền.
    Răng Vàng nói: "Nghèo cũng được cái là nhàn hạ, lão Hoàng đế áo vàng, đai bạc, cai trị bốn bể, hắn không phải dậy sớm thức khuya thượng triều phê duyệt tấu sớ sao? Không cẩn thận còn bị người ta cướp ngôi vua, cũng không bằng lão ở trên núi chăn dê tự do, tự tại."
    Mã Lão Oa Tử tiện miệng nói: "Tôi chỉ cần một ngày đủ hai bữa cơm, có đổi cho làm hoàng đế tôi cũng không đổi"
    Tuyền Béo nói: "Mẹ, lão nói như cái rắm, mang hai chén cơm so với ngôi vị Hoàng đế? Lão nghĩ là lão hoàng thượng thiết đổi với lão à? Ông đây nghĩ lão cũng là kẻ chăn dê biết điều, ai dè toàn nói lời bậy bạ? Có phải ăn nhiều bột ngô quá, ăn no dửng mỡ rồi lại muốn bị ném sang Cao Ly không, tự dưng lại đẻ ra một bụng toàn “Yêu con bướm” *? Đợi ông đây kiếm một bát nước lạnh dội cho lão sáng suốt ra, dội cho hết hồ đồ đi!"
    *Yêu con bướm: Thổ ngữ của người phương bắc Trung quốc Ý: hoàn toàn bịa đặt, kiếm chuyện, câu này đa số là nghĩa xấu, cũng có thể hiểu là đùa bỡn, trêu hoa ghẹo nguyệt, có ý đồ xấu.
    Tôi thấy Mã Lão Oa Tử không phải là cây đèn thiếu dầu, có thể là thường ngày những người tới chỗ hắn kiếm đồ cũng hay tán chuyện phiếm, hắn nghĩ chúng tôi là con cóc dễ bắt, tôi nghĩ cũng không nên vòng vo với hắn nữa. Tôi rỉ tai Răng Vàng vài câu, bảo hắn nói với Mã Lão Oa Tử là chúng tôi tới kiếm đồ, có vật gì moi móc được từ đất hoặc bảo vật nhặt được trên núi thì lấy ra cho chúng tôi xem qua một chút, muốn làm Hoàng thượng thì đừng mơ, nhưng chỉ cần có đồ tốt trên tay, tám trăm hay cả nghìn đồng chúng tôi cũng có thể trả cho lão, từ nay về sau một ngày ba bữa không cần phải lo lắng.
    Mã Lão Oa Tử cũng là kẻ từng chui ra từ đất, hắn đương nhiên rất gian khản, từ "gian khản" này người Bắc Kinh dùng là do tiện miệng- ý chỉ người giảo hoạt, cứng còi còn ở vùng Quan Trung lại dùng nó như là là "hắc thoại" tức là tiếng lóng của dân đạo tặc. Dân trong nghề hỏi thăm nhau vài câu cũng thường dùng tiếng lóng để tán gẫu. Có điều tôi nghe được ẩn ý trong lời nói của Mã Lão Oa Tử chứng tỏ hắn chưa tin tưởng chúng tôi lắm. Tôi nhặt một viên gạch, dùng bùa Mô Kim rạch một cái, viên gạch liền đứt làm hai nửa. Mã Lão Oa Tử mặt biến sắc, vội nói: "Thất kính, thất kính!"
    Hắn mang rượu gạo tới, chuẩn bị mâm bát, uống tới nửa đêm. Tôi nói: "Lão gọi chúng tôi tới cái vùng đất hoang nghèo xơ nghèo xác này chỉ để giao dịch mấy cái tranh đầu lừa vô giá trị kia thôi hả?."
    Mã Lão Oa Tử nói: "Ba người các anh tới đúng chỗ rồi đấy, đừng xem thường cửa điện này, mặc dù bây giờ rất nghèo nhưng thời xưa không như vậy đâu! Minh triều đất này được gọi là đất Tần, có Tần vương cai quản, một chữ Vương đích thực, Tịnh Kiên Vương được tề vai với Hoàng Thượng, lên điện thấy mặt vua không cần quỳ, ngồi ngang hàng cùng hoàng thượng. Cửa điện có một ngọn núi gọi là Ngọc Hoàng điện, dưới núi có long mạch, nối thẳng tới long cung, người được táng trong núi Ngọc Hoàng không phải ai khác chính là một vị Tần vương. Thông thường phải gọi là mộ táng vương, quy mô của mộ Tần vương kia cũng ngang ngửa với lăng tẩm của Hoàng đế rồi!"
    Tuyền Béo nói: "Lão đừng dọa bọn này, cửa điện toàn là núi hoang, tới cỏ ngải còn xơ xác, mà dám nói từng chôn Tần vương sao?"
    Mã Lão Oa Tử nói: "Đây là chuyện mà bọn trẻ chăn dê đời này qua đời khác truyền lại, trên núi có minh lầu bảo đỉnh, bốn phía có thành quây, bên dưới là ba cánh cửa cung điện, huyền cung quy mô khủng khiếp, kỳ trân dị bảo táng theo vô số!"
    Tôi nói: "Trộm mộ ở Quan Trung này như nấm, huyền cung táng Tần vương chẳng lẽ không có ai động tới sao?"
    Mã Lão Oa Tử nói: "Anh hãy nghe tôi giải thích, Hoàng đế Sùng Trinh của Minh triều khi còn tại vị, Hoàng Hà ngập lụt, mất mùa liên miên, dân chúng không có cơm ăn, từ xưa tới nay, dân nghèo thì sinh đạo tặc, trộm cướp tụ tập thì sinh loạn, chờ thời cơ mà vác gậy tre làm phản. Ở đây có một gã gọi là "Lão Cao Lương Cán Tử" sinh ra là một hảo hán đội trời đạp đất, bị quan phủ bức ép tới đường cùng, bất đắc dĩ đành phải chỉ huy bách tính đói cơm nổi dậy giết quan lại tạo phản. Gã có cái dũng vạn người không địch, trên lưng xăm một cái bảo bình, trong bình cắm một cây bảo kiếm, có thể chém bay đầu người! Chỉ cần nói qua tên họ kẻ thù, chỗ ở, đọc xong lời chú, kiếm này liền hóa thành con rồng xanh bay đi chém đầu kẻ thù kia rồi ngậm đầu trong miệng mang tới! Gã dẫn theo hai trăm ngàn nghĩa quân, đánh vỡ châu phủ, mở kho phát lương, người nghèo khổ không ai không cảm phục Lão Cao Lương Cán Tử đại nhân hắn!"
    Răng Vàng nói: "Mẹ kiếp, lão đừng có luyên thuyên qua chuyện khác được không, đang nói tới chỗ trọng yếu, tại sao lại nói sang chuyện làm phản rồi?
    Mã Lão Oa Tử nói: " Lão Cao Lương Cán Tử dẫn quân tiến vào phủ châu, phá vỡ sườn núi phía nam, quật mộ tổ tiên Hoàng đế lên, khiến cho Hoàng đế Sùng Trinh tức ói máu. Có thể do đại Minh triều mệnh chưa cạn, Lão Cao Lương Cán Tử không có số ngồi đại điện, một lần cuồng phong nổi lên, cát bay đá nhảy, hai mắt do bị tổn thương quá lớn gần như bị mù, đưa tay ra không nhìn thấy bàn tay, khiến cho Cao Lương Cán Tử nếm mùi thất bại ở Quan Trung. Gã thu thập tàn binh bại tướng lui đến của điện, ra lệnh cho mấy chục ngàn nghĩa quân đào khoét cung điện bí ẩn, móc ra một Tần vương Đại bánh chưng*!"

    *Đại bánh chưng: là chỉ thi thể người trên đó có đồ chôn theo
    4
    Nghĩa quân vơ vét sạch trân bảo chôn theo, lại phỏng hỏa đốt núi, lửa cháy chừng ba ngày, sau không có một ngọn cỏ nào lên nổi, khắp nơi đều là gạch bể ngói nát. Lão Cao Lương Cán Tử lấy được bảo vật, vô cùng thỏa mãn cho là có thể đợi thời cơ lại dấy binh khởi nghĩa, không thể ngờ những thủ lĩnh dưới trướng hắn vì chia của không đều, giết hại lẫn nhau để tranh của. Quan quân nhân cơ hội này hợp vây bốn phía, hai bên ở khe núi huyết chiến một trận tới đen đục cả dòng nước, Lão Cao Lương Cán Tử trúng tên bị bắt, giải vào kinh thành, bị xử lăng trì vô cùng thê thảm.
    Tôi nói: "Cũng khó trách, gã kia chỉ biết tạo phản chứ chưa từng ăn qua chén cơm đổ đấu, hắn không hiểu đường đi nước bước, trộm mộ lấy bảo vật không thể giống với mở kho phát lương, thấy kỳ trân dị bảo táng theo, cha con anh em cũng còn trở mặt với nhau, huống chi tay chân của hắn toàn là người nghèo không còn đường sống mới giết quan tạo phản, có được kỳ trân dị bảo rồi ai còn muốn chém giết quan quân làm gì?"
    Răng Vàng giục Mã Lão Oa Tử mau nói tiếp: "Huyền cung của Tần vương thực sự đã trống rỗng sao? Không thể đào ra bảo vật nữa sao?"
    Mã Lão Oa Tử nói: "Đâu chỉ huyền cung không còn bảo vật, ngay cả minh lầu, bảo thành trên núi cũng bị đốt sạch. Tòa điện lớn chính giữa kia từng được dựng bởi một trăm sáu mươi cây kim ti nam mộc- loại gỗ đặc biệt quý hiếm, quân phản loạn đánh tới đó, thiêu rụi quá nửa. Về sau, những cột không cháy hết cũng bị người ta mang đi bán lấy tiền, thực sự là chẳng còn lại gì."
    Hồi đó kim ti nam mộc chỉ có rải rác ở nơi rừng già núi thẳm, những nơi sườn núi, hang vực hiểm trở hiếm có dấu vết con người, chủ yếu là nơi qua lại của mãnh thú và rắn độc, đặc biệt là những nơi đó có rất nhiều chướng khí ngăn trở, đốn hạ được vô cùng gian nan. Mang ra được một cây thì không biết có bao nhiêu người ngã chết. Chờ đến khi vượt sông được rồi, lại phải vận chuyển bằng đường thủy lên phía bắc, lại không biết bao nhiêu người làm mồi cho hà bá. Một lần vận chuyển kim ti nam mộc, tiền chuyên chở cũng phải tới ba ngàn năm trăm lượng bạc. Kim ti nam mộc nước lửa bất xâm, chôn hơn ngàn năm cũng không mục nát. Quân phản loạn nổi lửa đốt minh lầu bảo điện, kim ti nam mộc trên điện đốt không cháy hết. Sau này ngay cả xà nhà cột gỗ cũng bị người ta trộm hết.
    Lúc đó loạn như vậy, đạo tặc nổi lên tứ phương, những kẻ xông vào cướp phá bảo vật không ai khác chính là dân nghèo làm thổ phỉ, một bữa no cũng chưa từng có, trong mắt chỉ có vàng bạc, nhìn thấy trân bảo rơi vào tay họ cũng không ai dám làm gì. Anh nhìn cửa điện vô cùng đói kém? Hạn hán triền miên, ba thước đất khô nẻ. Mặc dù cổ mộ rất nhiều, đào ra không ít trân bảo của các triều đại, nhưng cho tới nay chưa từng có ai ở đây phát tài. Có lẽ do đời trước không biết kiếm tiền, đến đời sau vẫn không có cơm ăn như thường. Như năm cuối triều Minh hồi đó, đồ trộm ra từ trong huyền cung của Tần vương, không ai dám mang bán ra bên ngoài, dân nghèo không thể có đồ tốt như vậy, mang ra ngoài chắc chắn bị bắt. Người nghèo lại không biết hàng tốt xấu, trân bảo rơi vào tay, bọn họ chỉ đành đập vỡ bán đồng nát đổi mấy đồng tiền lẻ. Ăn mày chỉ nghĩ tới bao gạo, bánh bột ngô, đồ tốt rơi vào tay những người này cũng vô dụng. Vì vậy mới nói vì sao mà bảo vật vô giá trong mộ từ lúc xuất thổ tới nay qua tay bao người, mãi sau này không ai rõ tung tích, mười cái thì có tám chín cái như vậy.
    Răng Vàng nói: "Huyền cung của Tần vương lớn như vậy, trân bảo chôn theo nhất định không ít, có đồ vật gì khác thường không?"
    Mã Lão Oa Tử nói: "Đương nhiên là có bảo vật, cho nên trước đây tương truyền rằng lúc cung điện bí ẩn của Tần vương mở ra, hàng ngàn hàng vạn quân xông vào, giơ cao đao thương, bó đuốc, tràn vào cung như nước thủy triều. Truyền thuyết nói rằng Tần vương lòng tham không đáy, xảo trá đa nghi. Quan quân khởi nghĩa tạo phản bị giết đa số là kẻ khốn khó liều mạng, ngoài ra cũng có nhiều cường đạo lâm tặc. Lão Cao Lương Cán Tử mang theo mấy thủ hạ lớn gan đục mở quan tài, đôi mắt tham lam nhìn chòng chọc vào vàng bạc bên trong. Dưới ánh lửa chiếu sáng, chỉ thấy Tần vương ngửa mặt lên trời, đầu đội mũ vàng, miệng ngậm minh châu, chân đeo giày da, người mặc áo quan, trên áo thêu hình núi sông, cây tùng, chim hạc, lưng đeo đai ngọc, ôm trường kiếm trong ngực, tay nắm đĩnh vàng, mặt đầy vẻ âm dương kỳ quái!"
    Nói theo thổ ngữ địa phương, Mã Lão Oa Tử là kẻ miệng lưỡi giảo hoạt, nửa lít rượu cao lương uống xuống bụng liền văng nước miếng khoác lác, chém gió cứ như tận mắt hắn nhìn thấy vậy: "Trong quan tài, trên người Tần vương phủ một chiếc cẩm bào, xung quanh đầy bảo vật chôn theo. Quân phản loạn xông vào thấy Tần vương chẳng khác gì người sống, trên mặt đầy âm dương quái khí, còn tưởng rằng Tần vương đã biến thành hung thần, vô cùng kinh sợ, không ai dám tiến lên lấy bảo vật. Lão Cao Lương Cán Tử liền tiến lên, rút trường đao ra, dùng đầu đao khều cẩm bào trên người Tần vương ra. Không thể ngờ khi hắn vừa vén lên một cái, Tần vương bên dưới bỗng biến thành bộ xương khô, dọa Lão Cao Lương Cán Tử giật mình kinh hãi, cẩm bào tuột khỏi đầu đao rơi xuống, bộ xương khô lại biến trở lại thành mặt mũi như người sống, lúc đó hắn mới hiểu được. cẩm bào kia chính là bảo y!"
    Ban đầu tôi nghe Mã Lão Oa Tử nói còn tạm nghe được, càng về sau quá nửa là chém gió, nói quàng nói xiên, vòng vo cố làm ra vẻ huyền bí, tôi cũng không muốn nghe hắn nói liên thiên nữa.
    Mã Lão Oa Tử thấy chúng tôi không tin, không thể làm gì hơn đành nói rằng chuyện kỳ trân dị bảo trong cung Tần vương kia, tất cả đều là nghe được từ miệng đám Oa tử chăn dê truyền lại, qua mấy trăm năm, người đã chết hết từ lâu rồi, lời truyền miệng có thể cũng bị sai lệch đi nhiều rồi, không còn đúng tuyệt đối được nữa. Nói xong câu này, hắn vào phòng mang ra một cái bọc nhỏ cuốn năm ba lớp, mở từng lớp từng lớp ra, bên trong là một chiếc bát gốm lớn, lớp gốm mỏng, lớp men tráng dày, hoa văn xanh như nước, nổi lên hình một con rồng xanh đang giương nanh múa vuốt.
    Hắn không để chúng tôi chạm vào, tôi sáp lại gần quan sát một hồi, trong bụng giật mình mấy cái, theo tiếng lóng mà nói, cái này gọi là "Quỷ kiếm nhi thanh" - Mặt quỷ xanh!
    5
    Răng Vàng tiến lại ngửi một cái, cảm thấy là đồ thật, không sai được, giá trị không nhỏ, hơn nữa đồ vẫn còn nguyên vẹn chưa bị sứt mẻ gì, hoa văn rồng xanh màu nước rất có giá.
    Cái này thời xưa gọi là đồ sứ Quan Diêu, tới nay hầu hết đã không còn truyền lại, phần lớn đồ này là đào trộm từ trong cổ mộ. Thứ này là một trong năm món đồ cúng khi Hoàng thượng cúng tế thần linh tên gọi là chén rồng, màu sắc u ám, dân gian thường gọi là "Quỷ kiểm thanh", tương truyền rằng do bị chôn vùi lâu năm trong mộ nên chén có màu đó.
    Tuyền Béo nói: "Mã Lão Oa Tử lão được lắm, không ngờ lão lại chân nhân bất lộ tướng như vậy! Thật là hay nha. Lão còn thứ gì khác nữa mau mang hết ra, ông đây sẽ trọng thưởng!"
    Tôi hỏi Mã Lão Oa Tử: "Đây thực sự là vật chôn theo Tần vương sao? Lão muốn bao nhiêu tiền?"
    Nói tới đoạn này, Mã Lão Oa Tử liền lựa lời phân trần, lão nói các người tới sớm không bằng tới đúng dịp, sau khi phản quân trộm cướp đồ xong liền hủy hoại huyền cung của Tần Vương, chúng còn đào một cái rãnh sâu trên núi, đến nay vẫn còn. Mấy ngày trước, có hai người bẫy dê đi vào, vấp phải nửa tảng đá ngã lộn nhào, vén cỏ dại ra nhìn thì thấy tảng đá kia chính là đầu tượng đá trấn mộ của ông Trọng. Theo truyền thuyết, ông Trọng là mãnh tướng thời cổ đại, vô cùng kiêu dũng, từ Tần Hán tới nay thường dùng tượng của ông ta để trấn mộ, có tượng trấn mộ cho dù không phải cũng được gọi là là tượng ông Trọng. Dân gian gọi là "Ngõa Gia".
    Hai người đó nổi lòng tham định đào tượng đá của ông Trọng khiêng đi, không ngờ lúc dịch chuyển tượng đá phát hiện dưới chân ông Trọng có một khối đá, gạt ra nhìn xuống thì thấy một cửa hang đen thùi lùi. Một người to gan buộc dây vào lưng trèo xuống, lúc lên ôm theo cái chén lớn này. Hắn ta chỉ nói bên dưới rất sâu vẫn còn có đồ có thể nhặt, lại đeo túi gai, cầm bó đuốc đi xuống. Không ngờ lần này một đi không trở lại!
    Không biết ở dưới đó gã đã gặp phải cái gì, sống không thấy người, chết không thấy xác. Hai người bẫy dê đó là hai anh em, người anh tên Mã Lẫm, người em là Mã Xuyên, cả hai đều là cô nhi được Mã Lão Oa Tử nhặt về. Mã Lẫm to gan vào động, Mã Xuyên đợi ở cửa hang, đợi nửa ngày mà vẫn chưa thấy lên, lại không dám xuống tìm, đành chạy về báo tin cho Mã Lão Oa Tử biết. Mã Lão Oa Tử chân đi còn không vững, lên núi rồi cũng không xuống được động. Có điều thấy chiếc chén rồng này trong lòng đã hiểu rõ, bên dưới chắc chắn có đồ!
    Lão bảo Mã Xuyên: "Bịt kín cửa hang, ngàn vạn lần không được tiết lộ, nếu không Mã Lẫm có thể sẽ chết vô ích!". Lão nghĩ không thể tìm người ở Cửa Điện để làm ăn vụ này, thứ nhất là vì căn bản khó có người phù hợp, thứ hai là sợ lộ, một khi tin này truyền ra, một phần lão cũng chưa chắc đã được chia.
    Mã Lão Oa Tử bảo chúng tôi cùng lão lên núi, tìm tới chỗ Mã Lẫm chui xuống rồi mất tích. Nếu như lấy được đồ thì đôi bên chia đều, lão cùng với Mã Xuyên một nửa, chúng tôi một nửa. Chỉ cần chúng tôi đồng ý đi, cho dù có đồ hay không, lão cũng sẽ nhượng lại "Quỷ kiểm thanh" cho chúng tôi, giá cả phải chăng, nếu không có đưa bao nhiêu tiền hắn cũng sẽ không bán.
    Tôi định nói tôi không muốn đi, nhưng thằng béo và Răng Vàng không chịu, hai người họ khuyên sống khuyên chết, nói rằng dù sao cũng mất công đi một chuyến tới đây rồi, nếu không đi thì "Quỷ kiểm thanh" cũng không thu được, thành ra tốn công vô ích!
    Mã Lão Oa tử kể khổ với tôi, lão nói con nuôi lão một thằng vì tham lam mà đi lượm bảo vật, bây giờ đã mất tích trong động, giờ trong nhà chỉ còn lão già cà nhắc này với thằng bé Mã Xuyên ngờ nghệch, không còn ai nương tựa. Gạo trong hũ không còn một hạt, túi chẳng có lấy một đồng, từ nay về sau làm sao mà sống. Giờ sự thực là chỉ còn trông cậy vào mấy món minh khí này thôi.
    Tôi thử nhìn đánh giá con người lão, lão không đòi gà, không đòi vịt, ngan ngỗng. Lời nói, cử chỉ cũng không có vẻ gì là kẻ lừa bịp! Tôi vốn là người thích mềm không thích cứng, chịu không nổi khổ nhục kế, trước giờ thua thiệt cũng đều là vì vậy. Hơn nữa nếu tôi nói ra hai chữ "không đi", "Quỷ kiểm thanh" của Mã Lão Oa Tử chúng tôi cũng đừng mong có được. Có điều tôi cũng không lên tiếng, chỉ nhìn bằng ánh mắt coi như là đã đồng ý!
    Sáng sớm hôm sau, Mã Lão Oa Tử cùng với Mã Xuyên nai nịt gọn gàng, mỗi người vác theo một khẩu súng săn, chuẩn bị dẫn chúng tôi lên núi. Tôi hỏi lão mang súng săn theo để làm gì? Lão nói: "Vùng đất Ngọc hoàng bảo điện này là đất phong thủy vượng, mấy trăm năm nước cây cối um tùm cổ thụ, muông thú có nhím, hồ ly, báo kim tiền, hươu nai… nhiều vô số, đến nay vẫn còn loài huyền dương - một loài dê quý. Huyền cung của Tần vương ở trên núi này, thế núi hiểm trở, lên xuống ít nhất cũng phải mất hai ngày, núi thẳm hang cùng, hiếm có dấu vết con người, nên cũng phải coi chừng Phệ Mao Sát nữa!"
    Tôi nghĩ trong đầu: "Mã Lão Oa Tử này mang theo súng săn là mượn cớ để săn dê thôi, sao còn nói phải đối phó với hung sát nữa, lão chỉ hù dọa người hay là có dụng ý khác?"
    Lúc ra cửa, chúng tôi vận thủy hỏa y, khoác áo da chuột, riêng tôi còn mang theo dù kim cương và móng lừa đen, cũng nai nịt gọn gàng, đeo túi đựng đèn pin, nến, dây thừng, móc câu và những vật cần mang theo trên lưng.
    Trước khi vào núi, tôi nói với Răng Vàng và Tuyền Béo: "Quan Trung là địa bàn của thổ phỉ, giết người cướp của như cơm bữa, trên người chúng ta mang theo tiền, lên đỉnh núi cần phải cẩn thận đề phòng, cũng đừng đối địch với Mã Lão Oa Tử!"
    Thằng Béo nói: "Súng bắn chim cũng chưa chắc đã bằng cây gậy nhóm lò, anh sợ hai tên oa tử chăn dê sao?"
    Răng vàng nói: "Mã Lão Oa Tử tham thì tham thật nhưng không có lá gan lớn như vậy, hơn nữa nếu sau này hắn có định dở trò gì cũng không gạt được hỏa nhãn kim tinh của hai người các anh!"
    Tuyền Béo nói: "Tôi chỉ lo không tìm được minh khí, anh có nghe Mã Lão Oa Tử nói không, lão nói Cửa Điện của bọn lão toàn là bảo vật, lời của lão mẹ nó đúng là như con nít đánh rắm, anh nhìn chỗ này xem, toàn là núi hoang chắc mẹ gì đã có bảo vật."
    Tôi nói: "Có thể là do phản quân lúc đào hủy Tần vương huyền cung quá tàn nhẫn đã phá mất long mạch phong thủy của Cửa Điện, tình thế năm đó chúng ta cũng không thể biết."
    Ba người thôi bàn luận, đi theo Mã Lão Oa Tử và Mã Xuyên dẫn đường phía trước, đào cửa điện đi vào, thẳng đường núi mà đi. Hướng tây bắc núi non hùng vĩ im lìm, chỉ có duy nhất một con đường tiến lên, khắp mọi nơi đều là cỏ mọc um tùm, nói là có chó sói, huyền dương, nhưng đi hơn nửa ngày cũng chẳng thấy dù chỉ là một con chim.



     
  3. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,686
    Mô Kim Hiệu Úy Cửu U Tướng Quân
    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng
    Chương 3: Tần vương huyền cung.

    Người dịch: Đinh Thảo, Lưu Hà
    Nguồn: Lachoncoc






    1.
    Vùng núi đá hiểm trở Tây Bắc có một loại dê rừng, dân địa phương gọi là huyền dương, số lượng vô cùng ít ỏi, rất hiếm gặp. Máu của huyền dương rất có giá, một con huyền dương lấy được khoảng gần ba bát máu, rót vào bát để khoảng nửa ngày, trên mặt bát sẽ nổi lên một lớp mỡ màu xanh, thứ này chính là bảo vật, không những có công dụng cải tử hồi sinh mà còn có tác dụng cường dương, thái giám dùng xong cũng có thể cưới vợ. Chính vì vậy mà mỗi khi nơi nào có tin huyền dương xuất hiện, liền sẽ có cả trăm con mắt soi mói tìm kiếm nó, chưa kể các loài thú khác cũng săn huyền dương làm mồi, cho nên số lượng ngày một ít ỏi. Số huyền dương còn sót lại đều bị dọa khiếp không dám ngang nhiên xuất hiện nên rất hiếm khi gặp được, chỉ có thể trông đợi vào vận may chứ không thể cầu. Nếu như may mắn săn được một con huyền dương sẽ lập tức phát tài. Còn đối với Phi Mao Sát, lời đồn đại rất nhiều nhưng người gặp thực sự thì vô cùng ít ỏi.
    Mã Lão Oa Tử ngồi trên lưng Mã Xuyên dẫn chúng tôi theo đường mòn lên núi, xa xa đã có thể nhìn thấy đỉnh núi đối diện, xưa kia được gọi là "Ngọc hoàng điện", tục gọi là đài hoàng đế, chính là vị trí của Tần vương huyền cung. Nơi này vách đá sừng sững hiểm trở, trông vô cùng kỳ vĩ. Ngọn núi dưới chân chúng tôi nằm ở vị trí tương ứng với cung án (bàn thờ) của huyền cung nên gọi là "Núi bàn thờ". Bàn thờ đối xứng với bảo điện, có thể nói là kiệt tác của tạo hóa, lại có khả năng tự dấu mình, ở dưới chân núi không thể nhận ra, chỉ còn cách lên núi bàn thờ mới có thể ngắm nhìn ngọc hoàng điện. Địa thế từ nam sang bắc, dần dần lên cao, phía sau có núi cao trùng điệp, có thể tựa vào. Địa thế đắc địa như vậy, người táng ở đó chắc chắn sẽ được cả vạn người cúng tế!
    Theo tục lệ từ xưa, mộ phần của vương hầu lấp cao bao nhiêu cũng phải theo quy củ, vượt quá nửa thước cũng là có tội. Quy mô của Tần vương huyền cung có lẽ không bằng lăng tẩm Hoàng đế, nhưng địa thế long mạch không hề thua kém. Lăng tẩm thời Minh triều quan trọng nhất là địa thế. Cửa, hành lang, tiền đường, minh lầu bảo thành, tẩm điện tế cung, đều được bố trí theo một trục ở giữa, mặt quay về hướng nam, lưng hướng về phía bắc, từ dưới lên trên, trước sau theo thứ tự là các hình rùa, rắn; hai bên trái phải toàn là rồng, hổ. Lăng tẩm đều được bố trí ở gần sông và xa núi, ngôi thứ rõ ràng, khí thế uy nghiêm, nhìn vào giống như một bức họa khiến người xem vô cùng cảm thản. Theo như sách "Mười sáu chữ âm dương phong thủy bí thuật" thì địa thế bố trí lăng mộ, cung điện Tần vương trên núi chắc cũng tương tự như vậy.
    Ở đây đã từng có thời vô cùng hưng thịnh, trên núi đầy tùng bách bao phủ, chim thú quý hiếm rộn ràng dạo chơi. Có điều trải qua mấy trăm năm biến thiên của lịch sử, cây cối và cung điện đã không còn gì, chỉ vẻn vẹn còn sót lại một cái hố lớn, do đám quân đạo tặc ngày đêm sống chết đào lên, nhìn giống như cả một mảng núi đã bị móc đi. Giữa hố cỏ dại, gai góc mọc um tùm, thê lương tiêu điều, ngổn ngang gạch đá. Ngọc hoàng điện vốn dĩ bề thế là vậy mà nay đã bị tàn phá thành một quả núi hoang.
    Đoàn chúng tôi đi vòng quanh quá nửa quả núi, thấy cái hố này vừa rộng lại vừa sâu, vùng đất này tuy khô hạn nhưng cũng không phải không có mưa, đáy hố ngổn ngang đất đá, cỏ dại còn cao hơn người, đi vào nửa bước cũng khó khăn. Răng Vàng không quen đi đường núi, thở không ra hơi, tôi với Tuyền Béo mặc kệ hắn, vén cỏ đi thẳng tới trước. Thằng nhóc dẫn chúng tôi tới một nơi, giữa bụi cỏ um tùm xuất hiện một tượng người bằng đá, nó đẩy tượng đá, bên dưới lộ ra một cửa hang, nói rằng đây chính là chỗ đã kể. Tuyền Béo bật đèn pin, đi vào bên trong nhìn một vòng, nói rằng sâu không thấy đáy.
    Tôi thầm đoán định chỗ này có thể là đoạn cuối của Tần vương huyền cung, mộ ở đây có thể được xây bằng gạch, khe hở giữa các đường gạch đại khái là lớn hơn cây cỏ ngải.
    Không hiểu vì sao ở đây lại có lỗ thủng, phía trên còn được bịt kín bằng tượng đá. Tôi nghĩ chuyện Mã Lẫm sau khi xuống động bị mất tích cũng vốn không có gì khó hiểu, trong động ứ đọng lâu ngày, uế khí không lưu thông được, người đi vào tới chỗ sâu rất dễ bị ngạt thở mà chết.
    Bỗng dưng trời nổi một trận gió lớn, cát bay đá chạy, khiến mọi người tối tăm mặt mũi, từng đợt gió giống như mới từ miếu thổ địa thổi qua, lại thấy mây đen trầm thấp như muốn trở trời.
    Mã Lão Oa Tử vốn mê tín, sợ kinh động đến quỷ thần, hơn nữa bây giờ sắc trời đã tối, theo lão thì nếu muốn xuống cũng nên xuống vào ban ngày.
    Tôi lại không nghĩ như vậy, đêm không trăng là đêm để giết người, ngày gió lớn là ngày phóng hỏa, trộm mộ gặp mưa mới có thể nói là được thiên thời, mưa gió nổi lên, uế khí trong động cũng tan đi, mới không khiến kẻ trộm mộ bị chết ngạt.
    Mã Lão Oa Tử nói: "Nửa đêm trời tối đòi chui xuống đất? Không sợ chết à?"
    2
    Răng Vàng nói: "Hồ gia của bọn ta từng làm qua Đại đội trưởng, gan góc phi thường, sợ qué gì cái hố này"
    Mã Lão Oa Tử nói: "Đại đội trưởng, Đại đội trưởng, ha ha bằng nửa Hoàng thượng rồi đó, đại pháo vừa nổ là có ngay vạn lượng hoàng kim!"
    Tôi nói: "Mẹ kiếp! Chém gió, móc đâu ra vạn lượng hoàng kim? Nghèo như con chuột gặp xà nhà, đói rã họng thì có."
    Mã Lão Oa Tử nói: "Có nghèo cũng chẳng kêu được ai! vốn dĩ người nghèo bọn tôi cũng là do các cậu ban phước mà sinh ra vậy!"
    Trời u ám tới nửa đêm, sau cuồng phong, trên trời sấm lại nổi ầm ầm, hạt mưa lớn như hạt đậu tí tách rớt xuống, rồi màn mưa đen nhánh bao trùm tất cả, chốc chốc có một tia chớp xẹt qua, thoáng phản chiếu một khuôn mặt người rầu rĩ, chán nản.
    Mã Lão Oa Tử bị què một chân, không chui xuống đất được, hắn nói để Mã Xuyên đi xuống cùng tôi, nhặt vài món minh khí. Tiểu tử Mã Xuyên là kẻ nhát gan, mới có mấy tiếng sấm nổi lên mà gã đã tim đập chân run, mặt như màu đất. Có câu nói: "Một cây táo có quả chua, quả ngọt; con cùng một mẹ cũng có kẻ lừa gạt, có người thật thà", huống chi Mã Xuyên và Mã Lẫm đều là do Mã Lão Oa Tử nhặt về, vốn không phải là anh em ruột, nên tính khí hoàn toàn không giống nhau.
    Tôi nói với Mã Lão Oa Tử: "Tôi cũng không chắc bên dưới có phải là nhà trẻ hay không, mang một đứa con nít xuống chỉ rước thêm phiền toái, thà rằng để nó ở bên trên kéo dây cho tôi còn hữu ích hơn!" Sau đó nói Răng Vàng đợi ở trên, tôi cùng với Tuyền Béo cùng lúc động thủ, thả một sợi dây xuống. Tôi đeo đèn lồng vỏ giấy trên người, xòe dù kim cương, dẫn đầu xuống dưới động, phía dưới cũng không sâu lắm nhưng cảm giác dưới chân thô ráp, dùng đèn lồng vỏ giấy soi xuống thì thấy toàn là gạch khối, rêu phong loang lổ, bốn phía không thấy điểm cuối. Từng cơn gió lạnh thổi qua, đèn lúc sáng lúc tối nhưng cũng chưa tắt hẳn. Tôi mở đèn pin lên, đi vòng quanh mấy vòng. Tuyền Béo ở trên thấy có ánh sáng đung đưa cũng đu dây xuống theo.
    Tuyền Béo xuống tới nơi, đốt một cây đuốc, phía trước mặt sáng sủa hơn rất nhiều. Hai người liều lĩnh đi vào sâu hơn, mò được bờ vách đá, cảm giác có mùi mục nát xông vào mũi. Tôi nhấc đèn pin lên xem thử, vách tường bằng đá, toàn loại bốn mươi cân một khối, lại dùng ba loại đất chát lên, cực kỳ vững trãi. Nơi chúng tôi thả mình xuống, hình như là một ngôi mộ trong Tần vương huyền cung, bên trong mộ rất rộng rãi, năm đó phản quân phá hủy huyền cung có lẽ chưa đào tới đại điện tận cùng phía sau huyền cung này. Ngôi mộ kiên cố, không tìm thấy đường ra, bên dưới vách tường có mấy rương đồ thờ cúng, làm bằng gỗ đàn hương, bên ngoài mạ đồng, màu đỏ đã phai, ván gỗ mục nát, bên trong lẽ ra phải có năm phần đồ cúng nhưng hiện giờ trống không. Nhìn sang bên cạnh thì thấy một bộ tử thi ngồi dựa vào vách đá, hông đeo thắt lưng màu đỏ, toàn thân khô đét đã chuyển thành màu đen, bên cạnh vứt mấy cái bao tải, lối ăn mặc gần giống với Mã Xuyên, không cần hỏi cũng biết đây chính là Mã Lẫm xuống tìm bảo vật.
    Tuyền Béo nói: "Oa tử chăn dê vì sao lại chết ở đây chứ? Không biết hắn có nhặt được thứ đồ gì ra hồn không” nói xong hắn lại gần dở xem mấy bao tải rớt dưới đất, bên trong toàn là đồ kim khí trong Tần vương huyền cung, vàng, ngọc cũng phải đến mười bảy, mười tám món.
    Tôi vừa định nhặt cái bao lên liền nghe thấy tiếng rít của rắn, trên vết nứt ở vách tường đá thò ra một cái đầu dẹt ba sừng, ánh sáng đèn pin chiếu vào vảy nó liền ánh lên màu sắc sặc sỡ. Quan Trung có một loại rắn, tục gọi là "Lạc thiết đầu", bị nó cắn trúng thì khó mà toàn mạng. Tuyền Béo nhanh tay lẹ mắt, vung cây đuốc trong tay về phía trước dọa con Lạc thiết đầu chạy mất. Tôi nghĩ Lạc thiết đầu ở đây chắc hẳn không chỉ có một con. Trên đỉnh đầu lại có đá vụn rơi xuống, sợ rằng ngôi mộ sẽ sụp xuống, tôi liền dùng dây bó thi thể Mã Lẫm lại, Tuyền Béo lượm mấy bao tải kia, hai người vội lôi thi thể ra ngoài.
    Mã Lão Oa Tử nằm trên đống bao bố khóc rống lên, mặc dù Mã Lẫm chỉ là cô nhi do lão nhặt về nhưng có lẽ vì lão đã nuôi nấng nó từ nhỏ nên cũng có chút tình cảm. Bất chợt tôi cảm giác tiếng khóc của lão có gì đó hơi bất thường. Bầu trời không mưa bỗng nổ một tiếng sấm khô khốc! Tôi tự nhủ không hay rồi, quay đầu lại, đúng lúc một tia chớp lóe lên, trong mắt tôi bây giờ là một màu ảm đạm, chỉ thấy Mã Lão Oa Tử đang giơ súng săn đã tra thuốc lên, nhắm ngay vào tôi định bắn! Trong lòng tôi chợt lóe lên một ý niệm, Mã Lão Oa Tử này thấy tài vật liền nổi lòng tham, nhưng dù không muốn chia chác minh khí với chúng tôi, hắn cũng không cần thiết phải làm như vậy, hắn thật sự muốn giết người diệt khẩu sao! Tia chớp vừa vụt tắt, trên trời lại nổ ẩm một tiếng, gần như cùng lúc súng trong tay Mã Lão Oa tử cũng khai hỏa, Mã Xuyên ở bên cạnh cũng đã nhồi xong thuốc súng. Tôi muốn tránh cũng không kịp nữa rồi, vội mở dù kim cương, hai khẩu súng săn nổ cùng lúc, đạn chì ghim hết vào tán dù kim cương. Máu nóng toàn thân tôi lúc này đã xộc lên não, trong lòng chửi thầm: "Hai đứa khốn kiếp các người với ta không thù không oán, chỉ vì mấy món đồ cúng người chết mà lại ám toán sau lưng ta, nếu không phải may mắn trời đột nhiên nổi sấm sét, cộng thêm có dù kim cương thì chẳng phải ta đã biến thành quỷ chết oan rồi sao?"
    Làng quê này là vùng đất cằn cỗi, nghèo xơ nghèo xác, vì thế nên lòng người cũng sinh ra hiểm độc, vì tiền có thể sẵn sàng giết người không gớm tay, lẽ ra tôi không nên chủ quan như vậy mới phải, thành ra đi bắt nhạn lại bị nhạn mổ vào mắt! Khoảng cách quá gần tôi cũng không thể làm gì hơn, dù kim cương trúng đạn, phản lực không hề nhẹ, tôi mất đà bị đẩy lùi về sau một bước, chân đạp trúng vào khoảng không rơi trở lại cửa hang. Lúc đó thân thể còn đang lơ lửng giữa không trung, trước mắt là một màu đen kịt, nghĩ rằng phen này chắc tan xương nát thịt mất rồi thì lại nghe "ầm" một tiếng, rơi trúng người Tuyền Béo. Mặc dù có dù kim cương trên tay làm giảm lực rơi nhưng rớt xuống vẫn không dễ chịu chút nào, trước mắt tôi trời đất như quay cuồng, sao bay loạn xạ.
    Tuyền Béo nói: "Lão Hồ sao anh lại xuống đây? Ôi trời! Người tôi ê như bại liệt rồi - anh đúng là đồ hại người!"
    3
    Tôi chưa kịp giải thích, đã thấy Răng Vàng rớt từ bên trên xuống trúng dù kim cương, lăn sang bên cạnh, hắn bị ngã một cú trời đất quay cuồng, luôn mồm than khóc: "Ai da cái mông tôi, thằng Mã Lão Oa Tử khốn kiếp!". Vốn dĩ Răng Vàng ở bên trên thấy Mã Lão Oa Tử đột nhiên động thủ, sợ đến ngây người, trời mưa lớn như vậy, súng săn của Mã Lão Oa Tử nhồi thuốc bắn một lần thì không xài tiếp được nữa, lão liền lôi đao ra, hùng hổ hỏi: "Mày có xuống hay không? Không muốn xuống thì để tao thử cây đao này luôn thể!" Răng Vàng cắm đầu định bỏ chạy, bị Mã Lão Oa Tử đạp một đạp vào mông ngã nhào xuống hang. Vừa dứt lời, sợi dây thả xuống động đã bị Mã Lão Oa Tử kéo lên.
    Tuyền Béo lúc này mới hiểu, ngẩng đầu lên chửi: "Con lừa già kia đừng có chạy, mày có lên trời tao cũng lôi mày xuống cho xem!"
    Chưa mắng hết câu lại nghe một tiếng nổ rền vang như sấm. Hóa ra là Mã Xuyên bên trên đã kích nổ "Băng sơn pháo", là loại pháo dùng để phá núi. Mã Xuyên là đứa trẻ dốt nát, ngờ nghệch, Mã Lão Oa Tử bảo hắn làm gì thì hắn làm nấy, không những đã kéo mất sợi dây lại còn đánh sập cửa hang, quyết chôn sống bọn chúng tôi. Giữa tiếng sấm rền vang, đất đá ào ào trút xuống, ba người chúng tôi ôm đầu né tránh, lùi tới bên dưới vách đá. Tôi sợ bị Lạc thiết đầu cắn liền vội mở đèn pin, tranh thủ chút ánh sáng nhìn xung quanh một chút, trên mặt hai người kia ngoam nguếch toàn là đất và máu, tôi đoán chừng trên mặt tôi bây giờ chắc cũng như vậy, đưa tay quệt một cái, bầm ruột chửi thầm: "Con lừa Mã Lão Oa Tử vô danh vô học kia, làm việc thất đức rồi sẽ có ngày tuyệt hậu! Chờ ngày tao ra ngoài rồi cũng chính là ngày hạn của mày!"
    Tuyền Béo không cam tâm, lôi cả mười tám đời nhà Mã Lão Oa Tử ra, lần lượt chửi từng người từng người một.
    Tôi nói: "Anh có chửi ba ngày ba đêm thì lão cũng không mất một cọng lông nào đâu, ra ngoài trước rồi tính."
    Tuyền Béo nói: "Làm sao ra ngoài bây giờ? Đào hầm cũng không ổn, chẳng may sập hầm không phải thằng nhóc Răng Vàng đáng chết này sẽ bị chôn sống sao."
    Răng Vàng nói: "Tôi đâu có trêu ghẹo ai mà đáng chết hả? Hơn nữa cái hầm này sớm muộn gì cũng sập thôi, tới lúc đó rồi ba người chúng ta cũng cùng chầu ông vải một lượt, không phải sao?"
    Tuyền Béo nói: "Anh đi mà chết một mình đi, “có cô thì chợ thêm đông, cô đi lấy chồng thì chợ vẫn vui”, dù nói thế nào đi chăng nữa anh cũng chỉ là cái đuôi thôi."
    Răng Vàng nói: "Tuyền Béo anh còn không biết tôi là loại người như thế nào sao? Tôi một lòng trung thành với anh và Hồ gia như là dao găm bên sườn, sao lại có thể nói là cái đuôi thừa chứ? Đúng rồi, tôi nhìn thấy Mã Lão Oa Tử nhặt được một túi minh khí, mười bảy, mười tám món toàn là đồ tốt đấy!"
    Tuyền Béo nói: "Anh không chịu nhìn coi tình trạng của anh bây giờ thế nào, vẫn còn tâm trí nghĩ đến minh khí nữa sao? Mẹ kiếp, bây giờ nói thẳng ra là ăn phân cũng thấy ngon, ngửi rắm cũng thấy thơm! Anh đừng trách tôi nói năng khó nghe, sự thật thường mất lòng! Nói ngọt như mật ong mà chui lên khỏi được hai dặm đất thì tôi cũng làm. Giờ việc quan trọng nhất là làm cách chó chết nào để ra, anh có biết không?"
    Răng Vàng vội hối lỗi, đáp liên tục: "Được rồi, được rồi không nói chuyện nhặt minh khí nữa...."
    Tuyền Béo nói: "Không nói chuyện nhặt đồ cũng không được, nói đi cũng phải nói lại, chúng ta ăn chén cơm này tối kỵ việc đi không về rồi, đi không nhặt được đồ sẽ vô cùng bất lợi, bất kể thể nào cũng không thể ra ngoài tay không. Bàn gia tôi nói năng bỗ bã, nhưng đã nói là phải có lý lẽ! Ngày có đạo của ngày, người có lý của người, vì sao phải nhặt, mà không nhặt thì lại bởi vì sao, đều có đạo lý của nó!
    Lúc nói chuyện, tiếng đất lở trên đỉnh đầu vẫn đều đặn rót xuống, tôi sợ mất hết hồn vía, định tìm đường ra ngoài nhưng nhìn quanh bốn phía đều là vách đá, không có lối đi nào khả dĩ. Vừa rồi đất đá sụp xuống, lạc thiết đầu đều bị dọa sợ chạy mất, hồi lâu cũng không thấy bóng dáng. Huyền cung này quả thực có nhiều điểm kỳ quái, nước mưa từ cửa động chảy xuống khá nhiều nhưng dưới chân lại không có nước đọng. Tôi chờ cho Tuyền Béo với Răng Vàng cãi nhau xong mới đi xung quanh xem kỹ một chút, hi vọng có thể tìm ra đường ngầm. Tuyền Béo tìm quanh chỗ góc tường có thi thể lúc trước, nhặt được một cây đuốc còn có thể cháy tiếp. Qua ánh lửa lập lòe mông lung, bóng dáng ba người nhìn cũng mịt mờ, bất định.
    Tôi tìm được ở cuối vách đá có khe nước chảy qua được, bùn đất không ngừng chảy xuống.
    Tôi giơ tay gạt bụi đất trên vách, phát hiện vách đá lồi lõm giống hoa văn, giơ cây đuốc lên nhìn thử, thì ra là một cánh cửa đá của địa cung. Địa cung mặt hướng nam, lưng quay về hướng bắc, khí thế nguy nga. Trên cửa có đinh đá và vòng cửa, đinh này được gọi là "nhũ đinh" vì hình dáng tương tự như đầu vú phụ nữ, vòng cửa được ngậm trong miệng thú. Cửa đá được người dùng một khối đá lớn khéo léo chế tác mà thành, phía trên có trạm trổ long xà, kỳ lân, hải mã, nóc cửa đá còn có hình tiên nhân cưỡi hạc.
    Cửa đá huyền cung đóng rất khít, không có dấu hiệu từng bị cạy mở. Ba người dồn hết sức vào bầu sữa mẹ trên cửa, vai đẩy chân đạp cửa đá mới chậm rãi hé dần ra. Bên trong cánh cửa là một hành lang vô cùng lớn, dốc xuống dưới, toàn bộ hành lang đều được xây bằng đá, phía trên hai bức tường đá dựng đứng là vòm hành lang cuốn hình vòng cung, khiến cho người đi vào trong đó giống như đi vào một tòa cung điện rộng lớn, thần bí, nó tồn tại một loại khí thế bức người, khiến cho người ta hô hấp không thể bình ổn.
    4
    Tôi bước vào, soi đèn pin lên vách đá, chỉ thấy trên các khối đá lớn màu xám đều có khắc hoa văn hình chữ "vạn - 万" thầm giật mình, địa cung này là thế nào đây? Chính là huyền cung Tần vương trong truyền thuyết sao? Vừa nghĩ tới huyền cung Tần vương, cằm tôi nếu không dính chặt trên miệng có lẽ đã bị rớt xuống đất. Vào những năm cuối triều Minh, huyền cung Tần vương đã bị loạn quân đào bới, cung điện ở trên núi cũng bị hủy diệt, long mạch đã không còn, chỉ còn sót lại trăm hầm ngàn hố như tổ mối trên đất mà thôi, vậy mà hiện giờ nơi chúng tôi đang đứng ở dưới lòng đất lại có một tòa địa cung hoàn toàn không bị tổn hại chút nào! Mấy trăm năm về trước đạo quân phá hủy huyền cung Tần vương vì sao lại bỏ qua địa cung này chứ?
    Tôi nói với Tuyền Béo và Răng Vàng chuyện tôi luôn đau đáu từ lâu. Những hố đào lớn trên đỉnh núi mặc dù đã rất sâu nhưng thực ra chưa đáng là bao so với địa thế của núi này, Tầm Long Quyết có nói “Mạch rồng khi nhập xuống đất thì trở nên huyền bí, sâu kín khó tường". Tần vương chọn huyền cung là địa cung chắc hẳn là đã tính toán vị trí đặt mộ phần phải thật sâu dưới lòng đất, ít nhất cũng phải là đáy quả núi này mới tương xứng với địa thế của huyền cung, nói không chừng còn là "Huyền cung chín tầng"! Thời phong kiến, hoàng đế băng hà thì không được gọi là chết mà phải nói là đại hành, cưỡi rồng thăng thiên. Tần vương vốn xem trọng đại hành không kém gì hoàng đế, dùng huyền cung làm lăng mộ, huyền cung vừa vặn cân xứng với pháp cung, chín tầng bằng đá khối, ba khối đá là một trọng, ba trọng là một tầng, hai tầng bên trên đều là mộ giả, chỉ có quan quách và minh khí. Số loạn quân kia vốn xuất thân là nông dân nghèo khổ, chân đất mắt toét, phần lớn chưa từng thấy qua cảnh đời nói gì tới kiến thức đạo mộ. Có lẽ cũng đào bới được một vài mộ giả, tưởng rằng đào sâu như vậy vốn dĩ đã hết rồi, không thể ngờ huyền cung của Tần vương quy mô lại lớn như vậy, bên dưới huyền cung còn có một tầng nữa, đây mới thật sự là quách thất (phòng để quan tài)!
    Răng Vàng vỗ đùi: "Ha ha! Tôi nói trúng phóc rồi nhé, Hồ gia anh đúng là gặp vận lớn! Trước đây tôi từng nói, vào núi đổ đấu gặp mưa gió là đại phát, chính là điềm báo trước vận số của chủ mộ kia đã hết, quá nửa sẽ có đồ xuất thổ! Xưa có câu thế này "Rồng bay sinh mưa, hổ đi sinh ra gió". Nơi cửa điện này quanh năm ẩm thấp lại chẳng được trùng tu bao giờ, trận mưa vừa rồi sớm không tới, muộn không tới mà lại chờ đúng lúc mấy anh em ta lên núi mới ập xuống, đây chẳng phải điểm bất thường thì là gì? Tôi dám lấy đầu ra cược, trong quan quách của Tần vương nhất định là có bảo vật vô giá! Hồ gia anh là người hiểu biết, tên tiểu tử chăn dê ngoài cửa điện kia không phải kẻ bất tài, tổ tông nhà lão đời nào chẳng đào mộ? Anh không ra tay, đến khi tin tức lộ ra, trân bảo chôn theo quan quách Tần vương cũng chẳng thể bảo toàn! Đồ trong tầm tay chúng ta, không thể để bọn Mã Lão Oa Tử ẵm tay trên được?"
    Tuyền Béo nói: "Răng Vàng nói đúng lắm, anh không muốn thì kẻ khác cũng lấy, anh đành lòng nhìn tên tiểu oa tử chăn dê đó mang đồ đi sao? Minh khí rơi vào tay người khác thì không nói, rơi vào tay Mã Lão Oa Tử, anh không thấy mắc ói sao? Nói thật, tôi vốn cũng không muốn làm cái nghề này, nhưng đã sa chân xuống rồi thì phải đi cho hết, muốn leo lên cũng chẳng có chỗ móc dây mà trèo lên, người đã sa xuống giếng rồi, mà vẫn muốn lỗ tai được thông sao?"
    Tôi nói: "Anh không cần phải lải nhải khích tôi, đã ăn chén cơm đổ đấu này, thấy hầm đất mà còn không dám vào sao? Có điều tôi nói hai câu này các anh phải nhớ cho kỹ "Núi xanh vẫn còn, không sợ không có củi đốt, tăng cường tính kỷ luật, đổ đấu không thể không thắng!"
    Răng Vàng nói: "Lời của Hồ gia một câu đổi mười ngàn câu, câu nói thật sắc mà lại do anh phát ngôn thì ý nghĩa càng thâm sâu hơn bội phần, càng nghĩ càng thấy thấm, chỉ cần nghiền sâu ngẫm đúng đủ cho tôi dùng cả đời, đúng là —— lời ít nhưng đạo lý sâu, vô cùng ảo diệu!"
    Tuyền Béo nghe không nổi nữa nói: "Bố tiên sư nhà anh Răng Vàng anh dù gì cũng là hán tử lông dài đầy ngực, anh còn muốn xài cái mặt của mình nữa hay không thế? Có phải hắn đánh rắm anh cũng ca tụng thành tiếng sấm giữa trời quang không?"
    Vừa nói chúng tôi vừa đi vào bên trong, xuống qua ba tầng bậc thang thì nhìn thấy mội ngôi điện, hai bên có có hai chiếc cột lớn rồng lượn cuốn quanh. Trong điện âm u không đèn đuốc, trống trải, tĩnh mịch như đêm ba mươi lại tối tựa như canh năm.
    Ba người đi vào địa cung vắng vẻ, nương theo ánh sáng đèn pin thăm dò xung quanh, trong bóng tối dường như có một thứ áp lực vô hình uy hiếp, bốn xung quanh chúng tôi đều một màu đen kịt âm u lạnh lẽo, xộc vào mũi là thứ mùi ẩm mốc, mục ruỗng. Càng đi sâu vào huyền cung cảm giác càng bức bách, khó chịu. Đi tới cuối điện lại gặp một khung cửa hình vòng cung do một khối cẩm thạch lớn đẽo thành, bên trên xếp một hàng chín mươi chín chiếc đinh ngọc, có lẽ là cửa trong của huyền cung. Hai bên cửa vòm có khạp thờ hình rồng xanh thắp trường minh đăng (đèn thắp suốt ngày đêm), mấy pho tượng linh thú trấn điện đứng đối xứng nhau. Hai bên cửa đá bạch ngọc đều có một đài sen, trái phải bày ra hai cỗ quan tài lớn phủ đầy bụi bặm và mạng nhện. Phủi sạch bụi bặm thấy lộ ra đầu quan tài màu đỏ thắm.
    Tuyền Béo hỏi Răng Vàng: "Sao lại có hai cái quan tài thế này? Tần Vương lão bánh trưng là cái bên phải hay bên trái? Còn lại một cái khác là để làm gì đây?"

    Răng Vàng nói: "Thi hài chủ mộ làm sao có thể đặt khơi khơi trước cửa điện như vậy? Quan quách lim hương* này là của phi tần tòng táng*."

    * Lim hương: một loại lim có mùi thơm đặc biệt quý hiếm.
    *Tòng táng: Được chôn theo chủ mộ.
    Tôi không thể không nể phục Răng Vàng, đừng coi thường hắn là người không ra gì, nhãn quan của hắn hiếm kẻ bì kịp, hắn không cần cầm đồ lên xem, chỉ cần dùng mũi hít ngửi cũng có thể ngửi ra được là mùi quan quách lim hương.
    Tuyền Béo đi tới bên cạnh, thò tay mở nắp quan tài, định xem thử bên trong có đồ gì.
    Răng Vàng kinh hãi nói: "Không được! Quan quách của phi tần không động vào được!"
    Tuyền Béo nói: "Đừng có mà thần hồn nát thần tính, ông đây tò mò mở ra xem một chút chứ có quái gì mà làm như đỉa phải vôi thế?!"
    Răng vàng nói: "Phi tần chết ngạt trong quan quách nhìn vô cùng khó coi, đáng sợ lắm!"
    Tuyền Béo nói: "Mẹ kiếp, bảo anh thu minh khí chứ không phải bảo anh đi ôm người thân của lão bánh trưng kia mà lo xấu với chả đẹp?"
    Răng Vàng nói: "Khi chôn cất hoàng đế đại hành sẽ trói chân tay của phi tần rồi bỏ vào quan quách, sau đó nắp quan tài sẽ bị đóng chặt bằng đinh, mang vào địa cung chôn theo hoàng đế, Quan quách chôn sống phi tần không có bất kỳ món đồ trang sức táng theo nào, trong quan quách phi tần tòng táng rất ít khi có trân bảo, cùng lắm là chỉ được trùm lên mấy tầng lụa vàng mà thôi. Trong đó toàn là ma quỷ chết oan làm gì có cái gì mà nhìn?"
    Tuyền Béo không quan tâm phi tần tòng táng có oán khí hay không, nhưng hắn vừa nghe qua trong quan quách không có minh khí cũng hết hứng thú. Hắn lại hỏi Răng Vàng: "Tần vương huyền cung lớn như vậy, quan quách tòng táng theo sao lại không có vài món minh khí được chứ?"
    Răng Vàng nói: "Không có kỳ trân dị bảo chôn theo đâu, mà cho dù là có cũng phải là ở bên cạnh Tần vương."
    Tuyền Béo nói: "Ha Ha! Bố khỉ, anh biết tính tôi rồi sao không nói sớm?"
    Nói xong hắn đẩy cửa điện ra, bên trong cửa điện cẩm thạch màu trắng đã đặt chốt chống cửa nên mặc cho bên ngoài dùng sức thế nào cũng không làm sao đẩy ra được.
    Hắn lấy ra thanh xuyên cửa, chọc vào khe giữa hai cánh cửa, vừa đẩy vừa xoay, một lúc sau thì đẩy bung được cái chốt đá. Tuyền béo đẩy cửa điện ra, tôi len người vào chính điện.
    Nơi này còn được gọi là quách thất. Huyền cung Tần vương được bố trí giống với lăng mộ vua chúa triều Minh, quách thất là nơi xếp đặt quan tài, kích thước tương đối nhỏ. Vừa mở cửa điện, bên trong tối tăm lạ thường, dưới ánh sáng đèn pin, bụi bặm đang trôi lơ lửng trong không khí khẽ lay động, trong phòng trống rỗng, chung quanh bốc lên một thứ mùi ẩm mốc, thối rữa xộc thẳng vào đầu, chúng tôi không làm sao xua đi được. Xung quanh yên lặng như tờ, ngay cả tiếng vang của bước chân cũng khiến cho người ta phải giật mình phát sinh cảm giác mông lung, bất an không làm sao hình dung nổi ngấm thẳng vào tận xương tủy, da nổi da gà, cảm giác toàn thân lạnh toát, xuyên gan thấu mật.
    5
    Tôi đang lần mò đi về phía trước, đột nhiên phát giác có thứ gì đó đang treo lủng lẳng trước mặt, vị trí rất gần với cửa điện, nếu đi tiếp phía trước sẽ đụng trúng. Tôi nghĩ chắc là bồ hóng đóng trên mạng nhện lâu ngày, chưa kịp giơ đuốc lên soi, giơ tay khều thử, vật kia lắc lư vài cái, trên đỉnh đầu tôi phát ra mấy tiếng "kẽo kẹt kẽo kẹt", trong đại điện âm u nghe rợn cả tóc gáy.
    Ba người chúng tôi ngẩng đầu lên nhìn, lông tóc dựng đứng cả lên, thực ra chẳng phải là bồ hóng gì hết, trên hốc cửa chính điện đang treo lơ lửng một cung nữ tóc dài bù xù, hai chân buông thõng giữa không trung, lúc ẩn lúc hiện ở dưới cổng vòm.
    Thi thể treo dưới cổng vòm, toàn thân vận đồ cung nhân, áo dài đã biến thành đen sì, mái tóc dài xõa xuống che đi khuôn mặt, bụi bặm phủ đầy, trước ngực còn buộc một bọc lụa vàng, là dùng dây đai lưng tự thắt cổ, treo ở trong địa cung không dưới mấy trăm năm, mũ phượng đã rớt xuống đất. Vì bị treo nhiều năm nên thi thể cũng bị kéo dài ra rất nhiều, tứ chi khòng khoèo, lại thêm mái tóc dài bù xù, bất ngờ nhìn thấy ở huyền cung tối tăm này thật có thể khiến cho người ta vỡ tim mà chết.
    Thi thể cung nữ treo trên cửa điện vừa đụng trúng tôi thì lung lay mấy cái giữa không trung, đai ngọc thắt cổ đột nhiên bị đứt, thi thể rớt xuống trên mặt đất. Có điều cái đầu bị mái tóc lòa xòa phủ kín thì vẫn treo lơ lửng trên cao, không ngừng đung đưa như quỷ sống.
    Sân khấu hí kịch ở Quan Trung có tám tuyệt kỹ lớn, nói đến kỹ năng dọa người, đáng sợ nhất phải kể đến tuyệt kỹ treo thi thể, thường gọi là "Treo người lên", trước kia đã từng hù chết trẻ con, các bạn thử nghĩ xem thi thể theo trên sân khấu hí kịch đã đủ dọa chết người, huống chi là một cái tử thi thực sự đang treo lủng lẳng như vậy?
    Tuyền Béo nói: "Thật là đồng cỏ lắm rắn, ổ sói thì chó nhiều, bánh trưng trong mộ cổ cũng nhiều vãi chưởng, cửa cũng trang trí một cái nữa, cái này có phải là để hù dọa dân đổ đấu không? Chúng ta không có chuyện sẽ không lên tam bảo điện, có việc mới vào cửa này của ngươi, ngươi cho ta vào đàng hoàng thì được, cứ gây chuyện lằng nhằng, ông đây lấy móng lừa đen ra hỏi thăm ngươi!"
    Răng Vàng khiếp sợ, toàn thân toát mồ hôi lạnh, không ngờ vừa mới vào chính điện đã đụng phải một cảnh tượng như vậy, hắn nghĩ con đường kiếm minh khí có lẽ khó mà hanh thông rồi. Đột nhiên thấy trong bọc lụa buộc trên người cung nữ vận cẩm bào rơi ra một cái hộp sắt mạ vàng, hắn cúi đầu xuống nhìn thử, ngạc nhiên nói: "Ban đêm tôi mơ thấy cửu cung nương nương hiển linh, nói tôi phúc lớn, mạng lớn, vận may lớn, gặp dữ hóa lành, gặp nguy thành an, tương lai nhất định sẽ thăng quan tiến chức nhanh chóng, hoạn nạn đều tiêu tan, giàu sang vô hạn, đúng là ứng ở đây rồi!"
    Tôi hỏi hắn: "Cửu cung nương nương có nói với anh là anh đang nằm mơ không?"
    Răng Vàng nói: "Không nói, nhưng tôi có thể nhận biết được."
    Tôi nói: "Tự mình biết được mình đang nằm mộng sao? Có gà gáy là trời sáng, mà gà không gáy thì trời vẫn sáng, có phải phát tài hay không cũng không phải do cửu cung nương nương hiển linh báo mộng."
    Răng Vàng nói: "Được rồi, là do tôi lỡ miệng, đúng ra phải nói cả ba chúng ta cùng phát tài chứ gì? Tôi nói cho hai người các anh biết đại tỷ treo trên cửa điện kia không phải cung nữ, đây là một "Phủng bảo quan" (Quan nâng bảo vật)!"
    Tương truyền hoàng đế sau khi hạ táng sẽ lấy cung nữ tâm phúc để táng theo. Trên thực tế không hề có chức quan như vậy, cung nữ tòng táng thời cổ đại căn bản cũng giống như minh khí, cung nữ cùng với đồ chôn theo sẽ theo quan tài cùng tiến vào địa cung, đến khi địa cung đóng chặt lại, nàng ta hoặc ngậm tiền hoặc tự vẫn đều chết ở bên trong.
    Tôi cùng với Tuyền Béo nghe Răng Vàng nói những chuyện ly kỳ như vậy thì vô cùng ngạc nhiên, Dùng đèn pin soi thử hộp sắt mạ vàng, chỉ thấy hai mặt trên dưới hộp đúc hoa văn, chính diện có hình một vị thần móng hổ đầu người, phía trên có chín cái đầu người đàn ông, dưới đáy cũng có chín đầu một thân, thân là một con rắn, do đầu của chín cô gái ghép lại mà thành. Mở hộp sắt ra, bên trong cũng có những hình vẽ kỳ dị giống như vậy, bên trên là chín con rồng rắn, chính giữa là thần, chim, hươu đầu đuôi giáp nhau, lượn vòng hợp nhất, dưới có hai con quỷ, tôi chưa từng thấy qua. Có điều bên trong hộp sắt mạ vàng cũng không có để đồ.
    Răng Vàng nói: "Anh khoan hãy nói Răng Vàng tôi vô dụng, các anh chưa từng thấy qua nhưng tôi thì có, người chín đầu thú gọi là "lục ngô", mặt người nhưng móng hổ, hung ác đa nghi, thiên về bảo vệ bí mật, thân rắn chín đầu gọi là "bành họa", mặt người mà thân hươu, tham lam thành tính, thiên về trấn thủ kho báu. Kỳ trân dị bảo trong địa cung này chưa từng xuất thế, nói không chừng là thứ đồ vật kinh thiên động địa, không ở đây thì cũng trong quan tài, cơ bản là không thể thoát được bàn tay chúng ta, có hai người các vị ra tay cộng thêm cái đầu của Răng Vàng tôi coi như là bảo hiểm gấp đôi, còn lo không tìm ra được sao?"
    6
    Tuyền Béo là ăn mày bóc tỏi – kẻ nghèo có toan tính của kẻ nghèo, chuyện hôm nay chớ để ngày mai. Hắn nhặt hộp sắt mạ vàng nhét vào túi sau lưng, còn không quên lý sự: "Mô kim hiệu úy ở trong mỗi cổ mộ chỉ lấy một món minh khí, có điều túi đựng bên ngoài cũng không thể coi là vật ở bên trong, giống như anh đi mua giày, không có hộp đựng vẫn là một đôi giày, có hộp đựng thì không phải vẫn chỉ là một đôi giày sao?"
    Tôi nói: "Mẹ tiên sư, anh bớt nói nhảm cho tôi, coi chừng dưới chân, đừng chỉ chú ý đào minh khí."
    Tuyền Béo nói: "Não phía sau gáy tôi còn lợi hại hơn mắt nhiều, đợi lát nữa anh xem, nếu tôi không mang chút ngón nghề ra cho Răng Vàng xem thử, hắn còn tưởng rằng tôi chỉ là kẻ vô dụng!
    Tuyền béo vừa nói vừa đứng dậy, tiến về hướng quan tài trong phòng, có điều thi thể phủng bảo quan treo ở dưới mái vòm mấy trăm năm, mục rữa đã lâu lại bị đung đưa qua lại, thi thể chịu không nổi rơi xuống đất, đầu người vẫn còn treo trên đai ngọc, buộc vào xà cửa, giữa không trung không ngừng phát ra những tiếng "kẽo kẹt kẽo kẹt", lúc ẩn lúc hiện. Lúc này đầu người cung nữ lung lay mấy cái rồi cũng rơi xuống.
    Răng Vàng đi qua dưới cửa, đầu người cung nữ liền rơi ngay xuống người hắn, khiến cho hắn sợ sắp tè ra quần, sợ bị đầu người kia cắn cho một cái, vội vàng vung tay gạt sang một bên. Mái tóc dài cuộn lấy đầu người, rơi xuống trên thềm ngọc, lăn vào chính điện. Trong quách thất tối lửa tắt đèn, chúng tôi cầm đuốc đi vào, thấy quách thất này cũng không lớn, theo phong thủy mà nói, có thể là vì tụ khí*.
    *Tụ khí: Đại khái theo phong thủy, kiến trúc tụ khí sẽ đem lại may mắn (khí gồm hai loại khí âm dương, do cách bài trí nội thất hoặc do cấu trúc, thiết kế mà sinh ra, tụ khí là để giữ lại dòng năng lượng tốt của hai loại khí này).
    Khung đỉnh phía trên và bốn vách của quách thất đều chạm khắc kinh văn, hai bên có hai buồng đối xứng, phía cuối là hậu thất xếp một tấm bia đá không có chữ, dưới bia có bị hí**, tục ngữ dân gian gọi cái này là bia cõng rùa.
    ** Bị hí: Một loài động vật trong thần thoại giống như rùa.
    Chính giữa là một tòa bảo đài hoa sen trạm trổ long phượng. Có một cỗ quan tài lớn đã tróc sơn, hoa văn trang trí là hình cá hóa rồng. Trên bảo đài bày ra ba mươi cánh hoa sen. Hai bên cũng bày khạp thờ hình rồng phía trên có cung đèn (đèn trong cung đình) mạ vàng. Đèn dầu vẫn còn bấc nhưng đã cạn dầu từ lâu. Chung quanh quan quách có năm tượng gốm phủ đầy bụi đất. Lớp sơn của quan quách rơi xuống đất màu chói như vân vàng, tất cả đều là hoa văn vảy rồng.
    Gỗ lim sinh trưởng ở nơi núi thẳm cùng cốc có thể do bị gió lớn đánh bật gốc, chôn dưới đất qua hơn ngàn năm đã chuyển thành màu tím. Mặc dù vẫn là gỗ nhưng do chôn qua hơn mười ngàn năm, nửa phần đã hóa thạch mới có thể tạo thành vảy rồng vân vàng, nước ngâm không thấm, kiến mối không đào được. Tương truyền năm đó ở Vân Quý, giữa nơi rừng sâu núi thẳm, hơn ngàn người đổ xô đi tìm một tấm gỗ lim vảy rồng, lúc đi ra chỉ còn một nửa.
    Báu vật thượng hạng ở Quan Trung từ xưa đều đã biến mất, cầu cũng không thể gặp, vảy rồng vân vàng có thể nói là vạn tiền khó cầu! Đài sen có đôi rồng uốn lượn bao quanh, thường gọi là pháp đài, theo truyền thống của đạo phật, hàm ý ở đây là được siêu sinh sang kiếp sau. Chúng tôi dù đã lo lắng đề phòng nhưng khi bước vào chính điện, mọi ánh mắt đều bị quan quách trên đài sen thu hút không thể dời đi.
    Tôi nhủ thầm: "Đế vương thì sao chứ? Chẳng phải lúc lâm đại nạn đều như đèn đã cạn dầu, thành bánh chưng cả sao?"
    Răng Vàng là kẻ chỉ giỏi tán dóc, mồm năm miệng mường chém gió không ai bằng, có điều lá gan rất nhỏ, dương khí toàn thân hư nhược, lúc ho thì không khác gì phun ra khói, hắn buôn bán minh khí đều dựa vào độ dẻo của miệng lưỡi, gắng dựa vào chút nhãn lực và kiến thức, mười phần là hạng người ham sống sợ chết, như gà rừng đứng cửa, không lên được núi Thiên Vương, từ trong bụng mẹ sinh ra đã vậy. Nhìn thấy trong bảo điện trong huyền cung khí thế khoáng đạt, bất giác hai chân run rẩy, bò lổm ngổm ở dưới bảo đài, dập đầu lạy quan quách Tần vương.
    Tuyền Béo nói với Răng Vàng: "Răng Vàng khốn kiếp nhà anh dập đầu cái bánh chưng làm gì? Không biết người Trung Quốc đã đứng lên từ lâu rồi sao (ý mỉa mai)?
    Tôi nói: "Đúng, đứng nói chuyện sẽ không bị đau lưng mà!"
    Răng Vàng nói: "Đúng là thế, có điều…có điều quan quách này quá vĩ đại..."
    Tuyền Béo nói: "Quan quách lớn mang ra không được, giá trị bao nhiêu bạc cũng vô ích, làm quái gì mà anh phải kích động tới nỗi run lập cập như chó phải bả thế?"
    Răng Vàng nói: "Ở trên quan quách có hoa văn long phượng, chứng tỏ là quan tài chôn chung, còn có một vị vua chôn cùng theo nữa!"
    Tuyền Béo nói: "Hai người? Minh khí chẳng phải sẽ nhiều gấp đôi sao?"
    Răng Vàng nói: "Theo như thế cục này, trong quan tài chắc chắn là có vật chí bảo giá trị liên thành!"
    Tuyền Béo nói: "Bố tiên sư, còn nói chữ cái con khỉ gì nữa, giá trị liên thành là bao nhiều tiền?"
    Răng Vàng nói: "Tôi chỉ giả thiết như vậy thôi, anh đừng chê tôi chưa từng thấy qua sự đời, nói tóm lại là tôi không thể định giá, chỉ có thể nói rằng nó đáng rất nhiều tiền, anh muốn bao nhiêu thì là chừng ấy!"
    Tuyền Béo nói: "Mẹ kiếp, anh thật sự nghĩ tôi là thằng ngu sao? Tôi muốn bao nhiêu được bấy nhiêu? Quan trọng là có thằng chó nào chịu xuất tiền không ấy? Tôi đứng nghĩ mất nửa ngày, nếu mà nghĩ không ra đứa nào sẽ thất vọng? Tốn thời gian của tôi, lãng phí nơ ron thần kinh của tôi, anh có đền được không?"
    Răng Vàng nói sao cũng không lại được, hắn không dám tiếp lời Tuyền Béo nữa, đành phải im miệng bám theo sau lưng tôi, nghển cổ nhìn quanh phía trước.
    Chúng tôi đi lên bảo đài, giơ cao cây đuốc trong tay, lên phía trên vòm đài, mới nhìn thấy tán đài hình đấu củng *, phía trên điêu khắc một con rồng vàng miệng ngậm bảo châu, ở giữa ánh lửa lúc sáng lúc tối, nét vẽ đầu rồng trông vô cùng sống động.
    * Đấu củng: Một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.
    Răng Vàng ngẩng đầu lên nhìn, cả kinh nói: "Thật đáng sợ! Một con "Rồng vàng năm móng!"
    Tuyền Béo nói: "Mắt anh làm sao vậy, rõ ràng chỉ có bốn cái chân mà bảo năm."
    Răng Vàng nói: "Kim long tứ chi đặc biệt đều có năm móng, giống như bàn tay người, cái này gọi là rồng vàng năm móng!"
    Tuyền Béo nói: "Mấy cái móng vuốt có gì mà ghê gớm thế?"
    Răng Vàng nói: "Lão Béo nhà anh có chỗ không hiểu, móng rồng từ xưa tới nay được đặc biệt coi trọng, rồng tượng trưng cho Hoàng thượng mới là năm móng, rồng khác không có nhiều móng vuốt như vậy, móng vuốt không đủ thì không phải rồng thật, bảo châu mà rồng vàng ngậm gọi là Hiên Viên Kính."
    Tôi nói: "Huyền cung của Tần vương không chỉ có địa thế lớn, lại còn dùng rồng vàng năm móng để trấn, sau khi xuống mồ rồi còn vọng tưởng làm hoàng đế sao?"
    Tuyền Béo nói: "Mẹ kiếp, làm hoàng đế không nổi, làm cái bánh trưng còn phải phô trương thanh thế lớn như vậy, tốn kém không biết bao nhiêu máu thịt của dân!", Hắn là người điếc không sợ sấm, heo chết không sợ nước sôi, ăn trong chén nhìn trong nồi, thấy Ngọc Hoàng đại đế cũng dám đùa bỡn, nói xong là định tiến đến mở quan tài.
    Có điều cho dù minh khí có tốt đi nữa, không mang ra được thì vẫn là đồ của người chết, chỗ này là tận cùng chính điện rồi, Tần vương huyền cung chôn sâu ở trong lòng núi lớn, chung quanh vách núi dầy, khó có thể xuyên ra được, phải cần đến bao nhiêu bản lĩnh mới xuyên núi mà ra được đây?



     
  4. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,686
    Mô Kim Hiệu Úy Cửu U Tướng Quân
    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng
    Chương 4: Đèn lồng Diêm vương

    Người dịch: Đinh Thảo, Lưu Hà
    Nguồn: Lachoncoc






    1
    Dân đổ đấu giỏi tìm hầm nhỏ, chúng tôi mò được tổng cộng mười tám cái hang trong núi, có đường vào thì tất cũng phải có đường ra, mà đường ra không ở đâu khác, mười phần thì tám chín phần chính là ở trong quan quách Tần vương. Người xưa tương truyền, long mạch tất có long huyệt. Long huyệt hay còn gọi là "Giếng vàng", một long mạch chỉ có duy nhất một giếng vàng. Giếng vàng thông thường không quá lớn, đất ở chỗ đó có thể nói chính là tấc đất tấc vàng, cho nên người xưa gọi là giếng vàng.

    Thế nào gọi là tầm long điểm huyệt? Cái này thì phải hỏi các thầy phong thủy cao tay, thầy tới chỉ điểm, đào xuống chắc chắn gặp đất ngũ sắc, chính là nơi thích hợp hạ huyệt. Dưới quan quách đào một cái lỗ, nối thẳng tới "Miệng nước"*, gọi là giếng vàng.

    Theo góc độ phong thủy mà nói, giếng vàng trong các mộ lớn thời cổ phần lớn đều ở ngay phía dưới quan quách, nhờ vào nước mà có sinh khí, mồ mả chủ yếu mai táng theo sinh khí. Thời đó Mô Kim Hiệu Úy chủ yếu tận dụng sở trường, lúc ẩn lúc hiện, tránh lầu son gác tía, mộ lớn đá to, chui thẳng vào huyệt qua giếng vàng lấy bảo vật. Nếu không nhờ tay nghề tuyệt đỉnh này, chỉ hai ba người làm sao có thể mở được lăng mộ đế vương?

    * Miệng nước: Đây là nơi dòng nước bắt đầu chảy vào huyệt, một khu làng hoặc dải đất đặt mộ. Các nhà phong thủy cho rằng, nước chảy là huyết mạch của long khí, là hình thái bên ngoài của sinh khí, tượng trưng cho của cải vượng suy.

    Giếng vàng nằm ở một trong mười tám lỗ, nhưng muốn chui qua giếng vàng mà ra ngoài phải nhằm lúc mạch nước khô cạn, thời điểm có nước thì không vào được. Hơn nữa trên thực tế giếng vàng cũng có cái lớn cái nhỏ, có cái chỉ nhỏ bằng quả đấm, anh có thuật rút xương cũng không chui qua nổi. Có điều Tần Vương huyền cung quy mô lớn như vậy, giếng vàng bên dưới quan quách chắc hẳn không đến nỗi quá nhỏ. Long mạch ở Ngọc Hoàng điện năm đó đã bị loạn quân phá hủy, núi non sụt lở, mạch nước khô cạn, có lẽ có thể dựa vào giếng vàng mà thoát thân.

    Tôi bảo thằng Béo nhặt đầu cung nữ trả về cho người ta, lại nói qua kế hoạch với Răng Vàng và Tuyền Béo một lần.
    Răng Vàng nghe nói dưới giếng vàng có thể có một con đường sống liền giơ ngón tay cái: "Hồ gia anh đúng là cao nhân, cứ như có bảy cái đầu vậy!"
    Tôi nói: "Câu này anh nói với cái cột điện đi, cột điện cao hơn tôi đó."
    Răng Vàng nói: "Cột điện dù có cao hơn nhưng vĩnh viễn cũng chỉ là một cây gỗ chết, làm sao có thể so sánh với Hồ đại gia được? Không phải Răng Vàng tôi nói vậy để tâng bốc, mà quả thực là tôi đã phục anh sát đất rồi. Người xưa cũng từng nói, đáy quan tài của hoàng thân quý tộc vốn không phải là một phiến ván liền mà thường khảm một mảnh ngọc bích lớn nhằm để nối thông với giếng vàng, gọi là "giếng vàng ngọc táng". Đối với các tuyệt chiêu phá quan của Mô Kim hiệu úy, phá từ bên trên thì gọi là gọi là "Ngỗng trời đẻ trứng", đục từ dưới lên thì gọi là "Mò trăng đáy biển!"
    Tôi nói: "Cho dù là vậy thì cũng phải theo quy củ, ở mỗi phần mộ chỉ được lấy một món đồ."
    Răng Vàng nói: "Hồ Gia đã xem trọng vấn đề đó thì tuyệt đối chúng tôi cũng không thể xem thường được!"

    Thằng Béo nói: "Mẹ kiếp, hai người kẻ tung người hứng cả nửa ngày, trong mắt có còn nhìn thấy tôi ở đây không? Mỗi mộ chỉ lấy một món minh khí hoa mắt mà chọn biết đến bao giờ? Anh nghe tôi này, chăn một con dê cũng là chăn, hai con dê cũng là thả, chẳng thà nhìn trúng cái gì thì nhặt cái đó, hôm nay là ngày đầu năm, thể diện cũng chả cần dùng, da mặt dầy thì ăn đủ, mí mắt mỏng thì nhìn xa!"

    Tôi nói: "Mỗi mộ phần chỉ lấy một món đồ là để dễ dàng thoát thân, nếu anh có bản lĩnh bê nguyên cả cái Tần vương huyền cung này đi, tôi cũng không cản."

    Răng Vàng nói: "Lấy minh khí nào hãy để tôi chọn, nếu ngay cả việc này Răng Vàng tôi cũng làm không nổi thì còn cần cái đầu làm gì nữa?"

    Tôi gật đầu, Tuyền béo tới góc Đông Nam phía trước thắp một cây nến, chuẩn bị mở quan tài tìm kim tỉnh. Tần vương huyền cung mặt hướng về Nam, lưng đưa về Bắc. Ba người bọn tôi đi vào từ phía Nam, đi ra hướng Bắc, quan tài bảo vật nằm ngang trên bệ đá. Qua đó có thể phán đoán chủ mộ đầu hướng Tây, chân hướng Đông. Như vậy vị trí đốt nến hướng đông nam nằm cạnh vị trí chân chủ mộ..

    Tuyền Béo đi lại đốt nến, chân đụng phải một vật, nghe "xoảng" một tiếng, hắn giơ cây đuốc nhìn xuống, thì ra là một bức tượng đồng tử bằng đất sét, lâu ngày bị gỉ, màu sắc loang lổ, đầu tượng không có mặt, dường như đã bị người ta cạo sạch, lại bị Tuyền Béo đụng trúng rơi xuống đất, vỡ mất nửa cái đầu. Quan tài trong phòng trống rỗng, chỉ có năm tượng gốm chôn theo, xếp thành bốn phía trên bục, phía trước bày một chén cơm, thứ Tuyền Béo đụng phải là một trong số đó.
    2
    Răng Vàng nói: "Tượng đất không đáng giá, đồ tùy táng quan trọng phải là đồ thật, không có đồ thật mới phải dùng đồ thay thế như gà đất, chó sành. Tượng gốm trong Tần vương huyền cung, có lẽ hàm ý là đông con lắm phúc, kéo dài vạn kiếp."

    Tôi nói: "Tượng gốm trong Tần vương huyền cung không chỉ có một, mặt mũi lại bị cạo sạch, phương vị bày trí cũng không đúng quy tắc, có thể không phải là tượng đất chôn theo, không chừng ở đây có quỷ!"

    Tuyền Béo nói: "Bố khỉ, giả thần giả quỷ hù người? Tôi cũng thấy là lạ, theo như ý anh thì cái đống này là yêu tinh đúng không?" Nói xong, hắn cười khan hai tiếng lấy thêm can đảm, Tần vương huyền cung sâu thẳm mênh mông, tiếng cười vọng lại còn khó nghe hơn quỷ khóc.

    Răng Vàng nghe được, chân tóc dựng đứng lên, cúi đầu nhìn, thấy trên mặt tượng đất sét nứt ra lộ ra một khuôn mặt người nho nhỏ trăng trắng, thì ra những tượng đất này vốn dùng để giấu xác. Trên miệng tử thi đầy oán khí nhưng không thể nói ra được, chẳng lẽ là oan hồn? Mặt hắn biến sắc, sợ chọc tới tiểu quỷ, vội châm ba cây hương nắm trên tay, vái lạy bốn phương tám hướng, miệng lầm rầm niệm: "Bọn ta vô tình mạo phạm, đừng trách bọn ta quấy rối! Oan có đầu nợ có chủ, các ngươi có hận cũng nên hận người trên bảo đài kia mới phải!"

    Tương truyền từ thời Hán, trong mộ Đế vương có một loại tượng sống, tức là cuốn người sống trong đất sét, nung thành tượng đất, máu thịt đều hòa cùng một thể với đất sét, bên trong chỉ còn lại tro đen, đến hai triều Nguyên Minh, cũng có tục mang đồng nam đồng nữ nung thành tượng gốm có điều tục này cũng không phổ biến.

    Dân gian tương truyền người sống chôn theo oán khí rất nặng, âm hồn không tan. Quỷ người vốn khác biệt, quỷ không thấy người, người không thấy quỷ, có điều trong hoàn cảnh đặc biệt thì có thể, ví dụ như trong cổ mộ âm khí nặng, khi dương khí của người sống thấp thì có thể dễ dàng bị quỷ nhìn thấy nhưng cũng chỉ mờ ảo mơ hồ không rõ ràng. Có điều bất kể bạn là ai, chỉ cần để cho quỷ nhìn thấy bạn, nhất định nó sẽ coi bạn là kẻ thù lúc còn sống mà trả thù. Tương truyền, trên đỉnh đầu và hai bên bả vai người sống có một ngọn đèn, gọi là "tam muội chân hỏa", có bảo bối đó người không thấy được quỷ mà quỷ thấy bạn cũng phải tránh, người thấy được quỷ đa phần đều là người dương khí thấp.

    Giới trộm mộ khi hành sự ít nhất cũng phải mang theo móng lừa đen, chỉ có ác quỷ là móng lừa đen không đối phó nổi. Ác quỷ có oán khí quá sâu, sau khi chết không thể vào luân hồi, chỉ muốn báo thù, oán khí càng nặng, nó nhìn thấy người mà người nhìn nó cũng càng rõ. Các truyền thuyết mê tín dân gian đều mô tả lại như vậy, mê tín quá cũng không được, nhưng quá chủ quan thì cũng thiệt thân.

    Đừng nghĩ Răng Vàng nhát gan mê tín, cho dù có quỷ thì căn bản cũng không ảnh hưởng tới ý định trộm minh khí của hắn. Tuyền Béo là kẻ gặp tổ ong lớn cũng dám chọc, binh đến thì tướng chặn, nước tới thì đất cản, đừng nói tượng gốm chôn theo trong Tần vương huyền cung, chẳng qua cũng chỉ là một mảng đất sét, đụng nhẹ là có thể rơi cả nửa cái đầu, cho dù là thiên binh thiên tướng, nhiều lắm cũng chỉ có năm, sáu cái, có gì mà đáng sợ? Chờ Răng Vàng lạy một chặp xong, Tuyền Béo đốt một cây nến trước tượng gốm, không biết có phải trong phòng đặt quan âm khí quá nặng hay không, ánh nến chuyển màu xanh ngắt, chiếu lên mặt người nhìn như quỷ!

    Tôi chột dạ nói với hai người bọn họ: "Năm đồng tử trước quan quách bị chôn sống trong đất sét chắc hẳn không phải là tượng đất chôn theo, mộ Tần vương là tòa huyền cung chín tầng, trên vách phòng để quan tài đục đẽo chằng chịt hình thù kỳ quái với lời chú, lại có năm đồng tử bị chôn trong đất sét, mục đích để làm gì đây?"

    Về quy tắc chôn cất trong phong thủy, người giàu sang hay bần tiện vốn là số mệnh định trước, không có số làm Hoàng thượng, mặc long bào cũng vô ích. Mệnh chân long thiên tử là cửu ngũ chí tôn, cửu ngũ là sáu mươi bốn quẻ ba trăm tám mươi bốn hào trong hào chí dương, chí tôn chí cao nhưng đường sống lại không cao. Người xưa vốn mê tín đặc biệt tin vào số mệnh, mệnh do tứ trụ ngũ hành bát tự quyết định, mà trong long mạch vận khí vô cùng quan trọng, người hợp mệnh mai táng có thể mượn long khí. Tuy không biết là có tác dụng thật hay không nhưng trong âm dương phong thủy quả thật có loại phương pháp mai táng này. Quan quách Tần vương chôn phía trên long huyệt, lại bố trí năm đồng tử đất có long mệnh, tương đương với năm con tiểu Long, vừa vặn tạo thành một thế "Năm rồng nâng thánh giá"!

    Răng Vàng nói: "Mẹ kiếp! Lại còn năm con rồng nâng thánh giá nữa*, thăng thiên thì đã thăng thiên mẹ nó rồi, đầu thai chắc cũng đã đầu thai rồi, chúng ta lấy minh khí chắc sẽ không gặp trở ngại gì đâu!"

    Tôi còn chưa nói hết, các đồng tử hợp mệnh chôn theo bày thành thế "Năm rồng nâng thánh giá" trước quan quách Tần vương ở đây mặt mũi đều bị cạo sạch, cổ nhân nói: "Không có khiếu** thì không thể thông linh", tượng đất hay cả con tò he cũng nên có khiếu, nếu như là chỉ một hai bức tượng đất không có mặt còn có thể giải thích là do niên đại lâu năm nên mặt mũi bị vỡ rụng, nhưng ở đây cả năm bức tượng mặt mũi đều có dấu vết bị người ta nạo gọt thì chỉ có thể giải thích theo cách của Răng Vàng – làm cho oán khí tích tụ không thoát ra được, khiến cho thánh giá bên trong quan quách không những không thể thăng thiên lại còn bị năm đồ quỷ này quấn lấy, cát hung điên đảo, tạo thành thế "Năm quỷ quấn thây", tôi phân tích như vậy đã đến nơi đến chốn chưa?

    * Thánh giá: Chỉ vua
    ** Khiếu: Thất khiếu - hai tai, hai mắt, miệng, hai lỗ mũi.

    Răng Vàng nói: "Mới chỉ đến dạ dày* sao? Tôi thì thấy cũng đến thận rồi! Hồ gia anh nói xuống chút nữa chắc tôi tè ra quần!"

    * Ở đây Răng Vàng dùng từ đồng âm khác nghĩa, bên trên Hồ gia nói 位 (vị - wèi), nghĩa chỉ nơi chốn, vị trí.
    Bên dưới Răng Vàng dùng chữ 胃 (vị - wèi) đồng âm với 位, tuy nhiên 胃 nghĩa là "dạ dày"

    Tuyền Béo nói: "Bố láo, bản chép tay của tổ truyền bã đậu nhà anh chỉ toàn cổ xúy cho mê tín, tầm bậy tầm bạ, mang chùi mông còn không đủ, nên xé đi thì hơn!"

    Tôi nói: "Mê tín hay khôn còn phải chờ xem mới biết, tôi chỉ không hiểu ai lại nạo đi mặt mũi của những tượng đất đó? Các anh cũng thấy đó, bốn vách không có dấu hiệu bị đục phá, quan quách cũng không có dấu vết từng bị mở."

    Tuyền béo nói: "Cũng không phải là không có, trên cửa điện cẩm thạch không phải vẫn còn treo một vị đó à? Nếu anh là người bị chôn theo, anh lại không oán hận chủ mộ thêm vài phần rồi mới chết à?"
    Thằng béo vốn là hạng người nhảy qua tường thì rớt lại lỗ tai (không nghe lời người khác), từ trước đến giờ luôn lớn gan làm bậy, trong lúc nói chuyện đã nhảy lên bảo đài ba mươi sáu cánh sen, đưa đuốc cho Răng Vàng, đeo bao tay, dùng sức đẩy nắp quách ra.

    Tôi vốn không tin một cung nữ chôn theo lại có thể chết tới hai lần, lại không nghĩ ra nên làm thế nào mới đúng nên bảo Tuyền Béo chớ vội động thủ, lấy cây đuốc tìm lại lần nữa, phát hiện trên đỉnh mộ thất có một cửa hang, đối diện với bia đá bên dưới. Răng Vàng sụp xuống hít một hơi lạnh: "Đạo động!"

    3

    Tôi nói đó không phải là đạo động, đường do kẻ gian đào hang trộm mộ đào mới gọi là đạo động, dùng tiếng lóng trong nghề mà nói, cái này gọi là "Miệng hầm". Mộ thất tiếng lóng thường gọi là hầm đất, miệng hầm là đường sống do phu xây lăng mộ âm thầm đào bới. Kích thước của Tần vương huyền cung lớn như vậy, dân phu đào lăng chắc chắn không ít. Thợ có kinh nghiệm sẽ đào sẵn một đường sống trước khi hoàn thành công trình để tránh bị chôn sống diệt khẩu. Ám đạo mà phu mộ đào đó được gọi là miệng hầm, có điều rất khó tìm, bởi vì miệng hầm đó sẽ phá hỏng kết cấu phong thủy, nên phải làm sao càng bí mật càng tốt, động chạm đến đất trên cung là đại kỵ của long mạch trong lăng tẩm, một khi bị bắt chính là tội chu di cửu tộc. Có lẽ lúc hạ táng mộ chủ đã chôn sống một số phu mộ ở điện thờ phụ. Một hoặc vài người trong số đó đã lưu lại đường này, lúc chạy thoát thân đã thuận tay đào mở đỉnh mộ ở hậu thất, xuống nạo mặt tượng đất chôn theo để trả thù chủ mộ, sau đó mới chui qua miệng hầm để ra ngoài, lúc ấy cung nữ chôn theo cũng đã thắt cổ chết rồi. Việc phu mộ không mở quan tài lấy bảo vật cũng không có gì là lạ, trước mặt có vương pháp, không ai dám mang bảo vật chôn theo của đương triều ra ngoài bán lấy tiền. Bình thường sẽ mai danh ẩn tích, chờ đến khi triều đại thay đổi, lại theo đường cũ vào huyền cung, lấy trộm minh khí trong quan tài.
    Có điều những người này sau khi trốn ra ngoài có lẽ đã rơi vào tay quan phủ hoặc vì lý do nào đó, cuối cùng cũng không xuống lại nữa.

    Lối đi do phu mộ đào trộm thường khá nhỏ, cũng không chắc chắn, trải qua nhiều năm như vật, không biết còn đi nổi nữa hay không. Tôi đang nghĩ có nên đi con đường kia hay không thì Tuyền Béo đã cùng với Răng Vàng mở quan tài rồi. Hai người họ chụm chân dồn sức rồi chân trước chân sau căng lên tạo thành dáng như hổ leo núi, cố sức đẩy nắp quan tài về một phía. Phiến gỗ lim vân rồng vàng chắc nặng như sắt, mọi người dốc toàn lực, gồng vai đẩy mới xê dịch được nắp quách một chút. Bỗng nghe một tiếng vang quái dị, từ quan tài xông ra một luồng khí đen, tràn ra bảo điện âm u. Khí đen bị ánh lửa chiếu vào chuyển từ đen thành vàng, lại từ vàng chuyển trắng rồi tản ra như mạng nhện, có tiếng "xoạt xoạt" vang lên, bụi đất trên nóc điện như bị luồng khí đen va phải ào ào rơi xuống.

    Cây đuốc trong tay tôi đụng phải màn sương mù dày đặc, vụt tắt. Cây nến trong xó xỉnh dao động mấy cái, ánh nến màu vàng chỉ còn chừng như hạt đậu, tắt rồi lại sáng, nháy mắt lại tắt, bốc lên một làn khói.

    Răng Vàng tự động viên mình: "Không quan trọng, bị quỷ thổi mới là quỷ thổi đèn, không phải quỷ thổi thì có gì phải sợ?"
    Tôi nghĩ thầm: "Răng Vàng anh cũng lắm lý lẽ thật, đúng là khi quan quách nổi lên một trận gió lạnh, thổi tắt nến, không gặp quỷ đi ra nhưng đèn đuốc bị tắt, hoặc là tắt rồi lại sáng đều không phải điềm tốt, phải quỳ lạy chủ nhân của mộ, theo đường cũ lùi ra. Có điều đi được tới nước này, cho dù phía trước là chảo dầu sôi, chúng tôi cũng nhất định phải nhắm mắt nhảy xuống! Mặc dù nói rằng lúc Mô Kim trộm mộ nến bị tắt, chắc chắn sẽ xảy ra biến cố, nhưng tôi với Tuyền Béo vốn không quan tâm hung thần ác sát. Nhìn đám đồng nam đồng nữ chôn sống theo trong huyền cung có thể thấy Tần vương vốn là kẻ tham lam tàn nhẫn, không đào bới vài gian để dâng lên trời thì thật có lỗi với tổ sư Mô Kim gia truyền rồi!".

    Tôi trấn tĩnh lại, lấy đèn pin ra, chùm ánh sáng chiếu vào quan quách, phiến quách chính giữa gọi là "tử cung", bên trên phủ áo bào thêu mười hai con rồng vàng, bên trong là một khối thủy tinh đặt ngay ngắn. Quan tài vua sau khi hợp táng gọi là "tử cung", Tần vương không phải Hoàng thượng nhưng quan quách và "tử cung" bố trí hoàn toàn theo cách thức "đại hành" của Hoàng đế.

    Khí đen mù mịt bao trùm chính điện, mùi hôi thối bốc lên khiến người ta ngạt thở, ánh sáng đèn pin trên tay tôi không đủ, đuốc lại tắt. Tôi nhớ ra trong hang rồng còn có cây đèn dầu, tương truyền đốt trường minh đăng (đèn thờ cháy suốt ngày đêm) trong hầm mộ không được thắp lên, nếu không lúc mở quan lấy bảo vật sẽ bị chủ mộ nhìn thấy mặt. Tới bây giờ, tôi vẫn không tin chuyện này, liền quẹt diêm đốt cây đèn mạ vàng, hầm mộ sáng lên một chút. Ba người lùi tới dưới đài sen đợi hồi lâu, trong hầm mộ cũng chưa có chuyện gì xảy ra, lúc này bọn tôi mới tiến tới nâng nắp quách, khệ nệ vần sang bên cạnh, dựng thẳng ở cạnh quan quách. Đại điện Tần vương huyền cung tuy lặng ngắt không tiếng động nhưng năm móng rồng vàng trên đỉnh đầu phủ đầy bụi đất tích tụ lâu ngày cũng tạo thành một loại áp lực vô hình khiến người ta cảm thấy lạnh buốt sống lưng, toàn thân nổi da gà.

    Tuyền Béo vén hai tầng áo quan loang lổ nhấc "tử cung" trong quan tài lên, chỉ thấy Tần vương mặc mười mấy lớp cổn long cẩm bào (lễ phục của vua), nằm ngửa ở chính giữa "tử cung", đỉnh đầu đội mũ, mặt to như cật lợn, từng món trân bảo quý hiếm chưa thấy bao giờ được xếp chung quanh tỏa hào quang chói mắt, san hô bảo thụ, bàn thờ Phật mạ vàng, ngọc minh châu, đủ loại vàng bạc ngọc khí nổi lên giữa mảnh gấm thêu rồng rực rỡ, lóe lên ánh huỳnh quang sáng rực. Nhưng ngoài dự đoán của mọi người, hai bên "bánh trưng" đều có một phi tử chôn theo, đều là mỹ nhân ngọc ngà, toàn thân bọc áo niệm, hình long phượng uốn lượn, trên mũ phượng đính đầy trân châu, khi chùm sáng đèn pin chiếu vào, trên mặt liền hiện ra một tầng ánh sáng xanh.

    Răng Vàng cũng không ngờ trong quan quách lại có hai người ngọc, thật là hiếm thấy. Chúng tôi nín thở cùng quan sát những món minh khí kia từng chút một tới hoa cả mắt. Thi thể trong "tử cung" đều bọc áo liệm, phía trên xâu những xâu tiền vàng, chính giữa thêu hình rồng cuộn, chung quanh là sóng nước cùng họa tiết hình dơi, gọi là "phúc hải vô biên", kết hợp với "vạn tự bất đáo đầu* bát bảo cát tường huy**", giữa bánh xe và lọng được viền đá mắt mèo xanh - tổ mẫu của các loại đá quý, lại dùng ngọc minh châu tô diểm, tượng trưng cho trăng sao trên trời, hơn ngàn đồng tiền vàng có lỗ vuông ở giữa đều khắc bốn chữ "tiêu tai duyên thọ" (trừ tai ương, kéo dài tuổi thọ).

    * Vạn tự bất đáo đầu: Vạn tự bất đáo đầu, hay còn gọi là vạn tự cẩm, vạn tự văn, vạn tự quải, vạn bất đoạn, vạn tự khúc thủy đẳng. Là một loại họa tiết hình học mang ý nghĩa cát tường trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, vạn tự bất đáo đầu sử dụng nhiều chữ (卐) nối lại, là loại hình vẽ kéo liên tục ra bốn phương. Trong đó, 卐 - ngụ ý cát tường, "bất đáo đầu" - ngụ ý kéo dài không dứt, vì vậy, "vạn bất đáo đầu" có hàm ý chỉ cát tường không dứt, vạn thọ vô biên.
    – theo wikipedia TQ -

    01


    02


    Họa tiết “vạn tự bất đáo đầu” cơ bản và trên vải.

    ** bát bảo cát tường huy: Hình “bát bảo cát tường”
    Bát bảo cát tường hay còn gọi là “bát thụy cát tường”, gồm tám hình vẽ mang ý nghĩa cát tường thường xuất hiện trong hội họa của người Tây Tạng. (Tám pháp vật này có sự khác nhau giữa các giáo phái, ở đây mình tham khảo Phật giáo, ngoài ra “bát bảo” của Thiên Y phái và Bạch Y phái ở Ấn Độ có khác đôi chút về hình vẽ).
    Trong nhà Phật là tám pháp vật tượng trưng cho cát tường, viên mãn, hạnh phúc, gồm có các hình vẽ: pháp luân (bánh xe), bảo loa (con ốc), pháp tán (cái dù), bạch cái (cái lọng), liên hoa (hoa sen), bảo bình (cái vò), kim ngư (cá vàng), bàn trường (cái chậu).
    Tám hình vẽ này có thể đứng riêng lẻ, cũng có khi hợp thành một thể.
    -theo wikipedia TQ và Baidu-
    03
    “Bát bảo cát tường” đơn lẻ
    04


    “Bát bảo cát tường” hợp thể.

    Hai bên lọng gấm nhét chừng mười đĩnh vàng, năm lượng năm một đĩnh, tất cả mười phần đều là vàng Vân Nam?. Trên người Tần vương treo một hộp bảo, cũng bọc lụa vàng, bên cạnh có tràng hạt, bảo kiếm, ngọc như ý, chén mã não, bình thủy tinh, vàng ròng bạc trắng, đồi mồi lấm tấm, sừng tê giác, ngà voi. Bao nhiêu trân bảo không đếm xuể, có những thứ đừng nói là thấy mà ngay cả nghe nghe cũng chưa từng nghe qua. Theo sử gia nhà Minh ghi lại, châu lấy từ biển, vàng lấy từ Vân Nam, gấm dệt từ Ngô (vùng Nam Giang Tô), tuyệt đối không kém hơn cống phẩm triều đình. Tử cung Tần vương bày đầy vật bồi táng, hàng trăm loại trân bảo phát ra sắc sáng kỳ diệu lóa mắt người.
    Ba người bọn tôi không hẹn mà cùng xoa xoa mắt, chưa từng thấy qua trân bảo nhiều cỡ này, không biết nên hạ thủ từ đâu.

    4
    Tuyền Béo nói: "Hai con mắt Răng Vàng anh vốn không phải chỉ để thông khí, anh đảo một cái xem nên lấy cái gì!."

    Răng Vàng dường như rất sợ kinh động đến Tần vương, nhỏ giọng nói: "Bánh chưng vẫn chưa rữa nát, dường như trong miệng có ngậm châu ngọc..."
    Tuyền Béo nuốt nước miếng một cái: "Tôi có tuyệt chiêu móc cái này, để tôi lấy ra cho mà xem!"

    Răng Vàng nói: "Chẳng qua là ngọc ba ba thôi, thứ đó bị nhét vào miệng mấy trăm năm thì mất hết tinh khí, chẳng ai muốn lấy, lấy ra cũng không đáng tiền. Không phải chúng ta đã nói rồi sao? Lấy gì là do tôi lựa chọn! Tôi đã gặp qua nhiều minh khí, không phải chém gió, trong quan quách chắc chắn còn có vật chí bảo, một thứ có thể đội cả quan tài!" Mặc dù Răng Vàng đã gặp qua không ít đồ tốt, nhưng tử cung Tần vương đang mở trước mắt cũng làm cho hắn hoa cả mắt.

    Anh nói kim nguyên bảo đáng giá, không sai, vàng thật, bạc trắng thì không gạt người, thời kỳ đầu những năm tám mươi, một lượng hoàng kim đáng giá ba vạn tiền. Có điều cổ nhân thường nói "bạc trắng, vàng ròng đủ lượng mới có giá trị". Nguyên bảo đủ lượng phải đúng năm lượng, đúc một đĩnh mà đến năm lượng rưỡi cũng là không vừa vặn - không "đủ lượng". Hơn nữa nguyên bảo có ấn quan nên về cơ bản cũng chẳng làm ăn được gì? Có thể nói, trong toàn bộ minh khí, kim nguyên bảo là thứ rẻ mạt nhất. Lọng rồng, áo gấm mặc trên người đã đáng giá hơn ngàn chỉ vàng, đá quý viền nạm bên trên khó mà đếm xuể, huống chi chỉ có trong lăng vua mới có lọng rồng, đổi bao nhiêu nguyên bảo cho vừa? Hộp báu trước ngực Tần vương, mặc dù chưa mở ra xem nhưng cũng có thể đoán được, thứ trong đó chính là thụy bảo, phong sách - tương đương với ấn tỳ của Tần vương, nhưng không giống với ấn tỳ, thụy bảo là để người chết mang xuống Âm phủ dùng, bên trên có ban tên thụy. Chỉ nói riêng về giá tiền, lọng rồng bọc xác đã đáng vạn tiền nhưng cũng không thể bằng ấn tỳ. Có điều đối với người trong nghề mua bán minh khí như Răng Vàng, tràng ngọc bên người Tần vương không cần nhìn cũng biết, đây chính là sơn long châu ngàn năm, tuyệt đối là tuyệt phẩm, nếu như trước kia, một hạt châu trong chuỗi cũng có thể đổi lấy một tòa nhà, cả một chuỗi...vậy giá trị tới đâu? Ấn tỳ đáng giá nhưng không thể bán ra, tràng ngọc vừa dễ lấy, lại đáng tiền...

    Tôi lo tình hình có biến, cây nến không tắt thì không lo, đằng này gà gáy đèn tắt phải mau chóng thoát thân, nhưng thấy Răng Vàng càng xem càng lấn cấn, do dự không quyết, tôi nóng lòng tìm vị trí giếng vàng, sợ đạp phải trân bảo trong quan tài, đành cất đèn pin, đeo dù kim cương trên lưng, tung người nhảy vào tử cung, nhưng vừa ngẩng đầu liền phát hiện mặt xác chết biến đổi! Gương mặt to đùng trong tử cung đã biến thành màu xám tro, da thịt co rúm lại, móng tay dài ra dị thường. Chuyện trộm mộ mở quan lấy bảo, cương thi bật dậy nhào tới - tất cả đều chỉ là truyền thuyết dân gian dọa người. Thật ra lúc mở quan, thấy xác chết biến đổi đa phần vì quan quách bảo quản thi hài quá tốt. Tôi nhìn chăm chú vào bánh trưng trong quan quách một hồi, không biết có phải nhìn lầm hay không mà mặt của lão bánh trưng khẽ động một cái, như muốn mở miệng hàn huyên. Tôi cảm giác chân tóc dựng hết cả lên, rùng mình vội nhảy ra khỏi quan quách, gọi Tuyền Béo với Răng Vàng coi chừng, đừng đứng quá gần.

    Tuyền Béo nghểnh cái cổ dài, chỉ chăm chú nhìn những đồ minh khí trong quan quách: "Thần kinh của anh không nên quá mẫn cảm! Lúc trước tôi thổi vài hơi mà râu lão bánh chưng đã động mấy cái, huống chi anh còn nhảy tưng tưng ở đấy!"

    Răng Vàng chỉ tấm lụa vàng bọc xác, bảo: "Đừng để ý đến bánh chưng làm gì! Tôi nhìn kỹ rồi, không nên lấy những thứ khác, trong số minh khí này, phải nói đáng giá nhất là thụy bảo! Không phải Thiên tử thì không thể dùng thứ đó, từ chư hầu trở xuống không được động vào!", hắn vừa nói liền thò tay ra lấy, nhưng vừa kéo tấm lụa vàng lộ ra áo gấm che thi thể, bên dưới lại có một bàn thờ Phật mạ vàng, chính giữa phía cuối bàn thờ Phật là một tượng Phật ngọc, chính giữa vỏ sò ngọc có một tượng Phật, vỏ ngoài gần như đã hóa ngọc hết, như thật như giả, mà càng nhìn lại càng thấy thật. Bàn thờ Phật khảm bát bảo kết hợp với Phật bằng ngọc phỉ thúy ngồi bên dưới, trên dưới cách nhau một thước. Phật tổ ở vỏ sò ngọc có mặt mũi an tường, hồng hào tự tại, lòng bàn tay hướng lên trên đặt bên trên chân trái phát ra ánh sáng long lanh trong suốt.
    Răng Vàng thấy Phật trân châu, bất giác toàn thân phát run, nước miếng trào ra: "Đây mới là bảo vật vô giá! Thụy bảo là đồ mang đi Âm phủ, chưa chắc có người dám xuất tiền, mà cho dù có người dám xuất tiền cũng chưa chắc đã dám gánh trách nhiệm, không giống Phật trân châu phỉ thúy này!" Hắn vừa nói vừa tiến về phía trước, chúi cái đầu to nhào vào quan tài, đèn pin cũng ném xuống đất, ôm lấy Phật trân châu: "Lão Phật ơi!!! Răng Vàng ta cũng là người số khổ, ba đời làm trâu làm ngựa vắt cạn mồ hôi mà sống qua ngày, đến hôm nay được thành chính quả, ta nên cúng ngài cái gì mới tốt đây?"

    5
    Tôi với Tuyền Béo nhìn tới ngây cả người, nếu không phải Mã Lão Oa Tử chôn sống bọn tôi trên núi, có thể bọn tôi sẽ không tới được đây, không ngờ vẫn còn đủ ba cái mạng, thật là nhân họa đắc phúc, lấy được một tượng Phật trân châu phỉ thúy thế này, từ nay trở đi lời ăn tiếng nói cũng có chút trọng lượng rồi.

    Tuyền Béo nói: "Mẹ kiếp! Xem Răng Vàng anh có ra cái hồn người gì không? Tôi thấy anh cả đời này được bãi phân cũng phải dốc hết lòng mề ra! Đừng có động cái là ngã ngửa ra đất như thế, nhanh lên cho tôi!"

    Răng Vàng không buông nổi, hai tay nâng Phật trân châu mà nói với Tuyền Béo: "Béo nhà anh cho dù không tin thì tôi cũng phải nói, lần này tôi đúng là “chó chui ống khói" (ý nói rất khó khăn mới gặp được)! Nhìn xem đây là cái gì? Tôi có moi cả họ hàng tổ tông mấy đời ra cũng không moi được ra thứ này! Không phải tôi huênh hoang nói khoác, Răng Vàng tôi ăn chén cơm này không dưới hai mươi năm, minh khí qua tay tôi không mười thì cũng phải được tám ngàn. Các người có thấy đôi tay này hay không? Tay này gọi là tay bắt bảo, minh khí chỉ cần đến tay tôi thì coi như là lấy keo 502 mà dính vào..." Lời còn chưa dứt, sắc mặt hắn bỗng biến đổi, Phật phỉ thúy trân trâu trên tay rớt xuống.
    Tôi không hiểu tại sao Răng Vàng lại đột nhiên thất thủ, có điều Mô Kim trộm mộ, ăn cơm dương thế mà làm việc âm ti, có quỷ mới biết sẽ gặp phải những rắc rối gì, chỉ thấy hai tay hắn vừa buông, Phật trân châu liền rớt ngay xuống, tôi đứng đối diện hắn muốn đỡ cũng không kịp.
    Tuyền Béo kêu to một tiếng: "A di đà Phật!" - chưa dứt lời đã lao tới, thân thủ mau lẹ chưa từng thấy, trong lúc ngàn cân treo sợi tóc nhào lên chụp lấy, vừa vặn đỡ được Phật trân trâu phỉ thủy rớt từ tay Răng Vàng.
    Tôi thầm hô một tiếng "Nguy hiểm thật", giơ tay lau trán đầy mồ hôi lạnh, lại thấy Răng Vàng không nhúc nhích, mặt hóa đá, ánh mắt vừa hong mang vừa kinh ngạc.
    Tuyền Béo giận không làm gì được, nếu không phải tay còn đang nâng Phật chân trâu phỉ thúy, thế nào cũng đập Răng Vàng ngã ngửa.
    Nếu như bình thường, Răng Vàng sẽ sớm kiếm cớ chối lủi, nhưng hiện giờ hắn lại không nói tiếng nào, ánh mắt kinh hoàng, hai mắt đăm đăm nhìn thẳng vào quan quách.
    Tôi vừa lo không biết có chuyện gì thì đã nhanh chóng nhận ra, nếu nói ở đây có thể sinh biến tôi sẽ không thấy bất ngờ, liền móc ra một cái móng lừa đen, theo ánh mắt Răng Vàng nhìn xuống – Lão Tần vương nằm trong quan quách, chẳng biết đã há hốc miệng từ bao giờ!
    Tôi cũng sợ hết hồn, ra ngoài mang theo móng lừa đen hoàn toàn chỉ đơn giản là để lấy tinh thần, không mấy khi thật sự cần dùng đến, lúc ấy tôi không kịp nghĩ nhiều liền vung tay ném cái móng lừa đen, thấy ném trúng liền tự thưởng cho mình một tiếng "tốt"!
    Không ngờ móng lừa đen trúng phải đầu Tần vương nứt ra một chút, Tuyền Béo vừa bò dậy từ phía đối diện, mới ngẩng đầu lên móng lừa bay thẳng vào mặt hắn.
    Tuyền Béo mắng: "Tiên sư nhà anh lão Hồ, móng lừa đen để ném người sống à? Có biết tới tận bây giờ trên đời còn chưa có ai bị móng lừa đập chết không, có phải anh muốn tôi phá kỉ lục không thế? Tôi dù có lên trời ba bận chín ngày uống nước lạnh, từng ngụm từng giọt cũng phải ghi tạc anh trong lòng!"
    Tôi không kịp nói nhiều, lại lôi ra một cái móng lừa đen nhét vào miệng bánh trưng.
    Tuyền Béo nói: "Vội vội vàng vàng giở cái trò quỷ gì thế?"
    Tôi nói: "Anh từng thấy người chết mở miệng chưa?"
    Tuyền Béo nói: "Có quái gì? Người chết đánh rắm tôi còn gặp rồi!"
    Lời vừa dứt, trong miệng Tần vương khạc ra một đám lửa ma trơi, lúc xanh lúc vàng.
    Những năm trước, thường có lời đồn về ma trơi tấn công người, tương truyền đó là đèn lồng của lão Diêm Vương, người sống mà bị ma trơi tấn công coi như là đụng phải Diêm Vương. Kể cũng lạ, ma trơi giống như vật sống, lơ lửng phía trên quan quách. Theo truyền thuyết mê tín ngày trước, đèn lồng của Diêm Vương là oán khí của người chết, khi gặp ở nghĩa địa thường đuổi theo người, bạn chậm nó cũng chậm, bạn chạy nó cũng chạy.
    Bình thường ma trơi thường xuất hiện ở mộ phần, bờ sông, bãi đất hoang, những chỗ đó nửa đêm phần lớn sẽ có một ít lân quang chợt sáng chợt tắt, dân gian gọi đó là ma trơi. Nhưng đèn lồng của Diêm Vương lại không giống, đó là oán khí ác quỷ vồ người. Không giống lửa bình thường, âm hỏa này gặp cái gì liền thiêu cái đó, dính lên da có thể cháy tới xương. Một khi để âm hỏa đụng vào người, dập cũng không dập được, che cũng không che được. Đèn lồng của Diêm vương mặc dù cũng gọi là ma trơi, nhưng thực ra là lửa nấp dưới mộ. Ma trơi rất nhẹ, trong mộ lại không có gió, người đi vào sẽ kéo theo khí, lửa quỷ bèn đuổi theo người. Mộ chủ hạ táng trong huyền cung, nhất định trong thi thể có phốt pho. Nếu kẻ trộm mộ mở quan quách ra mà gặp ma trơi thì không thể không trốn, nhưng anh chạy càng nhanh, ma trơi đuổi càng sát!
    Tôi với Tuyền Béo biết lợi hại vội cúi đầu xuống. Răng Vàng lại giống như chim sợ cành cong, xoay người tính chạy, nhưng chân nam đá chân chiêu, như ba ba gặm dưa hấu - lăn một vòng. Tôi liền túm hắn lại, đè xuống bảo đài. Ma trơi phun ra từ thi thể đột nhiên mất hút, trường minh đăng trên hang rồng không tắt, vẫn phát ra ánh sáng leo lắt nhưng đã tối đi rất nhiều so với vừa rồi, xung quanh toàn một màu đen nhánh.

    Răng Vàng nằm trên đài sen ôm đầu:"Hồ gia.... Bánh chưng chui ra...!"
    Tôi thấy bốn phía không có gì bất thường, nghĩ rằng hắn thần hồn nát thần tính, không để ý.
    Tuyền Béo ôm Phật phỉ thúy, vòng qua tới chỗ tôi nói: "Thằng oắt Răng Vàng này, thật là đồ bỏ đi, nếu không nhờ tôi nhanh tay lẹ mắt đỡ để thứ này rơi xuống đất thì anh có khóc tới chết cũng không có chỗ chôn!"
    Răng Vàng ôm lấy chân tôi, nói rằng hắn thấy bánh trưng khoác áo quan từ đài ngọc chui ra, vô cùng chân thật!
    Tôi vừa nhìn vào quan quách một cái, dưới ánh sáng thâm u của trường minh đăng mặt lão bánh chưng một màu tro tàn, hình rồng thêu trên áo quan cũng mất đi sắc thái, tựa như bị phủ một lớp bụi đất vậy.
    Tuyền Béo nói: "Anh gặp quỷ à? Cái này không phải vẫn còn ở đây là gì? Lão Hồ, bây giờ có phải di chuyển lão bánh chưng qua chỗ khác không?"
    Tôi nói: " Giếng vàng ở đáy quan quách, không đẩy Tần vương ra thì sẽ không xuống được..." Đang nói tới việc rời xác, nhưng nhìn Phật trân châu trong tay Tuyền Béo tôi lập tức giật mình! Lúc mở quan quách ra, rọi đèn pin thấy tượng Phật phỉ thúy trân châu lung linh tuyệt trần như thế, vừa mới ôm ra tại sao lại thấy không còn lộng lẫy mà giống một mớ bùn nhão vậy?
    Từ xưa truyền lại một câu - "Người sống không ăn cơm người chết", ý là kẻ gian trộm mộ vào cổ mộ, có thể thấy trái cây điểm tâm tòng táng, qua trăm ngàn năm vẫn không mục nát, nhìn vậy nhưng lại không thể ăn, ăn vào sẽ giống như ăn đất, mê tín mà nói thì là những thứ đó đã bị quỷ ăn rồi. Thực tế thì là bởi đã trải qua thời gian quá lâu, mặc dù trong mộ khép kín, khiến cho bề mặt của chúng không biến dạng nhưng thực tế đã chẳng khác gì bụi đất rồi.
    Không chỉ có trái cây điểm tâm trong mộ giống như bị quỷ ăn mà tơ lụa cùng hoa văn họa tiết cũng thế, sau khi quan quách bị mở ra thì chẳng mấy chốc chúng cũng trở nên u ám, mà Phật trân châu chẳng biết tại sao cũng mất vẻ rực rỡ, cầm trên tay còn nặng như chì, vẻ lộng lẫy của trân châu cũng không còn. Tôi còn tưởng do trường minh đăng quá tối nên không nhìn rõ, lại lấy đèn pin chiếu qua - vẫn giống như bùn đất vậy.
    Tuyền Béo nóng nảy hỏi tôi: "Lão Hồ, vừa rồi vẫn còn là tượng Phật trân châu, làm sao bây giờ lại giống như bùn đất rồi?"
    Tôi nói: "Trong mộ thất tối lửa tắt đèn, có phải là anh ôm nhầm rồi không?" Lời vừa thốt ra, tôi lại cảm thấy không đúng, minh khí đáng tiền như vậy, Tuyền Béo có thể sơ xuất được sao? Huống chi hắn căn bản cũng không buông tay, không thể nói là nhặt nhầm được.
    Răng Vàng bảo: "Lão béo, tôi biết!!!!"
    Tuyền Béo nói: "Mẹ kiếp! có cái rắm gì thì mau phun ra!"
    Răng Vàng nói: "Chắc chắn là đã bị quỷ mang đi âm phủ rồi!"
    Tuyền Béo nói: "Anh thì biết cái rắm gì! Mẹ nó ăn cơm người mà không chịu nói tiếng người!"
    Răng Vàng nói: "Không tin thì anh thử nhìn lão bánh chưng xem, áo liệm, minh khí đều giống như bị phủ một tầng đất rồi, phủi không hết, thật ra thì không phải bị bụi đất che phủ, nói trắng ra thì là có hình mà không chất!"
    Tôi nói: "Không đúng, nếu như có hình không chất thì anh sẽ không thể sờ được vào minh khí. Đằng này không chỉ Phật trân châu mà toàn bộ minh khí xung quanh vẫn chạm vào được nhưng tựa hồ đã mất đi cái gì đó, có điều tôi nhất thời chưa tưởng tượng ra là cái gì."
    Tuyền Béo vỗ đầu một cái: "Nếu nói là mất đi cái gì thì chính là mất đi hào quang vậy!"
    Hết thảy những thứ chung quanh này giống như đã già đi một lớp bụi trần, cả trường minh đăng trên am rồng cũng vậy. Ánh sáng đèn pin càng lúc càng mờ, tôi đưa tay chạm thử một cái, trường minh đăng trên am rồng mặc dù không tắt nhưng đèn đuốc lạnh như băng, có thể thấy Tuyền Béo nói cũng không đúng.
    Răng Vàng cả kinh nói: "Chết!"
    Tuyền Béo hỏi hắn: "Chết? Chết mà anh còn mở miệng được à?"
    Răng Vàng nói: "Tôi ném gạch dẫn ngọc *, như vậy mà hai người vẫn không hiểu gì sao?"

    * Ném gạch dẫn ngọc: Gợi ý vấn đề để lôi cuốn mọi người vào cuộc tranh luận. Dựa theo tích Thường Kiến rất hâm mộ thơ Triệu Hổ, biết Triệu sắp đến vãn cảnh chùa Linh Nham, Thường bèn đến trước đề hai câu thơ. Hôm sau, Triệu đến, thấy bài thơ dở dang, liền đề thêm hai câu nữa, thành một bài thơ tứ tuyệt rất hay.

    Tôi ngẩn người, ý tứ của Răng Vàng rất đơn giản, người chết với người sống khác nhau chỗ nào? Người sống so với người chết - hơn nhau một hơi thở, một giọng nói. Nếu như không có giọng nói, không nghe được thì gọi là người chết, không thể nghe nói thì chỉ là một đống thịt. Người phân sống chết, đồ vật cũng chia sống chết, bảo đài, quan quách, minh khí, đèn đuốc, thi thể, tất cả mọi thứ mất đi ánh sáng cùng sắc thái, tất cả như nặn từ bùn đất, không phải là mất cái gì, mà hết thảy - đều là chết hết!
    Tuyền Béo nói: "Ném gạch dẫn ngọc cái con khỉ? Thắp hương gọi quỷ thì có!" Trên mặt hắn bị cái móng lừa đen ném trúng lỗ mũi vẫn còn đang rỉ máu nhưng dường như vẫn chưa hiểu ra, vừa hùng hùng hổ hổ, vừa thả Phật chân trâu xuống, máu nhỏ xuống tay tôi.
    Tôi nâng mu bàn tay lên, không nhìn ra màu sắc, dùng đầu lưỡi liếm một cái, lại không thấy giống máu, máu gà ngọt, máu chó tanh, máu người mặn, máu Tuyền Béo không có bất cứ mùi vị gì. Tôi chột dạ, vội lấy đèn pin rọi qua, ánh sáng ảm đạm vừa chiếu một cái, chỉ thấy gương mặt Tuyền Béo đã giống như tro tàn, cúi đầu nhìn Răng Vàng giống hệt như thế, cũng giống hệt bánh chưng!
    Răng Vàng nói: "Hồ gia! Chúng ta thành ngọn đèn hết dầu rồi (ý là đã chết)!

    Tôi nói: "Anh còn chưa chết bao giờ, sao biết chết là thế?"
    Răng Vàng nói: "Mặt người sống không giống vậy, đây chẳng phải là bánh chưng trong quan tài sao?"
    Tuyền Béo nói: "Lão Hồ, mặt mũi anh thế này sắp thành bánh chưng rồi!"
    Tôi nói: "Không cần để ý tôi, anh cũng thế!"
    Tuyền Béo nói: "Tôi làm sao lại như thế được?"
    Răng Vàng nói: "Tôi nói hai người còn không tin, ác quỷ đã hút hết sức sống trong huyền cung này rồi!!"
    Tuyền Béo nói: "Mẹ kiếp, mồm anh thôí vừa thôi, há miệng ra là quỷ?"
    Răng Vàng nói: "Anh không thấy sao? Lão bánh chưng khạc ra một miệng oán khí, đấy không phải là ác quỷ bao vây huyền cung à?"
    Tôi nói: "Thứ lão bánh chưng phun ra là ma trơi, cũng chỉ lập lòe sáng rồi tắt, mê tín mà nói thì là đèn lồng của Diêm Vương, thật ra là lửa nấp trong mộ thôi." Lẽ ra trước đây tôi không nên nói cái gì mà ngũ quỷ quấn thi, khiến cho Răng Vàng nghĩ ngợi lung tung, nhưng hắn cũng nói trúng một chút, từ lúc chúng tôi bị Mã Lão Oa Tử chôn sống, lạc vào huyền cung chín tầng, mở quan quách, phía trên đỉnh cao là năm móng rồng vàng, nhưng sau khi mở quan quách, trong điện tràn ngập sương khói mịt mù, ánh sáng càng lúc càng mờ, cho dù đốt trường minh đăng cũng không thấy được rồng vàng ngậm châu trên nóc điện. Tôi ngồi dậy, đứng lên trên bảo đài, mở đèn pin rọi một cái, rồng vàng năm móng trên đầu há miệng kỳ quái, giống như một cái lỗ lớn âm u đáng sợ, dương khí đều bị nó hút vào!



     
  5. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,686
    Mô Kim Hiệu Úy Cửu U Tướng Quân
    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng
    Chương 5: Cửu U Tướng Quân .

    Người dịch: Đinh Thảo, Lưu Hà
    Nguồn: Lachoncoc






    1
    Tôi định chạy nhưng hai chân lại không thể cử động được chút nào, vội móc ra một cái móng lừa đen, dồn sức ném lại. Lúc trước tôi có nói, trong truyền thuyết dân gian móng lừa đen chỉ dùng để ném cương thi, không đối phó nổi ác quỷ! Có điều tới nước này rồi, tôi không thể để ý nhiều thế, trên tay có gì là ném tất!

    Móng lừa vừa rời khỏi tay, tôi đột nhiên nhận ra, bảo châu mà con rồng vàng đang ngậm trong miệng kia là Hiên Viên kính, tọa bên dưới đích thị là chân long thiên tử. Truyền thuyết kể rằng, rồng vàng năm móng còn gọi là "Bệ", Hoàng đế ngồi ở bên dưới, vì vậy gọi là Bệ hạ. Tuy nói truyền thuyết dân gian không thực sự đáng tin, nhưng dân đạo mộ lão luyện đều biết, rồng vàng ngậm châu vốn không thể đụng vào!

    Tục truyền Hiên Viên Kính hội tụ long khí, làm vỡ Hiên Viên kính không khác gì phá vỡ long mạch. Mượn ánh sáng của đèn pin và trường minh đăng phản chiếu qua Hiên Viên kính, tôi mơ hồ dõi ánh mắt thẳng vào gương mặt lão bánh chưng, cái miệng rộng kia đang ngoác ra như muốn nuốt sạch ánh sáng của đèn pin. Tôi mới nhìn qua, cảm giác toàn thân cũng giống như đang bị nó hút vào.

    Hồi đó tôi vẫn còn chưa biết, theo kinh Phật truyền lại, thời cổ đại có một loại "Ma ni bảo thạch", ánh sáng và sóng điện từ chiếu vào bảo thạch sẽ luôn bị khúc xạ bởi mặt cong của nó. Hiên Viên kính có thể cũng có một viên "Ma ni bảo thạch" như vậy, người ở bên dưới rồng năm móng ngậm Hiên Viên kính, sóng điện não sẽ bị Ma ni bảo thạch hấp thu, giác quan nhanh chóng suy yếu, ngộ tưởng màu sắc xung quanh, cảm nhận về ánh sáng, mùi vị cũng dần dần mờ nhạt, cho tới lúc chỉ còn thân phơi trên đất. Lúc đó tôi cứ nghĩ rằng nguyên nhân là do đã gặp âm hồn trong huyền cung, không mảy may nghi ngờ Hiên Viên kính vung tay ném bừa móng lừa đen, chợt nghe trên đầu "Rắc" một tiếng!

    Dường như cùng lúc đó, trường minh đăng trên ang rồng, ánh sáng đèn pin, tranh vẽ trên quan quách hết thảy đều khôi phục vẻ nguyên trạng. Hiên Viên kính trong miệng rồng vàng năm móng trên đầu nứt ra một rãnh, thủy ngân đen từ trong đó chảy ra, rót vào quan quách, thi thể và cả minh khí. Trong mộ cổ thường có thủy ngân, thứ nhất là để phòng thối rữa, hai là chống trộm, minh khí dính thủy ngân sẽ xuất hiện những vệt đen, trắng hoặc xám, bị như vậy gọi là bị ngâm thủy ngân hay vệt thủy ngân, không làm sao tẩy sạch đi được. Đồ vật minh bạch đương nhiên sẽ không có vệt thủy ngân. Vật có vệt thủy ngân, không cần hỏi cũng biết, mười thứ thì có tới hai ba thứ là từ hầm đất mà ra. Vì sao lại nói là mười thì có hai ba? Vì bảy tám thứ kia là do người ta cố ý làm giả, gọi là cổ vật thủy ngân, khác với cổ vật gia truyền, đa số người bình thường không muốn vớ phải cổ vật thủy ngân vì cảm thấy xui xẻo.

    Rồng vàng ngậm châu trên quan quách vừa nứt ra, bụi đất, đá vụn thi nhau rơi xuống. Răng Vàng sợ vỡ mật, lăn từ trên đài xuống, đứng bật dậy định chạy nhưng lại đụng đầu vào cột trụ, trán toác ra, ngất xỉu tại chỗ. Tôi cùng với thằng béo còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì từ dưới cửa điện cẩm thạch nước đen đã "ùng ùng" trào ra, chẳng mấy chốc đã ngập quá chân tới bụng. Tôi thấy tình hình này quả thực có gì sai sai, dồn sức lay lay Răng Vàng, có điều hắn vẫn không mảy may nhúc nhích, trên đất toàn là máu. Thằng béo nói: "Nước dâng nhanh quá, chạy nhanh thôi!"

    Người đời đều nói trong quan quách đất dày nước sâu, nhưng không phải không có suối ngầm, có điều nước suối cực sâu. Theo mô tả từ xưa, một khúc suối dài ba mươi trượng, huyền cung chín tòa thâm sâu ít nhất cũng phải có tới ba khúc suối. Có lẽ trong huyền cung còn có tòa điện dưới nước, kim long ngậm châu trên nóc điện nứt ra khiến cho nước trào ra nhấn chìm quách thất. Đây chính là cửa tử trong mộ huyệt của huyền cung. Chẳng mấy nước đã dâng quá đỉnh đầu, dù anh có tài bơi lội tới đâu cuối cùng cũng khó sống.

    Bọn tôi lôi Răng Vàng như lôi chó tới bảo đài bên kia. Mới có một lúc mà nước trong quách thất đã ngập tới eo. Bảo đài đặt quan quách chỉ cao ba thước, chưa kịp trèo lên đã ngập. Tôi nhớ hậu thất còn có một con bí hý * cõng tấm bia không có chữ, cao hơn nhiều so với bảo đài trong phòng, bên trên đó có đào một đường ngầm. Tôi vội vàng cùng Tuyền Béo đang vác Răng Vàng trên vai, lội nước vào hậu thất.

    * Bí hý: Một loại động vật trong thần thoại, giống rùa. Xưa các bệ đá thường khắc hình con này.

    Tôi dùng cả tay lẫn chân leo lên con rùa cõng bia kia, lại dùng dây kéo Răng Vàng lên. Chỉ chớp mắt, nước đã dâng qua cửa động sau. Tuyền Béo bơi bì bọp trong nước, còn định quay lại quách thất lấy thêm mấy món minh khí nhưng nước dâng quá nhanh, hắn cũng không làm sao vào được, đành phải leo lên bia đá. Hai người một trước một sau chui vào cái vòm trên đỉnh hầm rồi kéo Răng Vàng bò về phía trước. Thường có câu "Người có lúc nghịch thiên mà thiên thì không tuyệt đường sống của người", mặc dù đường ngầm chật hẹp nhưng vẫn vừa vặn để người chui qua, xuyên qua ba tầng vòm đá lại tới một cái động đất, bò chưa được bao xa thì đất dưới chân bỗng nhiên sụp đổ. Vòm đất lén đào trong mộ cũng không hề vững chắc, phía dưới là hố sâu, sụp xuống một cái, ba người cùng rớt xuống, rơi vào một vùng nước đen mịt mờ. Tôi vừa nhận ra mình bị rơi vào nước, nước lạnh lẽo thấu xương, vội vàng nhắm mắt trụ khí, nhờ vào áo da chuột có thể tránh nước tránh lửa ngăn khí lạnh xâm nhập cơ thể, có điều túi hành trang cùng với dù kim cương trên lưng đang càng lúc càng kéo tôi chìm sâu xuống.

    2
    Nước sâu không thấy đáy, tôi không còn thấy Tuyền Béo với Răng Vàng đâu, đèn pin cũng không biết rơi mất ở đâu, chung quanh tối mù đen kịt. Tôi thầm nghĩ: "Chắc chìm thẳng xuống tới long cung làm mồi cho ba ba mất thôi!" Tôi định giãy bung túi đồ trên lưng ra để nổi lên thì dòng nước lại cuốn lấy, hai tay tôi dần mất đi sức lực càng lúc càng chìm sâu hơn trong nước.

    Đang nghĩ cách thoát thân, tôi đột nhiên cảm thấy dường như có người đang kéo căng túi trên lưng tôi, gấp gáp kéo tôi lên trên. Tôi giật mình kinh hãi: "Ai lại có tài bơi lội tốt như vậy?"

    Lúc ấy trong lòng tôi vô cùng ngạc nhiên, hoảng sợ, uống mấy ngụm nước, trong lúc sinh tử, ý thức đều mơ hồ hỗn độn, vạn vật như có như không, nửa sáng nửa tối, quên mình tồn tại, cũng quên luôn bản thân đang ở nơi nào, không nhận biết được xa gần trên dưới.

    Đang lúc kinh hoảng tột độ, tôi bị một nguồn lực cực mạnh kéo ra khỏi mặt nước, thoát khỏi cảm giác lạnh cứng như băng bên dưới, tôi hít sâu một hơi cố làm cho mình tỉnh táo trở lại, lôi đèn pin dự phòng chiếu về phía sau một cái, chỉ thấy một vật giống như ngoan đà*, miệng như móc câu, lưng như thanh kiếm, không nhỏ hơn cái bàn bát tiên** bao nhiêu, nó đang ngoàm cái túi trên lưng tôi, ra sức cắn xé. Tôi thuận thế lăn một vòng cởi cái túi đeo trên lưng và dù kim cương ra, đặt dựa vào vách, hai chân đạp vào lưng ngoan đà, dồn sức đạp nó xuống nước.

    * Ngoan đà: Một loài giống cá sấu.
    ** Bàn bát tiên: Bàn vuông to, mỗi phía ngồi được hai người.

    Ngoan đà ở dưới nước rất khỏe nhưng ra khỏi nước lại vô cùng chậm chạp, nó vừa ngoạm cái túi hành trang lặn xuống, chợt nghe tiếng nước vang ào ào, tôi còn tưởng lại xuất hiện thêm một con nữa, thầm kêu khổ, nhặt dù kim cương, liền thấy một chùm sáng bắn tới, hóa ra là Tuyền Béo với Răng Vàng. Hồi nãy rơi xuống, Răng Vàng bị ngâm nước lạnh, khôi phục lại tri giác, hắn với Tuyền Béo ôm một khúc gỗ mục dập dềnh trên mặt nước, thấy bên này có ánh sáng đèn pin liền bơi tới tụ họp. Hố huyệt tuy sâu nhưng đỉnh núi bị nứt toác, lại bị nước lũ đánh tới, không khó tìm được đường ra. Tôi cùng với Tuyền Béo kéo Răng Vàng quay lại đường ngầm đã bị sụp, chịu đựng bụi đất xộc vào mặt bò về phía trước, cùi chỏ tróc hết da, bò ra một rãnh đất dưới núi. Mưa tạnh gió ngừng, trời vừa tờ mờ sáng. Tôi nằm trên đất, miệng há to phì phò hít từng ngụm không khí. Nửa đêm Mã Lão Oa Tử đẩy chúng tôi xuống Tần vương huyền cung, mà khi chúng tôi từ động đất chui ra bên ngoài trời mới vừa sáng, mới chỉ qua vài giờ ngắn ngủi, mà dường như đã qua kiếp luân hồi. Ba người lê từng bước qua khỏi rãnh đất, sắc trời đã sáng trưng, toàn thân trên dưới toàn là máu cùng bùn đất, quần áo rách nát rê rưới.

    Phía trên khe đất có mấy hộ gia đình, sau khi hỏi thăm một người chăn dê chúng tôi biết được ở đây là Bát Đạo Lương, cách cửa điện hơn ba mươi dặm đường núi.
    Ba người chúng tôi bàn bạc một chút, có thù không báo không phải là quân tử, đương nhiên không thể bỏ qua cho Mã Lão Oa Tử!
    Tuyền Béo nói: "Tóm lão lừa này, không nói hai lời ném hắn vào quan tài!"
    Răng Vàng nói: "Mã Lão Oa tử coi minh khí quý hơn cả tính mạng, anh cướp minh khí của hắn tức là đoạt mạng hắn rồi!"
    Tôi gật đầu đồng ý: "Đập hắn một trận, sau đó cướp đi minh khí là trị được cái miệng thối của hắn, không cần thịt hắn, chúng ta không phải thổ phỉ, đầu người cũng không phải rau hẹ, lấy đầu hắn rồi sau này khó hành sự, không thể lấy mạng hắn được."

    Nói là phải tới cửa điện tóm Mã Lão Oa Tử, nhưng cóc nhảy ba bước còn phải nghỉ huống chi là người? Ba người vừa mệt vừa đói, không lấp đầy bụng không đi được đường núi, túi hành trang của Răng Vàng bị mất, tôi với Tuyền Béo cũng không sẵn tiền trên người. Nhìn gà qué mấy hộ dân ở đây nuôi chúng tôi thèm dỏ rãi, ở sơn cốc gà không nhiều, gà trống để gáy, mái thì phải đẻ trứng, đều cần thiết cả, cho tiền người ta cũng không bán huống chi là không trả tiền.

    Tuyền Béo nói với tôi: "Anh với tôi còn đỡ, bữa đói bữa no không đáng ngại, nhưng Răng Vàng đã bị dày vò mất nửa cái mạng, nhìn sắc mặt hắn nửa sống nửa chết thế kia, chẳng khác gì cây cà gặp mưa đá, anh còn không cho hắn chút gì ăn có lẽ hắn quy tiên mất!"

    Tôi nói: "Nhìn Răng Vàng thế này không uống cháo gà thì không xong, năm đó bát độ quân đánh bọn quỷ Nhật xâm lược, cho dù bị thương nặng thế nào, sau khi về quê, uống xong một bát cháo gà, thương thế đều đỡ, hôm sau lại ra tiền tuyến."

    Tuyền Béo nói: "Cũng không hẳn, phải nói cháo gà ấy là gà béo ở quê, hầm lên ra được một tầng mỡ chẳng phải cực phẩm sao!"
    Răng Vàng lau nước miếng nói: "Ai mà chẳng biết cháo gà là tiên, có điều vấn đề không phải là không có tiền sao? Ban ngày ban mặt vào thôn cướp đoạt không sợ người trong thôn liều mạng xông ra xử chúng ta à?"

    Tuyền Béo nói: "Có bị thiệt thòi cũng do anh mà ra cả, dân làng ở đây giữ gà còn hơn giữ mạng, mộ tổ dễ đào, ổ gà thì khó bới, vì chén cháo gà cho anh mà tôi phải mang tính mạng ra đùa bỡn. Nếu không thì chẳng lẽ tôi phải giả mạo cán bộ xuống thăm thôn quê, rồi nói xe bị rơi xuống rãnh hả?"

    Tôi nói: "Anh thôi lèo xèo đi, hai người cùng một hố chui ra hả, hai tên đầu heo các anh mà đi đảm bảo chưa kịp vào thôn đã bị thôn dân đuổi ra ngoài rồi."
    Tuyền Béo nói: "Tôi còn một tuyệt chiêu, cạy răng vàng của hắn, tìm thôn dân đổi mấy con gà."
    Răng Vàng vội xua tay nói: "Thôi thôi lạy bố! chưa nói có đổi được hay không, răng vàng này là mạng của tôi! Răng Vàng tôi không có răng vàng còn gọi là Răng Vàng được không?"
    Tuyền Béo nói: "Mẹ kiếp! Không ăn gà thì anh cung không sống nổi, anh tình nguyện chết ở cái khe núi chó ăn đá gà ăn sỏi này à?"
    Tôi nói: "Haizz! Cũng bởi nghề chúng ta hành sự không thể chọn chỗ, gặp đường chết thì đành chịu chôn xác trên đường, chết trên núi thì làm mồi cho sói, chết dưới chân núi cũng để chó ăn!"

    Răng Vàng đáp : "Chính là như vậy - thật là "Xương trắng chất chồng như núi, thân tan tựa sóng trào".
    Tuyền Béo nói: "Lạy bố, còn sức mà văn vẻ nữa! Tôi nói trước với anh, tôi cũng đói chết rồi, không có sức mà đào hố chôn anh đâu!"

    Răng Vàng nói: "Hồ gia, không ăn cháo gà thì không được, ba người chúng ta thiên tai nhân họa gì mà chưa từng trải, đối diện bao nhiêu sóng to gió lớn, chín chín tám mươi mốt nạn cũng qua thẳng rồi, chung quy không thể không qua nổi kiếp nạn này phải không?"

    3.
    Tôi nói: "Sơn cùng thủy tận không giống nơi khác, khó tìm được thức ăn, mấy con dê trên sườn núi kia cũng có chăn dê trông giữ, vào thôn ăn cướp cũng không dễ, có điều tình cảnh bây giờ cũng chỉ còn cách làm đạo tặc mà thôi, có điều hai người phải nghe tôi, chỉ được phép lặng lẽ vào thôn, tuyệt không được nổ súng. Lão Hồ ta cực lực phản đối mấy cái loại hành vi đê tiện này nhưng hôm nay vì Răng Vàng đành có lỗi với bà con rồi!" Hồi đó lăn lộn lên núi xuống thôn tôi đã luyện được một thân tuyệt kỹ, người khác câu cá còn tôi thì câu gà. Thật ra câu gà với câu cá cũng không khác nhau nhiều lắm. Có điều muốn câu gà cũng phải có mưu mẹo, câu không giỏi, gặp con gà khỏe bay cả qua tường chưa chắc vồ nổi, hơn nữa còn gây kinh động người khác. Người xưa thường nói có người tay trói gà không chặt cũng không phải nói quá, vồ gà cũng không phải chỉ dùng sức mà được, tay chân còn phải nhanh nhẹn, chẳng may có động, người dân trong nhà biết gà bị trộm chắc chắn sẽ xách gậy ra đánh què giò.

    Hồi trước không có gì ăn, tôi với Tuyền Béo hay dùng một đoạn dây thừng, phía trước buộc một mẩu gỗ, đục lỗ rồi bỏ sâu vào đó, gà thấy sâu chắc chắn sẽ mổ ăn nuốt xuống cả mẩu gỗ, khi đó bạn chỉ cần kéo sợi giây, mẩu gỗ kẹp trong họng gà, gà trống khỏe cũng giãy không ra, còn kêu không ra tiếng, đờ người bị bạn xách đi, thần không biết, quỷ không hay.
    Kẻ đói bụng thường nôn nóng, chẳng làm gì nên chuyện. Ba người theo cách này đi vào thôn, thừa lúc người dân không để ý câu mấy con gà, vội vàng tìm chỗ không người, còn không kịp vặt lông liền nhóm lửa nướng chín ăn luôn, lúc này mới thấy hoàn dương. Tôi nghĩ thầm trong bụng: "Bát Đạo Lương là nơi nghèo nàn, bọn tôi lại đi trộm gà của dân, vậy còn ra cái thể thống gì nữa?". Đi được nửa đường tôi liền lại quay lại, tháo đồng hồ đeo tay đặt trước ổ gà. Đồng hồ đeo tay kia là Shirley Dương mua cho tôi, cũng là thứ đáng tiền duy nhất tôi mang trên người, mặc dù tôi không rõ nó đáng giá bao nhiêu nhưng chắc chắn đủ đền bù cho gà cả thôn. Tôi còn chưa nghĩ ra lúc về làm sao ăn nói với Shirley Dương, chờ đến lúc cô ấy truy hỏi, chắc cũng đành phải nói là lúc mới chui từ cổ mộ ra đói nổ đom đóm mắt, bí quá không biết làm thế nào nên đành đem cầm cố ở thôn quê đổi lấy gà ăn, nói như vậy cũng biết rằng hậu quả khó lường nhưng không khai cũng không xong. Cũng do tính tôi vốn thương người, nếu đổi lại là chuyện khác, tôi đã chẳng thèm mảy may quan tâm. Tôi vội vàng đuổi theo Tuyền Béo với Răng Vàng tới cửa điện, ngẩng đầu lên nhìn, nháy mắt thời gian đã tới canh ba, vừa lúc cửa sau đóng kín như chặn chó, tường bịt như giữ gà!

    Chúng tôi hăm hăm hở hở đi tóm Mã Lão Oa Tử, kết quả tóm hụt, trong nhà không một bóng người, phân nửa là đã ôm minh khí chạy mất rồi, hắn là loại "chân vua treo trên bụng táo" - người đi thì nhà dọn nên tôi cũng không lấy làm lạ, đổi lại là tôi, tôi cũng chạy, còn chờ gì mà không chạy chứ?

    Tuy nói "hòa thượng chạy được nhưng miếu không chạy được", vậy thì cũng phải xem cái miếu đó như thế nào, túp lều của Mã Lão Oa Tử này là loại nhà tàn phòng trống, toàn là tranh tết đầu lừa chả ai thèm, ném cây đuốc đốt cũng thấy mất công. Tuyền Béo nuốt không trôi cục tức, vào nhà lùng sục một hồi, bọ rệp thì có, đồ đáng tiền một món cũng không. Trên núi ngàn khe vạn hốc, muốn truy đuổi cũng quỷ mới biết hắn trốn nơi nào. Ba người bọn tôi không cam lòng nhưng cũng chẳng làm gì được.

    Tôi nhìn một phòng tranh lừa tết kia bất thình lình bật ra một ý niệm: Phát Khâu, Mô Kim, dời núi, tráo đường, bắt nguồn từ thời Lưỡng Hán (Tây Hán và Đông Hán), chỉ nhờ đạo mộ mà phát tài lại có thể truyền qua nhiều đời như vậy! Từ đời Minh lại xuất hiện bốn dòng tộc, tất cả đều có sở trường đạo mộ, theo thứ tự là "Âm dương đoan công, Quan sơn Thái Bảo, Cửu U tướng quân, Câu Thi pháp vương", thủ lĩnh của bốn phái đều là quan tướng triều đình, được vua phong tước. Âm Dương đoan công quản lí đoàn quân đào hầm, Quan Sơn thái bảo chỉ huy việc xây lăng mộ cho vua, Cửu U tướng quân trấn thủ long mạch, sau khi Minh triều diệt vong thì đều trở thành dân đạo mộ.
    Câu Thi pháp vương xuất hiện vào cuối triều Minh, đang lúc hạn hán kéo dài, vô số dân chúng bần cùng trở thành thổ phỉ, triều đình mời một vị tiên sư từ núi Long Hổ xuống núi, phong làm "Câu Thi pháp vương", phụng chỉ cầu an trừ hạn hán. Trừ hạn lúc ấy chủ yếu bằng cách móc thây khô trong cổ mộ ra thiêu hủy, Câu Thi pháp vương dùng việc này để ngụy trang, mượn cơ hội đào trộm cổ vật trong mộ.

    Cửu U Tướng Quân tôn lừa đen làm tổ sư, xuất đạo ở đất Tần Tấn, Cửu U Tướng Quân nhận tước phong, dòng họ từng động lời thề, cho dù trộm hết mộ cũng không bao giờ đào mộ nhà Minh, nếu không trời tru đất diệt. Trước đây tôi chưa từng thấy qua phong tục dùng lừa đen để trấn cửa, Mã Lão Oa Tử treo một phòng tranh Tết toàn lừa đen, lại là kẻ chui hầm đất, hắn là truyền nhân của Cửu U Tướng Quân sao?

    Suy nghĩ này cứ đảo đi đảo lại trong đầu tôi, thầm nghĩ nếu không tìm được tung tích Mã Lão Oa Tử cũng chẳng còn cách nào khác hơn là mò ra cửa điện rồi ra ngoài. Tuyền Béo vẫn canh cánh trong lòng: "Nếu không phải bị Mã Lão Oa Tử gài bẫy, sao có thể bị dồn tới nước này, miếng thịt béo dâng đến miệng lại bị chó tha đi! Trước kia đều là kẻ khác chịu thiệt với bọn ta, chưa từng phải chịu thua thiệt lớn như vậy!" Răng Vàng cho rằng mặc dù bị thiệt hại không ít nhưng cũng không đến nỗi ra về tay trắng, còn có chiến lợi phẩm là hộp sắt mạ vàng trên người cung nữ toàn thân bọc lụa treo trong huyền cung Tần vương với rất nhiều hoa văn kỳ lạ lại không một chút rỉ sét, Tuyền Béo thuận tay nhét vào túi đeo trên lưng, mãi tới lúc này hắn mới nhớ ra. Có điều ở giữa nơi chân bảo chôn theo nhiều như mây, hộp sắt mạ vàng quả thật là không chút gì nổi bật, bên trong lại không có đồ gì, với nhãn lực và kiến thức sâu rộng của Răng Vàng cũng không nhận ra lai lịch của hộp sắt này. Hắn nói: "Chuyến này tới Quan Trung để tìm một hai món đồ cầm cố, không ngờ lại được một hộp sắt mạ vàng như thế, minh khí qua tay Răng Vàng tôi còn nhiều hơn cỏ dại trên núi, nhưng anh có hỏi tôi hộp sắt mạ vàng này dùng để làm gì tôi cũng chịu, dân trong nghề chúng tôi có một quy củ, đồ mà không ai nhận ra, cho dù lai lịch lớn thế nào cũng vô giá trị!"

    Tuyền Béo vừa nghe thấy câu này, trong lòng lạnh đi phân nửa, vung tay định ném hộp sắt mạ vàng thẳng xuống khe núi.
    Răng Vàng vội kêu: "Đừng ném! Đừng ném! Anh từ từ nghe đã, tôi còn chưa nói xong, với nhãn lực này của tôi, quả thật không nhìn ra nhưng cái mũi này của tôi cũng không phải chỉ để chưng bày, tôi vừa cầm lên mũi ngửi, hắc! Anh nói xem? Thứ đồ chơi này cũng không dưới ngàn năm, nói không chừng đáng giá khối tiền chứ chẳng chơi!

    Tôi nói: "Tôi cũng nghĩ vậy, trong hộp sắt mạ vàng này nhất định có bí ẩn!"
    Tuyền Béo nói: "Lão Hồ anh lại nhạy cảm quá rồi!"
    Tôi nói: "Không phải trước kia chúng ta thất bại đều là do quá chủ quan sao!"
    Tuyền Béo nói: "Thắng bại là chuyện thường nhà binh, không phải anh thường động viên chúng tôi như vậy sao?"

    Tôi nói: "Bố khỉ! Đó toàn là lời nói láo, chẳng qua chỉ là tôi muốn tìm bậc thang đi xuống mà thôi, anh còn tưởng thật sao? Tóm lại vật này lai lịch không rõ ràng, hoàn toàn không giống vật tòng táng trong huyền cung Tần vương, mang nó xuất thế cũng chưa biết là phúc hay họa, tôi chỉ có thể nghĩ được đến thế!"

    4.
    Trở lại Bắc Kinh, tôi bảo Tuyền Béo với Răng Vàng không nên khoe khoang đồ ra vội, đợi tôi tìm người hiểu biết dò hỏi trước rồi tính. Shirley Dương bận xử lý chút chuyện cũng không hay biết chuyến đi Quan Trung mấy ngày này của bọn tôi. Tôi định kiếm một cái cớ, nói mấy ngày trước tôi không ra khỏi cửa, lợi dụng lòng tin của cô ấy với tôi chắc sẽ không hỏi nhiều. Có điều cổ nhân có nói nếu muốn người ta không biết, trừ khi mình đừng làm, Răng Vàng với Tuyền Béo hai thằng cha đó là loại làm việc thành sự không thấy bại sự có thừa, bọn họ bình thường lắm mồm nhiều chuyện, nói nhiều tất lộ, sớm muộn cũng hại đến tôi, tới lúc đó Shirley Dương sẽ nghĩ tôi thế nào? Chi bằng khai trước lại còn được tiếng quang minh lỗi lạc, chỉ có điều chờ mãi cũng không tìm được cơ hội mở miệng.

    Ba ngày sau, chúng tôi cùng lên đường đi Mỹ, trong tay còn một ít đồ cũ, tôi định mang tới Phan Gia Viên bán đổ bán tháo. Nơi này trước kia gọi là Phan gia diêu, toàn là lò gạch, sau đó mới bàn là từ "diêu" khó nghe nên đổi là Phan Gia Viên. Chợ này lúc ấy có nhiều hàng bán vỉa hè, người tới lui cũng không ít. Hai bên toàn là hàng quán bán cổ vật, nói trắng ra là đồ giả, bán theo cân. Từ ngọc bội Hoàng đế tới gậy đánh chó của ăn mày, cái gì cũng có, chỉ cần có người bán là có người mua. Đến nỗi có phải đồ thật hay không lúc khác hẵng bàn. Cũng có vài thứ lai lịch bất chính, hoặc là vật chôn theo moi ra từ mộ, hoặc là của trộm cướp, vàng thau lẫn lộn lấy giả tráo thật, kẻ bán không rõ, người mua cũng không chắc. Nếu bạn có nhãn lực thậm chí có thể dùng tiền mua chai dấm mà mua được bình sứ Thanh Hoa, tiền mua đồng nát cũng mua được đồ đồng xanh Tây Chu. Vật báu tuy có nhưng không dễ gặp, kinh doanh ở đây, lấy giả làm thật, đồ giả quá nhiều, tham rẻ mà mua cũng là đáng đời.

    Qua trưa, người qua lại ít dần, Tuyền Béo đi mua bánh nướng, tôi ở lại xem đồ. Vừa lúc Shirley Dương tới tìm tôi, tôi mượn cơ hội này kể qua cho cô một lần, còn nói: "Đợi qua mấy ngày nữa, anh với em cao chạy xa bay, chân trời góc bể không về cũng được, anh đảm bảo với em, đây chắc chắn là lần cuối cùng!"
    Shirley Dương nói: "Tạm không bàn cam đoan của anh có giá trị hay không, nhưng anh không gạt em, điều này đối với em mà nói thật sự rất có ý nghĩa."
    Tôi nói: "Nếu anh không còn ý nghĩa với em nữa thì cuộc sống của anh cũng đến lúc tàn, cảm giác trống trải đến vô hạn..."
    Đúng lúc thằng béo đi tới nói: "Mẹ kiếp! Trống trải nghe đã đủ buồn nôn rồi, lại còn vô hạn nữa?"
    Tôi nói: "Bố tiên sư! Có phải anh lại rảnh rỗi quá nên sinh ngứa miệng rồi không, mau ăn bánh của anh đi."
    Tuyền Béo nói: "Suốt ngày ăn bánh nướng, ăn không ngán à? Có đoàn cố vấn từ Mỹ* mà không cho được bữa ăn ngon sao?"

    * Ám chỉ Mis Dương

    Lúc đang nói chuyện, Răng Vàng cũng tới. Hắn lén nói với tôi, hắn chụp hình minh khí bọn tôi lấy ra từ Tần vương huyền cung, tìm người hỏi thăm khắp nơi, nhưng rốt cục là đồ của triều đại nào, lần hỏi khắp nơi không ai nhận ra được, có điều khi tin này truyền ra ngoài, quả thật có một vị có tiếng tăm mời tôi mang đồ tới gặp.

    Tôi nói với Shirley Dương bọn tôi không mua bán minh khí, đưa bao nhiều tiền tôi cũng không bán, nhưng nếu đối phương tự nguyện bỏ ra một số tiền lớn thì chắc chắn phải biết lai lịch của vật này, vì tò mò, tôi quyết định tới gặp đối phương một lần, nghe thử xem người ta nói thế nào nên hỏi Răng Vàng xem gặp ở đâu.
    Răng Vàng nói: "Xe lớn cũng chạy không nhanh bằng lùa cơm vào miệng, tôi đoán chừng, nhất định ở tiệm cơm lớn nào đó."

    Shirley Dương không muốn gặp mấy tay buôn đồ cổ kia, tôi để cô về trước. Tôi với Tuyền Béo thu dọn đồ đạc cùng Răng Vàng tới Phan Gia Viên, có xe tới đưa chúng tôi tới đường Sùng Văn, cửa tây nam. Năm 1983, Bộ Ngoại giao có mở ở đây một tiệm ăn của Pháp, trước khi dỡ bỏ cấm vận đây cũng không phải là nơi dân chúng dễ dàng lui tới, phải có quan hệ phía sau mới tới được. Ở đây bên ngoài nhìn không lớn, yên tĩnh ẩn mình, nhưng vừa vào bên trong thì nguy nga lộng lẫy, tựa như đang ở trong cung điện thế kỷ 19 của Pháp, trên vách tường đều trang trí những đồ trang sức mạ vàng, với những bức hoạ La Phù cung*, đặc biệt là đèn treo, đèn tường hình lá phong cùng với tường thuỷ tinh đậm phong vị tây hóa, cần bao nhiêu xa hoa đều có bấy nhiêu. Bọn tôi là hạng người quen tay ăn tay bốc, căn bản ăn xong chẳng biết mình vừa ăn gì, cũng chưa từng gặp qua cảnh tượng thế này.

    Răng Vàng yếu thận, vừa vào cửa liền phải đi nhà cầu, lúc ra thổi một câu với tôi cùng Tuyền Béo: "Răng Vàng tôi cũng coi là được ăn nhiều thấy lắm mà chưa từng vào chỗ nào sang như vậy, đúng thật là nhà xí đẳng cấp hoàng gia

    *La phù cung ( Tiếng Pháp: Musée du Louvre): Cung điện cũ của Hoàng gia Pháp, nằm ở bờ phải sông Seine thuộc trung tâm thành phố Paris từ Nhà thờ Saint-Germain-l'Auxerrois đến vườn Tuileries. Ngày nay phần lớn diện tích cung điện được sử dụng cho bảo tàng Louvre, một trong những bảo tàng lớn nhất thế giới. (wikipedia)

    Tôi nghĩ thầm trong bụng: "Cho dù muốn mua đồ cũng không cần vội như vậy chứ, chữ bát ( 八) còn có hai chân, vậy mà họ lại vội vàng mở tiệc khoản đãi bọn ta thế này? Không lẽ nghĩ bọn ta là danh gia vọng tộc cần kết giao sao?"

    5.
    Ba người bọn tôi bước vào, bên trong đã có một cô gái trẻ độ hai mươi tuổi ngồi đợi, thân thể kiều diễm, giơ chân nhấc tay đều toát lên vẻ sang trọng cao quý.
    Cô gái kia đứng dậy chào đón: "Dám hỏi tên tuổi của ngài?"
    Tôi nói: "Vô đức không dám xưng tên, tôi họ Hồ, ở Phan Gia Viên lăn lộn kiếm cơm."
    Cô gái kia nói: "Mô Kim Hiệu Uý, nghe danh không bằng gặp mặt, gặp được rồi hơn hẳn nghe danh!"
    Răng Vàng vội đi lại giới thiệu, cô ta cũng tự giới thiệu, bản thân được mọi người gọi là "Ngọc Diện Hồ Ly", nghề nghiệp chuyên môn là thương nhân đồ cổ.

    Tôi vừa nghe xong câu này, nhất thời cả kinh, bọn tôi ăn chén cơm này, vốn chưa từng tiết lộ tên thật ra bên ngoài, chỉ quen dùng biệt danh xưng hô với nhau. Trước kia tôi có nghe nói tới "Ngọc Diện Hồ Ly", nghe đồn cô nàng vốn dòng dõi hoàng thất, không chỉ có gia thế hiển hách mà còn là thương nhân môi giới đổi chác đồ cổ, danh tiếng không nhỏ trong giới đạo chích, đồ không phải thuộc hàng quốc bảo căn bản không lọt vào mắt xanh của cô ta. Thứ nhất tôi vốn không thể ngờ cô ta còn trẻ như vậy, thứ hai, cô ta cũng không phải người bán dạo ở vỉa hè Phan Gia Viên, làm sao lại biết tới Răng Vàng mà tiếp cận chúng tôi chứ?

    Bàn về nhan sắc, "Ngọc Diện Hồ Ly" cũng có thể nói là thuộc dạng quốc sắc thiên hương nhưng lại đầy vẻ sắc sảo như hồ ly, khiến người khác không thể không đề phòng. Tôi nói với cô ta: "Tại hạ vô danh tiểu tốt, không ngờ cũng được quý cô biết tới. Có điều tai nghe là giả, mắt thấy mới là thật, hôm nay đích thân gặp mặt, tôi cũng muốn nói cho rõ, tôi cũng căn bản không phải là kẻ chuyên chui hầm đất!"
    Tuyền Béo nói: "Lão Hồ anh đừng có tự ti thế được không, anh có là dân đạo mộ thì cũng làm sao chứ, mấy lão bánh trưng bao lụa bọc gấm kia lúc sống hưởng hết vinh hoa phú quý, chết rồi còn muốn núp trong cổ mộ hưởng thụ cả trăm ngàn năm, trong khi trên đời còn bao nhiêu người đói khổ, trộm mấy món minh khí của họ còn không phải là thay trời hành đạo sao?"

    Tôi nói với Tuyền Béo: "Bố khỉ! Đừng có chém gió cái gì mà nghĩa khí thay trời hành đạo, mỗi thời mỗi khác, không lúc nào giống nhau, thời điểm bây giờ trộm mộ chẳng dễ sống, vừa khổ cực, vừa nguy hiểm, vừa mất vốn lại đòi hỏi người có bản lĩnh, thành ít bại nhiều, nơm nớp như ngồi trên đống lửa mà chưa chắc đã kiếm được tiền, thời buổi này làm gì cũng tốt hơn cái nghề này, làm ăn buôn bán chân chính thì không làm, đi tính toán với người chết làm gì?

    Răng Vàng sợ hỏng vụ làm ăn vội ra sức xin lỗi Ngọc Diện Hồ Ly, nói cô nàng đừng để tâm tới bọn tôi. Ngọc diện hồ ly chẳng mảy may quan tâm hỏi Răng Vàng: "Có phải ba người đào được một món minh khí không?"
    Răng Vàng nói: "Không phải đào, là bọn ta nhặt được!"

    Ngọc Diện Hồ Ly cũng chẳng để tâm minh khí kia là đào hay nhặt, chỉ muốn mua lại, hơn nữa phải mua bằng được nên để cho Răng Vàng thoải mái ra giá.
    Theo quy tắc, trước khi xem đồ, người mua phải đặt cọc một số tiền, mua bán không thành, số tiền này cũng miễn trả lại. Tôi vòng vo hồi lâu định dò hỏi từ miệng đối phương về món đồ đặc biệt này. Có điều Ngọc Diện Hồ Ly cũng không dễ mắc bẫy: “Không có quy củ, không thành tiêu chuẩn”*, anh mang đồ ra cho tôi xem tôi mới có thể nói rõ được."

    Tôi nói: “Vậy thì cũng không cần thiết, cô cứ nói giá tiền trước, chúng tôi bàn bạc thử xem đã."
    Ngọc Diện Hồ Ly nói: "Các người hãy cầm tiền đặt cọc, ít nhất cũng cho tôi xem qua đồ một chút chứ".
    Tôi nói: "Xin lỗi, lúc đi vội quá nên đã quên mang đồ theo."
    Ngọc Diện Hồ Ly nói: "Anh có thể đưa tôi đi xem"
    Tôi nói: "Đồ vẫn còn trong tay tôi, lại không bay được, cần gì phải vội vàng thế chứ, qua mấy năm nữa nói chuyện tiếp cũng không muộn".
    Ngọc Diện Hồ Ly có vài phần kinh ngạc: "Anh đang đùa tôi sao?"
    Tôi nói: "Tôi vốn không có ý đó, trong ba đại kỷ luật tám loại chú ý, loại thứ bảy đó là - không được trêu đùa phụ nữ!"

    Đôi bên bất đồng, nói thêm cũng vô ích, tôi chắp tay nói tiếng cáo từ, kéo Tuyền Béo cùng với Răng Vàng vẫn đang ngơ ngác không hiểu gì về lại Phan Gia Viên.
    Hai giờ chiều, ba người vẫn chưa ăn cơm, đến gian hàng bánh nướng ven đường, mỗi người một cái, đứng ven đường ăn.
    Răng Vàng vừa ăn vừa hỏi Tuyền Béo: "Béo anh vẫn ăn được à?"
    Tuyền Béo nói: "Hôm nay đúng là ăn không vào, chắc cùng lắm cũng chỉ đả được năm bát."
    Răng Vàng luôn miệng than thở: "Tôi cũng nuốt không trôi, Hồ gia anh rốt cuộc là định tính toán cái khỉ gì chứ? Sao hồ đồ là anh mà khôn ngoan cũng là anh vậy? Mặc kệ là có mua bán được hay không, dù sao cũng để cho người ta xem đồ một tí thì chẳng phải tiền đặt cọc đã rơi vào tay rồi hay sao? Không muốn ngồi mát ăn bát vàng, lại muốn đứng ăn trên cái hố ga này, bây giờ thì hay rồi, nói còn chẳng nên lời nữa, bụng đói mắt hoa, tự dưng bỏ đi một đống tiền mà không tiếc à?”
    Tôi nói: "Hai tên ngốc các anh không nhìn ra sao, một tấm da người không che được mặt quỷ của cô ta đâu!"

    6.
    Tuyền Béo nói: "Vậy ít ra anh cũng để bọn tôi ăn cơm xong rồi hãy rút chứ, chưa chi đã lật lọng, còn chưa kịp ăn gì anh đã chạy trước, đi vất vả một chuyến, tôi còn không biết được ăn cái gì ở đó!"

    Tôi nói: "Nếu tôi biết trước là Ngọc Diện Hồ Ly tôi chắc chắn sẽ không tới, bảo cô ta là thương nhân môi giới đồ cổ cũng không sai, có điều phải xem ở hai bên cô ta là những ai? Một bên là bọn trộm mộ ngoài biên ải, một bên là giới tài phiệt mua bán quốc bảo, cô ta ở giữa tìm chỗ tốt, nhận tiền không cần nhận chủ nhân, anh nghe biệt hiệu của cô ta chứ- Ngọc Diện Hồ Ly, có thể là người tốt sao? Bất luận cô ta ra giá bao nhiêu, lần mua bán này cũng không thể làm. Hơn nữa, cô ta thật sự đã quá coi thường tôi rồi, cho rằng tôi chỉ là quân đầu đường xó chợ, mẹ kiếp không nhìn ra lão tử là ai, muốn đối phó với tôi sao, cần chui vào bụng mẹ tu thêm hai trăm năm nữa. Trong làm ăn tôi không bằng Răng Vàng, nhưng tôi ăn đạn còn nhiều hơn các người ăn gạo, đối phó với loại người ngưu quỷ xà thần như cô ta tôi có kinh nghiệm hơn các anh nhiều."
    Tuyền Béo nói: "Bố tiên sư! Anh cứ nổ đi, ăn đạn nhiều như vậy chưa biến thành cái rổ à?"
    Răng Vàng nói: "Hay đấy, so với Hồ gia anh Răng Vàng tôi đúng là còn non kinh nghiệm hơn nhiều, nhất là cái loại kinh nghiệm bị ăn đòn?"

    Tôi nói: "Ai bị ai đánh nhiều, nội tâm đương nhiên phải nhạy cảm hơn, không phải sao? Anh cẩn thận suy nghĩ một chút đi, có nhân bánh từ trên trời rơi xuống bao giờ à? Giá trị của hộp sắt mạ vàng chắc chắn là phải gấp vạn lần số tiền nàng ta đưa! Bước kế tiếp, chúng ta phải cẩn thận đối phương lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng mà cướp đoạt, nhanh chóng điều tra thân phận của hộp sắt mạ vàng!"
    Nhân lúc ăn bánh nướng, tôi cẩn thận suy nghĩ một chút, quyết định việc đầu tiên khi về nhà là phải mang đồ đi chôn, không ngờ chưa kịp vào nhà, Shirley Dương đã tới. Cô vội vàng hỏi tôi: "Các anh đi gặp ai thế?"
    Tôi mang cuộc gặp gỡ với Ngọc Hiện Hồ Ly kể sơ qua cho cô nghe một lượt. Shirley Dương nói Răng Vàng mang hình phát tán ra ngoài đã gây ra phiền toái không nhỏ, không biết có bao nhiêu dân trộm mộ cũng đang nhòm ngó thứ minh khí này! Cô vừa nhận được tin tức vội chạy về, may mà đồ tốt vẫn chưa bán đi.

    Răng Vàng nói: "Dương đại tiểu thư nhận ra rồi sao? Bọn tôi nghĩ muốn vỡ cả đầu mà vẫn không nghĩ ra đây là thứ đồ gì mà?"
    Tôi bảo Tuyền Béo đóng cửa lại, lấy hộp sắt mạ vàng ra cho Shirley Dương xem.
    Shirley Dương nói: "Tôi vừa nghe ngóng được, minh khí trên tay anh không phải là hộp đựng đồ mà chính là một bộ sách bằng vàng, là bảo vật trấn quốc của Tây Hạ, từ trong ra ngoài đúc bốn bức hình, dùng hình trên bìa thay thế cho chữ viết, qua mấy ngàn năm vẫn không hư hại. Lúc vương triều Tây Hạ cường thịnh nhất, lãnh thổ phía đông tới Hoàng Hà, phía Tây tới Ngọc Môn, có thể nói là khống chế toàn bộ hành lang Hà Tây. Sau này đến khi vùng sa mạc phía bắc Mông Cổ nổi loạn, sáu đạo quân đánh dẹp Tây Hạ, tận diệt không bỏ sót thứ gì, không ngờ bộ sách vàng này của Tây Hạ trải qua bao đời vua chúa lại thành vật chôn theo trong mộ Tần vương rồi lại bị các anh mang ra ngoài, được thấy mặt trời lần nữa."
    Có câu nói "giỏi hay không, chìa tay một cái, biết hay không, mở miệng một tiếng liền biết", chúng tôi nghe qua câu chuyện này của Shirley Dương quả thực là có căn cứ đều trợn mắt há mồm.

    Răng Vàng nói: "Dương đại tiểu thư thật đã giúp bọn tôi mở mang tầm mắt! Bảo vật trấn quốc Tây Hạ.... Vậy đáng bao nhiêu tiền?"
    Shirley Dương nói: "Giá trị của sách vàng nhà Tây Hạ chủ yếu nằm ở nội dung chỉ dẫn của nó, theo cổ thư ghi lại, Đại Hạ có ma sơn, trong núi có đàn tế gọi là Mật chú phục ma điện, trong điện có hai lầu gác vàng, vào trong hơn trăm trượng, lại có Minh nguyệt châu đường kính hai thước, chiếu sáng ngàn dặm. Sách vàng nhà Tây Hạ chính là bản đồ của kho báu thần bí này!"

    7.
    Sách vàng Tây Hạ là bản đồ trấn quốc, kho báu thật sự nằm ở Mật chú phục ma điện. Dòng dõi quý tộc Tây Hạ sùng bái Phật giáo, cung điện thờ cúng trong núi không tạc tượng mà tạc bức hoạ lớn, trong tranh là Thiên tôn phục ma, một tay cầm 9 thanh chuỳ kim cang, một tay tóm bảo thú. Quý tộc Tây Hạ tin rằng càng cúng bái bích hoạ tôn giáo thật tốt thì người thờ cúng có công đức càng lớn. Vì xây Mật chú phục ma điện, Tây Hạ chiêu mộ hàng ngàn hàng vạn hoạ sĩ khắc tượng, dân phu, nô lệ, ròng rã hơn một trăm năm, tốn kém lượng lớn trân bảo, tương truyền dưới bức bích hoạ là một toà cổ mộ mai táng yêu nữ.
    Bích hoạ của Tây Hạ nội dung rất rộng, đề tài phong phú, đủ cả chuyện canh tác, thu hoạch, yến tiệc, chăn nuôi, chống dịch, ca vũ, chiến tranh, nô lệ. Nhà Tây Hạ hết lòng tin vào Phật giáo, trong bích hoạ không thể thiếu những "Thiên đường Linh Sơn", "Tịnh thổ biến, dược sư biến, địa ngục biến, niết biến, mật tông mạn đà la biến, vô lượng thọ kinh biến"* đầy hư cấu, xen vào đó là "Đàn tế, chim muông, long phượng, kim cang, lực sĩ, bồ tát" làm họa tiết trang trí thêm, nét vẽ phóng khoáng, rực rỡ mà trang nghiêm.

    * Là những cảnh bồng lai, địa ngục, niết bàn,... trong Phật giáo.

    Bích hoạ phật giáo của Tây hạ đặc biệt thích dùng "biến", cái gọi là "biến" ý là qua việc sử dụng kỹ xảo tinh xảo của hội họa cộng với kinh văn thâm thâm sâu không tưởng để soi rọi thế nhân, để trăm họ mê muội cảm nhận được ý Phật trong kinh văn. Ở những khu vực khai quật được tượng Phật trong các lăng mộ có thể cảm nhận các hoạ sĩ Tây Hạ đều vận dụng trí tưởng tượng vô cùng vô tận của mình, từ chuyện phàm tục tới thần tiên để tạo ra một thế giới Phật giáo rộng lớn vĩ đại.

    Trên tay Shirley Dương có một quyển sách tranh, chính giữa là một bức hoạ Đôn Hoàng, miêu tả Thiên tôn phục ma ngồi ngay ngắn ở chính giữa đài sen, hai bên là hai quái nhân, một bên mặt người tay hổ, một bên là mặt người mình lân, đều có chín tay, tướng mạo hung ác, vây quanh bốn phía có năm người, giương cung bạt kiếm, khí thế uy nghiêm như muốn phá vách chui ra. Trên bích hoạ, chủ tớ phân minh, đâu vào đấy làm nổi bật không khí tôn giáo thần bí quỷ dị. Bích hoạ trong Mật chú phục ma điện của Tây Hạ, đề tài có lẽ cũng giống vậy, Nghe nói Mật chú phục ma điện nằm gần đại mạc Mông Cổ, nằm ở sa mạc Mao Ô Tố phía tây nam, gần với dãy núi sát biên giới, chỗ ấy núi non trùng điệp, đỉnh cao sườn hiểm, khắp nơi là núi cao chót vót với các nếp gãy địa tầng, bốn phương đều khó tiếp cận, từ xưa tới nay được dân du mục trên thảo nguyên gọi là Ma sơn, vị trí chính xác từ lâu đã không rõ ở đâu.

    Thời đó, Mao Ô Tố còn chưa bị nạn cát chảy xâm hại, nhiều chỗ còn ốc đảo, lâu đài. Sau đó, sáu đạo quân Mông Cổ chinh phạt Tây Hạ, theo truyền thuyết thì toàn bộ cung điện, lầu ngọc gác tía và đến cả vương triều Tây Hạ huy hoàng hiển hách cũng bị gió cát nuốt chửng, không lưu lại bất cứ dấu vết gì trên đời.

    Cuốn sách vàng kia ghi lại vị trí Mật chú phục ma điện, nhưng muốn tìm được vị trí này còn khó hơn lên trời. Vì mạch nước cạn kiệt, nơi ấy đã nhanh chóng bị sa mạc hoá, sau khi Tây Hạ bị diệt quốc, nạn cát chảy đã trở thành đại hoạ. Từ khi triều Minh bắt đầu, gió cát đóng thành trường thành, hễ có đóng quân thì mỗi năm đều phải cào cát, không cào cát chảy đi thì thành luỹ cũng bị chôn dưới cát rồi, vậy mới biết cát chảy nghiêm trọng cỡ nào.

    Răng Vàng mang hình chụp sách vàng Tây Hạ kia phát tán đi liền bị bọn trộm mộ ngoài biên ải chú ý, việc này không chừng sẽ gây ra tai hoạ lớn. Shirley Dương quyết định tranh thủ ra tay trước bọn trộm mộ ngoài biên ải một bước, tìm được kho báu lớn này, thời gian vô cùng cấp bách, trì hoãn càng lâu, tình hình càng bất lợi.

    Tôi ngoảnh đầu nhìn Răng Vàng cùng Tuyền Béo, bọn họ không lên tiếng, ý chừng còn đợi tôi quyết định. Tôi nghe Shirley Dương nói vậy cũng biết là không đi không được. Shirley Dương cũng không phải dạng người thấy khó mà lui. Tôi đương nhiên biết tại sao cô nhất định phải đi tìm cổ mộ nhà Tây Hạ cho bằng được, nguyên nhân trong đó một hai câu không thể nói hết với bọn Tuyền Béo và Răng Vàng. Có điều, Shirley Dương quyết định tới cổ mộ Tây Hạ, tôi dĩ nhiên không thể không đi, Tuyền Béo cũng đương nhiên sẽ đi. Ba người hiểu lòng nhau, không có gì để nói.

    Vì vậy, tôi với Tuyền Béo ở lại chuẩn bị, Shirley Dương lên lộ trình, hẹn sáng mai lên đường, trên đường thảo luận lại kế hoạch cụ thể. Luôn tay luôn chân tới tối, tôi cùng với Tuyền Béo, Răng Vàng bụng dính vào lưng, ra cửa tìm một quán thịt nướng, làm một nồi lẩu cùng ngồi cụng ly, phun mây nhả sương.

    Răng Vàng hỏi tôi: "Hồ gia, anh nhất định phải đi tìm cổ mộ Tây Hạ kia sao?"
    Tôi nói: "Mẹ kiếp! còn hỏi nữa, nếu không phải do anh phát tán hình kia ra ngoài thì cũng không đến nỗi rước về nhiều phiền toái như vậy, bây giờ không đi cũng không được. Cũng may hình ảnh chụp không hết, chúng ta vẫn còn giữ được thế chủ động, đây cũng là trong cái rủi có cái may."

    Răng Vàng nói: "Haizz! cũng tại Răng Vàng tôi không phải, muốn giúp mà thành ra phá hoại làm hại chúng ta tự dưng bận rộn, tự phạt ba ly ...", Hắn lập tức làm ba chén, lau miệng rồi hỏi Tuyền Béo: "Béo anh có đi không?"
    Tuyền Béo nói: "Tôi không đi được sao? Tôi không đi thì hắn cũng chẳng biết phương Bắc chỗ nào!"

    Răng Vàng nói: "Tôi cũng nghĩ thông rồi, lưu manh nghèo đói cũng đều do mẹ nuôi mà thành, không liều mạng không kiếm được cơm! Muốn phát đại tài, thế nào cũng phải chơi liều!"

    Tôi nói: "Là sao, anh cũng muốn đi cùng sao? Anh ở Phan Gia Viên lăn lộn nhiều năm như vậy, dẫu gì cũng đã kiếm được cái nhà, có người có nhà, biến thành lưu manh lúc mẹ nào thế? Không cần chụp loạn cái mũ lên đầu mình, muốn chụp cũng phải lường trước xem to bé thế nào chứ?"

    Răng Vàng nói: "Hồ gia anh không rõ đó thôi, chút tiền kia của tôi thì làm được cái mẹ gì, sắp phải uống gió Tây Bắc tới nơi rồi!", Hắn ôn nghèo kể khổ tiếp: "Lúc đi Quan Trung kiếm minh khí, tôi cũng có phần, Răng Vàng tôi gây hoạ, không thể để các anh thay tôi gánh vác được, các anh đi tìm cổ mộ, tôi cũng không thể không đi!"
    Tôi nói: "Anh nghĩ kỹ đi trước khi quá muộn, chuyến này không giống với đi thu đồ đâu, có thể đoán trước là nguy hiểm trùng trùng, sơ xuất là mất mạng như chơi! Anh có bản lĩnh lớn, tôi đây biết rõ, có điều không phải tôi không muốn anh đi mà là tôi không thể trơ mắt nhìn anh nhảy vào hố lửa. Con chim sinh trong ổ thì khó mà bay trên trời, anh vẫn nên ở nhà ngoan ngoãn ăn cơm thì hơn."

    Răng Vàng vừa cạn ba bát, uống tới phồng mang trợn mắt, hắn nói: "Hồ gia anh quá coi thường tôi rồi, hoạn nạn mới biết bạn hiền, đến nước này rồi tôi có thể rút lui được sao? Mất mạng thì sợ chó gì, mạng đáng bao nhiêu chứ? Răng Vàng tôi quyết tâm xuống nước, vì anh mà quẳng đi miệng cơm cũng đáng!"

    Tôi thấy Răng Vàng sống chết muốn đi, cản cũng không được, biết chẳng qua là hắn sợ mất mối hàng ngon, đồng thời cũng thấy tôi với Tuyền Béo đủ trượng nghĩa, gặp nguy hiểm sẽ vì giao tình trước đây mà không bỏ mặc hắn. Tôi nghĩ thầm: "Tên quỷ đáng chết này quả thật giỏi xảo biện, nói tới đây rồi còn gì để nói thêm nữa?", không làm gì hơn được đành nói với hắn: "Răng Vàng, ban đầu không phải tôi với Tuyền Béo gặp anh ở Phan Gia Viên, hai người chúng tôi cũng chưa chắc ăn được chén cơm này, giữa chúng ta không cần khách sáo, có gì đều nói thẳng, không cần vòng vo, anh có thể đi nhưng có vài câu tôi phải nói trước! Đầu tiên, bọn trộm mộ để mắt tới kho báu này không ít, vạn nhất đụng phải, chỉ sợ khó đối phó. Thứ hai, vào Ma sơn ở Tây Hạ phải đi qua đại mạc Mông Cổ, ở đó rất ít gò cát cố định, bản đồ không thể dùng được. Đáng sợ nhất là không có nước, anh cũng đừng nhìn điểm nước trên chi chít trên bản đồ mà lầm, đó đều là nước mặn, uống vào chưa chắc đã sống. Cho dù tìm được địa cung, anh có dám đi vào hay không lại là chuyện khác? Anh có nghĩ cổ mộ mai táng yêu nữ tại sao lại gọi là Mật chú phục ma điện không? Tôi không nghĩ ra được, nói thật, chuyến này hung hiểm thế nào không cần nói cũng biết, cơ hội thành công hết sức mong manh!"
    Mặc dù tôi trước sau đều không yên tâm về Răng Vàng nhưng những lời trên đều là lời thật, mạng là của hắn, ném chỗ nào phải do hắn tự quyết?

    Ba người quyết định ngày mai lên đường, tìm cổ mộ Tây Hạ ở cuối đại mạc, kế hoạch cao chạy xa bay đành phải gác lại. Nhưng nói thực, bọn tôi bình thường lặng gió thì lại nhớ sóng cao, đang rảnh rỗi tới phát chán, có cơ hội này, tinh thần cũng cực kỳ phấn chấn. Ánh trăng như dao lạnh lẽo thê lương, ba người ngồi ở quán cơm nhỏ, anh một lời tôi một ý, giãi bày cõi lòng.

    Lại nhắc tới bức bích hoạ lớn được thờ trong Mật chú phục ma điện ở Tây Hạ, Răng Vàng hỏi tôi vì sao Shirley Dương một hai đều nhất quyết bằng mọi giá phải đi? Tôi nhìn Răng Vàng một chút, lại nhìn sang Tuyền Béo, hơi trầm ngâm, thấp giọng nói với họ: "Minh Nguyệt châu trong ma sơn Tây Hạ chính là thánh vật mà mấy đời tổ tiên Bàn Sơn đạo phái thờ phụng!"



     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Thành viên đang xem bài viết (Users: 0, Guests: 0)