FULL  Linh Dị Lời Nguyền Lỗ Ban - Viên Thái Cực - FULL 6Q

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,693
    Lời Nguyền Lỗ Ban
    Tác giả: Viên Thái Cực
    Quyển 6
    Chương 21: Niết bàn sát

    Nhóm dịch: An Lạc Group
    Nguồn: Nxb văn học

    Lão Lợi suýt nữa đã lâm vào cảnh kiếp nạn khó tránh. Lão không thể ngờ rằng động tác của Đại hộ pháp lại thay đổi chớp nhoáng đến thế, đột ngột đến thế, chẳng khác nào chớp loé gió giật. Đao pháp của lão không thể ứng phó với tốc độ tấn công thần tốc đến vậy.Đại hộ pháp không chỉ thân thủ, chiêu thức chớp nhoáng, mà quan trọng hơn nữa là sự biến hoá linh hoạt của cơ thể. Trong Mật Tông Tây Tạng có rất nhiều công phu, chiêu thức từ Ấn Độ trực tiếp truyền sang. Ví dụ như đám mây lực sĩ mà Đại hộ pháp đánh ra chính là biến hoá từ loại cờ mây đạo tràng do tăng nhân bảo vệ đạo tràng sử dụng ở các đạo tràng giảng kinh trong Phật giáo Ấn Độ. Ngoài mây lực sĩ, Đại hộ pháp còn thành thạo công phu uốn người bẻ xương, công phu này bắt nguồn từ thuật Du Già[22] của người Ấn Độ.

    Người luyện công phu này có thể bẻ, gập các khớp trên cơ thể theo những phương hướng và góc độ mà người bình thường không thể thực hiện được, bởi vậy, góc độ và phương hướng tấn công trong khi giao chiến cũng hết sức kỳ dị khó lường. Công phu này được gọi là Chuyển luân chưởng[23].

    Lão Lợi dù sao cũng chỉ là một tay cao thủ, thế đao của đao Bách toái tuy hung hãn lẫm liệt, song chiêu thức rất đơn điệu. Hơn nữa, lão lại có thói quen sau mỗi cú ra đao, lại phải dừng lại hồi khí tụ lực, khiến cho chiêu thức trước sau thiếu liền mạch nhất quán. Những khiếm khuyết này khiến lão không thể ứng phó được trước sự biến hoá khó lường của công phu Chuyển luân chưởng, lão đã thi triển toàn bộ vốn liếng, song đến một chưởng cũng không thể cản nổi.

    Một chưởng vừa đánh ra, cẳng tay lập tức xoay vùn vụt xung quanh khuỷu tay, bao gồm cả những hướng mà khớp khuỷu tay vốn dĩ không thể gập tới được. Tuy chỉ là một chưởng, song trong mắt lão Lợi lại là hàng trăm, hàng nghìn chưởng, không thể phân biệt thực hư. Mà lúc này, lão Lợi lại đang trong trạng thái hồi khí tụ lực, không thể kịp thời thu đao phản kích để ra đòn tấn công thay cho phòng thủ.

    Chưởng của Đại hộ pháp đã đánh vào sườn phải, cơ thể lão Lợi lập tức văng đi theo hướng chưởng đánh ra. Lão Lợi chỉ kịp rú lên một tiếng sặc mùi máu tanh, song lão rú lên vì kinh hãi nhiều hơn là vì đau đớn.

    Đại hộ pháp một chiêu đắc thủ, chưa kịp tiến lên đánh tiếp chiêu thứ hai, thì Dương Tiểu Đao đã kịp xông tới. Bởi vậy, chưởng thứ hai đành phải chuyển hướng sang Dương Tiểu Đao, cũng là một chưởng quái dị với góc độ và phương hướng không thể đoán lường.

    Dương Tiểu Đao đã xuất đao, đường đao cũng uốn lượn vòng tròn giống hệt như lộ số Chuyển luân chưởng của Đại hộ pháp. Chẳng lẽ gã cũng học qua công pháp tương tự?

    Đương nhiên là không phải. Dương Tiểu Đao không biết tới công pháp đó, hắn chỉ nắm giữ cán đao, rồi dùng cổ tay làm trọng tâm xoay tròn lưỡi đao quái dị một cách hết sức tự nhiên. Tuy cánh tay không thực hiện được động tác quái dị như Đại hộ pháp, song nếu đổi lại là cổ tay, cho dù là người bình thường cũng có thể xoay tròn mọi hướng, huống hồ cổ tay của Dương Tiểu Đao không cần chuyển động, mà là tự xoay vòng theo lưỡi đao. Thanh đao Bào Đinh trên tay gã giống hệt như một sinh vật sống, mũi đao từ đầu tới cuối luôn bám sát lấy gân cốt máu thịt, cứ như có sẵn linh tính biết tự bám đuổi theo máu tanh. Bởi vậy, dù bàn tay của Đại hộ pháp xoay theo hướng nào, biến hoá ra bao nhiêu cái bóng, thì mũi đao vẫn bám dính lấy cánh tay thật không rời.

    Không ai muốn dùng xương thịt để đối đầu với đao kiếm, kể cả Đại hộ pháp. Bởi vậy cơ thể hắn uốn éo như dòng nước chảy, giật lùi ra phía sau.

    Dương Tiểu Đao hăng lên, tiếp tục tiến lên áp sát. Bởi lẽ đây chính là cơ hội, chỉ cần trong quá trình thoái lui, Đại hộ pháp có một thoáng lơ là, thì cánh tay biến hoá khôn lường kia sẽ đi đời ngay tức khắc.

    Nhưng sự xuất hiện bất ngờ của một đám người đã cứu được cánh tay của Đại hộ pháp. Bọn chúng nối đuôi nhau lao ra từ trong khói lửa, là đám cao thủ do Cứ Điên đường điều động tới, nhận được chỉ lệnh phối hợp với Đại hộ pháp và hai Thiên Vương đánh vào trong lỗ hổng tại đoạn tường phía tây.

    Lưỡi đao trong tay Dương Tiểu Đao khoát ra hai làn ánh sáng chói rực đến quái dị, đó là chiêu gây chói mắt để giấu mình. Sau đó, gã lập tức quay người, lôi phắt lão Lợi chạy thẳng tới mảng tường vỡ. Lúc này, tình thế đã xoay ngược lại, đối thủ muốn xông vào truy bức, vậy thì hắn và lão Lợi nên cố thủ tại lỗ hổng. Nếu để đám bậu xậu này xông vào, thì Lỗ Nhất Khí sẽ hoàn toàn không còn cơ hội để hoàn thành đại sự.

    Mục đích và phương pháp đều chính xác, song cố thủ được hay không, lại phải xét đến năng lực. Lúc này, hai người bọn họ phải đối mặt với cả một đám đông cao thủ, một đám cao thủ đã qua huấn luyện kỹ càng, không màng sống chết. Đám cao thủ không hề hấp tấp, mà dàn thành đội hình quy củ từ từ tiến tới bao vây lấy mảng tường đổ, binh khí trên tay đều thủ thế sẵn sàng đủ kiểu chiêu thức tàn sát.

    Vừa tới lỗ hổng, Dương Tiểu Đao quăng ngay lão Lợi xuống đất, xoay vụt người lại đâm thẳng một chiêu “đâm ngang ức trâu”. Nhìn vào số lượng và đội hình của đám cao thủ Chu gia, thì chiêu thức này không thể che chắn được toàn bộ lỗ hổng. Song Dương Tiểu Đao không đổi chiêu, bởi lẽ khí thế và lực đạo của thế “đâm trâu” vô cùng dũng mãnh, hắn muốn dùng uy lực của một chiêu này để hù doạ đám người kia.

    Đao xuất máu chảy, một đốm đỏ thẫm ngay trên yết hầu. Đao thủ xông lên đầu tiên vừa kịp thủ thế tấn công, thì binh khí trong tay đã không thể nâng thêm một phân nào nữa. Đao trúng yết hầu, song chưa mất mạng, mũi đao vừa chạm vào da thịt đã dừng lại ngay lập tức. Dương Tiểu Đao rất thông minh, mục đích trước mắt phải là ngăn chặn đối thủ, chứ không phải là giết người. Dùng đao khống chế một người của đối thủ, điều khiển hành động của hắn, sẽ khiến các cao thủ khác không dám ho he, sợ ném chuột hỏng đồ quý. Cũng khác nào đã kiếm được một lá chắn bằng xương thịt, có thể mở rộng phạm vi phòng thủ cho bản thân.

    Đao chỉ đâm vào cổ một ly, song gã cao thủ không dám lùi bước. Với tốc độ ra đao xuất thần như vậy, hắn có lùi cũng chẳng kịp. Từ trong đám cao thủ đang dàn hình rẻ quạt vây lấy lỗ hổng, bỗng có một thân hình tách ra lách nghiêng vào, định đột kích qua rìa mép của lỗ hổng. Mũi đao của Dương Tiểu Đao lập tức xê dịch, khiến cao thủ bị đao khống chế buộc phải di chuyển theo nếu không muốn bị cứa đứt cổ họng, thân hình hắn vừa hay chặn ngang trước mặt gã cao thủ đang định xông vào.

    Lại có một thân hình khác vọt ra, lao thẳng về phía cao thủ bị khống chế. Dương Tiểu Đao thoáng kinh ngạc, bởi lẽ gã không nhận ra ý đồ của cao thủ này, song hắn đã ý thức được có chuyện không hay sắp xảy ra.

    Thân hình vừa lao tới lập tức tung chưởng đánh thẳng vào giữa lưng của “lá chắn bằng xương thịt”, Dương Tiểu Đao muốn thu đao về cũng không kịp, mũi đao đã xuyên thẳng vào yết hầu “lá chắn”. Cùng lúc đó, một luồng đao phong dữ dội từ phía sau “lá chắn” chém xéo về phía Dương Tiểu Đao.

    Lưỡi đao của Dương Tiểu Đao đã xuyên ngập vào xác chết, không thể ra chiêu. Hơn nữa, dù gã có kịp thời rút đao về, thì lưỡi đao vừa nhỏ vừa ngắn của gã cũng không thể chạm tới đối thủ qua “lá chắn” đã chết cản ở giữa.

    Dương Tiểu Đao chỉ còn cách cấp tập thoái lui, đến đao cũng không kịp rút về. Luồng đao phong của đối thủ xẹt qua sát sạt từ mặt xuống ngực, cứa qua da thịt đau rát như phải bỏng. Đao đã né được, song Dương Tiểu Đao không còn đao trong tay, liệu còn có thể làm được trò trống gì?

    Hạ Táo Hoa xoay người đâm bổ về phía Âm Thiên Vương như một kẻ điên loạn. Song Âm Thiên Vương lại vô cùng tỉnh táo, gã mau chóng vạch ra thấu đáo phương cách ứng phó trước thế tấn công cuồng loạn nhường kia. Gã đứng thật vững vàng, hai lưỡi Nguyệt nha việt bắt chéo nhau trước ngực, chân xoạc hình chữ đinh, mũi chân uốn cong như cánh cung, đây là chiêu thức thuận thế chặn chém, cũng có thể nhảy bật lên lao tới tấn công. Ngoài ra, hai lưỡi Nguyệt nha việt bắt chéo nếu lật ngang mà chém ra, sẽ quét thành một vòng tròn sắc lẹm, khác nào một nút lẫy giăng sẵn trước một Hạ Táo Hoa đang trong tình trạng đầu óc rối loạn, suy sụp tinh thần.

    Hạ Táo Hoa đã hoàn toàn mất lý trí, lao đi trong bộ dạng cơ thể chúi thấp, đầu cúi gằm, chẳng khác nào một con trâu điên. Liệt phách phượng chuỷ thích cũng không được bật dài ra, mà đặt ép sát sau cơ thể. Bước chân tuy nhanh, song chệnh choạng rối loạn, không hề tuân theo một lộ số bộ pháp nào. Lao về phía Âm Thiên Vương trong bộ dạng này, chẳng khác gì tự đưa cần cổ đến trước Nguyệt nha việt.

    Khi Hạ Táo Hoa chỉ còn cách Âm Thiên Vương khoảng năm bước chân, Âm Thiên Vương đã chắc mẩm đứa con gái này muốn chết dưới tay mình. Đã đến khoảng cách này, dù cô ta tiến hay dừng hay lùi, cũng không thể có bất kỳ chiêu số nào cứu vãn nổi.

    Khi chỉ còn cách Âm Thiên Vương khoảng ba bước chân, Hạ Táo Hoa bỗng dưng đứng khựng lại. Có lẽ vệt hàn quang lạnh lẽo loé lên trên lưỡi Nguyệt nha việt đã khiến cô hồi tỉnh lại ít nhiều, song đã không kịp nữa rồi. Âm Thiên Vương vận lực vào mũi chân hình cung, nhảy vọt lên, Nguyệt nha việt bên tay trái xoè ra như cánh én để giúp cơ thể giữ thăng bằng trong lúc tấn công. Nguyệt nha việt bên tay phải chém ngang về phía trước. Lúc này, nếu Hạ Táo Hoa ngẩng đầu, nhát chém sẽ chém đứt đôi cần cổ. Nếu không ngẩng đầu, thì hộp sọ cũng sẽ bị phạt thành hai nửa trước sau. Trừ phi hộp sọ của cô làm bằng gang thép, nếu không, cô chỉ còn đường chết.

    “Keng!”

    Một tiếng va đập chói tai. Nguyệt nha việt đã không thể chém vào hộp sọ Hạ Táo Hoa. Diễn biến thình lình khiến Âm Thiên Vương vô cùng sửng sốt và kinh hãi. Vốn đinh ninh chỉ cần một chiêu lập tức thành công, đột nhiên lại xảy ra biến cố, khiến Âm Thiên Vương chỉ biết vội vã thu Nguyệt nha việt về theo phản xạ, để tự vệ hoặc tiếp tục tấn công.

    Chính vào thời khắc bàng hoàng đó, chính vào lúc Nguyệt nha việt giật trở về một cách vô thức, Âm Thiên Vương đã không kịp phát giác ra có một chớp sáng lạnh lẽo mang theo làn thi khí ngất trời ập về phía mình ngay phía sau lưỡi Nguyệt nha việt đang thu lại.

    Thứ vừa chặn đứng Nguyệt nha việt chính là phần mũi của Liệt phách phượng chuỷ thích. Phần mũi có hình ba khía, ba khía tụ lại trên đỉnh thành một hình trăng khuyết cong cong, mài bằng thành lưỡi sắc. Điểm này rất giống với Nguyệt nha việt của Âm Thiên Vương, song kích cỡ chỉ bằng hạt đậu tương. Hạ Táo Hoa đã dùng phần lưỡi hình trăng khuyết chỉ to bằng hạt đậu tương để đón đỡ chính xác lưỡi Nguyệt nha việt đang chém ngang tới.

    Âm Thiên Vương không nhìn rõ cây Liệt phách phượng chuỷ thích ẩn phía sau tấm lưng đang chúi xuống của Hạ Táo Hoa, cũng không thể ngờ rằng thứ vũ khí đó không cần chuyển động, chỉ cần bấm chốt phóng dài ra đã có thể giết người. Hơn nữa, khi mũi nhọn lao đi, diện tích tấn công của mũi nhọn là nhỏ nhất, lại bị ánh phản quang loang loáng trên lưỡi Nguyệt nha việt đang thu về che khuất, nên Âm Thiên Vương đang trong lúc sửng sốt không thể phát hiện ra.

    Phượng chuỷ thích cắm phập vào mặt Âm Thiên Vương không tốn mấy sức lực. Một phần là do mũi thích cực kỳ bén nhọn, một phần nữa là nhờ vào dư lực trong tư thế xông lên của Âm Thiên Vương. Mũi thích xuyên thẳng vào mắt phải rồi chui ra sau mé trái hộp sọ. Phía trước mặt hắn, máu đỏ loè trộn lẫn sắc tố đen của con ngươi ồng ộc chảy xuống theo máng dẫn máu, còn phía sau hộp sọ, máu tươi và óc trắng nhễ nhại phun ra theo phần mũi ba múi.

    Từ trong tình huống cận kề cái chết đột ngột phản chiêu đoạt mạng đối thủ, chiêu này có tên là “Phượng hoàng Niết bàn”. Bởi vì chiêu thức hiểm ác, chỉ sơ suất chút đỉnh sẽ mất mạng lập tức, nên Hạ Táo Hoa chưa từng sử dụng. Nhưng trong tình huống vừa nãy, cô đã gần như điên loạn, muốn vứt bỏ hết tất cả mọi thứ, không còn màng đến sống chết, chỉ muốn xuống tay tàn sát cho hả dạ. Vì thế mới đặt bản thân vào tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc mà sử ra hiểm chiêu này.

    Thi thể Âm Thiên Vương lăn lông lốc xuống phía dưới cùng với đám đá vụn trên bãi Thần Hô. Phải đến lúc này, nước mắt Hạ Táo Hoa mới ầng ậc tuôn trào. Đòn tàn sát đã phát tiết được tận cùng nỗi thống khổ, chua xót trong lòng cô.

    Dương Thiên Vương lập tức thu vội bước chân. Âm Thiên Vương mới chỉ một chiêu đã chết thảm, vậy khả năng chiến thắng của gã liệu có nổi mấy phần? Nhưng hắn đã kịp liếc thấy Phật sống Kim Đỉnh đứng ở phía trước, hình như còn đang khống chế một nhân vật quan trọng phía đối thủ, bởi vậy quyết định tạm thời tránh xa, im lặng quan sát động tĩnh.

    Phật sống đã đột ngột ra tay dưới sự che phủ của một luồng khí bình hoà, lực đạo cực kỳ cương cường, mãnh liệt. Song không phải cú ra tay nào cũng nhằm đoạt mạng người. Phật sống vừa đánh ra một chưởng, đoạn gậy thép chưa kịp xuyên vào cơ thể Lỗ Nhất Khí đã gãy rời. Ba ngón tay vặn mạnh, lập tức xoắn đứt mũi gậy lòi ra trước bả vai. Cây gậy đã gãy thành ba đoạn, đoạn ở giữa vẫn ở lại trong cơ thể Lỗ Nhất Khí. Không còn cách nào khác, chỉ có như vậy mới giúp cậu không bị mất máu quá nhiều mà chết.

    Xử lý xong cây gậy, Phật sống một tay đỡ dưới nách Lỗ Nhất Khí, nửa xốc nửa kéo lấy cậu, lập tức xoay người bước đi.

    - Đặt anh ấy xuống! - Dưỡng Quỷ Tỳ quát lên một tiếng, tung người đuổi theo.

    Hạ Táo Hoa ngoái lại, nhìn thấy cảnh tượng này, bèn gạt vội nước mắt, lập tức đề khí nhảy vọt lên đuổi tới, tốc độ không hề thua kém Dưỡng Quỷ Tỳ. Chỉ là khi băng qua bên xác lão mù, bước chân có chùn lại một chút.

    Dương Thiên Vương không hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra, song gã cũng vội vã đuổi theo bén gót.

    Lỗ Nhất Khí được Phật sống kéo đi, di chuyển hết sức nhẹ nhàng, bàn chân của cậu hầu như không bén đất. Song cậu bắt đầu lo lắng cho Dưỡng Quỷ Tỳ và Hạ Táo Hoa đang đuổi theo phía sau. Tuy Phật sống đi rất nhanh, song bộ pháp luôn tuân theo quy luật nhất định. Tại đoạn đình cuối hành lang, ông ta bước theo kiểu tuần hoàn năm - bốn – ba. Tại đoạn vòng qua tháp trắng, lại đổi thành hai bước trượt nhanh nối liền. Tại đây, Lỗ Nhất Khí còn nhìn thấy phía trong ngoài hành lang đều có một vài chốt lẫy đã hoạt động. Hai cột hành lang đã bắn ra bốn tầng dùi hoa sen từ trên xuống dưới. Khoảng đất bằng bên ngoài hành lang lừng lững vọt lên hai cột trụ xuyên trời hình vuông đỉnh nhọn. Ở gần tháp trắng, có rất nhiều mũi tên cháy sém cắm xiên trên mặt đất.

    Có người đã xông tới tận đây. Là người của Mặc gia? Hay là đám Quỷ Nhãn Tam? Dù là ai, hẳn cũng đã trúng phải khảm nút, không chết cũng bị thương.

    Dưới chân núi phía nam của dãy núi Thiên Thê, có một vách đá phẳng lì, trên vách đá có vẽ một bức bích hoạ với màu sắc rực rỡ sống động, nội dung đều là các điển tích Phật giáo như đức Phật thị hiện, rắc hoa ban phúc, thánh nữ bay lượn. Bên trái bức bích hoạ, có một dãy bậc thang đẽo vào vách đá, quanh co uốn lượn chạy lên cao. Bậc thang không rộng, song lại cực dốc, có lẽ phải dùng cả tay lẫn chân mới có thể leo lên.

    Phật sống Kim Đỉnh đang dẫn theo Lỗ Nhất Khí chạy thẳng về phía bậc thang đá. Song còn chưa kịp giẫm chân lên con đường nhỏ phía trước bức bích hoạ, một tiếng quát đã đột ngột vang lên:

    - Phật gia, ngài định đi đâu? – Âm thanh vang rền chẳng khác gì tiếng sấm nổ giữa không trung.

    Lỗ Nhất Khí giật bắn cả mình mẩy, vội liếc mắt sang hai bên, song không tìm ra người vừa lên tiếng.

    Song Phật sống vẫn dửng dưng như không, dường như đã lường trước sự việc này, chỉ cúi đầu mà đáp gọn lỏn một câu:

    - Lên Thiên Thê!

    - Không được! - Tiếng quát lại rền lên như sấm.

    - Ta làm việc ta muốn, ngươi làm gì được ta? - Phật sống vẫn cúi đầu rủ mắt.

    - Phật gia, ngài làm khó tôi rồi! Chủ nhân lệnh cho tôi canh giữ Thiên Thê, ngài muốn lên cũng phải đợi chủ nhân nói một tiếng đã.

    Chỉ dùng mắt thì không thể tìm ra người đang nói, bởi vậy Lỗ Nhất Khí đã dùng cảm giác siêu phàm để rà soát xung quanh. Trên bức bích hoạ kia có một nơi khí thế cuồn cuộn, chẳng lẽ người vừa lên tiếng lại là nhân vật trong tranh? Song Lỗ Nhất Khí còn chưa kịp quan sát kỹ thêm, lại đột nhiên cảm giác thấy có một làn khí tướng khác, quen thuộc nhưng vô cùng đáng sợ, ở ngay hốc tường phía dưới con dốc sau lưng. Làn khí tướng này vừa mang vẻ huyền diệu tự nhiên của khí Đạo gia, lại vừa có sự quyết đoán bá đạo của khí vương gia, chính là Chu Chân Mệnh! Nhưng kỳ lạ là làn khí của Chu Chân Mệnh chỉ tĩnh lặng ẩn phục tại một chỗ, không hề xê dịch. Hắn có ý đồ gì? Lẽ nào đang tìm kiếm thời cơ đánh lén? Không thể, ý đồ của hắn chắc chắn phải thâm thuý hơn đánh lén rất nhiều.

    - Môn trưởng Chu gia ở gần đây, nơi này không nên ở lâu! - Lỗ Nhất Khí nói khẽ nhắc nhở Phật sống.

    Mí mắt Phật sống hơi nhích lên một lát, sau đó hướng về phía vách đá, cao giọng:

    - Không đợi được nữa! Nghiên cứu Phật lý suốt mấy chục năm trời, chỉ vì một khoảnh khắc hôm nay, không thể chậm trễ! - Giọng ông ta vô cùng cương quyết.

    - Vậy thì không còn gì để nói nữa! Tôi nhận ân sủng của Chu gia cũng đã mấy chục năm, không thể ngay cả một đoạn rìa ngoài cũng không giữ nổi! - Người trong tranh tuy ngữ khí uyển chuyển, song ý tứ quyết không nhượng bộ.

    Lỗ Nhất Khí đã tìm ra nơi phát ra giọng nói, song cậu không còn dám tin vào cảm giác của mình, bởi lẽ những gì cậu cảm nhận thấy là khác biệt một trời một vực với những gì mắt thấy tai nghe.

    Mảng bích hoạ tại nơi đó mô tả một đám thiên nữ đang bay lượn, với thân hình đầy đặn nuột nà, khuôn mặt bầu bĩnh phúc hậu, y phục mong manh hầu như không có, mỗi người cầm một nhạc cụ khác nhau. Có lẽ là Thiên Lạc thánh nữ từng được miêu tả trong phần “Cửu long quán thiên dục” cuốn “Phật lâm thế”.

    Điều khiến Lỗ Nhất Khí cảm thấy kỳ lạ là hình tượng của các thành nữ đều trong tư thế bay ngang hoặc chúc ngược xuống. Cho dù Chu gia có thuật cải trang, tô điểm cho người thật giống hệt như tranh vẽ, thì người này cũng không thể lúc nào cũng lộn ngược hoặc treo ngang trên vách đá trơn bóng. Hơn nữa, những hình dung yểu điệu mỹ miều kia làm sao có thể phát ra giọng nói sấm rền như ban nãy?

    - Xem ra ngươi nhất quyết ngăn cản việc tu hành của ta? - Phật sống từ từ ngẩng đầu lên.

    - Người đời xảo trá mưu mô vô số. Phật sống không nhập thế, không nên mù quáng tin lầm lời lẽ yêu tà của phàm phu, mà lại sa chân vào ma đạo!

    Giọng nói đích xác được phát ra từ một chân dung thánh nữ, hơn nữa, lại là vị thánh nữ ôm đàn tì bà treo ngược giữa trời. Lỗ Nhất Khí đã cảm giác thấy đôi môi cô ta khẽ mấp máy và làn khí tướng lên xuống phập phồng trong khi nói.

    Đã tìm ra vị trí chính xác, rất nhiều hiện tượng kỳ quái cũng sẽ được sáng tỏ. Lỗ Nhất Khí sử dụng kỹ xảo “mắt năm phần” của Lỗ gia để quan sát, và phát hiện ra rằng thánh nữ trong tranh không hẳn là treo ngược, mà chính xác hơn là nằm sấp giơ chân lên cao.

    - Hình như thánh nữ, giọng tựa chuông rền, trông như treo mình, song lại là nằm phục. Nếu nói về yêu tà, còn ai sánh bằng kẻ đó? Phật sống không những lún sâu vào tội ác thế tục, mà còn làm bạn với yêu ma, thảo nào thanh tu không tinh tiến, Phật lý khó thông tỏ! - Lỗ Nhất Khí nói khẽ. Lúc này, sức mạnh duy nhất mà cậu có thể nhờ cậy chỉ còn lại Phật sống, nhất thiết phải kéo ông ta về phía mình.

    - Người này không phải là yêu ma, mà là tỳ thiếp của môn trưởng Chu gia Thú Cơ nương nương. Do cô ta tinh thông bí thuật Báo phòng[24] nên trong môn còn gọi cô ta là Báo Cơ nương nương. Nơi đây do cô ta canh giữ, cũng là nơi cô ta luyện công. Thân hình nằm sấp giống như treo ngược, nhằm tu âm dương đảo ngược, lấy dương bên ngoài nuôi dưỡng nơi thầm kín, để hội tụ chân khí cần thiết cho thuật Báo phòng. Song phương pháp tu luyện này cũng có mặt trái, đó là khiến dương khí thu về tích tại cổ họng trở lên, bao gồm cả khuôn mặt. Khí dương tích tụ ở mặt khiến sắc mặt hồng nhuận, tích tụ ở cổ họng sẽ khiến giọng nói vang vọng như trống như chuông, không hề thua kém đàn ông. - Phật sống là người thành thật, không phải cố tình muốn phản bác lời nói vừa rồi của Lỗ Nhất Khí, chỉ nói đúng sự thật, nhưng nghe lại giống như đang biện hộ cho Báo Cơ nương nương.

    Mấy chữ “âm dương đảo ngược” vừa thốt ra từ miệng Phật sống đã khiến Lỗ Nhất Khí ớn lạnh trong lòng. Cậu lập tức nhớ tới ba chữ “điên chi uyên” trên tấm thẻ ngọc. “Điên chi uyên”, lấy đỉnh làm vực, cao thấp hoán đổi, chẳng phải cũng mang ý nghĩ âm dương đảo ngược ư? Vị trí “nội hợp khí thông”, nơi chỉ tán khí không tụ khí sẽ ở nơi nào trên ngọn núi? Là đỉnh? Hay là vực? Nhưng nếu nhìn từ thế núi, dù là đỉnh hay vực, đều không phù hợp với đặc điểm không nhật nguyệt thiếu tứ tịnh của “nội hợp”.

    Chú thích

    [22] Tức thuật Yoga.

    [23] Tức bàn tay xoay vòng.

    [24] Tức là thuật phòng the bí truyền của cung nữ trong hậu cung triều Minh.​
     
  2. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,693
    Lời Nguyền Lỗ Ban
    Tác giả: Viên Thái Cực
    Quyển 6
    Chương 22: Cùng phá giải

    Nhóm dịch: An Lạc Group
    Nguồn: Nxb văn học

    Chính vào lúc Lỗ Nhất Khí đang âm thầm suy nghĩ, đột nhiên xuất hiện một luồng sát khí cực kỳ sắc bén từ phía tháp trắng chầm chậm tiến lại, mang lại một thứ cảm giác giống như đao sắc cứa vào da thịt. Trong quá trình di chuyển, luồng khí lúc đi lúc dừng, rẽ ngoặt quanh co, có vẻ như đang giải khảm mà tới.Lỗ Nhất Khí không nói gì, chỉ ngoái đầu liếc nhìn Phật sống. Sắc mặt Phật sống hết sức đăm chiêu. Đúng vậy, phía trước có Báo Cơ cản đường, phía sau có Chu Chân Mệnh âm thầm theo dõi, bây giờ lại thình lình mọc ra một luồng sát khí sắc bén rợn người. Trong tình cảnh thế này, Phật sống không những phải tự bảo vệ mình, mà còn phải che chắn cho Lỗ Nhất Khí vừa mới bị thương, dù có Phật Tổ hay thần tiên ở đây, cũng khó tránh khỏi lo lắng.

    - Con đường duy nhất chỉ có thể là xông qua chỗ Báo Cơ nương nương, lên Thiên Thê trước khi quân chi viện tới kịp! - Lỗ Nhất Khí lẩm bẩm như tự nhủ với bản thân.

    Phật sống đã tin lời Lỗ Nhất Khí. Trong mắt ông ta, Lỗ Nhất Khí là một cao thủ tuyệt đỉnh tinh thông Phật lý, dùng tâm ngự địch, có cậu sát cánh bên ông ta, thì việc xông qua cửa ải của Báo Cơ nương nương hẳn cũng là việc dễ dàng.

    Thế là Phật sống xốc Lỗ Nhất Khí lên, đi thẳng về phía trước. Nhìn thấy Phật sống dứt khoát lao lên, Báo Cơ nương nương quát lên như sấm:

    - Phật gia, nếu nhất quyết xông lên, chớ trách tôi vô tình!

    Lời vừa dứt, trên vách đá bỗng vang lên một tràng những tiếng “lắc rắc”. Lỗ Nhất Khí thoạt nghe đã biết là tiếng chốt lẫy kéo căng. Bức bích hoạ rất rộng, phạm vi của nó bao trùm phần lớn đoạn đường từ hành lang bên ngoài tháp trắng đến phía dưới đám bậc thang đá của dãy núi Thiên Thế. Bởi vậy, phạm vi sát thương của khảm diện này cũng vô cùng rộng lớn. Chỉ cần đặt chân lên con đường phía trước bức bích hoạ, chắc chắn bọn họ sẽ hết đường.

    Sau khi phát ra một tràng những âm thanh quái dị, bức bích hoạ sắc màu rực rỡ đã xuất hiện một vài biến hoá rất vi tế, mỗi một biến hoá đều tương đương với sự tồn tại của một loại nút giết hoặc nút vây.

    Lỗ Nhất Khí chú ý tới từng mảy may biến hoá. Nguyên lý của “Cơ xảo tập” và “Ban kinh” đã dung hội quán thông trong trí não, tầm hiểu biết về khảm nút của cậu cũng đã đạt đến cảnh giới thượng thừa. Nhìn vào những biến hoá, Lỗ Nhất Khí có thể khẳng định có cả thảy trên mười lăm loại nút lẫy trên tấm bích hoạ. Trong mảng bích hoạ ngay trước mặt cậu có ba loại là Lưới quăng tám chân, Gông khớp nhanh hai hình và Kẹp lông nhím. Sang phía tây lần lượt là các nút Vòng ráng mây, Cắt chữ điền, Mâu xuyên tim chín chín vào một, Chụp máu theo gió...; sang phía đông lần lượt là các nút Cóc trời phun vàng, Toà chạm đất, Bút mộng sinh hoa... Còn có hai chỗ Lỗ Nhất Khí phát hiện ra chốt lẫy, song không biết được là loại nút gì, bởi lẽ chỉ có một đầu ống thò ra, đoán rằng không phải là nước độc, nước ăn mòn, cũng là loại khói hun, sương độc.

    Hai người Lỗ Nhất Khí không cần phải suy xét tới đám nút lẫy phía đông, bởi vì bậc đá Thiên Thê nằm ở phía tây nơi họ đang đứng. Số nút ở đoạn này lại nhiều hơn hẳn phía đông, khoảng trên dưới mười loại.

    Trong nghề khảm tử từ cổ chí kim, không ai có thể liên tục vượt qua nhiều cơ quan cạm bẫy đến như vậy. Theo ghi chép trong sách vở, người từng liên tục vượt qua được nhiều khảm nút nhất chính là kỳ nhân khảm tử thời Đường Mặc Phi Yên, đây là một kỳ nữ trong Mặc môn, cả đời chuyên nghiên cứu về nguyên lý khảm nút. Khi bà sáu mươi ba tuổi, một mình xông vào luỹ Thính Thiên của An Lộc Sơn, liên tiếp vượt qua sáu khảm trong sảnh Bố Chiến ở tầng thứ hai của luỹ, nhưng cuối cùng vẫn phải bỏ mạng trong khảm Cửa sập hình búa chém mười lần. Còn một người nữa là Cẩm Mao Thử Bạch Ngọc Đường thời Tống, trước khi rơi vào khảm diện “lưới chuông bắt sẻ” ở lầu Tiêu Dao rồi bị mưa tên bắn chết, ông đã liên tiếp vượt qua năm khảm, sau đó lại né qua được nút “đao hoa sen” ở cửa lưới của Lưới chuông bắt sẻ, được tính là vượt qua được năm khảm rưỡi. Hai người này được xem là “Hắc Bạch song thành” trong nghề khảm tử, được khảm tử gia đời sau coi là đỉnh cao không dễ vượt qua.

    Mà lúc này, có tới hơn mười nút chết liên tục, việc liều mạng xông qua gần như là không thể. Vì người thiết kế khảm diện đã suy xét tới tính liên tục của khảm nút, lực sát thương của nút lẫy phía sau sẽ nhắm vào những chỗ sơ hở có thể lợi dụng của nút lẫy phía trước nó.

    - Phật sống, những khảm nút này ngài có thể tránh được không? - Lỗ Nhất Khí hy vọng có thể nghe được lời khẳng định từ Phật sống.

    - Khảm nút nào? - Phật sống có vẻ ngơ ngác.

    - Chính là những cạm bẫy, ám khí trên bức bích hoạ kia! - Lỗ Nhất Khí e rằng Phật sống không hiểu ý nghĩa của từ khảm nút.

    - Hả? Trên vách kia có ám khí? – Thì ra Phật sống hoàn toàn mù tịt về khảm nút.

    Luồng sát khí sắc lạnh như dao cắt đã băng qua tháp trắng. Lỗ Nhất Khí đã nhận ra, làn khí tướng tương tự như thế này từng xuất hiện ở Nam Lĩnh, Viêm Hoá Lôi nói đó là sát thủ với tên gọi người đao mười sáu lưỡi.

    Ở đoạn cuối hành lang vòng quanh tháp, thi khí cuồn cuộn, ma khí lan tràn. Hẳn là Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đang phải vật lộn quyết liệt với một cao thủ rất đáng gờm. Nhìn vào làn thi khí và ma khí, biết rằng bọn họ đã phải phát huy công lực tới cực điểm.

    Phía Chu Chân Mệnh vẫn không có động tĩnh gì. Hắn đang chờ đợi cơ hội thích hợp nhất, hiệu quả nhất.

    Khảm nút đã lên sẵn chốt lẫy của Báo Cơ nương nương đều dùng bùa chú ánh sáng “bóng theo hình” để khởi động. Lúc này, dù hai người Lỗ Nhất Khí di chuyển sang phía nào, chỉ cần thân hình dịch chuyển, khiến cho ánh sáng thay đổi, bùa chú sẽ lập tức khởi động. Bùa chú khởi động, sẽ sinh ra lực vô hình, như nảy, rung, lắc, kéo theo chốt lẫy hoạt động.

    Không có viện trợ. Phật sống không thể trợ giúp. Đối thủ đã ép sát đến nơi. Chỉ có thể dựa vào bản thân. Không! Cần phải dựa vào sự liên thủ giữa mình và Phật sống. Lỗ Nhất Khí đang cấp tập quét mắt quan sát, trí não xoay chuyển như bay.

    Những thứ cần nhìn đều đã nhìn thấy, những thứ cần nhớ đều đã nhớ kỹ, những thứ cần tính toán cũng đã tính toán xong. Biện pháp phá giải đã hình thành trong đầu. Bước tiếp theo chính là cần thực hiện một cách chính xác và chuẩn xác.

    - Tôi nói “đi” thì đi, nói “lên” thì nhảy thẳng lên, nói “nhảy” thì nhảy về phía trước, nói “dừng” thì dừng lại, nói “phục” thì chúi người xuống! - Lỗ Nhất Khí nói với Phật sống với nét mặt hết sức nghiêm trọng. Chỉ có thống nhất các khẩu lệnh với Phật sống, mới có thể xông lên phía trước đúng với yêu cầu và mục đích đã định.

    Phật sống chỉ khẽ gật đầu, song ánh mắt và nét mặt tràn đầy vẻ kiên định và tin tưởng.

    Tín hiệu và hành động đã thống nhất, một vấn đề then chốt nữa chính là phải kiểm soát chính xác vị trí và cự ly hành động. Trong khảm diện với nhiều nút lẫy bố trí liên tiếp, chỉ cần bước chệch nửa bàn chân cũng sẽ mất mạng ngay lập tức. Bởi vậy, cần phải có một phương pháp xác định vị trí cự ly mà Lỗ Nhất Khí và Phật sống đều thông thạo.

    Phương pháp xác định vị trí, cự ly thường dùng nhất là phương vị Bát quái. Song Phật sống chuyên nghiên cứu về Phật học Mật Tông Tây Tạng, nên không hiểu gì về lý số Đạo gia của Trung Nguyên. Lỗ Nhất Khí chợt nhớ tới một điển tích của Phật giáo Mật Tông có tên là “Tạng Phật thất luân thích thân”. Trong sách có nói rằng, trong cơ thể con người có bảy luân xa, trong đó có một luân xa nằm ở bên ngoài cơ thể, gọi là luân xa Phạn huyệt. Sáu luân xa còn lại nằm bên trong cơ thể, lần lượt là luân xa đỉnh đầu, luân xa trán, luân xa họng, luân xa tim, luân xa rốn và luân xa hải để. Bảy luân xa được bắt đầu từ luân xa Phạn huyệt bên ngoài cơ thể, khoảng cách giữa các luân xa dài ngắn khác nhau. Có lẽ Phật sống sẽ thông thạo phương pháp xác định vị trí, cự ly kiểu này.

    - Bước đi căn cứ theo cự ly giữa bảy luân xa của tượng Phật ngồi chín trượng, trước khi bước đi hãy nghe tôi nói rõ vị trí! - Lỗ Nhất Khí muốn tiến hành xác định vị trí dựa theo cự ly giữa bảy luân xa của pho tượng Phật ngồi cao chín trượng.

    Phật sống lại dứt khoát gật đầu. Cách xác định cự ly này đối với ông ta dễ như trở bàn tay.

    Lỗ Nhất Khí cảm hấy hơi khó khăn khi rút khẩu pạc-hoọc ra. Bàn tay phải đã đứt cụt, chỉ có thể dùng tay trái bóp cò, song vừa rồi đầu gậy của lão mù đã xuyên thủng bả vai trái của cậu.

    Cánh tay trái không thể nhấc lên được nữa, bởi vậy chỉ có thể gập khuỷu tay lại để nâng khẩu pạc-hoọc lên ngang tầm thắt lưng.

    - “Pằng!”

    Phát súng đầu tiên chỉ là tìm ra điểm định vị. Có được điểm định vị, mới có thể tìm được cảm giác chính xác.

    Thở khẽ hít sâu, tụ khí ngưng thần, để thân tâm đều thuận theo tự nhiên. Trong cảm giác của Lỗ Nhất Khí đã không còn cái tôi nữa, xác thịt như đã hoà tan vào trong không khí. Trong khoảnh khắc đó, khí thế của cậu bừng bừng tuôn chảy, như mây toả ngang trời, như nước tràn dưới suối, rực rỡ như ánh nắng phía trời đông. Khí tướng vừa bừng lên, đám cao thủ phía Chu gia thảy đều bàng hoàng sửng sốt. Ngay cả Chu Chân Mệnh đã từng nhìn thấy khí tướng của Lỗ Nhất Khí cũng phải kinh ngạc trong lòng. Mới vài ngày không gặp, nguồn năng lượng tiềm ẩn trong khí tướng của gã thanh niên kia đã lớn mạnh gấp mấy lần, bừng lên một cảm giác choáng ngợp không thể chống cự.

    Vị trí của tất cả các chốt lẫy dây bật và hình thức hoạt động của chúng được rà soát lại một lượt trong trí não Lỗ Nhất Khí. Tất cả chúng đã hình thành nên một bức tranh trong ý thức của cậu. Trong cảm giác, bức tranh đó đang được kéo lại gần, rất gần, gần tới mức cậu chỉ cần đưa tay ra là chạm tới.

    - Đi! Luân xa tim! - Lỗ Nhất Khí thốt lên khe khẽ.

    Lời còn chưa dứt, thân hình Phật sống đã lập tức di chuyển, dẫn theo cậu lao thẳng tới vị trí luân xa tim của pho tượng Phật ngồi cao chín trượng.

    Phật sống và Lỗ Nhất Khí vừa di chuyển, chốt lẫy phía bên kia lập tức khởi động. Trước hết là nút Kẹp lông nhím phía trước mặt, song lẫy của nó chỉ bung một nửa rồi mắc kẹp, bởi vì khi vừa bật ra chữ “đi”, Lỗ Nhất Khí đã nổ súng. Viên đạn găm trúng chốt chính của Kẹp lông nhím, khiến tấm chống của chốt chính mắc kẹt vào cần răng, nên nút không thể tiếp tục vận hành.

    Phát súng thứ hai bắn trúng dây lẫy treo của Mâu xuyên tim chín chín vào một ẩn trong khe đá. Súng nổ lẫy đứt, dây lẫy của toàn bộ nút khảm đều được nhả hoàn toàn, không một cây mâu xuyên tim nào bay ra.

    - Dừng! - Lỗ Nhất Khí lại kêu lớn. Tiếng kêu vừa bật ra khỏi miệng, Lỗ Nhất Khí lại giương súng bắn trúng chốt gạt của Cắt chữ điền. Chốt lẫy của nút này hoạt động theo cách gạt nghiêng sang một bên, từ góc độ và vị trí của Lỗ Nhất Khí, không có cách nào khiến chốt lẫy nhả dây xả lực, nên Lỗ Nhất Khí đã bắn vào chốt gạt, như vậy có thể khiến nút lẫy hoạt động trước. Lỗ Nhất Khí yêu cầu Phật sống dừng lại, chính là muốn lợi dụng khoảng thời gian chênh lệch để né tránh khung cắt hình chữ điền bắn ra đầu tiên.

    - Nhảy! Luân xa hải để! - Lỗ Nhất Khí lại hô lên.

    Phật sống nghe tiếng mà động, thân hình nhảy vọt đi theo trình tự bắn của khung cắt chữ điền. Khi các khung cắt phóng ra hết, họ cũng vừa tới nơi.

    Song vừa tới nơi, thì nút tiếp theo là “vòng ráng mây” được xếp chồng lên nút này vừa hay lại hoạt động. Chớp mắt, vô số vòng thép dẹt với phần lưỡi mài sắc lẹm ào ào phóng ra như mây toả. Mà lần này, hai người họ đang ở chính giữa phạm vi của nút lẫy, không có chỗ né tránh.

    - Phục! - Lỗ Nhất Khí nằm sấp xuống tránh, khẩu súng trong tay cũng nhả đạn liên hồi.

    Đạn tới tấp bay thẳng tới những vòng thép sắc lẹm, song số đạn trong ổ súng lại ít ỏi hơn rất nhiều so với đám vòng thép đang ào ào lao tới. Mặt khác nếu bắn hết đạn, những nút lẫy tiếp theo sẽ không thể đi qua. Nên Lỗ Nhất Khí chỉ bắn năm phát đạn, mỗi phát đều được bắn theo góc độ vô cùng xảo diệu, vòng bay bị bắn trúng lập tức đổi hướng đâm vào vòng thép liền kề, vòng thép này lại va phải vòng thép khác. Bởi vậy, tuy chỉ có năm phát đạn, song số vòng bay bị bắn đi lại nhiều hơn gấp bốn năm lần. Bởi vậy trong đám vòng tuôn ra ào ạt như mây đã xuất hiện một lỗ hổng, vừa đủ cho Phật sống và Lỗ Nhất Khí cúi lom khom mà băng qua.

    Đứng ngoài nhìn vào, có cảm giác như Phật sống và Lỗ Nhất Khí đang biểu diễn một màn kịch múa rối hay kịch đèn chiếu, còn tiếng súng, tiếng chốt bật lẫy bung chính là dàn nhạc đệm cho họ. Động tác của bọn họ trong rất kỳ quặc, lúc đi, lúc dừng, lúc thụp xuống, lúc nhảy lên... Yêu cầu duy nhất là bọn họ cần thực hiện những động tác này một cách liên tục, nhất quán từ đầu tới cuối, cho đến tận vị trí không còn khảm nút nữa mới thôi. Bởi lẽ chỉ cần hơi chậm trễ, hoặc lỡ nhịp mất một thời cơ, thì cái giá phải trả sẽ là hai tính mạng, hai tính mạng cực kỳ đáng giá, không gì có thể thay thế.

    Báo Cơ nương nương kinh ngạc đến sững sờ. Đao Thập Lục sửng sốt đến chết lặng. Chu Chân Mệnh đang ẩn nấp cũng vội vã chạy nhào tới. Không phải hắn muốn chớp thời cơ tấn công Lỗ Nhất Khí, mà là không muốn bỏ lỡ màn trình diễn ngoạn mục không tiền khoáng hậu này. Chu Chân Mệnh không giống những người khác, trong lòng hắn phần nhiều là khâm phục và tán thưởng. Khi hai người bọn họ lao tới ba nút lẫy cuối cùng, hắn thậm chí còn âm thầm cổ vũ trong lòng, thực tâm hy vọng Lỗ Nhất Khí có thể thuận lợi vượt qua, hy vọng cậu có thể sáng lập nên kỳ tích. Người ta nói quả thực không sai, “đối thủ chân chính mới là tri kỷ chân chính”.

    Tổng cộng mười một khảm nút, tuy trong phép phá giải có khi dùng mánh khoé khôn khéo làm cho nút lẫy vận hành trước, tuy quá trình phá giải được hoàn thành bởi hai người, song đích xác là bọn họ đã vượt qua. Không biết kỳ tích lần này của họ có được tính là vượt qua kỷ lục mà “Hắc Bạch song thành” đã lập nên hay không.

    Sau khi đã băng qua trùng khảm, Phật sống không nghĩ ngợi gì thêm, chỉ ổn định lại hơi thở và nhịp tim trong chốc lát, rồi lập tức tiến về phía bậc đá Thiên Thê. Khi đã tới dưới chân bậc thang, bước chân Phật sống đột nhiên chậm lại:

    - Quái lạ thật, đám linh thú của Báo Cơ nương nương sao một con cũng không thấy?

    Đám linh thú mà Phật sống vừa nhắc tới là tam thú ngao mà Chu gia đã phải đổ ra biết bao tâm lực suốt mấy trăm năm mới lai tạo thành công. Theo khảo chứng, đây có lẽ chính là loài giảo, một giống quái thú từng được nhắc tới trong “Sơn hải kinh”. Trong “Sơn hải kinh – Tây thứ tam kinh” có viết: “Ngọc Sơn... có loài thú, hình dáng giống chó, có đốm như báo, có sừng như trâu, gọi là giảo. Tiếng như chó sủa, nếu gặp được thì vùng đó được mùa lớn”.

    Đám linh thú vô cùng ghê gớm đã không canh giữ bên dưới Thiên Thê, vì bọn chúng đang phải đối phó với một người phá khảm rất mực lợi hại, đó là Mạc Thiên Quy. Khi đụng đầu với đám linh thú, Mạc Thiên Quy đã bị thương, bởi vậy chưa kịp ra tay đã bị chúng dồn vào trong hốc tường phía sau một mỏm đá nhô ra.

    Trước đó, khi đang chênh vênh trên cuộn vải kẹp trúc, Mạc Thiên Quy đã chuẩn bị sẵn sàng để mạo hiểm đu sang hành lang vòng quanh tháp. Song vừa chuẩn bị tung người lao đi, thì Đao Thập Lục đã tới. Gã Đao đầu đã chọn phương pháp đơn giản nhất để truy kích Mạc Thiên Quy, đó là cắt đứt cuộn vải kẹp trúc dưới chân lão.

    Mạc Thiên Quy thình lình cảm thấy đao khí ập đến sau lưng, cơ bắp dọc sống lưng bất giác co thắt lại, gai ốc nổi rùng rùng. Song lúc này đã không thể quay lại ứng phó, chi bằng cứ dứt khoát làm theo kế hoạch cũ, tung người lao đi.

    Biện pháp tuy chính xác, song động tác đã hơi chậm. Mà không, có lẽ do đao của Đao Thập Lục quá nhanh. Đao Thập Lục người chính là đao, đao cũng là người. Suy nghĩ vừa loé lên, đao cũng đã tới. Lưỡi đao còn chưa chạm đến, thế đao đã rạch đứt toác cuộn vải kẹp trúc.

    Cuộn vải kẹp trúc đứt phăng, khiến cú tung mình nhảy vọt lên của Mạc Thiên Quy chỉ mượn được một nửa kình lực. Dưới chân thình lình hụt hẫng khiến Mạc Thiên Quy bất giác rú lên một tiếng hãi hùng, vội vàng giật mạnh cánh tay. Tuy rằng mượn sức kéo của sợi dây gai trong tay vẫn có thể giúp cơ thể bay về phía trước, song do sức bật chỉ còn một nửa, bởi vậy góc độ lao chếch xuống dưới cũng lớn hơn. Hơn nữa, khi tác động lực vào cột trụ hành lang, đã động chạm vào chốt lẫy, trên cây cột trụ từ trên xuống dưới lập tức bắn ra bốn tầng dùi hoa sen. Tất cả những điều này đã khiến cho điểm hạ chân cuối cùng của Mạc Thiên Quy vẫn nằm trong phạm vi của bãi Vân thú mây trời chín sắc.

    Điểm tiếp đất có ván lật. Chỉ hơi giẫm nhẹ, tấm ván lập tức lật nghiêng sang bên, từ phía dưới đâm vọt lên một cây trụ trời bắn ngược. Trụ trời bắn ngược là cây trụ đá hình vuông đỉnh nhọn, cao hơn hai trượng tám, to khoảng cánh cửa bốn ô. Nút lẫy này cực nặng, tốc độ đâm lên cũng không nhanh. Bởi vì tác dụng tấn công của loại nút lẫy này chỉ là thứ yếu, còn tác dụng chủ yếu của nó là sau khi tất cả các trụ trời đều đã khởi động sẽ tạo thành một bức tường chắn, ép người vượt khảm đi vào đường chết.

    Sở dĩ Mạc Thiên Quy dám mạo hiểm tại nơi này, vì lão đã có phương pháp đối phó với trụ trời bắn ngược. Khi một chân vừa giẫm xoay ván lật, chân kia lập tức giậm mạnh lên mép hầm bên kia, lấy đà nhảy vọt lên hết cỡ. Hai cây trụ trời bắn ngược lao vụt lên, đuổi theo Mạc Thiên Quy. Do đều là thế vọt lên, hơn nữa Mạc Thiên Quy đã dự đoán được vị trí của đỉnh nhọn trên cây cột trụ, nên lão chỉ bị mặt bên của đỉnh nhọn va phải, đẩy bắn đi. Nhờ vào lực đạo này, lão lập tức điều chỉnh thân hình tiếp tục lao về phía trước.

    Khiến Mạc Thiên Quy bị thương chính là vài mũi tên được bắn ra từ tháp trắng lọng vàng.

    Hai khảm diện liền nhau, lại có rìa khảm giao nhau, nên dùng nút cuối cùng của khảm phía trước để kích hoạt khảm diện phía sau, đây chính là kỹ pháp thường dùng của khảm tử gia. Khi Mạc Thiên Quy bị cây cột trụ trời bắn ngược đẩy văng đi, thì hai cột trụ đã kích hoạt nút Mưa tên bắn của khảm diện tiếp theo. Mạc Thiên Quy còn chưa kịp đáp xuống đất, đã bị ba mũi tên đuôi trâu bắn trúng.

    Vị trí tiếp đất lại ở bên trong khảm diện tháp trắng. Chân Mạc Thiên Quy vừa chạm đất, dưới đất lập tức vọt lên hai gọng kìm tấm móc kẹp chặt lấy đùi trái và cổ chân phải của Mạc Thiên Quy. Gọng kìm tấm móc có hình dạng giống như bẫy kẹp thú, miệng kẹp sắc lẹm, lực kẹp cực mạnh, được nối với phiến đá chôn dưới đất bằng sợi xích sắt. Mạc Thiên Quy bị ám khí kẹp trúng, phần đùi lập tức toạc da nát thịt, xương chày nơi cổ chân bị kẹp gãy rời.

    Mạc Thiên Quy quả nhiên xứng danh thủ lĩnh của Mặc gia, tuy bị thương trầm trọng song không hề nao núng. Lão đưa tay rút soạt thanh kiếm sau lưng, một chớt sáng xanh trầm vụt qua, cắt đứt phăng đầu kìm, rồi bất chấp trên người còn găm mấy mũi tên, lão Mạc lăn tròn trên đất, thẳng tới bên cạnh lan can của hành lang vòng quanh tháp. Trong lúc lăn, thân tên đều bị đè gãy, còn đầu mũi tên càng cắm sâu thêm vào da thịt. Có điều cú lăn vẫn là kịp thời. Trong nháy mắt, hai gọng kìm tấm móc đã bị phủ kín bởi vô số mũi tên và phi tiêu lá phong.

    Dưới móng hành lang chính là rìa khảm của hành lang quanh tháp và tháp trắng lọng vàng, nên đây cũng là vị trí an toàn. Song dù an toàn tới đâu cũng không thể nấn ná lâu. Vấn đề cấp thiết lúc này đã không còn là tiếp cứu cho Lỗ Nhất Khí, mà là phải bảo vệ tính mạng của bản thân. Kẻ sắc bén như đao ở sau lưng đang giải khảm mà tới, trong khi lão lại bị thương nghiêm trọng, quả thực không đủ khả năng để đối đầu với cao thủ tầm cỡ này.

    Mạc Thiên Quy điểm vài huyệt đạo để cầm bớt máu. Sau đó chống kiếm, loạng choạng bước đi, men theo móng hành lang chạy ra khỏi phạm vi của khảm diện tháp trắng lọng vàng. Lão biết, lúc này không thể tiếp tục đi về phía tây. Với bộ dạng hiện giờ, lão đã không thể trợ giúp Lỗ Nhất Khí được nữa, mà ngược lại còn gây thêm rắc rối cho cậu. Vậy lão nên đi về phía đông, hay ở lại đây đợi quân chi viện tới?

    Chính vào lúc này, đột nhiên có âm thanh quái lạ vọng đến từ hai bên. Mạc Thiên Quy lông tóc dựng ngược, lưng rịn mồ hôi. Không có đao khí, sát khí, chỉ có âm thanh lạ và mùi dã thú.​
     
  3. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,693
    Lời Nguyền Lỗ Ban
    Tác giả: Viên Thái Cực
    Quyển 6
    Chương 23: Cùng quyết đấu

    Nhóm dịch: An Lạc Group
    Nguồn: Nxb văn học

    Dưới chân núi, phía chính nam là khảm tướng “Quạ vàng đuổi thỏ ngọc”, phía tây là khảm tướng “Lục dương xoay chiếu”, phía đông là khảm tướng “Sao sáng xoay quanh mặt trời”. Mà ở trên núi, có Lỗ Nhất Khí mang theo Thiên bảo cực thuần chính, bảo khí bừng bừng lan toả, rực rỡ hào quang. Thật trùng hợp, tác dụng của các cách cục bốn nơi đã hoà hợp với nhau, tạo nên một đại cục chí dương có thể thay đổi vận đời mệnh nước, được gọi là “Bảo dương điên toả âm hung”. Đại cục này duy nhất chỉ thấy ghi chép trong một cuốn kỳ thư thời thượng cổ có tên “Đế kinh mạch hành trạch”, từ cổ chí kim mới chỉ xuất hiện có một lần, vào lúc Khương Tử Nha dùng hoả công đánh thành Triều Ca, đã dùng cách cục này để lật đổ hoàn toàn vận mệnh của nhà Thương Trụ. Cũng chính vì đã hình thành được cục diện thiên cổ kỳ tuyệt này để cân bằng với Thiên bảo nghìn năm, nên hung huyệt âm mạch ẩn giấu ở chính giữa núi Thiên Thê đã bị chèn ép ra ngoài.

    o O o

    Tiếng động lạ là tiếng thở phì phò, khí tướng là hơi của thú. Chỉ không rõ đó là loài thú gì, lại càng không rõ chỗ lợi hại của chúng, chỉ nhận rõ một mối nguy hiểm ghê gớm đang xuất hiện cùng với mùi muông thú. Đối diện với tình trạng này, Mạc Thiên Quy chỉ biết tiếp tục trốn chạy.

    Tuy chân phải đã bị trọng thương, toàn thân đẫm máu, song tốc độ trốn chạy của lão vẫn rất chóng vánh. Sau lưng là khảm diện, hai bên có thú, chỉ còn cách chạy về phía trước. Song phía trước lại là một hốc lõm vào chân núi, không có đường đi, chỉ có vách núi dốc ngược không thể leo lên. Có điều nơi này vẫn chưa phải là tuyệt lộ, chí ít cũng có thể dựa lưng vào vách núi mà chống trả lại đối thủ. Hơn nữa, ở trong hốc đá, phạm vi tấn công của đối thủ cũng bị thu hẹp, là một vị trí tốt để ứng phó với nhiều đối thủ.

    Đám muông thú hai bên cũng bám theo sau Mạc Thiên Quy, tốc độ rất nhanh. Song dường như bọn chúng không vội tiêu diệt lão ngay, nên luôn duy trì một khoảng cách nhất định với lão. Có lẽ Mạc Thiên Quy là đối thủ mà chúng chưa hiểu rõ, nên còn thận trọng dè chừng.

    Khi cơ thể sắp chạm vào vách đá, Mạc Thiên Quy đột nhiên lật tay chém ngược một kiếm. Nhát kiếm này để đề phòng đám muông thú lao tới tấn công vào khoảnh khắc lão dừng bước xoay người, đồng thời, lão cũng muốn mượn lực của cú vung kiếm để ổn định cơ thể đứng vững tại chỗ.

    Đã xoay được người lại, lúc này lão mới nhìn rõ bầy thú đang đuổi theo mình. Thân hình chúng không lớn, nhỏ hơn loài báo một chút, song đầu lại rất to, quanh cổ có bờm lông dày xù ra, trán nhô cao như thể chiếc sừng bằng thịt. Mắt như chuông đồng, miệng như chậu máu, rất giống sư tử đực. Chiếc đuôi tựa cán roi, móng sắc nhọn hoắt như lưỡi câu bằng thép, rất giống hổ; lưng thon bụng hóp, trên mình thấy thấp thoáng đốm hoa, lại giống như báo đốm. Bầy thú thấy Mạc Thiên Quy dừng lại, cũng không đuổi nữa, chỉ vây kín xung quanh, trong tiếng thở phì phò có xen lẫn tiếng gầm gừ khe khẽ, vừa như tiếng rống, lại giống tiếng chó điên.

    Vừa giống sư tử, vừa giống hổ, vừa giống báo, vừa giống chó, đây là loại thú gì? Mạc Thiên Quy trong lòng chấn động, đầu óc hoang mang. Thú có kỳ tướng, ắt có kỳ ác. Bị bao vây giữa bầy thú dữ quái ác, liệu có thể sống sót hay không, hoạ có trời mới biết. Mà có lẽ ông trời cũng không biết, chỉ có bầy thú kia mới biết.

    Bầy thú lạ kỳ thực chính là đám linh thú do Báo Cơ nương nương coi sóc – tam thú ngao. Báo Cơ bố trí khảm thú, thường là thả báo hoặc hổ đói ở vòng ngoài cùng, còn nơi quan trọng bên trong mới thả loài tam thú ngao. Tam thú ngao kỳ thực là sản phẩm lai tạo từ bốn loài ác thú sư tử, hổ, báo, chó ngao. Trước hết cho hổ và sư tử giao phối sinh ra thú lai hổ sư tử, sau đó cho báo đốm giao phối với chó ngao Tây Tạng sinh ra thú lai báo đốm chó ngao. Cuối cùng, tiến hành lai giống giữa thú lai hổ sử tử với thú lai báo đốm chó ngao sinh ra tam thú ngao. Đã là thú tạp giao thì thường không có khả năng sinh sản, hàng vạn lần may ra ngẫu nhiên mới có một lần thành công, sinh được ra con. Tuy nhiên cao thủ Chu gia không hiểu từ đâu mà có được phương pháp lai tạo, dùng nội dược kết hợp với thuật kim thạch, cuối cùng vẫn khiến thú lai sư tử hổ với thú lai báo đốm chó ngao giao phối với nhau sinh ra tam thú ngao. Có người dựa vào một số chứng cứ trong sách cổ, nói rằng loài thú có tên là “giảo” trong “Sơn hải kinh” chính là tam thú ngao.

    Đám tam thú ngao đang bao vây Mạc Thiên Quy không vội vã tấn công ngay. Một số con thậm chí còn nằm phục xuống đất. Có điều con nào cũng giương cặp mắt xanh lè hung dữ nhìn trừng trừng vào Mạc Thiên Quy, không để lão có mảy may cơ hội đào tẩu.

    Một lát sau, trong bầy tam thú ngao bỗng tách ra một số con, lững thững tiến về phía Mạc Thiên Quy. Song nó không đi thẳng, mà hết vẹo sang trái lại nghiêng sang phải, thân hình dán xuống đất, nhích dần từng chút tới sát Mạc Thiên Quy.

    Giống thú này rất thông minh, cũng vô cùng thận trọng, về điểm này khá giống với loài sói, song có lẽ chúng còn điềm tĩnh hơn cả loài sói. Nếu là sói, chỉ cần ngửi thấy mùi máu tanh nồng nặc trên khắp cơ thể Mạc Thiên Quy, cả bầy hẳn đã lao tới xâu xé từ lâu. Song tam thú ngao lại không như vậy. Chúng chỉ bao vây, sau đó để một con lên trước dò la bản lĩnh của mục tiêu. Mà con thú đi dò la này lại di chuyển rất chậm rãi với quỹ đạo ngoằn ngoèo. Trạng thái này có lợi cho đột kích, cũng có lợi để né tránh kịp thời, độ xảo quyệt chẳng khác gì loài cáo.

    Song thực bất ngờ, tam thú ngao còn thông minh và xảo trá hơn cả tưởng tượng của Mạc Thiên Quy. Nó không bất ngờ đột kích trong quá trình di chuyển, mà dừng lại ở một bên mặt tường đá rất gần chỗ Mạc Thiên Quy đang đứng. Như vậy, dù Mạc Thiên Quy có bất ngờ tấn công, cũng chỉ có thể đánh vào chính diện và một bên sườn, còn nó tiến lui hay tránh né đều thuận tiện, thậm chí còn có thể nương theo vách đá để nhảy vọt lên trên hoặc lạch sang bên cạnh.

    Mạc Thiên Quy cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Giống súc vật kỳ quái này lại có thể suy tính kín kẽ không thua kém gì cao thủ giang hồ.

    Sau khi con tam thú ngao này dừng lại, trong bầy thú lại có một con nữa bước lên, cũng quanh co lượn lờ trái phải. Không cần nhìn, Mạc Thiên Quy cũng biết, con thú này chắc chắn sẽ chiếm lĩnh lấy vị trí đối diện với con thứ nhất. Sau khi chúng đã chiếm cứ được tất cả những vị trí có lợi, sẽ tiếp tục tiến về phía lão, chiếm cứ các vị trí có lợi gần hơn. Khi đó, chúng chỉ cần vươn cổ há miệng, đã có thể xé xác lão lập tức. Trong toàn bộ quá trình này, chỉ cần lão có bất kỳ hành động nào, những con thú đã chiếm được vị trí có lợi sẽ khống chế lão, để những con thú khác nhân cơ hội ồ ạt tấn công hoặc tiếp tục quan sát.

    Nhận rõ tình thế, Mạc Thiên Quy không để con thứ hai kịp chiếm lĩnh vị trí. Lão khó nhọc di chuyển bước chân, thanh kiếm trong tay nhanh như chớp lao vụt về phía con tam thú ngao đầu tiên.

    Kiếm của Mạc Thiên Quy lưỡi rộng sống dày, song trong vẻ nặng nề lại không kém phần linh hoạt. Thế kiếm là lật tay chém ngang, nên phạm vi tấn công khá rộng, con thú có giật lùi hay lao về phía trước, vẫn nằm trong phạm vi của đường kiếm.

    Song con tam thú ngao vẫn đứng im, không lùi cũng chẳng tiến, chỉ vặn lưng một cái, nhổm thẳng thân trước dậy, đã dễ dàng né được thế kiếm chém ngang của Mạc Thiên Quy. Song Mạc Thiên Quy đã tính sẵn từ trước, chiêu thức mới sử ra một nửa, lập tức biến chiêu, thế chém ngang đổi thành thế đâm ngược, mũi kiếm nhằm vào giữa cổ họng tam thú ngao đâm ngược lên trên.

    Song lại xuất hiện một tình thế khiến Mạc Thiên Quy phải kinh hãi. Con thú nhìn thấy kiếm đâm tới, chân trước thình lình tạt mạnh, từ mé bên đập thẳng vào thân kiếm. Không những vị trí chính xác, mà lực đạo cũng cực lớn. Kiếm của Mạc Thiên Quy bị đẩy bật đi, mũi kiếm đâm thẳng vào vách đá, hoa lửa bắn tứ tung. Kinh dị hơn nữa là nhân lúc mũi kiếm đâm vào vách đá, con thú lập tức há miệng ngoạm lấy thân kiếm. Nó muốn cướp kiếm!

    Mạc Thiên Quy trong lòng khiếp đảm, song không hề chùn tay. Lão giật thanh kiếm về được nửa chừng, né khỏi miệng thú, rồi lại đột nhiên đâm thẳng tới phía trước, hướng vào cái miệng còn chưa kịp khép lại của con thú.

    Tam thú ngao vội cúi đầu lao bổ về phía trước, song vẫn hơi chậm. Kiếm đâm xẹt qua đỉnh đầu nó, phạt bay một mảng lông dài.

    Bị trúng đòn, con thú lúc lắc cái đầu to tướng, sau đó vẫn đứng im tại vị trí cũ. Một loạt đòn tấn công của Mạc Thiên Quy vẫn không thể khiến nó lùi lại dù chỉ là một tấc. Khi Mạc Thiên Quy tuyệt vọng lùi vào hốc lõm, thì con tam thú ngao thứ hai đã chiếm được vị trí có lợi ở phía bên kia.

    Tiếp đến, con tam thú ngao thứ ba trong bầy thú bước ra, lại uốn éo như bơi mà xáp tới...

    Dịch Huyệt Mạch vẫn trong cuộc đối đầu với Cao Bôn Lôi. Cao Bôn Lôi không hề tỏ ra coi thường đối thủ trước mặt, đừng nói là đối thủ đang cầm một chiếc kim mềm và mảnh, mà dù là một cọng cỏ héo khô thì hắn cũng sẽ dốc toàn lực để chiến đấu. Tuy nhiên, hắn không thể ngờ được rằng, khi hắn vừa vung chuỳ nhấc chân lao đi, thì chiêu thức xem ra vô cùng mẫu mực ra dáng của đối thủ bỗng chốc biến thành sụp gối quỳ mọp xuống, hướng về phía hắn mà vái lạy sát đất. Thật khó tin nổi, một kẻ bạc nhược vô dụng đến vậy cũng dám xông vào cứ điểm trọng yếu của Chu môn ư? Nhưng suy nghĩ này chỉ thoáng qua trong lúc bàn chân hắn nhấc lên. Khi bàn chân vừa chạm đất, Cao Bôn Lôi lập tức nhận ra mình đã sai lầm. Cao thủ đối trận, sai lầm cũng chính là thất bại, là mất mạng.

    Dịch Huyệt Mạch đã chọn đúng lúc cơ thể Cao Bôn Lôi bắt đầu hơi ngả về phía trước mà quỳ xuống. Cơ thể ngả về phía trước là để bước lên tấn công. Bước lên tấn công, bàn chân sẽ phải đưa về phía trước. Bởi vậy, Dịch Huyệt Mạch không những quỳ sụp xuống, mà còn phải phủ phục sát đất.

    Cao Bôn Lôi chỉ ngập ngừng trong một chốc lát, nếu là khoảnh khắc vừa đưa chân ra, hắn vẫn có thể xoay chuyển tình thế; song đến khi bước chân đã lao xuống, hắn sẽ không thể nào thu lại được.

    Về điều này, Dịch Huyệt Mạch thông thạo hơn cả Cao Bôn Lôi. Người theo nghề y đương nhiên phải hiểu rõ cấu tạo sinh lý của cơ thể con người, cũng rất thông thuộc những phản ứng vô thức giống như phản xạ của xương bánh chè. Cao Bôn Lôi đã rơi vào trạng thái kiểu này, còn Dịch Huyệt Mạch đang bò rạp dưới đất đã cầm sẵn chiếc kim dài mảnh chờ đợi lòng bàn chân không thể kiểm soát của hắn.

    Kim rất dài, không giống với kim châm cứu bình thường, song độ dài như vậy vừa hay có thể đâm tới độ cao mà lòng bàn chân của Cao Bôn Lôi không thể thu về được. Kim rất mảnh, rất mềm, song nhờ kỹ xảo vê xoay của ba đầu ngón tay Dịch Huyệt Mạch, mũi kim đã dễ dàng xuyên qua đáy ủng da bò dày cộm của hắn, tiếp tục đâm xuyên qua lớp chai dày cộm dưới lòng bàn chân, rồi xuyên vào trong huyết quản kinh mạch.

    Theo lý mà nói, một mũi kim như vậy dù có đâm xuyên thấu lòng bàn chân, thậm chí đâm trúng một huyệt vị nào đó trên bàn chân, cũng đều không thể gây tổn thương nghiêm trọng cho người bị đâm, huống hồ cây kim không hề đâm trúng huyệt vị. Thực tế cũng đúng như vậy, tuy bị cây kim dài xuyên sâu vào lòng bàn chân, song Cao Bôn Lôi không hề cảm thấy đau đớn hay khó chịu. Bởi vậy, khi bước chân đã có thể kiểm soát được, hắn không đợi cả bàn chạm đất, đã vội đề khí nhấc chân lên. Song thế đánh xuống của chuỳ bôn lôi lại không hề thay đổi, vẫn giáng thẳng xuống lưng Dịch Huyệt Mạch.

    Y đạo của Dịch Huyệt Mạch là trái ngược với lẽ thường, bởi vậy ông mới được mệnh danh là “nhổ ngược huyệt”. Thế nào là “nhổ ngược huyệt”? Chính là đảo lộn vị trí huyệt đạo, đau đầu chữa ở chân, bệnh bên trong chưa ở bên ngoài. Kỹ xảo châm cứu của ông cũng là dùng nhổ thay cho đâm, thông khí huyết thay cho tụ khí huyết. Tuy vị trí đâm kim không phải là huyệt vị ở bàn chân, song lại là nơi tụ hợp của kinh mạch huyết khí, tương đương với tiểu khí môn. Người luyện công đều có khí môn, hay còn gọi là tráo môn, là điểm yếu ớt nhất, nếu bị tổn thương sẽ gây tiêu tán công lực. Ngoài ra, trên cơ thể họ còn có rất nhiều điểm hội tụ của tinh huyết, chân khí, những vị trí này cũng rất quan trọng, chúng có liên quan tới trạng thái hoạt động của một số bộ phận khác trên cơ thể. Những điểm hội tụ này được gọi là tiểu khí môn.

    Tiểu khí môn thường rất ít người chú ý tới, bởi lẽ đều là nơi da dày nhiều thịt, khó bị tổn thương. Song nếu như bị tổn thương thực sự, thì người luyện võ coi như đã thành tàn phế. Bởi vậy, chỉ có những thầy thuốc trình độ cao siêu mới chú ý tới tiểu khí môn, vì khi chữa trị nội ngoại thương, những vị trí này là nơi thông khí tán ứ rất quan trọng.

    Cao Bôn Lôi vừa đề khí nhấc chân, cây kim lập tức bị nhổ bật khỏi lòng bàn chân, huyết khí cũng trào vọt ra ngoài ngay tức khắc, nguyên khí lập tức tán loạn. Huyết khí tại tiểu khí môn này kiểm soát hành động của hai cánh tay, bởi vậy chuỳ bôn lôi tuy đã nâng lên, song hai cánh tay lập tức cứng đờ không thể đập xuống được.

    Kim bạc đã được nhổ bật ra, Dịch Huyệt Mạch đang quỳ mọp sát đất cũng nhỏm thân trên dậy, song hai đầu gối vẫn quỳ, tiếp tục đâm nhát kim thứ hai.

    Vị trí đâm kim lần này đã khiến Cao Bôn Lôi cảm thấy quả tim tê rần, máu đổ dồn lên mặt, không những không hề cảm thấy khó chịu, ngược lại còn thấy rất sảng khoái. Mũi kim bạc vừa đâm vào giữa đũng quần của Cao Bôn Lôi, chọc trúng vành quy đầu trên dương vật của hắn. Kim vừa đâm vào trong thịt, cổ tay Dịch Huyệt Mạch đã bẻ cong lại, lập tức nhổ kim ra.

    Song lúc này Cao Bôn Lôi đã ý thức được mức độ khủng khiếp của hậu quả, trong lúc khẩn cấp, hắn đã liều mạng đá bàn chân vừa nhấc trở về ra phía trước.

    Dịch Huyệt Mạch đã quá sơ suất. Sự đắc ý sau khi một chiêu đắc thủ đã khiến ông liều lĩnh tiếp tục đâm nhát thứ hai, và cái giá phải trả cho sự liều lĩnh này là đã phải hứng trọn cú đá. Một cước của Cao Bôn Lôi đã giáng trúng ngực ông, Dịch Huyệt Mạch thậm chí không kịp kêu lấy một tiếng, cả thân người văng đi là là mặt đất, sau khi rơi xuống còn lăn lông lốc đến năm sáu vòng, tới khi va vào lan can bằng đá mới dừng lại được. Ông nằm sấp mặt trên nền đất, giống như đã chết rồi.

    Cũng chính vì trúng phải cú đá trời giáng, nên Dịch Huyệt Mạch chưa kịp nhổ hoàn toàn mũi kim bạc ra. Song chiếc kim đã nhổ ra quá nửa cũng đã rút ra một phần huyết khí, đủ để khiến Cao Bôn Lôi không còn cảm giác thư thái và kích thích như khi bị đâm vào. Hắn cảm thấy máu huyết khắp người đều đổ dồn lên mặt, hộp sọ như muốn nổ tung đến nơi. Cuối cùng, hắn gầm lên một tiếng vô cùng khủng khiếp, cùng lúc đó, phần nhân trung dưới mũi bỗng toác ra một lỗ hổng đỏ lòm, một khối máu rung rinh bắn vọt ra, rơi xuống đất bụi, bắn toé tứ tung.

    Nếu như kim bạc được nhổ ra hoàn toàn, thì vị trí nứt toác đáng lẽ phải ở ấn đường. Như vậy Cao Bôn Lôi sẽ bỏ mạng tại chỗ, không còn một cơ may sống sót. Lúc này, tuy vị trí bị nứt toác là nhân trung, song Cao Bôn Lôi vẫn cảm thấy nội khí đan nguyên đang ào ào tuôn ra ngoài qua chỗ nứt, chẳng khác gì nước vỡ đê. Khí đan nguyên ồ ạt tiết ra, sức lực trong cơ thể cũng mau chóng cạn kiệt, hai chân hắn lúc này đứng còn không vững, nói gì tới đánh đá. Cơ thể hắn đổ thẳng cánh về phía sau, nằm nhũn ra như một đống bùn nhão. Cây chuỳ to tướng trong tay cũng rơi đánh rầm trên mặt đất lát đá, nện vỡ liền bốn năm tảng đá, dội lên tiếng va đập vang rền tựa như chuông chùa buổi sớm.

    Chuỳ bôn lôi vừa rơi xuống đất, Dịch Huyệt Mạch đã ngồi bật dậy, sắc mặt xanh lét như chàm, hơi thở tắc nghẽn. Ông thuận tay rút ra một chiếc kim châm cứu trên vạt áo, châm vào đốt giữa ngón út trên bàn tay trái rồi rút ra ngay, lập tức từ miệng phun vọt ra ba ngụm máu ứ tím bầm. Máu ứ đã phun ra hết, sắc mặt Dịch Huyệt Mạch tươi tỉnh hẳn lên, sau vài lần thở sâu vận khí, ông đã có thể bám vào lan can đá, từ từ đứng dậy.

    Nhìn Cao Bôn Lôi vẫn gắng gượng giãy giụa trên mặt đất, Dịch Huyệt Mạch nhếch miệng cười khẽ. Kết quả này vẫn khiến ông rất mãn nguyện. Cao Bôn Lôi tuy không chết ngay, song giờ đây còn không bằng cả một người bình thường, hơn nữa nếu không được chữa trị kịp thời, e rằng tính mạng cũng khó lòng giữ được.

    Sau khi quan sát một lượt tình hình xung quanh, xác nhận không còn mối uy hiếp nào khác, Dịch Huyệt Mạch cũng đi về phía sau toà điện bên trái. Có điều nhìn vào dáng đi của ông, đã không còn vẻ nhanh nhẹn phiêu dật như lúc ban đầu.

    Bị đám cao thủ của Chu gia áp sát, lão Lợi và Dương Tiểu Đao phải liên tục thoái lui. Dương Tiểu Đao tuy đao pháp lợi hại, song tốc độ di chuyển và thân thủ lại chưa đạt đến hàng cao thủ, hơn nữa gã đang phải đi giật lùi, dưới chân lại đầy đá vụn, nên càng không thể thi triển thân hình. Bởi vậy trước sự dồn ép của đối thủ, Dương Tiểu Đao mau chóng rơi vào tình thế hết sức nguy ngập.

    Trong lúc lùi lại, Dương Tiểu Đao loạng choạng liền hai bước, xém chút nữa đã ngã bật ngửa. Đối thủ chớp lấy cơ hội, đao quang loang loáng ập tới gần như đã bao trùm toàn bộ cơ thể gã. Lúc này, chỉ cần gã sơ sểnh thêm một lần nữa, tính mạng sẽ đi đứt như chơi. Trước những đòn tấn công tối tăm mặt mũi của đối thủ và liên tục phải bước giật lùi, sơ hở lại xuất hiện, gã đã thò một nửa cẳng chân vào trong cửa tử.

    Đúng vào thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, lão Lợi đang nằm bò dưới đất bất ngờ bật phóc người đứng dậy, đao đầu quỷ trong tay vụt biến thành một vệt sáng loà chém xéo tới, tựa như một luồng lốc xoáy. Tay sát thủ đang dùng xác chết làm lá chắn không kịp rú lên một tiếng đã bị phạt đứt đôi cùng với “lá chắn”. Máu tươi phun vọt tựa mưa rào, vuông nhiễu đỏ bay lên lồng lộng như đám mây, bao trọn lấy màn mưa máu.

    Sau cú ra đòn, lão Lợi tay phải cầm ngang cán đao, tay trái đỡ lấy đầu quỷ trên thân đao, đứng chắn ngang trước mặt Dương Tiểu Đao.

    Dương Tiểu Đao lúc này mới kịp thở lấy một hơi, và cũng phải đến lúc này mới có cơ hội rút lấy thanh đao từ “lá chắn” xác người.

    Đám sát thủ đang dàn hình bán nguyệt bao vây lấy họ đương nhiên sẽ không chịu bỏ cuộc. Lại có hai thân hình lao ra từ hai bên trái phải, một tên nhảy vọt lên tấn công phía trên, một tên khom lưng tấn công phía dưới, mục tiêu đều nhắm vào lão Lợi.

    Lão Lợi bị thương không nhẹ, sắc mặt đã tái xanh tái xám, lưỡi đao trong tay cũng đã chuyển từ màu trắng loà như tuyết sang màu xanh thẫm như nước hồ. Hai tên sát thủ hợp lực đánh tới, song lão Lợi vẫn đứng im bất động, dường như ngay cả một chút khả năng né tránh cũng không còn.

    Dương Tiểu Đao từ phía sau lão Lợi lao vụt lên, vung đao nhằm vào sát thủ tấn công phía dưới. Tay sát thủ dường như đã dự tính từ trước, cơ thể lập tức lướt nghiêng sang bên cạnh, lưỡi đao trong tay Dương Tiểu Đao đánh hụt vào khoảng không. Trong khi tay sát thủ phía trên khí thế tấn công càng thêm dữ dội và nhanh chóng.

    Một tên là mồi nhử, một tên là giết thực, đây là sự kết hợp đúc rút từ vô số lần rèn luyện và vô số lần thực chiến. Trong hai tên sát thủ, dù có đánh tên nào, thì tên đó cũng sẽ lập tức né tránh, biến thành mồi nhử, để tên còn lại tung ra đòn sát thương thực sự.

    Song phản ứng của Dương Tiểu Đao vẫn hết sức nhanh nhạy. Vừa nhìn thấy tên sát thủ thuận thế né tránh, gã lập tức xoay đao sang hướng bên kia, đứng thẳng người giơ đao nghênh chiến. Song đã muộn rồi, đao của sát thủ đã hạ xuống.

    Thanh đao đang xoay ngang của lão Lợi không vung lên đón chiêu, mà lại đâm ngang đi, đây chính là chiêu “lấy công làm thủ”, có thể nhân lúc đối thủ tiếp đất mà đâm thẳng vào bụng dưới và sườn dưới bên phải của hắn. Song chiêu này lại không phải là thượng sách, chỉ cần đối thủ dám chấp nhận bị thương, thì cú hạ đao của đối thủ vẫn có thể dễ dàng tước đi tính mạng của lão Lợi.

    Song vấn đề là ở chỗ, dù sát thủ có lợi hại đến đâu, thì tôn chỉ hàng đầu của chúng vẫn là phải bảo vệ bản thân trước, tiếp đó mới là sát thương kẻ địch. Sát thủ đang lao tới cũng không ngoại lệ, bởi vậy trước mũi đao đang phóng tới, cơ thể hắn lập tức lắc sang một bên né tránh theo phản xạ.​
     
  4. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,693
    Lời Nguyền Lỗ Ban
    Tác giả: Viên Thái Cực
    Quyển 6
    Chương 24: Cùng trăm mảnh

    Nhóm dịch: An Lạc Group
    Nguồn: Nxb văn học

    Dao của lão Lợi không đâm tới đối thủ, đao của đối thủ cũng không lấy được mạng của lão Lợi.Khi sát thủ tiếp đất, đao đầu quỷ của lão Lợi đã chém sang tới bên kia, nhưng không chạm được tới người sát thủ. Tay sát thủ phải xoay người né tránh, nên đường đao hơi chếch đi, song vẫn chém trúng vai phải lão Lợi, nhát chém thấu xương, đau đớn thấu tim gan.

    Đao của Dương Tiểu Đao cũng đã đâm trúng mặt sát thủ. Trong tình trạng này, sát thủ đáng lẽ phải thu đao lùi lại, song hắn chỉ có thể ngửa mặt né tránh, vì khi đao của hắn chém vào vai phải lão Lợi, thì bàn tay trái vốn đang đỡ lấy đầu quỷ của lão Lợi đã bóp chặt lấy cổ tay cầm đao của hắn.

    Dương Tiểu Đao một đao không trúng, lập tức biến chiêu, mũi đao đâm xuống, nhắm thẳng yết hầu của đối phương.

    - Dừng tay! Để tôi!

    Mũi đao vốn đã chạm tới yết hầu của sát thủ, nghe thấy tiếng hét của lão Lợi, Dương Tiểu Đao lập tức dừng ngay thế đao hạ sát. Thanh đao đầu quỷ của lão Lợi đã lại vung lên, từ từ đâm tới trước ngực bụng sát thủ.

    Tốc độ của đao không nhanh, nhưng đâm vào da thịt sát thủ lại hết sức nhẹ nhàng, quả là một thanh đao sắc bén. Máu tươi chảy như tắm trên thân đao, có máu của sát thủ, cũng có máu của lão Lợi. Vuông nhiễu đỏ trên cán đao lần này không thể tung lên gom lấy máu tươi của sát thủ, vì đã thấm đẫm máu của lão Lợi đang chảy xuôi xuống theo cánh tay.

    Lão Lợi lúc này mới buông cổ tay tên sát thủ ra, thuận thế giật đứt vuông nhiễu đỏ trên cán đao, nhét luôn vào trong tay Dương Tiểu Đao đang đứng bên cạnh, nói vội:

    - Đi mau! Nếu có cơ hội, hãy đưa vuông nhiễu đỏ này cho Lỗ môn trưởng.

    Dương Tiểu Đao liếc nhìn lão Lợi. Lúc này mắt lão đã đỏ ngầu, sắc mặt cũng đỏ rực như máu. Đao trong tay cũng không còn thấy màu xanh, mà lấp loáng ánh đỏ. Dương Tiểu Đao không hỏi thêm câu nào nữa, từ giọng nói và ánh mắt của lão Lợi, gã hiểu rằng mình cần phải làm theo lời lão.

    Vòng vây hình cánh cung chỉ còn thiếu bốn năm vị trí nữa là khép kín, bọn họ sắp bị bao vây thực sự, Dương Tiểu Đao có thể xông ra hay không vẫn chưa dám chắc. Đao Bào Đinh trong tay gã múa lên vun vút như màn chớp giật. Dưới sự yểm trợ của thế đao cuồng dại, gã đã xông ra khỏi vòng vây, chạy về phía chân núi Thiên Thê.

    Không ai đuổi theo Dương Tiểu Đao, bởi đám sát thủ đều biết rõ hướng mà Dương Tiểu Đao chạy tới không có đường đi. Ở đó là một vách núi sạt lở đã bị phong hoá nghiêm trọng, đá trên bãi Thần Hô đều do vách núi này vỡ lở mà lăn xuống.

    Lão Lợi tuy cơ thể thấp bé, song lúc này lại toát lên một vẻ ngạo nghễ vô song. Lão gác sống đao lên bờ vai phải đang máu tuôn xối xả, xem ra cánh tay phải bị thương đã không còn đủ sức để nhấc nổi đao lên. Còn tay trái vốc lấy một bụm máu chảy ra từ vết thương trên vai phải, rồi vuốt nhẹ lên đỉnh đầu. Mái tóc được thấm ướt lập tức trở nên suôn mượt, không chút rối loạn.

    Vòng vây của đám sát thủ đã khép kín, lão Lợi đã không còn cơ hội thoát thân. Đại hộ pháp từ trong đám người bước ra, không phải là gã dám đối mặt với đối thủ, mà là gã đã nắm chắc mười phần sẽ chiến thắng lão Lợi. Khi lão Lợi chưa bị thương đã không phải là đối thủ của gã, bây giờ vừa trúng chưởng nội thương, lại bị trúng đao ngoại thương, gã muốn bắt hay giết lão Lợi đều dễ dàng như trở bàn tay.

    Tới sát trước mặt lão Lợi, Đại hộ pháp thủng thẳng giơ bàn tay ra. Gã muốn dùng hành động này để cảnh cáo lão Lợi rằng, gã chỉ cần tung ra Chuyển luân chưởng, lão Lợi sẽ không còn cơ may sống sót.

    Lão Lợi đã không cho Đại hộ pháp cơ hội. Bộ mặt luôn mỉm cười của lão đột nhiên sắt lại, thân đao đầu quỷ đang dựng thẳng trên vai đột ngột lật ngang, lưỡi đao sắc lẹm giật mạnh vào trong. Một màn huyết quang bắn vọt lên, chính giữa cần cổ lão Lợi mở ra một đường đỏ máu tựa như một miệng cười toe toét. Từ miệng lão phun ra một vòi máu, hoà lẫn với màn máu vọt ra bên cổ, nhanh chóng phủ kín thân đao. Thanh đao đầu quỷ bỗng chốc đổi màu đỏ rực, như nở ra, như phát sáng.

    Đại hộ pháp dừng vội tay chưởng. Nhìn thấy nhát đao tự vẫn của lão Lợi, gã không hề cảm thấy ngạc nhiên. Dù sao kết cục cuối cùng vẫn là cái chết, tự vẫn chí ít cũng có thể giữ được chút danh dự của kẻ giang hồ.

    Máu vẫn phun ra thành tia từ cổ lão Lợi, song cơ thể lão cứ đứng trơ trơ, không hề đổ xuống, đôi mắt cũng chưa khép lại. Lão vẫn đang nhìn chằm chằm vào Đại hộ pháp, nhìn chằm chằm vào đám sát thủ kia, trong ánh mắt tràn đầy vẻ khinh miệt và thương hại.

    Lúc này, thanh đao đầu quỷ mặt cười lại càng thêm đỏ rực, càng thêm sáng loá. Quá nhiều nhẫn quang và huyết quang hội tụ trong đó đã khiến thanh đao không thể chịu đựng thêm được nữa.

    - Không ổn! Chạy mau! - Kỳ thực, Đại hộ pháp không biết bất ổn ở chỗ nào, song trong lòng gã bỗng trỗi dậy một cảm giác nguy hiểm vô cùng khủng khiếp, nên bất giác muốn tháo chạy.

    Song đã muộn rồi. Từ thân đao bùng lên một chùm sáng chói lọi, cùng với đó, một khối đỏ rừng rực như máu bắn vọt ra tứ phía. Ánh sáng rực rỡ, huyết quang đỏ loà, song không hề phát ra một mảy âm thanh, đến tiếng mảnh vỡ va đập, tiếng cứa da toác thịt cũng không có, như thể máu tích tụ trên thân đao đã bắn vụt đi.

    Đao đầu quỷ, tên gọi chính xác là đao Bách toái. Càng sát hại nhiều tính mạng, nét cười trên khuôn mặt quỷ trông càng ma quái âm trầm. Trước khi giết đủ trăm mạng, cần đưa vào lò đúc lại, nếu không khi chém đến mạng người thứ một trăm, thân đao sẽ nổ tung thành trăm mảnh, giết người cũng giết luôn cả bản thân. Bởi vậy, những người sử dụng loại đao này, khi chém giết cần phải ghi nhớ kỹ số nhân mạng đã bỏ xác dưới đao.

    Đao Bách toái của lão Lợi là vũ khí gia truyền, đương nhiên lão biết rõ điều này, bởi vậy mọi thứ đều đã được lão tính toán kỹ lưỡng. Sau khi giết chết sát thủ dùng xác người làm lá chắn, thanh đao toả ánh sáng xanh, đã chứng thực số lượng lão ghi nhớ là chính xác. Bởi vậy, lão mới bảo Dương Tiểu Đao đi trước, còn bản thân ở lại để đi về cõi chết.

    Sau khi thanh đao nổ tung, quá nửa cơ thể lão Lợi đã tan nát. Đại hộ pháp đứng gần lão nhất cũng nát bấy non nửa thân người. Đám sát thủ xung quanh thi nhau đổ xuống, đến một tiếng kêu rú trong cơn hấp hối cũng không kịp bật lên. Bởi vì mảnh vỡ vừa lao vào cơ thể, hơi thở đã tuyệt, bước chân chưa kịp di chuyển đã cứng đờ. Cơ thể chúng lập tức co quắp biến dạng, không kịp giãy giụa đã chết cứng, bộ dạng cực kỳ khủng khiếp.

    Khi đao Bách toái nổ tung, đã thấm đẫm tinh huyết và oan độc của trăm tính mạng. Mảnh đao vỡ gặp máu liền hoá, theo máu mà đi. Mảnh vỡ đâm vào cơ thể, không phải là đao đang giết người, mà là cả trăm hung hồn ác quỷ đang giết người.

    Chỉ có hàng sát thủ thứ hai vừa xông vào qua lỗ hổng, do khoảng cách khá xa nên không bị mảnh đao vỡ đâm trúng. Sau khoảnh khắc kinh tâm táng đởm, chúng lập tức vòng qua đám xác chết hình thù rùng rợn, tiếp tục đuổi theo Dương Tiểu Đao. Đây chính là những sát thủ đã được Chu gia huấn luyện kỹ càng, không sợ không lùi, tâm như tử sĩ.

    Dương Tiểu Đao từ xa đã nhìn thấy cảnh tượng lão Lợi nổ đao thảm sát đối thủ, cũng đã ngửi thấy mùi máu tanh lợm bay xộc tới. Không rõ là do cảnh tượng thảm khốc kia, hay do mùi máu tanh hôi quá mức, mà bụng dạ gã bỗng cuộn lên nhộn nhạo, phải gập người oẹ liền mấy cái, song chẳng nôn ra được thứ gì, chỉ khiến hai mắt gã tràn đầy lệ đục, che lấp cả tầm nhìn.

    Gã đưa tay gạt màn nước mắt để nhìn cho rõ, song thứ nhìn thấy lại là đám sát thủ đang vùn vụt lao tới. Quay đầu lại nhìn, trước mặt lại là vách đá vỡ lở, đã hết đường tháo chạy...

    Lúc này Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đang dựa sát vai nhau, trước mặt họ là đám sát thủ lợi hại hơn nhiều so với những kẻ bên mảng tường đổ phía tây. Đa phần trong đó là cao thủ do Chu Chân Mệnh đích thân dẫn tới, bao gồm người đao mười sáu lưỡi và hộ vệ tổng đường, cộng thêm những cao thủ hàng đầu do các đường khẩu điều tới. Trước đó, chúng được Chu Chân Mệnh bố trí canh giữ ở quanh chùa, sau đã trở về chùa qua con đường bí mật. Lại thêm Dương Thiên Vương nãy giờ bám theo Hạ Táo Hoa cũng vào nhập bọn.

    Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ biết mình không phải là đối thủ của đám người này, song hai người họ lại nhất quyết tử thủ tại hành lang quanh tháp. Bởi họ hiểu rõ, nếu để đám cao thủ này đuổi tới, Lỗ Nhất Khí coi như đã hết cơ hội. Họ lựa chọn vị trí cố thủ tại đầu hành lang và mật độ dày đặc của khảm nút xung quanh sẽ gây bất lợi cho tấn công ồ ạt. Dù người của đối phương có đông đảo tới đâu, có thông thạo cách bố trí khảm nút xung quanh thế nào, thì nhiều nhất cũng chỉ đủ không gian cho ba, bốn người cùng tấn công mà thôi.

    Trên thực tế, cuộc giao chiến giữa hai bên vô cùng ngắn ngủi, Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ vừa triển khai công lực, đối phương đã dừng tấn công. Chúng dừng lại vì đã nhận được một tín hiệu nào đó, một tín hiệu không cho phép phản kháng. Về điểm này, Dưỡng Quỷ Tỳ hiểu rõ hơn Hạ Táo Hoa, dù gì cô cũng lớn lên trong Chu gia, nên đã thông thuộc các quy tắc của bọn họ.

    Người phát tín hiệu chắc hẳn ở gần đây, cục diện đối đầu ở bên này hẳn cũng nằm trong phạm vi quan sát của hắn. Tín hiệu phát ra là muốn phe mình vốn đã chiếm được ưu thế tạm ngừng tấn công, cho thấy chắc chắn đã có bố cục và thủ đoạn nguy hiểm gấp bội dành sẵn cho bọn họ. Dưỡng Quỷ Tỳ cảm thấy nếu bọn họ cứ tiếp tục cố thủ tại đây sẽ càng thêm nguy hiểm, khác nào đám cừu chờ sói tới ăn thịt. Cần phải mau chóng thoát khỏi tình thế này.

    - Chúng ta phải rời khỏi đây ngay lập tức, trước khi đi phải nghĩ cách cản chân đám sát thủ này lại! - Dưỡng Quỷ Tỳ từ nhỏ ít giao thiệp với người khác, bởi vậy cũng không biết cách nói năng cho khách khí.

    Hạ Táo Hoa đã bình tĩnh hơn rất nhiều so với lúc lão mù vừa chết. Cô ta vốn là người thông minh sắc sảo, chỉ cần đầu óc tỉnh táo, sẽ có thể bộc phát một nguồn năng lượng vô cùng khủng khiếp.

    - Cô đi trước đi, khoảng bảy chục bước đứng lại chờ tôi! - Hạ Táo Hoa nói.

    Dưỡng Quỷ Tỳ đi rất nhẹ nhàng. Cô vốn ngây thơ tin người, nên chẳng hề thấy lo lắng cho Hạ Táo Hoa. Dưỡng Quỷ Tỳ đi rất thung dung, hành lang quanh tháp tuy đầy rẫy khảm nút, song những khảm nút mà Chu gia thường xuyên sử dụng đã quá quen thuộc với cô, nên chẳng khác gì đi trên đường về nhà.

    Dưỡng Quỷ Tỳ vừa bước đi, Hạ Táo Hoa lập tức đưa tay vào chiếc túi nhỏ bên hông lôi ra một thứ gì đó, đồng thời bước xéo ra phía sau vài bước. Vài bước này vừa hay đã rẽ vào một khúc ngoặt của đường khảm. Như vậy, giữa cô và đám sát thủ đã có thêm hai điểm giẫm trên nút lẫy, cũng giống như cô đã nấp vào sau một góc tường quanh.

    Hạ Táo Hoa cũng rất thung dung, không cần để ý xem Dưỡng Quỷ Tỳ đã tới đúng chỗ chưa, cũng không để ý xem đám cao thủ trước mặt có hành động khác lạ nào không, chỉ chú tâm vào chiếc túi vải hoa lam vừa lôi ra từ trong túi đeo. Nâng túi vải trên lòng bàn tay, cô bắt đầu lầm rầm tụng niệm:

    - Xanh vàng đỏ trắng đen tuỳ ý, kiếp trước gặp hung kiếp này cát, thu về khí huyết mạch tam kinh, không làm oan hồn nơi âm thế...

    Loại thần chú này vừa không phải xuất phát từ phương thuật Đạo giáo, cũng không bắt nguồn từ tà phái vu thuật của dị tộc. Nếu xét về nguồn gốc, nó cũng ít nhiều có liên quan tới Đạo giáo, chính là lời chú tụng niệm khi hành khí của người luyện Khí Môn tông. Người sáng lập ra Khí Môn tông là một thần y thời Đông Hán có tên là Lục Huyền Nguyệt. Tuy ông tinh thông kim thạch dược lý đến độ xuất thần nhập hoá, song còn ngưỡng mộ đạo thần tiên hơn nữa, nên đã theo học một đạo sĩ nổi tiếng thời Đông Hán tên là Nguỵ Bá Dương, khổ luyện theo trước tác thần kỳ “Tham đồng khế” do Nguỵ Bá Dương kết hợp “Kinh Dịch”, “Lão Tử”, “Trang Tử” mà soạn nên. “Tham đồng khế” là thuỷ tổ của hành khí kinh đan, Lục Huyền Nguyệt chuyên tâm nghiên cứu về hành khí, cuối cùng đã có thành tựu xuất sắc, rời khỏi sư môn tự thành lập phái riêng, gọi là Hợp Đức khí tông. Ý nghĩa của nó được lấy từ câu “Âm dương hợp đức mà cương nhu có thể” trong “Kinh Dịch”. Tông phái này đã suy thoái sau triều Đường Tống, chỉ còn sót lại một ít di mạch ở vùng Tây Bắc.

    Hạ Táo Hoa đã học được công phu của Hợp Đức khí tông từ trong một cuốn sách cổ mà lão mù lấy trộm về. Song công phu đó đã không còn là chính tông, mà pha tạp rất nhiều kỹ xảo vu thuật của người dị tộc. Như lúc này, công phu hành khí của cô tuy tương hợp với Hợp Đức khí tông, song khí được vận hành lại không phải là chính khí âm dương nội tu, mà là chiếc túi vải hoa lam kia.

    Túi vải hoa lam được mở ra, bên trong còn có một gói lụa vàng. Trên tấm lụa thêu đầy kinh văn, còn thấy lờ mờ một ấn phong bằng chu sa.

    Hạ Táo Hoa niệm chú mỗi lúc một lớn tiếng, ngón trỏ tay phải vạch vẽ loằng ngoằng trên gói lụa vàng. Dây buộc trên tấm lụa từ từ lỏng ra, bốn góc gói lụa không gió tự mở, lộ ra thứ được bọc kín bên trong.

    Đó là năm cục màu xám trắng, có dài có ngắn, có to có nhỏ, đều mang hình thù bất quy tắc. Chúng mang theo những khí tướng có độ mạnh và hướng lan toả hoàn toàn khác nhau.

    - Xương! Là xương người! - Kẻ vừa nhận ra là một cao thủ chuyên giải phẫu xác chết của Tam Xuyên đường phía Chu gia.

    - Có cốt khí, có thi khí, còn có độc khí! - Lại một cao thủ luyện khí của Tương Tây đã nhận ra khí tướng của mấy cục xương.

    Tiếng niệm chú của Hạ Táo Hoa đã trở nên vang vọng, tiết tấu cũng được đẩy nhanh. Khí thế của năm cục xương cũng theo đó mà bốc lên dữ dội.

    Năm cục xương, mỗi cục đều đồng thời ẩn chứa cốt khí, thi khí và độc khí. Song khí tướng ẩn chứa trong mỗi cục xương lại khác nhau. Cốt khí có khí xương khô, khí xương non, khí xương vỡ; thi khí có khí xác rữa, khí xác sống, khí xác khô; độc khí lại còn nhiều hơn nữa, mỗi cục xương đều chứa không dưới bốn năm loại.

    Do nguồn gốc của khí không giống nhau, nên khí tướng hiện lên cũng rất khác biệt. Khí tuóng vọt lên từ năm cục xương hiện rõ năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen. Khí tướng năm màu này lúc thì hoà quyện vào nhau, lúc lại tản ra bốn phía, bay dật dờ bất định.

    - Luật... cấp... hành! - Hạ Táo Hoa vừa hô lớn, cánh tay đã vung lên. Năm cục xương lập tức văng ra, lăn lông lốc trên nền hành lang, tản ra thành cục tướng Năm cửa ải cửu tuyền.

    Năm cục xương vừa rơi xuống đất, khí tướng lập tức nở phình, xoay tròn, lan toả khắp xung quanh. Khí thế và hướng đi của nó ngầm hợp với cách bố trí của cục tướng Năm cửa ải cửu tuyền, uốn lượn vu hồi, như xúc tu, như rắn trườn, chất độc ngùn ngụt, năm màu rực rỡ, mùi thối rữa nồng nặc, như thể có hồn ma, xác chết đang giãy dụa, đang dật dờ đi lại.

    Đám cao thủ Chu gia nhìn thấy cảnh tượng này, đều bất giác lùi lại hai bước.

    Hạ Táo Hoa vừa hất năm cục xương đi, lập tức quay người chạy thẳng. Nhìn vào tốc độ di chuyển, có thể thấy cô đang cố gắng né tránh làn khí đang lan toả kia, không muốn để bất kỳ một bộ phận nào trên cơ thể chạm vào luồng khí tướng năm màu đó.

    Trong đám cao thủ của Chu gia vẫn có kẻ không rời mắt khỏi Hạ Táo Hoa. Đây chính là kinh nghiệm giang hồ, trước một cục tướng mà bản thân không hay biết, tốt nhất nên quan sát phản ứng của người bố trí cục tướng. Nếu ngay cả bản thân người bố trí cục tướng cũng tỏ ra sợ hãi né tránh, thì những người khác lại càng phải tránh xa. Mấy tên cao thủ này vừa thấy Hạ Táo Hoa phản ứng như vậy, lập tức vội vã thoái lui, chạy dạt đi thật xa. Những cao thủ khác tuy không biết mô tê gì, nhưng thấy đồng bọn lùi lại, cũng cuống quýt lùi theo.

    Dưỡng Quỷ Tỳ vừa đứng lại ở khoảng cách bảy chục bước, Hạ Táo Hoa cũng đã kịp lao tới, kéo lấy cô tiếp tục chạy ào đi.

    - Từ từ, nhìn kỹ xem phía trước có khảm cục không đã. - Dưỡng Quỷ Tỳ biết rõ sự lợi hại của Chu gia, nên vội vã nhắc nhở Hạ Táo Hoa.

    - Anh Nhất Khí đã đi qua, có khảm nút cũng phá giải cả rồi. Tôi vừa rải ra Ngũ cốt hành khí mê, tuy hung dữ, song nhiều nhất cũng chỉ cầm cự được khoảng hai chén trà, sau đó toàn bộ sẽ thành hư tướng!

    Hai chén trà, không phải là dài, cũng không phải là ngắn.

    Thân thủ của Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đều cực kỳ nhanh nhẹn, hoàn toàn có thể lợi dụng khoảng thời gian này để đuổi kịp Lỗ Nhất Khí, song với điều kiện là không bị ai ngăn cản. Song hai cô gái quả là không may mắn, vừa tới phía dưới bức bích hoạ, từ trên vách đá bỗng bay vụt xuống một thân hình đầy đặn phì nhiêu, chặn ngay trước mặt. Người này chúi đầu mà lao xuống, khi sắp chạm đất lại uyển chuyển lượn vòng mà lên. Dáng vẻ tuyệt đẹp, áo bay như mây, mặt hồng như ráng, da trắng như tuyết, khác nào tiên nữ giáng trần.

    - Báo Cơ nương nương! - Dưỡng Quỷ Tỳ kêu lên kinh hãi. Tuy cô chưa một lần gặp Báo Cơ, song đã nhiều lần nghe người khác mô tả về dáng vẻ của Báo Cơ. Dưỡng Quỷ Tỳ quả thực cảm thấy khiếp sợ, bởi lẽ công lực của Báo Cơ không hề thua kém sư phụ của cô. Dù cô và Hạ Táo Hoa liên thủ, cũng khó lòng thoát khỏi tay Báo Cơ.

    Hạ Táo Hoa dày dạn kinh nghiệm, từ giọng nói và vẻ mặt của Dưỡng Quỷ Tỳ, cô lập tức hiểu ra rằng mình đã phải đương đầu với một kẻ địch hết sức đáng gờm. Cô nhanh chóng âm thầm tụ lực, chuẩn bị dốc toàn lực lao vào trận quyết tử.

    Vậy là ba người dàn thành hình chạc ba, người chưa động, khí thế đã động. Ba luồng khí tướng cuồn cuộn như mây toả, xoắn xuýt vào nhau, va chạm với nhau...​
     
  5. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,693
    Lời Nguyền Lỗ Ban
    Tác giả: Viên Thái Cực
    Quyển 6
    Chương 25: Cục hung biến

    Nhóm dịch: An Lạc Group
    Nguồn: Nxb văn học

    Cao của lão Lợi không đâm tới đối thủ, đao của đối thủ cũng không lấy được mạng của lão Lợi.Khi sát thủ tiếp đất, đao đầu quỷ của lão Lợi đã chém sang tới bên kia, nhưng không chạm được tới người sát thủ. Tay sát thủ phải xoay người né tránh, nên đường đao hơi chếch đi, song vẫn chém trúng vai phải lão Lợi, nhát chém thấu xương, đau đớn thấu tim gan.

    Đao của Dương Tiểu Đao cũng đã đâm trúng mặt sát thủ. Trong tình trạng này, sát thủ đáng lẽ phải thu đao lùi lại, song hắn chỉ có thể ngửa mặt né tránh, vì khi đao của hắn chém vào vai phải lão Lợi, thì bàn tay trái vốn đang đỡ lấy đầu quỷ của lão Lợi đã bóp chặt lấy cổ tay cầm đao của hắn.

    Dương Tiểu Đao một đao không trúng, lập tức biến chiêu, mũi đao đâm xuống, nhắm thẳng yết hầu của đối phương.

    - Dừng tay! Để tôi!

    Mũi đao vốn đã chạm tới yết hầu của sát thủ, nghe thấy tiếng hét của lão Lợi, Dương Tiểu Đao lập tức dừng ngay thế đao hạ sát. Thanh đao đầu quỷ của lão Lợi đã lại vung lên, từ từ đâm tới trước ngực bụng sát thủ.

    Tốc độ của đao không nhanh, nhưng đâm vào da thịt sát thủ lại hết sức nhẹ nhàng, quả là một thanh đao sắc bén. Máu tươi chảy như tắm trên thân đao, có máu của sát thủ, cũng có máu của lão Lợi. Vuông nhiễu đỏ trên cán đao lần này không thể tung lên gom lấy máu tươi của sát thủ, vì đã thấm đẫm máu của lão Lợi đang chảy xuôi xuống theo cánh tay.

    Lão Lợi lúc này mới buông cổ tay tên sát thủ ra, thuận thế giật đứt vuông nhiễu đỏ trên cán đao, nhét luôn vào trong tay Dương Tiểu Đao đang đứng bên cạnh, nói vội:

    - Đi mau! Nếu có cơ hội, hãy đưa vuông nhiễu đỏ này cho Lỗ môn trưởng.

    Dương Tiểu Đao liếc nhìn lão Lợi. Lúc này mắt lão đã đỏ ngầu, sắc mặt cũng đỏ rực như máu. Đao trong tay cũng không còn thấy màu xanh, mà lấp loáng ánh đỏ. Dương Tiểu Đao không hỏi thêm câu nào nữa, từ giọng nói và ánh mắt của lão Lợi, gã hiểu rằng mình cần phải làm theo lời lão.

    Vòng vây hình cánh cung chỉ còn thiếu bốn năm vị trí nữa là khép kín, bọn họ sắp bị bao vây thực sự, Dương Tiểu Đao có thể xông ra hay không vẫn chưa dám chắc. Đao Bào Đinh trong tay gã múa lên vun vút như màn chớp giật. Dưới sự yểm trợ của thế đao cuồng dại, gã đã xông ra khỏi vòng vây, chạy về phía chân núi Thiên Thê.

    Không ai đuổi theo Dương Tiểu Đao, bởi đám sát thủ đều biết rõ hướng mà Dương Tiểu Đao chạy tới không có đường đi. Ở đó là một vách núi sạt lở đã bị phong hoá nghiêm trọng, đá trên bãi Thần Hô đều do vách núi này vỡ lở mà lăn xuống.

    Lão Lợi tuy cơ thể thấp bé, song lúc này lại toát lên một vẻ ngạo nghễ vô song. Lão gác sống đao lên bờ vai phải đang máu tuôn xối xả, xem ra cánh tay phải bị thương đã không còn đủ sức để nhấc nổi đao lên. Còn tay trái vốc lấy một bụm máu chảy ra từ vết thương trên vai phải, rồi vuốt nhẹ lên đỉnh đầu. Mái tóc được thấm ướt lập tức trở nên suôn mượt, không chút rối loạn.

    Vòng vây của đám sát thủ đã khép kín, lão Lợi đã không còn cơ hội thoát thân. Đại hộ pháp từ trong đám người bước ra, không phải là gã dám đối mặt với đối thủ, mà là gã đã nắm chắc mười phần sẽ chiến thắng lão Lợi. Khi lão Lợi chưa bị thương đã không phải là đối thủ của gã, bây giờ vừa trúng chưởng nội thương, lại bị trúng đao ngoại thương, gã muốn bắt hay giết lão Lợi đều dễ dàng như trở bàn tay.

    Tới sát trước mặt lão Lợi, Đại hộ pháp thủng thẳng giơ bàn tay ra. Gã muốn dùng hành động này để cảnh cáo lão Lợi rằng, gã chỉ cần tung ra Chuyển luân chưởng, lão Lợi sẽ không còn cơ may sống sót.

    Lão Lợi đã không cho Đại hộ pháp cơ hội. Bộ mặt luôn mỉm cười của lão đột nhiên sắt lại, thân đao đầu quỷ đang dựng thẳng trên vai đột ngột lật ngang, lưỡi đao sắc lẹm giật mạnh vào trong. Một màn huyết quang bắn vọt lên, chính giữa cần cổ lão Lợi mở ra một đường đỏ máu tựa như một miệng cười toe toét. Từ miệng lão phun ra một vòi máu, hoà lẫn với màn máu vọt ra bên cổ, nhanh chóng phủ kín thân đao. Thanh đao đầu quỷ bỗng chốc đổi màu đỏ rực, như nở ra, như phát sáng.

    Đại hộ pháp dừng vội tay chưởng. Nhìn thấy nhát đao tự vẫn của lão Lợi, gã không hề cảm thấy ngạc nhiên. Dù sao kết cục cuối cùng vẫn là cái chết, tự vẫn chí ít cũng có thể giữ được chút danh dự của kẻ giang hồ.

    Máu vẫn phun ra thành tia từ cổ lão Lợi, song cơ thể lão cứ đứng trơ trơ, không hề đổ xuống, đôi mắt cũng chưa khép lại. Lão vẫn đang nhìn chằm chằm vào Đại hộ pháp, nhìn chằm chằm vào đám sát thủ kia, trong ánh mắt tràn đầy vẻ khinh miệt và thương hại.

    Lúc này, thanh đao đầu quỷ mặt cười lại càng thêm đỏ rực, càng thêm sáng loá. Quá nhiều nhẫn quang và huyết quang hội tụ trong đó đã khiến thanh đao không thể chịu đựng thêm được nữa.

    - Không ổn! Chạy mau! - Kỳ thực, Đại hộ pháp không biết bất ổn ở chỗ nào, song trong lòng gã bỗng trỗi dậy một cảm giác nguy hiểm vô cùng khủng khiếp, nên bất giác muốn tháo chạy.

    Song đã muộn rồi. Từ thân đao bùng lên một chùm sáng chói lọi, cùng với đó, một khối đỏ rừng rực như máu bắn vọt ra tứ phía. Ánh sáng rực rỡ, huyết quang đỏ loà, song không hề phát ra một mảy âm thanh, đến tiếng mảnh vỡ va đập, tiếng cứa da toác thịt cũng không có, như thể máu tích tụ trên thân đao đã bắn vụt đi.

    Đao đầu quỷ, tên gọi chính xác là đao Bách toái. Càng sát hại nhiều tính mạng, nét cười trên khuôn mặt quỷ trông càng ma quái âm trầm. Trước khi giết đủ trăm mạng, cần đưa vào lò đúc lại, nếu không khi chém đến mạng người thứ một trăm, thân đao sẽ nổ tung thành trăm mảnh, giết người cũng giết luôn cả bản thân. Bởi vậy, những người sử dụng loại đao này, khi chém giết cần phải ghi nhớ kỹ số nhân mạng đã bỏ xác dưới đao.

    Đao Bách toái của lão Lợi là vũ khí gia truyền, đương nhiên lão biết rõ điều này, bởi vậy mọi thứ đều đã được lão tính toán kỹ lưỡng. Sau khi giết chết sát thủ dùng xác người làm lá chắn, thanh đao toả ánh sáng xanh, đã chứng thực số lượng lão ghi nhớ là chính xác. Bởi vậy, lão mới bảo Dương Tiểu Đao đi trước, còn bản thân ở lại để đi về cõi chết.

    Sau khi thanh đao nổ tung, quá nửa cơ thể lão Lợi đã tan nát. Đại hộ pháp đứng gần lão nhất cũng nát bấy non nửa thân người. Đám sát thủ xung quanh thi nhau đổ xuống, đến một tiếng kêu rú trong cơn hấp hối cũng không kịp bật lên. Bởi vì mảnh vỡ vừa lao vào cơ thể, hơi thở đã tuyệt, bước chân chưa kịp di chuyển đã cứng đờ. Cơ thể chúng lập tức co quắp biến dạng, không kịp giãy giụa đã chết cứng, bộ dạng cực kỳ khủng khiếp.

    Khi đao Bách toái nổ tung, đã thấm đẫm tinh huyết và oan độc của trăm tính mạng. Mảnh đao vỡ gặp máu liền hoá, theo máu mà đi. Mảnh vỡ đâm vào cơ thể, không phải là đao đang giết người, mà là cả trăm hung hồn ác quỷ đang giết người.

    Chỉ có hàng sát thủ thứ hai vừa xông vào qua lỗ hổng, do khoảng cách khá xa nên không bị mảnh đao vỡ đâm trúng. Sau khoảnh khắc kinh tâm táng đởm, chúng lập tức vòng qua đám xác chết hình thù rùng rợn, tiếp tục đuổi theo Dương Tiểu Đao. Đây chính là những sát thủ đã được Chu gia huấn luyện kỹ càng, không sợ không lùi, tâm như tử sĩ.

    Dương Tiểu Đao từ xa đã nhìn thấy cảnh tượng lão Lợi nổ đao thảm sát đối thủ, cũng đã ngửi thấy mùi máu tanh lợm bay xộc tới. Không rõ là do cảnh tượng thảm khốc kia, hay do mùi máu tanh hôi quá mức, mà bụng dạ gã bỗng cuộn lên nhộn nhạo, phải gập người oẹ liền mấy cái, song chẳng nôn ra được thứ gì, chỉ khiến hai mắt gã tràn đầy lệ đục, che lấp cả tầm nhìn.

    Gã đưa tay gạt màn nước mắt để nhìn cho rõ, song thứ nhìn thấy lại là đám sát thủ đang vùn vụt lao tới. Quay đầu lại nhìn, trước mặt lại là vách đá vỡ lở, đã hết đường tháo chạy...

    Lúc này Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đang dựa sát vai nhau, trước mặt họ là đám sát thủ lợi hại hơn nhiều so với những kẻ bên mảng tường đổ phía tây. Đa phần trong đó là cao thủ do Chu Chân Mệnh đích thân dẫn tới, bao gồm người đao mười sáu lưỡi và hộ vệ tổng đường, cộng thêm những cao thủ hàng đầu do các đường khẩu điều tới. Trước đó, chúng được Chu Chân Mệnh bố trí canh giữ ở quanh chùa, sau đã trở về chùa qua con đường bí mật. Lại thêm Dương Thiên Vương nãy giờ bám theo Hạ Táo Hoa cũng vào nhập bọn.

    Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ biết mình không phải là đối thủ của đám người này, song hai người họ lại nhất quyết tử thủ tại hành lang quanh tháp. Bởi họ hiểu rõ, nếu để đám cao thủ này đuổi tới, Lỗ Nhất Khí coi như đã hết cơ hội. Họ lựa chọn vị trí cố thủ tại đầu hành lang và mật độ dày đặc của khảm nút xung quanh sẽ gây bất lợi cho tấn công ồ ạt. Dù người của đối phương có đông đảo tới đâu, có thông thạo cách bố trí khảm nút xung quanh thế nào, thì nhiều nhất cũng chỉ đủ không gian cho ba, bốn người cùng tấn công mà thôi.

    Trên thực tế, cuộc giao chiến giữa hai bên vô cùng ngắn ngủi, Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ vừa triển khai công lực, đối phương đã dừng tấn công. Chúng dừng lại vì đã nhận được một tín hiệu nào đó, một tín hiệu không cho phép phản kháng. Về điểm này, Dưỡng Quỷ Tỳ hiểu rõ hơn Hạ Táo Hoa, dù gì cô cũng lớn lên trong Chu gia, nên đã thông thuộc các quy tắc của bọn họ.

    Người phát tín hiệu chắc hẳn ở gần đây, cục diện đối đầu ở bên này hẳn cũng nằm trong phạm vi quan sát của hắn. Tín hiệu phát ra là muốn phe mình vốn đã chiếm được ưu thế tạm ngừng tấn công, cho thấy chắc chắn đã có bố cục và thủ đoạn nguy hiểm gấp bội dành sẵn cho bọn họ. Dưỡng Quỷ Tỳ cảm thấy nếu bọn họ cứ tiếp tục cố thủ tại đây sẽ càng thêm nguy hiểm, khác nào đám cừu chờ sói tới ăn thịt. Cần phải mau chóng thoát khỏi tình thế này.

    - Chúng ta phải rời khỏi đây ngay lập tức, trước khi đi phải nghĩ cách cản chân đám sát thủ này lại! - Dưỡng Quỷ Tỳ từ nhỏ ít giao thiệp với người khác, bởi vậy cũng không biết cách nói năng cho khách khí.

    Hạ Táo Hoa đã bình tĩnh hơn rất nhiều so với lúc lão mù vừa chết. Cô ta vốn là người thông minh sắc sảo, chỉ cần đầu óc tỉnh táo, sẽ có thể bộc phát một nguồn năng lượng vô cùng khủng khiếp.

    - Cô đi trước đi, khoảng bảy chục bước đứng lại chờ tôi! - Hạ Táo Hoa nói.

    Dưỡng Quỷ Tỳ đi rất nhẹ nhàng. Cô vốn ngây thơ tin người, nên chẳng hề thấy lo lắng cho Hạ Táo Hoa. Dưỡng Quỷ Tỳ đi rất thung dung, hành lang quanh tháp tuy đầy rẫy khảm nút, song những khảm nút mà Chu gia thường xuyên sử dụng đã quá quen thuộc với cô, nên chẳng khác gì đi trên đường về nhà.

    Dưỡng Quỷ Tỳ vừa bước đi, Hạ Táo Hoa lập tức đưa tay vào chiếc túi nhỏ bên hông lôi ra một thứ gì đó, đồng thời bước xéo ra phía sau vài bước. Vài bước này vừa hay đã rẽ vào một khúc ngoặt của đường khảm. Như vậy, giữa cô và đám sát thủ đã có thêm hai điểm giẫm trên nút lẫy, cũng giống như cô đã nấp vào sau một góc tường quanh.

    Hạ Táo Hoa cũng rất thung dung, không cần để ý xem Dưỡng Quỷ Tỳ đã tới đúng chỗ chưa, cũng không để ý xem đám cao thủ trước mặt có hành động khác lạ nào không, chỉ chú tâm vào chiếc túi vải hoa lam vừa lôi ra từ trong túi đeo. Nâng túi vải trên lòng bàn tay, cô bắt đầu lầm rầm tụng niệm:

    - Xanh vàng đỏ trắng đen tuỳ ý, kiếp trước gặp hung kiếp này cát, thu về khí huyết mạch tam kinh, không làm oan hồn nơi âm thế...

    Loại thần chú này vừa không phải xuất phát từ phương thuật Đạo giáo, cũng không bắt nguồn từ tà phái vu thuật của dị tộc. Nếu xét về nguồn gốc, nó cũng ít nhiều có liên quan tới Đạo giáo, chính là lời chú tụng niệm khi hành khí của người luyện Khí Môn tông. Người sáng lập ra Khí Môn tông là một thần y thời Đông Hán có tên là Lục Huyền Nguyệt. Tuy ông tinh thông kim thạch dược lý đến độ xuất thần nhập hoá, song còn ngưỡng mộ đạo thần tiên hơn nữa, nên đã theo học một đạo sĩ nổi tiếng thời Đông Hán tên là Nguỵ Bá Dương, khổ luyện theo trước tác thần kỳ “Tham đồng khế” do Nguỵ Bá Dương kết hợp “Kinh Dịch”, “Lão Tử”, “Trang Tử” mà soạn nên. “Tham đồng khế” là thuỷ tổ của hành khí kinh đan, Lục Huyền Nguyệt chuyên tâm nghiên cứu về hành khí, cuối cùng đã có thành tựu xuất sắc, rời khỏi sư môn tự thành lập phái riêng, gọi là Hợp Đức khí tông. Ý nghĩa của nó được lấy từ câu “Âm dương hợp đức mà cương nhu có thể” trong “Kinh Dịch”. Tông phái này đã suy thoái sau triều Đường Tống, chỉ còn sót lại một ít di mạch ở vùng Tây Bắc.

    Hạ Táo Hoa đã học được công phu của Hợp Đức khí tông từ trong một cuốn sách cổ mà lão mù lấy trộm về. Song công phu đó đã không còn là chính tông, mà pha tạp rất nhiều kỹ xảo vu thuật của người dị tộc. Như lúc này, công phu hành khí của cô tuy tương hợp với Hợp Đức khí tông, song khí được vận hành lại không phải là chính khí âm dương nội tu, mà là chiếc túi vải hoa lam kia.

    Túi vải hoa lam được mở ra, bên trong còn có một gói lụa vàng. Trên tấm lụa thêu đầy kinh văn, còn thấy lờ mờ một ấn phong bằng chu sa.

    Hạ Táo Hoa niệm chú mỗi lúc một lớn tiếng, ngón trỏ tay phải vạch vẽ loằng ngoằng trên gói lụa vàng. Dây buộc trên tấm lụa từ từ lỏng ra, bốn góc gói lụa không gió tự mở, lộ ra thứ được bọc kín bên trong.

    Đó là năm cục màu xám trắng, có dài có ngắn, có to có nhỏ, đều mang hình thù bất quy tắc. Chúng mang theo những khí tướng có độ mạnh và hướng lan toả hoàn toàn khác nhau.

    - Xương! Là xương người! - Kẻ vừa nhận ra là một cao thủ chuyên giải phẫu xác chết của Tam Xuyên đường phía Chu gia.

    - Có cốt khí, có thi khí, còn có độc khí! - Lại một cao thủ luyện khí của Tương Tây đã nhận ra khí tướng của mấy cục xương.

    Tiếng niệm chú của Hạ Táo Hoa đã trở nên vang vọng, tiết tấu cũng được đẩy nhanh. Khí thế của năm cục xương cũng theo đó mà bốc lên dữ dội.

    Năm cục xương, mỗi cục đều đồng thời ẩn chứa cốt khí, thi khí và độc khí. Song khí tướng ẩn chứa trong mỗi cục xương lại khác nhau. Cốt khí có khí xương khô, khí xương non, khí xương vỡ; thi khí có khí xác rữa, khí xác sống, khí xác khô; độc khí lại còn nhiều hơn nữa, mỗi cục xương đều chứa không dưới bốn năm loại.

    Do nguồn gốc của khí không giống nhau, nên khí tướng hiện lên cũng rất khác biệt. Khí tuóng vọt lên từ năm cục xương hiện rõ năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen. Khí tướng năm màu này lúc thì hoà quyện vào nhau, lúc lại tản ra bốn phía, bay dật dờ bất định.

    - Luật... cấp... hành! - Hạ Táo Hoa vừa hô lớn, cánh tay đã vung lên. Năm cục xương lập tức văng ra, lăn lông lốc trên nền hành lang, tản ra thành cục tướng Năm cửa ải cửu tuyền.

    Năm cục xương vừa rơi xuống đất, khí tướng lập tức nở phình, xoay tròn, lan toả khắp xung quanh. Khí thế và hướng đi của nó ngầm hợp với cách bố trí của cục tướng Năm cửa ải cửu tuyền, uốn lượn vu hồi, như xúc tu, như rắn trườn, chất độc ngùn ngụt, năm màu rực rỡ, mùi thối rữa nồng nặc, như thể có hồn ma, xác chết đang giãy dụa, đang dật dờ đi lại.

    Đám cao thủ Chu gia nhìn thấy cảnh tượng này, đều bất giác lùi lại hai bước.

    Hạ Táo Hoa vừa hất năm cục xương đi, lập tức quay người chạy thẳng. Nhìn vào tốc độ di chuyển, có thể thấy cô đang cố gắng né tránh làn khí đang lan toả kia, không muốn để bất kỳ một bộ phận nào trên cơ thể chạm vào luồng khí tướng năm màu đó.

    Trong đám cao thủ của Chu gia vẫn có kẻ không rời mắt khỏi Hạ Táo Hoa. Đây chính là kinh nghiệm giang hồ, trước một cục tướng mà bản thân không hay biết, tốt nhất nên quan sát phản ứng của người bố trí cục tướng. Nếu ngay cả bản thân người bố trí cục tướng cũng tỏ ra sợ hãi né tránh, thì những người khác lại càng phải tránh xa. Mấy tên cao thủ này vừa thấy Hạ Táo Hoa phản ứng như vậy, lập tức vội vã thoái lui, chạy dạt đi thật xa. Những cao thủ khác tuy không biết mô tê gì, nhưng thấy đồng bọn lùi lại, cũng cuống quýt lùi theo.

    Dưỡng Quỷ Tỳ vừa đứng lại ở khoảng cách bảy chục bước, Hạ Táo Hoa cũng đã kịp lao tới, kéo lấy cô tiếp tục chạy ào đi.

    - Từ từ, nhìn kỹ xem phía trước có khảm cục không đã. - Dưỡng Quỷ Tỳ biết rõ sự lợi hại của Chu gia, nên vội vã nhắc nhở Hạ Táo Hoa.

    - Anh Nhất Khí đã đi qua, có khảm nút cũng phá giải cả rồi. Tôi vừa rải ra Ngũ cốt hành khí mê, tuy hung dữ, song nhiều nhất cũng chỉ cầm cự được khoảng hai chén trà, sau đó toàn bộ sẽ thành hư tướng!

    Hai chén trà, không phải là dài, cũng không phải là ngắn.

    Thân thủ của Hạ Táo Hoa và Dưỡng Quỷ Tỳ đều cực kỳ nhanh nhẹn, hoàn toàn có thể lợi dụng khoảng thời gian này để đuổi kịp Lỗ Nhất Khí, song với điều kiện là không bị ai ngăn cản. Song hai cô gái quả là không may mắn, vừa tới phía dưới bức bích hoạ, từ trên vách đá bỗng bay vụt xuống một thân hình đầy đặn phì nhiêu, chặn ngay trước mặt. Người này chúi đầu mà lao xuống, khi sắp chạm đất lại uyển chuyển lượn vòng mà lên. Dáng vẻ tuyệt đẹp, áo bay như mây, mặt hồng như ráng, da trắng như tuyết, khác nào tiên nữ giáng trần.

    - Báo Cơ nương nương! - Dưỡng Quỷ Tỳ kêu lên kinh hãi. Tuy cô chưa một lần gặp Báo Cơ, song đã nhiều lần nghe người khác mô tả về dáng vẻ của Báo Cơ. Dưỡng Quỷ Tỳ quả thực cảm thấy khiếp sợ, bởi lẽ công lực của Báo Cơ không hề thua kém sư phụ của cô. Dù cô và Hạ Táo Hoa liên thủ, cũng khó lòng thoát khỏi tay Báo Cơ.

    Hạ Táo Hoa dày dạn kinh nghiệm, từ giọng nói và vẻ mặt của Dưỡng Quỷ Tỳ, cô lập tức hiểu ra rằng mình đã phải đương đầu với một kẻ địch hết sức đáng gờm. Cô nhanh chóng âm thầm tụ lực, chuẩn bị dốc toàn lực lao vào trận quyết tử.

    Vậy là ba người dàn thành hình chạc ba, người chưa động, khí thế đã động. Ba luồng khí tướng cuồn cuộn như mây toả, xoắn xuýt vào nhau, va chạm với nhau...​
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Thành viên đang xem bài viết (Users: 0, Guests: 0)