FULL  Võ Hiệp  Cổ Điển Tiên Hạc Thần Kim - Lý Liên Chi

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,693
    Tiên Hạc Thần Kim
    Tác giả: Lý Liên Chi
    Chương 1: Rừng mai đoạt báu vật.

    Dịch:
    Nguồn: Sưu Tầm


    Một bộ kiếm hiệp theo phong cách cổ điển với đầy đủ ân oán tình thù.

    Lúc nhỏ Tiểu Quyên cùng Quân Vũ thường ra bờ suối câu cá, vui đùa cao hứng có khi quên cả bửa ăn. Bây giờ cảnh vật còn nguyên dấu nhưng Quyên đã ra người thiên cổ. Một người tuy chết, nhưng vẫn còn sống trong lòng một người khác, thì người đó đã thực sự chết chăng? Vạn công giai nguyên mật, nhất kiếm thần châu hàn, già tùng sư minh nguyệt, thạch thượng lưu thanh toàn.

    Thiên hạ võ công đệ nhất ai cũng muốn, ai cũng thèm khát. Nhưng làm đệ nhất có ích chi, nếu không có tình yêu, không có bè bạn. Cuộc sống như giấc mộng phù du, công danh phú quí chẳng khác đám mây bay. Tại thiên nguyện tác bi liên điểu. Tại địa nguyện tác liên lý chi. Thanh Loan là một cô gái ngây thơ, nghĩ gì nói nấy. Cô mong rằng cô và Quân Vũ sẽ như một đôi hạc vàng, mãi mãi bên nhau. Nhưng ước mong chỉ là mong ước...



    Trung tâm Tương Bắc, vào tiết cuối đông hoa mai đua nở rất nhiều. Đẹp nhất là nơi bờ sông Nguyên Giang, những buổi chiều vàng, khách qua đường không thể không lưu ý.

    Ở đó có viện Tam Thanh quan, một ngôi cổ viện đã nổi tiếng từ xưa đến nay, ẩn khuất trong rừng mai đẹp nhất trên chốn giang hồ.

    Hôm đó, trời mới tinh sương, ánh nắng chưa rải khắp cánh cây kẽ lá, thì trong rừng mai bỗng xuất hiện một thiếu nữ mặc áo hồng, tay phải cầm một bó hoa, tay trái nhẹ nâng tà áo, thoăn thoắt tiến về phía bờ sông.

    Nét diễm kiều thướt tha trên làn cỏ ướt, với dáng điệu ấy, với khuôn mặt ấy, ai cũng phải công nhận nàng là một tuyệt thế giai nhân.

    Thiếu nữ đi đến bờ sông dừng chân lại, đưa mắt nhìn dòng Nguyên Giang như nóng lòng chờ đợi một tin tức gì.

    Dòng nước chảy mạnh, sóng bủa rạc rào, rộp rịp chẳng khác lòng nàng lúc bấy giờ.

    Nàng nhoẻn một nụ cười, mân mê bó hoa mai, rồi bứt từng cánh hoa ném xuống mặt sông.

    Từng cánh hoa bị nước cuốn vùi dập trôi đi, làm cho đôi mi nàng hơi cau lại, nét tươi vui như không còn trong hồn nhiên nữa.

    Giữa lúc đó, một chiếc ghe nhỏ xuôi dòng, từ trên thượng lưu phóng xuống như tên.

    Chỉ loáng mắt, đã thấy một vị hòa thượng, mày rậm râu dài, đứng ở mũi ghe, mặc áo bào trắng, dáng người quắt thướt uy nghi.

    Thoáng thấy vị hòa thượng ấy, thiếu nữa tươi hẳn nét mặt, vừa đưa tay vẫy, vừa reo lên.

    - Sư phụ! Sư phụ!

    Nàng quăng hết bó bông mai xuống sông, nhún mình một cái, cả tấm thân kiều diễm của nàng vút qua làn nước, đáp vào chiếc ghe nhỏ của vị hòa thượng còn đang bập bền xuôi trên mặt sóng.

    Lão hòa thượng nhíu mày, nhìn thiếu nữ mắng yêu :

    - Năm nay con đã mười tám tuổi rồi, sắp trưởng thành mà còn nhỏng nhẻo như trẻ con nữa sao?

    Dứt lời, hòa thượng đưa tay cầm chiết neo sắt quăng vút vào bờ. Lão vừa buông tay, chiếc neo đã móc vào một gốc cây lớn, cắm sâu hơn năm tấc. Xem đó, đủ biết lão hòa thượng tuy đã hơn sáu mươi tuổi mà sức mạnh phi thường, nội công quá thâm hậu.

    Sợi dây thừng căng thẳng, chiếc ghe dừng lại. Lão vừa phất tay áo một cái thì như một luồng khói, toàn thân lão đã lên tới bờ.

    Lão vừa quay đầu nhìn lại thì thấy thiếu nữ cũng đang vận dụng khinh công nhảy theo. Nhưng nàng vừa nhảy được nửa chừng, bỗng sa xuống mặt nước.

    Hòa thượng thất kinh, la hoảng :

    - Kìa! Loan nhi!

    Tiếng ông la chưa dứt thì thiếu nữ đã khoác tay tung mình lên cao hơn năm thước rồi đáp nhẹ vào bờ như một con chim én, xiêm y của nàng tròn trông rất đẹp mắt.

    Nàng cười ha hả, tiếng cười trong như ngọc rót, nói với hòa thượng :

    - Sư phụ! Sư phụ thấy công phu “Yến Tử Phi Vân” của con lúc này có tiến bộ không?

    Hòa thượng nghiêm nét mặt nói :

    - Cũng có tiến bộ đôi chút, nhưng về nội tâm chưa được thành tính, hỏa hầu còn kém. Nếu giao đấu với địch thủ mà nội tâm rối loạn thì công phu của con sẽ không đạt đến mức đó.

    Hồng y thiếu nữ thấy sư phụ đã không khen còn buông lời chê trách, mặt nàng xịu lại như một cành hoa héo, cúi đầu chẳng nói lời nào nữa.

    Hòa thượng thở dài, thầm nghĩ :

    - Nếu không có một lần nghiêm khắc, răn dạy nó, cứ để nó nhỏng nhẻo mãi thì làm sao có thể nên người được.

    Ông định lựa lời trách mắng, nhưng vừa quay đầu lại thấy nàng vẫn đứng im, cúi mặt xuống đất, đôi mắt ươn ướt, dáng điệu chẳng khác nào mẹ nàng hồi nhỏ, lúc còn sinh tiền.

    Hình ảnh ấy đã làm cho vị hòa thượng nhớ lại mối tình của ông hơn ba mươi năm về trước, một dĩ vãng đau thương chỉ có chết đi may ra ông mới nguôi ngoai nổi.

    Thế là ông không còn đủ can đảm khiến trách đứa nữ đồ đệ của ông nữa. Từ giận đổi sang buồn, ông nhẹ giọng gọi :

    - Loan nhi! Con hãy đến đây.

    Thiếu nữ đang làm mặt giận hờn, bỗng nghe thấy sư phụ gọi, nàng ngẩng đầu lên thấy toàn thân sư phụ nàng rung rẩy, nàng “Á” lên một tiếng rồi chạy xổ đến quỳ gối trước mặt hòa thượng vừa khóc vừa nói :

    - Sư phụ đừng giận con! Từ nay về sau con không dám làm cho sư phụ giận con nữa.

    Hòa thượng đưa tay đỡ thiếu nữ dậy, nở một nụ cười héo hắt trên môi, nói :

    - Ta muốn cho con nên người nên mới đem con đến đây. Quán chủ Tam Thanh Huyền Thanh đạo sư là một trong Tam lão của phái Côn Luân có môn “Phân Quang kiếm pháp” xuất sắc trong giới giang hồ. Ta đã hứa đem con đến đây để nhờ Huyền Thanh đạo sư truyền dạy cho con môn ấy.

    Thiếu nữ nói :

    - Thưa sư phụ, tại sao lại phải làm như vậy? Môn “Thập bát La Hán chưởng” của sư phụ cũng đủ cho anh hùng khắp nơi nể sợ rồi.

    Hòa thượng nói :

    - Đành vậy, nhưng Huyền Thanh đạo sư vốn quen biết với ta. Đạo trưởng lại có một đứa học trò duy nhất, muốn cho ta truyền dạy môn “Thập bát La Hán chưởng”. Nhân dịp này ta muốn trao đổi đồ đệ để dạy với nhau. Trong lúc đạo trưởng truyền “Phân Quang kiếm pháp” cho con thì ta lại truyền “Thập bát La Hán chưởng” cho Mã Quân Vũ, đứa đồ đệ duy nhất của lão.

    Ba tiếng Mã Quân Vũ như có một mãnh lực gì làm cho lòng thiếu nữa vui vui.

    Nàng gục đầu ôn lại những ngày nàng theo sư phụ đến đây, được thấy Mã Quân Vũ, đồ đệ của Huyền Thanh đạo sư, anh chàng khôi ngô tuấn tú mà lòng nàng lúc nào cũng nghĩ tới.

    Hôm nay, chính nàng đến nơi rừng mai này quá sớm, cũng chỉ vì nàng muốn được trông thấy người học trò khôi ngô đó.

    Trong lúc nàng mơ ước đến tương lai mà vui, thì hòa thượng lại nghĩ đến dĩ vãng mà buồn. Hai vẻ mặt một già một trẻ tương phản nhau đã đành, mà trong tâm hồn của mỗi người đều khác biệt.

    Thiếu nữ thấy sư phụ nàng buồn bã, ngờ rằng ông ta giận nàng, nên nắm lấy tay ông nửa nũng nịu nửa van xin :

    - Sư phụ! Sư phụ đừng giận con nữa! Con đã hứa với sư phụ rồi, từ nay trở đi con không làm cho sư phụ giận nữa đâu.

    Hòa thượng ngập ngừng nhìn thiếu nữa nói :

    - Không, không! Thầy không giận con đâu! Thầy nghĩ đến hoàn cảnh cha mẹ của con mà buồn.

    Đã mấy lần nàng nghe sư phụ nàng nhắc câu ấy, nhưng đã mấy lần nàng đã hỏi đến lai lịch của nàng thì sư phụ nàng lại từ chối không chịu nói. Nàng có cảm giác bên trong hẳn có điều gì bí ẩn lắm. Từ lúc nhỏ đến giờ, nàng không hề biết cha mẹ nàng là ai, chỉ sống với lão hòa thượng mà nàng gọi là sư phụ. Bao nhiêu tình thương nàng dồn vào vị hòa thượng già nua kia, và ngược lại, vị hòa thượng cũng yêu mến nàng, coi nàng như con đẻ vậy.

    Hơn ba tháng nay, thỉnh thoảng sư phụ nàng đưa nàng đến đây để nhờ Huyền Thanh đạo sư truyền thụ cho nàng về “Phân Quang kiếm pháp” và ông hứa với nàng lúc nào nàng thành tài sẽ nói cho nàng rõ tung tích. Do đó, mặc dù vị hòa thượng nhắc đến cha mẹ nàng, nàng cũng không dám tò mò hỏi đến nữa.

    Hai thầy trò đang nói chuyện thì từ trong rừng mai có một bóng người rẽ lá bước ra.

    Đó là một thiếu niên trạc hai mươi tuổi, mắt sáng như sao, da mặt trắng trẻo, mặt áo đạo bào màu xanh, chân đi giày trắng, dáng người rất thanh nhã.

    Vừa thoáng thấy hòa thượng, thiếu niên đã dập đầu làm lễ ra mắt, và nói :

    - Sư gia con biết hôm nay có Ngô Không sư bá đến nên sai con ra đây đón rước. Con đến chậm, xin sư bá tha lỗi.

    Hòa thượng nhìn thiếu niên vui vẻ hỏi :

    - Mấy tháng nay Loan nhi đến đây luyện võ có làm phiền cháu điều gì không. Chắc làm bận rộn sư phụ cháu lắm nhỉ!

    Thiếu niên cung kính thưa :

    - Thưa sư bá, Thanh Loan sư muội rất thông minh, lại được sư bá truyền thụ võ công rất thâm hậu. Gia sư con thường nói sư muội sau này ắt có một tương lai tốt đẹp. Còn con là đứa tối tăm ngu muội, được gần gũi Thanh Loan nhờ Thanh Loan chỉ bảo cho đôi chút thật là việc may mắn, đâu dám phiền hà.

    Thiếu niên này chính là Mã Quân Vũ, người đồ đệ duy nhất của Huyền Thanh đạo sư, ở tại Tam Thanh quan này.

    Thanh Loan thấy Quân Vũ khen mình, đôi má đỏ ửng, miệng nở một nụ cười tươi. Nàng khẽ đưa mắt nhìn Quân Vũ với vẻ mặt đầy thâm tình.

    Nhưng Quân Vũ không hề để ý đến, nét mặt chàng vẫn điềm nhiên, cung kính đứng chắp tay hầu Ngô Không hòa thượng.

    Thấy rõ cử chỉ đó, Ngô Không hòa thượng than thầm :

    “Từ năm trước Loan nhi gặp Mã Quân Vũ một lần. Từ đấy nó thường đòi ta dẫn đến đây chơi, lấy cớ rằng thích vườn mai. Nhưng nào phải đâu nó thích vườn mai, mà chính nó đã thích chàng thiếu niên này. Qua ba tháng chúng được gần gũi nhau, ta xem Loan nhi nặng tình với Mã Quân Vũ, mà Mã Quân Vũ thì vẫn thờ ơ với nó... Ôi! Tình là bể khổ! Lúc nhỏ ta đã trải qua một đoạn tình sử bi thương, thiếu chút nữa phải vùi thây trong núi thẳm rừng sâu. Mặt dù việc rủi ro ấy đã đưa ta tới một may mắn là gặp được cao nhân truyền thụ võ nghệ mới có cái vinh dự ngày nay, tuy nhiên mỗi khi nhớ đến đoạn tình sử ấy chẳng khác nào một cơn ác mộng! Đã hai mươi năm ta cúi đầu bái Phật, cố tách ra khỏi dĩ vãng, nhưng nhiều đêm âm dung nàng vẫn hiện ra trước mắt... Ôi! Nàng, nàng đã bị người ta giết chết! Cho đến lúc chết nàng mới thổ lộ tình yêu với ta! Lúc đó đôi mắt nàng đẫm lệ, trao đứa con cho ta và nhờ ta bảo bọc! Đứa con nàng bây giờ là Loan nhi, giọt máu di lưu của nàng. Tánh tình và cử chỉ của Loan nhi cũng rất giống nàng, nay Loan nhi lại sớm sa vào đường tình ái, sợ rằng nó không khỏi dẫm vào vết xe đau khổ của người thời xưa... Nếu để nó phải ôm lấy sầu hận thì nhiệm vụ ta không tròn với người quá cố...!”

    Nghĩ đến đây, hòa thượng tay chân lạnh toát, ngẩng mặt về phía Thanh Loan.

    Lúc đó ánh nắng đã lên cao, chiếc áo màu hồng của nàng phản chiếu lên đôi má, làm cho nàng năng thêm vẻ đẹp thơ ngây của tuổi thiếu thời.

    Hòa thượng, lại liếc nhìn cử chỉ của Mã Quân Vũ, thấy chàng trang nghiêm, đạo mạo, chẳng hề để ý đến Thanh Loan.Ông ta thầm nhủ :

    - Huyền Thanh chọn đứa đệ tử này thật khác đời. Đối với một thiếu nữ kiều diễm như Loan nhi mà hắn không hề lưu chút tình cảm, lạ thật.

    Đang lúc hòa thượng còn mải mê suy nghĩ, Mã Quân Vũ bỗng cúi đầu xá dài một cái và nói :

    - Thưa sư bá! Gia sư của con đang chờ sư bá nơi đại sảnh, xin mời sư bá vào hội kiến.

    Ngô Không hòa thượng gật đầu, cất bước, theo con đường mòn, rẽ vào rừng mai, hướng về phía Tam Thanh quan.

    Ba người đi chưa được bao xa, bỗng nghe từ phía Đông có tiếng hét vang trời, tiếng hét rùng rợn như những tiếng gầm gừ của loài thú dữ bị thương vậy.

    Ngô Không hòa thượng cau mày quay lại thì thấy Thanh Loan và Quân Vũ cũng đang dừng chân, đứng sát vai nhau nhìn về phía ấy.

    Tiếng la hét mỗi lúc một gần, nhưng Ngô Không hòa thượng thấy chuyện của người ta, không cần quan tâm đến, ông ta sợ Huyền Thanh đạo sư chờ lâu, nên vội quay lưng rảo bước vào đại sảnh.

    Mã Quân Vũ để tai nghe ngóng một hồi rồi nói với Thanh Loan :

    - Sư muội! Hình như có tiếng vũ khí chạm nhau. Chắc là có cuộc đuổi đánh gần đây.

    Thanh Loan gật đầu nói :

    - Đúng vậy, nhưng hình như họ đang chạy về hướng rừng mai này.

    Mã Quân Vũ lẩm bẩm :

    - Nơi Tam Thanh Quan này từ trước đến nay rất yên tĩnh không xảy ra một vụ cướp bóc, giết người nào, sao hôm nay lại có chuyện lạ? Tiếng hét từ bờ sông vọng vào chắc là có kẻ hành hung giết người đoạt của chi đây. Chúng ta đến đó xem thử.

    Dứt lời Quân Vũ đã phóng mình về phía bờ sông.

    Thanh Loan vốn tính trẻ con, thích xem những chuyện vui, nên gọi lớn :

    - Mã sư huynh! Chờ tôi đi với.

    Quân Vũ nghe kêu quay lại thì thấy nàng đã phi thân đến gần, nét mặt tươi như đóa hoa xuân, trông rất dễ mến.

    Hai người chưa kịp bước đi thì từ bên ngoài, một đại hán nhảy vọt vào rừng mai, mình mẩy đầy máu, trong tay còn nắm một con dao lớn. Đàng sau có hai lão già đuổi theo rất gấp. Ba người đều trổ thuật khinh công chạy như tên bắn.

    Vừa đến trước mặt hai người thì lão già đuổi theo sau phóng tới một luồng ám khí trắng toát, găm thẳng vào lưng chàng đại hán cầm dao. Chàng đại hán cầm dao tuy mình mẩy trúng đầy thương tích nhưng cũng cố sức chạy không ngừng.

    Vừa trông thấy Quân Vũ và Thanh Loan, chàng đại hán gọi lớn :

    - Mau vào mời Tam Thanh quan chủ...

    Chàng đại hán nói chưa dứt lời hai lão già đàng sau đã đuổi theo kịp. Cả hai đều tung chưởng đánh ra một lượt, chưởng lực vun vút, tống chàng đại hán bay lên cao bảy tám thước, rồi rơi xuống đất một tiếng “bịch”. Chàng đại hán không còn đủ sức gượng dậy nữa, mặt mày tái nhợt, máu tươi trào ra miệng. Hai cây mai to bên đường bị chưởng lực của hai lão già ấy đánh gẫy ngã xuống, những cánh mai vàng rơi lả tả như mưa.

    Mã Quân Vũ thấy chưởng lực của hai lão già tung ra quá mạnh đã thất kinh, lại nghe chàng đại hán kia bảo sư phụ ra mau, bèn nghĩ thầm :

    - “Đại hán này biết danh hiệu sư phụ mình và cố gắng chạy đến đây chắc có quen biết với sư phụ mình chớ chẳng không. Vậy thì ta phải ra tay cứa người quen kẻo nguy mất”.

    Nghĩ như thế, Quân Vũ không kể gì đến tình trạng mình, vội tung mình nhảy đến trước mặt hai lão già chận lại, và hỏi :

    - Tại sao có chuyện tử chiến này, xin cho tiểu nhân rõ.

    Hai lão già thấy chàng đại hán cầm đao trước đã bị mấy mũi ám khí “Kim Long tu” phóng vào lưng, giờ đây lại bị hai luồng chưởng đánh tới hộc máu, không còn gượng dậy được, nên an lòng không còn sợ đại hán đó chạy đi đâu được nữa.

    Thấy thiếu niên cản đường, hai lão già dừng chân, trố mắt nhìn.

    Mã Quân Vũ là người đồ đệ duy nhất của Huyền Thanh đạo sư. Huyền Thanh đạo sư là một trong “tam tử” của phái Côn Luân, lừng danh trên võ lâm về hai môn “Phân Quang kiếm pháp” và “Thiên Cang chưởng”. Mã Quân Vũ theo học Huyền Thanh đạo sư đã hơn mười hai năm rồi, tuy công phu trong phái Côn Luân chàng đã tập luyện khá nhiều, nhưng từ thưở bé đến nay cứ ở mãi nơi Tam Thanh quan hầu thầy, chưa hề có một trận giao đấu với ai.

    Vì vậy, khi thấy hai lão già kia hung hăng như vậy, chàng đã sợ hãi, nhất là khi thấy hai khuôn mặt quái gở của hai ông già đó thì chàng lại càng sợ hãi hơn.

    Hai ông già tuổi ngoài năm mươi, một người có đôi lông mày chữ bát, mắt tam giác, mặt một bên nám đen, một bên trắng toát, đầu tóc tua tủa dài hơn ba tấc. Còn một người nữa da mặt tái như bánh sáp, dáng điệu như một xác chết lâu năm sống lại, dưới cằm lại để một chòm râu vàng. Cả hai đều mặc áo quần bằng vải bố trắng, trông có vẻ hiểm độc, lạnh lùng.

    Thanh Loan thấy Quân Vũ nhảy ra chận đường hai quái khách ấy, lòng lo lắng không an, sợ chàng có bề nào rủi ro, nên nàng cũng liều lĩnh xông đến.

    Khi nàng thấy mặt hai quái khách bỗng thất kinh ré lên một tiếng, ngã vào lòng Quân Vũ.

    Quái khách mặt nửa đen nửa trắng cất giọng cười lanh lảnh nói :

    - Hai đứa chúng bay là hạng người nào trong Tam Thanh quan, hay mau tránh đường đừng dại cản trở công việc của bọn ta mà uổng mạng.

    Mã Quân Vũ tuy nhỏ tuổi, nhưng là kẻ cơ mẫn, thầm nghĩ :

    - “Cứ trông vào chưởng lực của hai lão già này vừa đánh gãy hai gốc mai, đủ biết công phu nội lực phi thường. Nếu không phải là tay cường khấu trên giang hồ, thì cũng thuộc vào hàng phong trần hiệp ẩn. Từ trước đến giờ mình chưa hề biết họ, và tài sức mình cũng không phải là đối thủ của họ thì chống đối với họ làm gì. Chi bằng mình cứ dùng lời lẽ ôn hòa đối đáp, kéo dài thời gian, đợi sư phụ và sư bá đến sẽ hay”.

    Nghĩ như vậy, Quân Vũ vỗ nhẹ vào vai Thanh Loan nói :

    - Loan sư muội! Hãy vào mời sư phụ và sư bá ra đây.

    Thanh Loan gật đầu quay gót chạy vào trong viện. Mã Quân Vũ cúi xuống xá hai quái nhân, vá nói :

    - Vãn bối là đồ đệ của Tam Thanh quan chủ, xin hai vị tiền bối cho biết quý danh, để vãn bối vào trình với gia sư ra tiếp đón.

    Chàng nói chưa lời, thì hai quái khách đã cười lên lanh lảnh. Lão già mặt nửa đen nửa trắng, cất giọng ngạo nghễ, nói :

    - Thằng con nít xấc láo! Tao đâu cần thằng thầy mày đến tiếp đón tao? Có lẽ mày muốn đem uy danh của lão Huyền Thanh ra để dọa chúng tao hả? Chúng tao đâu có sợ lão đạo sĩ ấy?

    Lão già mặt trắng như bánh sáp, đưa tay vỗ vào vai lão già kia, nói :

    - Lão đại! Chúng ta cãi cọ với thằng con nít đó làm gì cho mất thì giờ. Cứ đoạt lấy cái bản đồ trước rồi sẽ nói chuyện sau.

    Dứt lời, lão phóng mình vút về phía chàng đại hán.

    Bây giờ, chàng đại hán đã bị chưởng lực đánh trúng, nằm ngay dưới đất, đôi mắt trợn trừng, tuy chưa chết, song không còn cử động mạnh được nữa.

    Mã Quân Vũ thấy nguy, nếu để lão già kia đánh tiếp một chưởng nữa thì tánh mạng người đại hán còn gì? Chàng liền vận nội lực, dùng “Thiên Cang chưởng pháp” ngăn lão già mặt trắng lại.

    Một tiếng “bùng” phát ra, cả thân mình Quân Vũ bị bay bổng lên hơn thước, bắn ra xa.

    Mã Quân Vũ thất kinh, không ngờ chưởng lực của lão già ấy mạnh đến thế. May thay, chàng chỉ lảo đảo một chút rồi đứng dậy được, không bị thương tích gì.

    Lão mặt trắng sau khi bị Mã Quân Vũ dùng chưởng lực cản lại, trong lúc bất ngờ, lão cũng bị lui mấy bước, nên cau mày, thầm nghĩ :

    - “Thằng ranh con này mới mấy tuổi đầu mà nội lực mạnh đến thế sao?”

    Cả hai quái nhân cùng một lúc xông đến bên chàng đại hán.

    Mã Quân Vũ biết sức chàng quá non kém, chỉ mới cản một cái mà đã tung đi xa hơn sáu thước, bây giờ cả hai lão già ấy đồng xông đến một lượt, nếu chàng cản trở thì ắt phải bỏ mạng. Tuy nhiên, chàng thấy đại hán kia mình mẩy đầy thương tích, máu miệng tuông trào, cái chết chẳng còn bao lâu nên lấy làm tội nghiệp. Chàng không nỡ để hai lão già kia hết thúc tánh mạng người ấy, nên lại xông đến, định tìm lời năn nỉ.

    Lão mặt trắng hét lên :

    - Thằng ranh con! Lì lợm thế sao? Mày khi không muốn rước lấy cái chết, thế thì đừng trách chúng tao độc ác nhé.

    Vừa dứt lời, lão đã vung tay áo đánh tới.

    Giữa lúc đó, nơi góc rừng mai có tiếng gọi :

    - Vũ nhi! Hãy lui mau! Mày muốn tan xác à?

    Tiếng kêu ấy, Mã Quân Vũ nhận ngay lá Huyền Thanh đạo sư, sư phụ của chàng. Chàng vột vàng tung mình nhảy lui ra, nhưng không còn kịp nữa. Chưởng lực của lão già ấy đã tung ra, và thân mình chàng thì bay bổng lên như một chiếc lá khô.

    Quân Vũ ngất đi, tưởng đã nát xương rồi, nhưng liền đó, một bàn tay kịp nâng lấy chàng, đặt nhẹ xuống đất, và thoa bóp các huyệt đạo.

    Bàn tay thoa rất dịu, và một mùi thơm tỏa ra, mùi thơm lâng lâng quen thuộc khiến cho chàng nhận ngay là Thanh Loan sư muội, đã cứu và săn sóc cho chàng.

    Giữa lúc đó, hai quái khách thấy nơi mé rừng mai xuất hiện hai người, một hòa thượng và một đạo sĩ, họ bắt gặp phải đối thủ không vừa, cả hai dồn hết nội lực tung mình tới, đánh ra một song chưởng về phía ấy.

    Hòa thượng và đạo nhân đã đề phòng trước, kịp thời dùng nội gia “Phách Không chưởng lực” đánh lại. Hai sức mạnh chạm nhau, cuốn lên một luồng gió mạnh làm cho hoa lá trong rừng rơi lả tả.Bị song chưởng lợi hại của hai quái khách kia, hòa thượng và đạo nhân cũng phải giật mình, còn hai quái khách thì bị thối lui hơn ba bước mới đứng vững.

    Huyền Thanh đạo sư quay đầu lại thấy ái đồ mình bị thương, hét lên một tiếng, nói với hai quái khách :

    - Giang Nam song quái! Ta với các ngươi thưở nay không có xích mích gì, tại sao các ngươi lại đến đây đả thương đồ đệ ta? Hành động các ngươi như vậy có đáng mang danh trong giới võ lâm chăng?

    Hai lão già ấy chính là Giang Nam song quái, mà trên giang hồ ai cũng biết mặt, thì Huyền Thanh đạo sư đâu còn lạ gì nữa.

    Giang Nam song quái chưa kịp trả lời, đại hán mình mẩy đẫm máu kia đã gượng ngồi dậy, đưa tay chỉ vào ngực, nói ú ớ :

    - Thưa sư phụ! Quy Nguyên mật tập...

    Không để cho hắn nói dứt câu, lão già mặt trắng như sáp kia đã rút ra một mũi “phi tiêu” phóng thẳng vào ngực người đại hán.

    Thật là một hành động chớp nhoáng! Huyền Thanh đạo sư không ngờ bọn Giang Nam song quái lại có thể xuống tay độc ác như vậy, nên không còn cứu kịp nữa.

    Thương hại cho đại hán, trước đây đã bị “Kim Long tu” phóng đầy mình, tiếp đó bị một đòn chưởng gần dập phổi, giờ lại bị một mũi phi tiêu nữa thì làm sao sống nổi.

    Sở dĩ chàng đại hán đó chưa chết là vì nhiệm vụ chưa tròn, nên gắng vận tàn lực để kéo dài phút lâm chung mà thôi.

    Nhưng sức người có hạn, không thể chống nổi với thương tích quá trầm trọng như vậy được, chẳng mấy chốc chàng đại hán đã hét lên một tiếng, lộn nhào một vòng rồi tắt thở.

    Huyền Thanh đạo sư bước tới, nhìn vào mặt đại hán, bỗng thất kinh, vì đó không ai xa lạ mà chính là Hắc Sát Thủ Trầm Xương, người đệ tử của ông, mà ông đã đuổi ra khỏi sư môn trước đây hai mươi năm.

    Là một thế ngoại cao nhân, trước hoàn cảnh ấy cũng không khỏi đau lòng. Huyền Thanh đạo sư cười lên một tiếng lạnh lùng, chưa kịp ra tay thì thấy lão già mặt nửa đen nửa trắng đã phi thân đến toan cướp xác Trầm Xương.

    Bấy giờ Huyền Thanh đạo sư đã dự ý sẵn, đâu còn để cho đối phương lộng hành như vậy được. Ông ta hét lên một tiếng đánh ra một đòn “Phong Lôi Giao Kích”.

    Lão già mặt tái thấy vậy tung mình đến trợ chiến. Ngô Không hòa thượng vốn có tánh hiền từ, nhưng khi thấy hai quái khách hành hung, dùng độc thủ giết người bị trọng thương, nên máu giận của ông cũng đã bừng sôi, ông liền phất tay áo dùng ngón “Lưu Linh Vũ Không” đánh tại vào quái nhân mặt trắng chận lại.

    Huyền Thanh đạo sư là một nhân vật lừng danh trong giới võ lâm lúc bấy giờ, đang cơn nóng giận, ông ta đã ra tay thì nội lực không phải là vừa. Trong lúc đó thì lão già mặt nửa trắng nửa đen vì ham cướp xác Trầm Xương nên thờ ơ, bị đòn chưởng của Huyền Thanh đạo sư tung ra rất mạnh, không còn đỡ kịp nữa. Chỉ nghe một tiếng “ự”, cánh tay của lão già đó bị rớt lìa ra, và thân mình lão tung tên, đập vào một gốc cây mai đứt tiện, cánh lá đổ xuống ào ào.

    Còn quái nhân mặt trắng, tuy không bị thương tích gì, song bị một đòn của Ngô Không hòa thượng phóng ra cũng phải dội lại năm sáu bước, toàn thân bủn rủn.

    Thế là hai lão già Giang Nam song quái cùng một lúc bị thối lui. Tuy nhiên, cả hai đều thuộc vào hạng thượng thặng võ công trong giới giang hồ, dễ gì bị một đòn như thế mà chịu bái phục. Lão già mặt nửa đen nửa trắng có tên là Âm Dương Phán Quan Kỳ Đại Phi còn lão già mặt tái như sáp kia có tên là Vô Thường Hô Diên Hải, vẫn được người đời ca tụng là Giang Nam song quái, cả hai đều có một thành tích phi thường trong quá khứ...

    Qua một đòn ác liệt, đôi bên đã biết sức nhau. Kỳ Đại Phi tuy vừa cụt mất một cánh tay, song nét mặt vẫn lạnh lùng cười lên hô hố, nhìn thẳng vào mặt hòa thượng và Đạo sư nói lớn :

    - Này Tam Thanh đạo sĩ và Ngô Không đại sư! Hai vị đã tặng cho anh em chúng tôi hai ngón đòn độc, anh em chúng tôi sẽ nhớ mãi, và nếu ngày nào chúng tôi còn tấc hơi thở thì ngày ấy chúng tôi còn phải nhớ đến cái nhục này.

    Dứt lời Giang Nam song quái mỗi người rú lên một tiếng.

    Tiếng rú nghe rất rùng rợn. Và, tiếng rú chưa dứt thì cả hai đã lắc mình một cái biến mất dạng.

    Huyền Thanh đạo sư bận lo vết thương Mã Quân Vũ, còn Ngô Không hòa thượng vì không giết người nên cũng chẳng ai có ý đuổi theo.

    Thấy Song Quái đã đi rồi, Huyền Thanh đạo sư thở dài bước đến bên Mã Quân Vũ hỏi han.

    Mã Quân Vũ nội lực đã có căn bản, lại được Thanh Loan thoa bóp các huyệt đạo nên lần lần tỉnh lại không bị thương tích gì. Huyền Thanh đạo sư bấy giờ mới yên tâm, quay lại bên xác chết Trầm Xương, thấy mình mẩy Trầm Xương đầy thương tích và ám khí quần áo đẫm cả máu tươi.

    Ông đau lòng thở dài một tiếng, mắt u buồn nhớ đến mối tình sư đồ trong dĩ vãng, hơn hai mươi năm qua.

    Ông cúi xuống rờ vào ngực Trầm Xương thì thấy ngực hắn đã lạnh toát, mà trên mặt còn lộ vẻ thiết tha.

    Nhớ lại lời nói Trầm Xương trước khi chết, Huyền Thanh đạo sư có ý nghi ngờ, liền mò vào bọc hắn bỗng ông ta bắt gặp một cái hộp nhỏ bằng ngọc rất đẹp. Trong hộp ngọc ấy đựng một tấm vải vuông mỗi bề dài một thước vẽ hình sơn thủy.

    Bức họa này không đẹp lắm, nét vẽ không có gì công phu, chỉ có ba hòn núi cao, hai trước một sau, sắp thành hình tam giác, bên trên một giòng suốt từ ngọn núi giữa chảy xuống, khi thế rất hùng vĩ.

    Huyền Thanh đạo sư suy nghĩ một lúc, bỗng như hiểu ra điều gì, đôi mắt rướm lệ, cúi nhìn thi thể của Trầm Xương, lẩm bẩm :

    - Tội nghiệp cho con đã chịu cam go đau khổ nhưng không toại nguyện. Tuy con đã chết nhưng tên tuổi của con sẽ được liệt vào sư môn, đồ đệ của phái Côn Luân...

    Nói đến đây, Huyền Thanh nghẹn ngào, đứng nhìn xác Trầm Xương như đang tưởng niệm một người quá cố.

    Ngô Không hòa thượng đứng một bên, không hiểu gì cả, nhưng thấy Huyền Thanh đạo sư tỏ vẻ quá đau đớn cũng không dám hỏi.

    Bấy giờ Mã Quân Vũ được Thanh Loan cứu chữa, qua một lúc đã phục hồi nguyên lực. Chàng nhổm dậy thấy sư phụ chàng đang gục đầu buồn bã bên xác chết, vội vụt mình chạy đến.

    Thanh Loan thất kinh hỏi :

    - Mã sư huynh không hề gì chứ?

    Mã Quân Vũ nói :

    - Không sao! Hình như lão già đó không có ý giết tôi! Nhưng dù họ không có ác ý mà chưởng lực của họ như vậy thực đáng sợ. May nhờ sư muội cứu kịp, nếu không tánh mạng tôi nguy mất.

    Được Quân Vũ khen, Thanh Loan sung sướng quá, đôi má ửng hồng.

    Mã Quân Vũ không để ý đến, chạy vội về phía Huyền Thanh, nói :

    - Thưa sư phụ! Người này là ai vậy? Để con bồng vào phòng đơn cứu chữa.

    Huyền Thanh đạo sư khoát tay nói :

    - Nó đã chết rồi, còn cứu chữa gì nữa? Con mau cúi đầu làm lễ ra mắt trước thi hài của sư huynh con.

    Mã Quân Vũ ngạc nhiên! Vì lâu nay môn đệ Huyền Thanh đạo sư chỉ có một mình chàng. Chàng cũng chưa bao giờ nghe sư phụ chàng nói đến người đồ đệ nào khác, nay bỗng nhiên lại có sư huynh?

    Tuy bỡ ngỡ chưa hiểu vì đâu, Mã Quân Vũ thấy vẻ mặt sư phụ quá nghiêm trọng không dám hỏi, vội cúi đầu lạy ba lần.

    Huyền Thanh đạo sư bảo Quân Vũ bồng xác Trầm Xương theo mình, rồi từ từ bước về phía hậu điện.

    Ngô Không hòa thượng biết đó là chuyện riêng Huyền Thanh, không muốn tìm hiểu làm gì, vội dắt Thanh Loan vào đại sảnh để khỏi làm bận rộn thầy trò Quân Vũ lúc đang buồn bã.

    Huyền Thanh đạo sư đem xác Trầm Xương đến một khu vườn cách đó không xa, dùng lửa đốt ra tro, rồi bỏ vào một bình sành, đem chôn ngoài tam quan.

    Kế đó, Huyền Thanh đạo sư dùng thần công đại lực kim cương, viết lên một tấm bia đá mười bốn chữ lớn :

    “Mộ của Trầm Xương, môn đệ của Huyền Thanh đạo nhân, phái Côn Luân”.

    Khi chôn xong Trầm Xương thì bóng đã xế tà, mặt trời chói lên các nhóm mai vàng ối. Huyền Thanh đạo sư lòng đau đớn, từ từ bước từng bước một trở về đại sảnh, đầu óc đang ôn lại những gì trong quá khứ.

    Bỗng ông dừng chân, quay lại nói với Quân Vũ :

    - Vũ nhi! Sư huynh con chỉ vì trước kia gây chuyện đánh với môn đồ của phái Thiếu Lâm, làm cho hai phái mất hòa khí. Vì vậy ta giận, đuổi sư huynh con ra khỏi sư môn. Nhưng sau đó, nó biết lỗi, đã nhiều lần đến đây xin gia nhập trở lại. Ta nhất quyết không cho, mỗi lần nó đến, ta lại đuổi đi. Nó tìm đủ cách để năn nỉ, nhưng vẫn không được. Nó đau khổ quá, cứ hàng tháng đến đây quỳ trước phòng đơn lạy mãi suốt ngày, và khóc đến chảy máu mắt. Nó thề với ta, nếu cho nó được nhập môn thì dẫu có đánh đập, hành hạ nó bực nào nó cũng vui lòng, hoặc bảo nó làm một việc gì khổ cực mấy nó cũng chẳng từ chối. Lúc đó, ta muốn buộc nó làm một việc khó khăn, để nó không thể làm được và không còn dám bén mảng đến Tam Thanh quan cầu xin nữa, nên ta ra một điều kiện bảo nó đi tìm cho được “Võ lâm kỳ bảo Tạng Chánh đồ” mới được ta thừa nhận vào sư môn, còn nếu không tìm được món ấy suốt đời đừng mong ta nhận làm đồ đệ.... Không ngờ vì một lời nói trong lúc nóng giận của ta mà xảy ra việc thảm khốc ngày hôm nay. Trong hai mươi năm qua nó đã bỏ công đi tìm “Tạng Chánh đồ” và nay nó đã tìm được, định đem đến dâng cho ta để xin nhập vào sư môn thì bị Giang Nam song quái đuổi theo giết chết. Tội nghiệp cho nó khổ công hai mươi năm, đến lúc sắp thành công thì bị chết? Đây là một điều đau đớn của sư huynh con. Sau này con nên người chớ quên cái chết thảm thương hôm nay.

    Vừa nói đến đấy, hai thầy trò đã đến sảnh đường.

    Ngô Không hòa thượng từ sớm đến giờ ngồi chờ nơi đó đã nóng ruột, định lúc gặp mặt Huyền Thanh đạo sư sẽ nói đôi chuyện tâm tình. Nhưng khi ông ta bước vào, thấy nét mặt đầy suy tư, buồn khổ, Ngô Không hòa thượng lại ái ngại không dám hỏi đến.

    Huyền Thanh đạo sư lặng lẽ đến trước bàn án, bưng ra một chiếc hộp gỗ sơn đỏ, đặt lên bàn, quỳ gối xuống đất, lạy chiếc hộp ấy ba lạy, rồi mới trịnh trọng mở hộp lấy ra một bức chân dung bằng vải vàng treo lên vách.

    Chân dung ấy là một đạo trang lão nhân, thêu bằng kim tuyến, mặt mày nghiêm chỉnh, tướng mạo uy nghi, trên lưng có mang một cây bảo kiếm.

    Cử chỉ ấy khiến cho Mã Quân Vũ lạ lùng, vì đã mười hai năm chàng sống với sư phụ nơi đây chưa bao giờ thấy sư phụ chàng làm như thế.

    Bỗng Huyền Thanh đạo sư thét gọi Mã Quân Vũ bảo :

    - Đồ nhi! Mau đến đây cúi lạy di tượng của sư tổ, bái lãnh “Chấn Sơn kiếm pháp” của phái Côn Luân.

    Ngô Không hòa thượng thấy thế biết có việc gì quan trọng trong phái Côn Luân, nên vội đứng dậy chấp tay xá dài di tượng một cái rồi dắt Thanh Loan ra ngoài phòng đợi để cho thầy trò Mã Quân Vũ hành sự.

    Mã Quân Vũ không hiểu ra sao cả, tuân lời sư phụ đến dập đầu trước di tượng lạy đủ chín lạy.

    Đợi cho Quân Vũ lạy xong, Huyền Thanh đạo sư xếp bức di tượng bỏ vào hộp cẩn thận rồi mới trịnh trọng nói :

    - Trong giới võ lâm xưa nay hiểu lầm rằng “Phân Quang kiếm pháp” của phái Côn Luân ta chỉ chín mươi sáu thế, thực ra bộ kiếm pháp này gồm có cả một trăm lẻ tám thế, mà mười hai thế sau cùng là những tuyệt chiêu trong kiếm pháp, biến hóa phi thường, không ai lường nổi. Bởi vậy môn kiếm này còn có tên là “Truy Vân thập nhị kiếm”. Nó quý báu như thế, nên nếu không phải là người chính tông của môn phái chẳng bao giờ được đích truyền. Ta và hai vị sư thúc của con có hứa với nhau, lúc nào tìm được người đồ đệ trung thành duy nhất của môn phái, và được sự đồng ý của ba người thì mới truyền dạy. Lẽ ra, muốn truyền kiếm pháp này cho con phải được sự đồng ý của hai vị sư thúc con đã. Nhưng nay vì một việc tối cần, nên ta đã phá lệ, cho phép con tham bái di tượng tổ sư, và sẽ dạy con mười hai thế “Truy Vân thập nhị kiếm” này. Bắt đầu từ ngày mai, mỗi ngày ta dạy cho con một thế...

    Nói đến đây, nét mặt Huyền Thanh đạo sư như có vẻ buồn bã. Ông ta ngập ngừng bảo Quân Vũ :

    - Thôi, con ra ngoài mời Ngô Không hòa thượng vào đây! Đêm nay trăng tốt, con có thể luyện tập kiếm pháp với Loan nhi, lúc nào ta có gọi mới được phép vào.
     
  2. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,693
    Tiên Hạc Thần Kim
    Tác giả: Lý Liên Chi
    Chương 2: Quy Nguyên mật tập

    Dịch:
    Nguồn: Sưu Tầm

    Mã Quân Vũ tuy thấy chuyện hơi khác thường nhưng không dám hỏi, cúi chào Huyền Thanh đạo sư rồi lui gót ra phòng đơn.

    Ngô Không hòa thượng đang ở ngoài đại điện, chỉ dạy Thanh Loan luyện môn huyền công, bỗng thấy Mã Quân Vũ bước ra chuyển lời mời của Huyền Thanh đạo sư, ông vội vã bảo Thanh Loan cũng ra ngoài luyện kiếm với Quân Vũ, rồi cất bước vào đại sảnh.

    Vừa bước vào đã thấy đạo sư đang trải bức họa bằng vải lên bàn, một bên có thắp cây nến sáng rực.

    Nhìn vào bức họa đó Ngô Không hòa thượng giật mình, vì thoáng thấy trên góc tấm vải có viết ba chữ lớn, đã bạc màu :

    “Tạng Chánh đồ”. Bên dưới lại có ghi hai câu thơ, mà lại không phải thơ :

    “Vạn công giai nguyên mật, nhất kiếm thần châu hàn.

    Già tùng sư minh nguyệt, thạch thượng lưu thanh toàn”.

    Bức họa chỉ vẽ sơ ba cụm núi và mấy cây tùng già, đặt biệt là trên có một dòng suối chảy ngoằn ngoèo biến mất vào một cái hố sâu. Trong cái hố sâu ấy không thấy đáy chẳng biết có gì bí hiểm bên trong.

    Huyền Thanh đạo sư đưa mắt nhìn Ngô Không hòa thượng rồi mỉm cười nói :

    - Tấm “Tạng Chánh đồ” này là một đệ nhất bảo vật trong võ lâm. Đã hơn một trăm năm nay, vì việc đi tìm kiếm bản tạng đồ này mà không biết bao nhiêu giang hồ cao thủ đã bỏ mạng. Nay tôi không có công gì mà lại được...

    Ngô Không hòa thượng hỏi :

    - Tôi được nghe trong giới võ lâm thường nói “Tạng Chánh đồ” về việc “Quy Nguyên mật tập”, nhưng tôi chỉ biết qua loa, không rõ nguyên ủy thế nào. Đạo trưởng là người trong “Côn Luân tam tử” danh tiếng mấy mươi năm trên giới giang hồ, kiến thức lại rộng, chắc có lẽ đạo trưởng hiểu nhiều về việc ấy.

    Huyền Thanh đạo sư đôi mắt đăm chiêu, thở dài một tiếng, rồi thong thả đáp :

    - “Nói đến “Quy Nguyên mật tập” phải nhắc lại câu chuyện ba trăm năm về trước.

    Lúc đó, vào thời võ lâm cực thịnh, trên giang hồ chia ra làm chín phái võ danh tiếng, trong đó có hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang là mạnh nhất, thu dụng đệ tử rất nhiều. Còn các phái như Hoa Sơn, Côn Luân, Điểm Thương, Không Động, Thanh Thành, Thiên Long, Nga My đều thuộc vào bậc nhì cả. Ngoài chín phái võ có tên tuổi ấy còn có nhiều môn phái khác tuy võ công cũng đặc dị, nhung không thể nào bì lại chín phái trên. Bấy giờ, trong các phái võ đều nổi lên những kỳ tài độc đáo, mỗi môn chiếm một ưu thế võ công, tranh tài liên miên không lúc nào dứt. Các vị Chưởng giáo trong chín phái lại hẹn nhau tổ chức một cuộc đấu kiếm trên Thiếu Thất sơn để chọn lấy một đệ nhất võ công, và xếp hạng cho các phái.

    Hôm đó là một ngày xôn xao nhất trong giới giang hồ, số người đến dự đông không thể tả. Các tay có võ công đến để tranh đấu đã đành, những người chuộng võ thuật cũng đến đó xem, thật là một cuộc họp mặt vô tiền khoáng hậu.

    Trước ngày tỉ thí, họ mở những bữa tiệc rất linh đình tại Thiếu Thất sơn, ăn uống vui chơi tại đó”.

    Ngô Không hòa thượng chắc lưỡi xen vào :

    - Ồ, như thế ngày ấy chắc vui lắm nhỉ!

    Huyền Thanh đạo sư gật đầu kể tiếp :

    - “Ngày tỷ võ, mỗi phái lựa ra ba tay cao thủ nhất, và lần lượt đấu với nhau để phân định thắng bại. Chín phái đánh với nhau trong bảy ngày đêm, kẻ bị chết người bị thương cũng nhiều.

    Phái Hoa Sơn, Điểm Thương, Không Động và Thiên Long bị thua trước nhất. Còn lại năm phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Côn Luân, Thanh Thành và Nga My phải quyết đấu trở lại. Những người được tuyển vào dự đấu là những tay tinh anh đặc dị của mỗi môn phái, cho nên mỗi người bị thương hoặc chết là không biết bao nhiêu tuyệt kỹ trong phái ấy bị thất truyền...”

    Ngừng một lúc, đạo sư buông một tiếng thở dài.

    Ngô Không hòa thượng nóng lòng hỏi :

    - Kết quả trận đấu đó phái nào thắng?

    Huyền Thanh đạo sư mỉm cười, nói :

    - “Nếu cuộc đấu ấy mà phân định được thắng bại, phân định được ngôi thứ, thì tuy có một số anh hùng võ lâm thiệt mạng, nhưng cũng có thể tạo được mối ôn hòa cho các phái võ sau này rồi. Khổ thay, trong lúc năm phái kia đang tranh hùng thì bỗng nhiên dưới núi xuất hiện một kỳ nhân. Kỳ nhân đó có tên là Ngọc Long chân nhân. Thấy ngũ đại tông phái chém giết nhau quá ác. Ngọc Long chân nhân tỏ lời khuyến dụ họ thôi đấu, và nên giữ hòa khí với nhau.

    Nhưng đã hơn một trăm năm trước đó, các môn phái đều lục đục với nhau về tài năng danh dự, đâu chịu nghe lời Ngọc Long chân nhân, họ vẫn tiếp tục giao đấu như thường.

    Ngọc Long chân nhân thấy khuyên giải không được, liền đứng ra thách các phái giao đấu với ông ta. Năm phái võ đang tranh hùng thắng phụ, bị Ngọc Long chân nhân đến thách thức như thế, họ cho rằng Ngọc Long chân nhân đã khinh rẻ môn phái họ, nên họ họp nhau đánh với Ngọc Long chân nhân.

    Ôi! Vì danh dự mà cuộc trận đấu vô cùng ác liệt. Ngọc Long chân nhân chỉ dùng hai bàn tay không mà địch cả các tay cao thủ trong năm phái.

    Qua năm trăm hiệp, chân nhân đã đánh bại cả năm phái, và được mọi người tôn là “Thiên hạ võ công đệ nhất”.

    Các phái bị thảm bại, không ai còn nghĩ đến việc tranh giành ngôi thứ nữa, vì vậy cuộc hội kiến nơi Thiếu Thất sơn nửa chừng bỏ dở”.

    Ngô Không hòa thượng gật đầu nói :

    - Như vậy Ngọc Long chân nhân đã làm một việc có ích trong đời. Chính nhờ ông mà các phái võ không còn tranh tài chém giết lẫn nhau.

    Huyền Thanh đạo sư lắc đầu nói :

    - “Cuộc đấu kiếm tuy tạm ngưng, nhưng các môn phái không vì vậy mà bỏ ý định tranh giành ngôi thứ. Họ nghiên cứu, tập luyện ráo riết về đặc môn của mỗi phái, thậm chí họ còn bí mật phái đồ đệ từ môn phái này qua nhập môn phái kia để khai thác những đặc dị võ công của phái đối thủ, tìm cách khắc phục, hy vọng cuộc hội kiếm lần thứ hai họ sẽ tranh hùng.

    Do đó, việc thu nhận đồ đệ của các phái trở nên thận trọng vô cùng, họ đề phòng đồ đệ các môn phái khác xen vào học lén võ công. Việc tranh đấu ngấm ngầm này cứ âm ỉ mãi không chấm dứt, khổ cho các vị Chưởng giáo của các phái không ai dám truyền dạy những tuyệt kỹ của môn phái mình cho đồ đệ cả. Nếu có truyền thì họ chỉ lựa một hai người nào được gọi là trung thành tín nhiệm nhất của phái họ mà thôi”.

    Ngô Không hòa thượng thở dài, than :

    - Như thế thì các đệ tử sau này bị thất truyền, và ngành võ học đi đến chỗ lụn bại rồi.

    Huyền Thanh đạo sư nói :

    - Qua mấy mươi năm gần đây, vì sự truyền dạy thêm thận trọng như thế nên ngành võ học bị thu hẹp phần nào. Nhưng không phải vì thế mà năng lực võ công các phái kém sút đâu. Mỗi phái có một nhóm nhân tài, và họ gia tâm nghiên cứa võ học, bản lãnh của họ còn uyên thâm gấp mấy lần tiền nhân. Bằng chứng là sau cuộc đấu kiếm ở Thiếu Thất sơn, những đặc nhân các phái xuất hiện rất nhiều. Có điều là công phu đặc dị chỉ gồm trong một số ít người, không phổ biến như thời xưa.

    Ngô Không hòa thượng nghe đến đấy chắp tay niệm Phật và nói :

    - Ôi! Loài người chỉ vì óc tranh địa vị mà phải bỏ phí bao nhiêu sức lực, đắm mình trong mưu này chước nọ để chém giết nhau! Khổ thay!

    Huyền Thanh đạo sư mỉm cười nói :

    - Việc tranh đấu chém giết nhau là điều hại, nhưng chính nó cũng có cái hay. Cứ lấy phái Côn Luân của tôi ra mà nói thì sau trận đấu kiếm tại Thiếu Thất sơn, các vị trưởng lão tiền nhân trong phái mới khổ tâm nghiên cứu, đem hết tâm lực ra luyện được hai môn “Phân Quang kiếm pháp” và “Thiên Cang chưởng”. Nhưng về phần “Truy Vân thập nhị kiếm” mới là cái tinh hoa của bộ “Phân Quang kiếm pháp” thì lại cấm tuyệt không cho phép truyền dạy lại các đệ tử.

    Ngô Không hòa thượng nói :

    - Như thế thì “Truy Vân thập nhị kiếm” bị thất truyền rồi sao?

    Huyền Thanh đạo sư nói :

    - Trong phái Côn Luân chỉ có tôi và hai vị sư đệ sư muội tôi biết phần tinh hoa ấy. Nhưng việc truyền thụ lại cho đệ tử thì đồ đệ ấy phải được sự đồng ý của cả ba chúng tôi mới truyền dạy. Nhưng hôm nay tôi đã phá bỏ lời ước đó rồi. Tôi đã quyết định dạy “Truy Vân thập nhị kiếm” cho Mã Quân Vũ. Thằng bé này tư chất thông minh, tuy cơ mưu lanh lẹ, nhưhg lại rất trung thành. Trong mười hai năm qua, tôi đã truyền dạy cho nó hết các võ công căn bản của phái Côn Luân rồi, nay truyền thêm bí quyết “Truy Vân thập nhị kiếm” nữa là hết.

    Ngô Không hòa thượng ngạc nhiên hỏi :

    - Tuy đạo trưởng có lòng ái mộ Mã Quân Vũ, muốn truyền bí quyết ấy, song Côn Luân tam tử của đạo trưởng đã có lời giao hẹn rồi, nếu đạo trưởng phá ước ngày sau phải trả lời sao với hai vị kia?

    Huyền Thanh đạo sư cười lớn, tiếng cười làm rung chuyển cả căn phòng. Ánh nến chập chờn xao động trước gió.

    Ngô Không hòa thượng thấy nét mặt Huyền Thanh đạo sư hớn hở tươi vui như thế, chưa hiểu ý gì, toan hỏi, thì Đạo sư đã tiếp lời :

    - Tôi sở dĩ phá ước của phái Côn Luân cũng vì tấm “Tạng Chánh đồ” này. Nó có một lai lịch lạ lùng.

    Huyền Thanh đạo sư ngừng một chút rồi nói tiếp :

    - Sau khi các cao thủ trong ngũ phái tạm đình chỉ việc đấu kiếm so tài ở Thiếu Thất sơn thì Ngọc Long chân nhân có răn dạy một lời: “Không có ai là anh hùng thiên hạ, mà cũng chẳng có môn phái nào đệ nhất giang hồ. Nếu các ngươi còn tranh giành địa vị, ta quyết không tha”. Câu nói ấy tuy Ngọc Long chân nhân muốn thiên hạ thôi chém giết, nhưng kỳ thực lại là một cái khổ di lưu cho hậu thế. Bởi vì chính tài năng và địa vị Ngọc Long chân nhân lúc đó ai cũng mơ ước.

    Ngô Không hòa thượng hỏi :

    - Câu nói ấy có ý gì mà lại để khổ cho hậu thế?

    Huyền Thanh đạo sư cười hà hà :

    - Ý chân nhân muốn nói: “Thiên hạ chi đại vô kỳ bất hữu”. Trong đời người giỏi còn có người giỏi nữa, thế thì có ai giỏi đâu mà tranh. Như vậy cái giỏi của ông ta chưa phải là đã giỏi.

    Ngô Không suy nghĩ một lúc rồi hỏi vội :

    - Ngọc Long chân nhân lai lịch thế nào, và theo võ thuật của môn phái nào?

    Huyền Thanh nói :

    - Không ai hiểu rõ tông tích của chân nhân cả. Chính trước ngày đấu kiếm ở Thiếu Thất sơn cũng chẳng một ai trong giới võ lâm nghe đến cái tên Ngọc Long bao giờ. Tuy nhiên, sau này được người đời truyền tụng rằng chân nhân đã may mắn tìm được một quyển dị thư về võ công của tiền nhân, và tự luyện lấy. Do đó, võ công chân nhân đã đến bực siêu phàm nhập hóa. Về võ thuật trong các phái võ lâm đối với chân nhân chỉ là một hạt cát trong bãi sa mạc, có nghĩ lý gì?

    Ngô Không hỏi :

    - Đã có một võ công cao như thế mà còn tự nhiên quả là một vị thánh. Nhưng tại sao chân nhân đã nói là “trong thiên hạ không có ai là đệ nhất anh hùng”, mà còn nhận lấy chức ấy.

    Huyền Thanh nói :

    - Thì trong giới võ lâm gắn cho chân nhân chức vị ấy, rồi cứ gọi nhau thế biết làm sao? Mà cũng vì cái địa vị gắn cho ấy mới xảy đến một tai hại cho chân nhân sau này.

    Ngô Không hòa thượng ngơ ngác hỏi :

    - Tai hại gì vậy?

    Huyền Thanh đạo sư nhíu mày nói :

    - “Ngọc Long chân nhân chinh phục các phái được ba năm, tiếng tăm đệ nhất võ công chấn động khắp giang hồ, thì một hôm có một vị sư nữ trong hàng sa môn đệ tử, pháp hiệu là Tam Âm, từ xứ A Nhì Thái Sơn vượt ngàn dặm đi về hướng Đông, tìm đến Thanh Vân Nghiêm nơi Quát Thương sơn, thách Ngọc Long chân nhân đọ tài.

    Thế là tại Thanh Vân Nghiêm xảy ra một cuộc ác đấu khinh thiên động địa. Võ công hai người thật đã đến mức xuất thần nhập hóa. Họ đánh nhau suốt ba ngày đêm, trải hàng năm ngàn hiệp vẫn chưa phân thắng bại.

    Đến ngày thứ tư, mỗi người đều dùng thượng thặng nội công đánh nhau. Cho đến phút chót thì cả hai đều bị nội thương rất nặng. Họ không đánh nhau nữa, đôi mặt ngồi nhìn nhau để vận công điều dưỡng.

    Họ ngồi như thế suốt ngày, và biết mình không còn sống được bao lâu, nên họ hối hận, từ chỗ thù khích chuyển thành bạn thân.

    Cả hai đều không có đồ đệ, nên họ hợp nhau đem hết những tuyệt thế võ công ra viết thành ba tập sách giấu nơi Quát Thương sơn lấy tên là “Quy Nguyên mật tập” có nghĩa là ngành võ thuật trong các môn phái chỉ do một nguồn gốc mà ra.

    Sau khi hoàn thành tập sách ấy rồi. Hai vị ấy lại vẽ một “Tạng Chánh đồ” chỉ chỗ chôn giấu sách ấy. Trước đây tôi được nghe thiên hạ đồn rằng tấm “Tạng Chánh đồ” được đựng vào một chiếc hộp ngọc, chôn cất trên Thanh Vân Nghiêm, chỗ hai vị đã đánh nhau. Sau đó, hai vị cái thế kỳ nhân này đều chết một lượt trên Quát Thương sơn cả.

    Câu chuyện này lưu truyền trên một trăm năm nay, các môn phái trong võ lâm đều bỏ công tìm kiếm “Tạng Chánh đồ”. Và “Tạng Chánh đồ” cũng đã lọt được vào tay các phái võ lâm rồi. Nhưng khổ thay, chưa nói đến “Quy Nguyên mật tập” cứ cái “Tạng Chánh đồ” ấy mà họ đã cướp giật chém giết lẫn nhau. Người này giật được vào tay chưa kịp đi lấy “mật tập” thì kẻ khác đoạt mất rồi. Và cứ thế luân chuyển mãi, không ai đủ thì giờ đi lấy quyển sách quý ấy, chi nghe người ta chết vì “Tạng Chánh đồ” mà thôi. Nay Trầm Xương chẳng biết nó moi đâu ra tấm “Tạng Chánh đồ” ấy.

    Bọn Giang Nam song quái cũng vì muốn giật tấm “Tạng Chánh đồ” này mới đuổi theo cố sát Trầm Xương”.

    Ngô Không hòa thượng hỏi :

    - Nay “Tạng Chánh đồ” đã vào tay đạo huynh, vậy đạo huynh tính sao? Đạo huynh có tính việc đi tìm “Quy Nguyên mật tập” chăng?

    Huyền Thanh đạo sư gật đầu đáp :

    - Tôi đem môn “Truy Vân thập nhị kiếm” dạy cho Mã Quân Vũ chính là để chuẩn bị đem thây chôn vào núi Quát Thương đó. Sở dĩ hơn một trăm năm nay, các phái tạm thời hòa hoãn với nhau là để tập trung toàn lực vào việc tìm kiếm cuốn “mật tập” này, bất cứ phái nào tìm được đều có thể gây sóng gió trong giới võ lâm cả.

    Ngô Không đại sư hỏi :

    - Về lực lượng các phái thì hiện nay trong giang hồ phái nào mạnh, và phái nào nhiều cao thủ?

    Huyền Thanh đạo sư nói :

    - Gần ba mươi năm nay, phái Hoa Sơn chỉnh đốn nội bộ rất nhiều. Từ khi “Bát Cánh Thần Ôn” tiếp nhận chức Chưởng môn, các tay cao thủ xuất hiện rất nhiều trong phái ấy. Họ cố rửa cái nhục trong ngày đấu kiếm Thiếu thất sơn thưở xưa. Tuy nhiên, về lực lượng lại không bằng phái Thiên Long. Phái này có năm tên bộ hạ là “ngũ kỳ” Hồng, Huỳnh, Lam, Bạch, Hắc là những kỳ nhân trước kia ẩn cư tu luyện hơn mười mấy năm trời nay kéo ra nhập vào phái Thiên Long hết. Hiện nay tuy bề ngoài như không thấy gì, kỳ thực bên trong cuộc phong ba sắp nổi lên giữa các phái. Tôi nghĩ ngày so kiếm tranh hùng lần thứ hai cũng chẳng bao lâu nữa.

    Nói đến đây, Huyền Thanh đạo sư nhìn về phía chân trời xa, như đang dự tính một cuộc mạo hiểm nào ghê gớm lắm.

    Qua một lúc, ông ta quay lại nói với Ngô Không đại sư :

    - Kể từ nay “Quy Nguyên mật tập” có quan hệ đến vận mạng của võ lâm. Nếu sách ấy mà lọt vào tay một đảng dữ thì tai hại trong võ lâm không biết đâu lường được. Do đó, bản “Tạng Chánh đồ” đã về tay, tôi không thể không lên Quát Thương sơn tìm sách. Nhưng việc này một mình tôi không làm nên việc. Tôi muốn rủ đại sư cùng đi, chẳng biết đại sư có vui lòng mạo hiểm chăng?

    Ngô Không hòa thượng hỏi :

    - Bao giờ thì đạo trưởng khởi hành?

    Huyền Thanh đạo sư nói :

    - Chỉ trong thời gian ngắn! Tôi dạy xong “Truy Vân kiếm pháp” cho Quân Vũ rồi thì khởi sự. Xin đại sư cho tôi biết ý kiến.

    Ngô Không đại sư cúi đầu ngẫm nghĩ hồi lâu mới đáp :

    - Việc này khá quan hệ, đạo trưởng đã có ý ấy lẽ đâu tôi từ chối. Tôi đã sống ngoài sáu mươi tuổi dẫu có chết cũng chẳng sao, ngặt Thanh Loan còn nhỏ, lại mồ côi cha mẹ, nó lại có một mối thù huyết hải mà chính tôi có nhiệm vụ phải giúp cho nó trả mối thù ấy...

    Huyền Thanh đạo sư nghe đến đây ngắt lời, nói :

    - Việc của Loan nhi tôi đã lo giùm đại sư rồi. Nếu đại sư bằng lòng cho nó nhập vào phái Côn Luân thì tôi sẽ viết một bức thư đưa nó nhập vào môn hạ của sư muội tôi. Tôi phải giải quyết gấp việc này, vì Giang Nam song quái bị thương bỏ chạy, việc “Tạng Chánh đồ” đã bị lộ rồi. Tam Thanh quan không còn ở được nữa. Chẳng bao lâu, các tay cao thủ giang hồ sẽ tìm đến đây. Trước khi chúng ta khởi hành phải để cho hai đồ nhi đi nơi khác.

    Ngô Không đại sư vuốt râu, cười khà khà :

    - Đạo trưởng cho phép Loan nhi được gia nhập vào phái Côn Luân thật là chuyện đáng mừng cho cháu, lão già này dù bỏ xác ở Quát Thương sơn cũng chẳng dám tiếc. Có điều là thân thế của Thanh Loan có ảnh hưởng đến một huyết thù. Mẹ nó, trước khi chết có để lại một huyết thư, muốn nó sau này tự tay trả mối thù ấy. Việc này tôi không thể giấu với nó mãi được, tôi cần phải nói cho nó biết, và mối thù ấy khi đã trả thì hẳn là gây phiền phức đến môn phái đạo trưởng, nếu đạo trưởng định cho nó nhập môn. Tôi phải nói trước cho đạo trưởng biết như thế.

    Huyền Thanh đạo sư nghiêm mặt hỏi :

    - Loan nhi có phải họ Lý chăng? Và có phải hắn là cho gái của Lý Quế Sơ chăng?

    Vẻ mặt Hòa thượng hơi biến sắc :

    - Sao... đạo trưởng... cũng biết chuyện đó?

    Huyền Thanh đạo sư cất tiếng than :

    - Mười năm về trước, vợ chồng Lý Quế Sơ bị hại ở Tiềm Sơn, trên giang hồ có nhiều kẻ biết chuyện đó. Nhưng tôi khuyên đại sư tốt hơn là đừng cho nó biết chuyện đó sớm. Nếu đại sư cho nó biết sớm chẳng khác nào đại sư hại mạng nó. Kẻ thù của nó là Bách Bức Phi Kim Hồ Nam Bình đã gia nhập vào phái Thiên Long, hiện giữ nhiệm vụ Hồng Kỳ phân cuộc, một trong “Ngũ kỳ” lợi hại phi thường. Muốn trả thù phải chờ cơ hội mới được.

    Ngô Không hòa thượng đôi mày cau lại, hai mắt chói hào quang, nói :

    - Nếu vậy bần tăng phải ra tay giúp Loan nhi mới có thể đánh với Hồ Nam Bình được.

    Huyền Thanh đạo sư nhếch mép, nói :

    - Nếu đại sư đấu với Hồ Nam Bình thì tôi tin chắc đại sư không đến nỗi thất bại, nhưng điều khó khăn ở chỗ phái Thiên Long mạnh và đông. Người Chưởng giáo của phái ấy là Tô Bằng Hải, một tay tuyệt xuất quái tài trong võ lâm hiện thời. Chắc đại sư có nghe việc hắn dùng một cây gậy thu phục “Tứ xú” chứ?

    Ngô Không đại sư gật đầu nói :

    - Tôi có nghe cách đây ba năm, thiên hạ ca tụng hắn về chuyện đó.

    Huyền Thanh đạo sư nói tiếp :

    - Xuyên Trung tứ xú là một bọn lục lâm khét tiếng ở trên đường giáp giới miền Ác và Thúc. Bọn người này có thể liệt vào những tay bản lĩnh nhất trong giang hồ. Các đệ tử của ba phái Võ Đang, Nga My, Thanh Thành đã nhiều lần vây đánh chúng, nhưng lần nào cũng thảm bại, các cao thủ của ba phái ấy bị chúng đánh bị thương mang đầu trở về, không dám bén mảng đến nữa. Thế mà Tô Bằng Hải một hôm đi qua Ác Tây vô tình chạm phải “Tứ xú”, trong một đêm hắn đã thu phục được Tứ xú, nhận vào môn phái Thiên Long. Đại sư xem đó thì thấy tên Chưởng giáo của phái ấy lợi hại đến bực nào. Cứ theo cái đà gôm thâu bọn lục lâm vào môn phái như vậy thì mười năm nay, có thể nói là phái Thiên Long hùng mạnh nhất. Theo ý tôi, việc báo thù cho Lý Thanh Loan chưa nên vội. Cứ để cho nó tập luyện võ thuật đã. Sau này nó là môn đồ của phái Côn Luân, chẳng lẽ nó có bề nào chúng tôi “Côn Luân tam tử” chịu khoanh tay ngồi nhìn sao?

    Ngô Không hòa thượng nói :

    - Gần hai mươi năm nay, tôi muốn làm người ngoại thế, xa lánh việc đời, chẳng ngờ bị một nguyện ước ràng buộc với Loan nhi, chưa thể rảnh tay được. Vậy thì trước khi cùng theo đạo trưởng lên Quát Thương sơn, tôi xin phép trở về chùa Huệ Lâm thu xếp công việc đã. Nếu chẳng may bỏ xương trên đó, mà chùa Huệ Lâm không kẻ nhang khói thì hỏng việc. Ba ngày sau tôi sẽ trở lại đây để dạy nốt cho đệ tử của đạo trưởng mấy hồi chót trong “Thập bát La Hán chưởng”.

    Dứt lời, Ngô Không hòa thượng đứng dậy bái biệt.

    Quả nhiên đúng ba ngày sau, Ngô Không hòa thượng trở lại Tam Thanh quan, trong tay đại sư có cầm thêm một cây đàn trượng.

    Rồi trong nửa tháng trời, một sư tăng và một đạo sĩ đã ra công truyền dạy hai môn “Truy Vân kiếm pháp” và “La Hán chưởng” cho Mã Quân Vũ.

    Vì “Truy Vân thập nhị kiếm” là môn kiếm pháp tinh anh nhất trong phái Côn Luân, Lý Thanh Loan chưa bái biệt vào môn hạ của phái ấy, nên Huyền Thanh đạo sư chưa thể truyền dạy. Còn “Thập bát La Hán chưởng” thì Thanh Loan đã học hết từ lâu rồi.

    Vì vậy, trong nửa tháng ấy gấp nhất là Mã Quân Vũ, ban ngày tập chưởng, ban đêm thì tập kiếm.

    Kiếm pháp tuy chỉ có mười hai thế, nhưng phức tạp, mỗi thế đánh ra lại có cả mười hai chiêu biến hóa. Mã Quân Vũ phải cố gắng lắm trong nửa tháng mới thuộc sơ qua.

    Huyền Thanh đạo sư vì gấp lên núi Quát Thương, không đủ thì giờ chờ cho Mã Quân Vũ luyện thuần thục.

    Một hôm, ông cho đòi Mã Quân Vũ và Lý Thanh Loan vào phòng đơn, trao cho Mã Quân Vũ hai bức thư, và dặn :

    - Con theo học với sư phụ đã được mười hai năm rồi, nay cũng nên về thăm cha mẹ con một lần. Sau đó, con khỏi cần trở lại Tam Thanh quan tìm sư phụ nữa, con đến núi Côn Luân vào Tam Nguyên cung trao hai bức thư này cho hai vị sư thúc của con.

    Mã Quân Vũ nhận thư xong, quỳ gối trước phòng đơn, bồi hồi ôn lại mối tình sư đồ trong mười hai năm qua, nay phải xa cách, chàng thấy bùi ngùi đau đớn.

    Huyền Thanh đạo sư nói :

    - Thế gian này không có cái gì vĩnh viễn. Các cuộc tan họp chỉ như bèo mây. Đấng trượng phu không nên buồn bã trước những cái nhỏ nhen của thế sự.

    Mã Quân Vũ bị khiển trách vội đứng dậy bước sang một bên, vòng tay không dám nói tiếng nào.

    Ngô Không đưa tay vuốt làn tóc xanh của Lý Thanh Loan, âu yếm :

    - Đạo trưởng thương con côi cút, không chỗ nương thân, nên đã cho con gia nhập vào môn phái. Bây giờ con phải đến núi Côn Luân bái sư, rồi ở đó tập luyện võ công...

    Nói đến đây, mặt đại sư đượm vẻ buồn, không còn thốt ra tiếng.

    Lý Thanh Loan hoảng hốt, đôi mắt đen lay láy từ từ rướm lệ, liếc nhìn Ngô Không hòa thượng hỏi :

    - Sư phụ! Sư phụ không muốn nuôi con và dạy dỗ con nữa sao?

    Ngô Không hòa thượng ôn tồn nói :

    - Con được gia nhập vào Côn Luân phái là một vinh hạnh của con sau này. Nay con đã lớn tuổi rồi, tại sao con chưa biết điều ấy.

    Lý Thanh Loan thấy chưa bao giờ nét mặt của sư phụ nàng nghiêm trọng đến thế, nên không dám nhỏng nhẻo, thỏ thẻ nói :

    - Con phải đi một mình lên núi Côn Luân sao? Xin sư phụ dẫn con đến đó.

    Huyền Thanh đạo sư mỉm cười nói :

    - Sẽ có Mã sư huynh của cháu dẫn cháu đi.Lý Thanh Loan nghe nói lòng hớn hở, giấu một nụ cười trong đôi dòng lệ, đứng sang một bên không nói gì nữa.

    Huyền Thanh đạo sư tiếp lấy cái gói nhỏ, bọc vải trắng, trong tay Ngô Không đại sư, trao cho Mã Quân Vũ, và nói :

    - Vật này phải cất kỹ, và con phải tận tay trao cho vị đệ tam sư thúc của con.

    Mã Quân Vũ tiếp lấy cất vào bọc.

    Huyền Thanh đạo sư lại dặn :

    - Con có thể ở trong nhà một tháng rồi mới đến Côn Luân sơn. Trên đường đi phải để ý săn sóc Lý sư muội của con.

    Mã Quân Vũ cúi đầu lãnh giáo. Huyền Thanh đạo sư lại thúc hai đồ đệ lên đường tức khắc.

    Sáng hôm ấy, Mã Quân Vũ và Lý Thanh Loan vừa rời khỏi Tam Thanh quan thì Huyền Thanh đạo sư đã gọi mấy tên đạo sĩ trong viện đến phòng đơn dặn dò, giao việc hương đèn trong viện lại, rồi cùng với Ngô Không nhắm phía Nam núi Quát Thương thẳng tiến.

    Còn Mã Quân Vũ và Lý Thanh Loan, sau khi bái biệt sư phụ, dắt nhau ra bờ sông lấy một chiếc ghe nhỏ, xuôi theo dòng Nguyên Giang mà đi.

    Khúc sông đó hẹp, nước chảy rất mạnh chiếc thuyền con chở hai người phóng đi như tên bắn.

    Mã Quân Vũ ngồi ở sau cầm chèo, Lý Thanh Loan đứng trước mũi, đưa mắt nhìn lại cảnh cũ, thấy rừng mai từ từ nhỏ lại, lòng nàng cảm thấy như phải xa rời một người thân. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc nàng lại nhoẻn một nụ cười, nét vui lẫn với nét buồn, thật khó phân biệt.

    Cho đến lúc rừng mai khuất dạng, nàng mới bước đến ngồi đối diện với Mã Quân Vũ, hỏi :

    - Mã sư huynh, anh đã có lần nào đến núi Côn Luân chưa?

    Mã Quân Vũ lắc đầu, đáp :

    - Mười hai năm nay, ngoài việc tuân lời sư phụ về thăm song thân hai lần, thì tôi chưa hề rời khỏi Tam Thanh quan.

    Thanh Loan thở dài nói :

    - Tôi từ lúc nhỏ đã được sư phụ đem về Huệ Lâm tự nuôi dạy. Mười mấy năm nay trừ Huệ Lâm tự và Tam Thanh quan ra chưa từng đặt gót đến nơi nào cả. Sư phụ tôi cũng không cho tôi biết cha mẹ tôi là ai. Tôi nghĩ chắc cha mẹ tôi không thương tôi là phải, nếu không sao đã mười mấy năm trời, cha mẹ chẳng có một lần nào tìm đến thăm viếng?

    Dứt lời, đôi mắt nàng lắng đọng u buồn, nhìn trời mây, bùi ngùi rơi lệ.

    Từng làn gió hiu hiu thổi, tóc nàng phe phẩy, một mùi thơm phảng phất trong không gian, Mã Quân Vũ ngồi đối diện với mỹ nhân, lòng lâng lâng cảm khoái.

    Thấy nàng buồn bã, Quân Vũ muốn tìm lời an ủi, nhưng chàng lựa mãi không tìm ra một câu nói nào cho phải. Trong lúc đó, chàng vẫn lặng lờ nhìn xuống dòng sông.

    Thanh Loan bỗng nhiên quay đầy lại, thấy thế hỏi :

    - Mã sư huynh! Tôi đã nói lời nào vụng về, làm cho sư huynh không vừa ý chăng?

    Mã Quân Vũ nhoẻn một nụ cười, lắc đầu đáp :

    - Không, không!

    Thanh Loan hỏi :

    - Sao sư huynh lại sững sờ như vậy?

    Mã Quân Vũ đáp :

    - Tôi muốn nói vài lời an ủi sư muội, nhưng không biết lời nào để nói cả.

    Thanh Loan vụt cười lên một tiếng. Bao nhiêu nỗi buồn bực trong lòng nàng như trôi theo dòng nước. Nàng đưa tay lau sạch nước mắt rồi cầm lấy con chèo, bảo :

    - Sư huynh nghỉ tay một lúc, để tôi chèo thế cho.

    Mã Quân Vũ không nỡ từ chối lòng sốt sắng của nàng, liền trao lại tay chèo.

    Lúc trời gần tối, thuyền đã đến Động Đình hồ. Nơi đây quang cảnh rất nhộp nhịp. Hàng trăm hàng ngàn cánh buồm nhấp nhô tỏa khói lên cao, những chiếc ghe đánh cá nối liền nhau, qua lại như mắc cửi. Nhiều cô gái ngồi trước mũi thuyền vừa vá lưới vừa ca hát véo von, trông rất đẹp mắt, vui tai.

    Thanh Loan từ thưở bé đến giờ chưa từng ra khỏi ngôi chùa, nên trông cảnh ấy rất thú vị. Nàng ghìm tay lái cho chiếc thuyền chạy quanh qua các ghe đánh cá, rẽ sóng lướt tới như tên, mắt không ngớt nhìn từ người này đến người khác.

    Thực ra, nàng đâu có biết, lúc đó có hàng trăm con mắt cũng đang chú ý nhìn nàng. Họ thấy làm lạ, chẳng biết cô gái từ đâu đến, mặt đẹp như tiên nga, thân hình kiều diễm mà lại có một sức mạnh phi thường, chèo ghe xoáy nước như vậy.

    Đột nhiên, trước mặt nàng có hai chiếc thuyền con rẽ sóng lướt đến rất nhanh.

    Khi gần đến nơi thì hai chiếc thuyền đó rẽ ra, một chiếc lách về phía trái, một chiếc lách về bên mặt, mũi đâm thẳng vào chiếc thuyền của nàng.

    Thanh Loan đang vui đùa, đâu có để ý. Lúc trông thấy thì không còn cách nào xoay trở để tránh né kịp nữa.

    Mã Quân Vũ thất kinh, đưa bàn tay ra, vận hết sức mình, nắm lấy đầu mũi thuyền kia xô mạnh một cái. Chiếc thuyền kia bị dạt ra, nhưng con thuyền của chàng cũng bị sức đẩy lui lại hơn ba thước, nghiêng sang một bên, một làn nước xoáy tròn.

    May nhờ Thanh Loan vững tay chèo mới giữ được con thuyền khỏi chìm.

    Hai chiếc thuyền bấy giờ lại lướt tới trước, cặp kè nhau, rồi vút nhanh như gió.

    Thanh Loan nghe một trong hai chiếc thuyền ấy còn vọng lại một tràng cười hăn hắt. Nàng tức giận, quay mũi thuyền toan đuổi theo, nhưng Mã Quân Vũ đã cản lại, nói :

    - Thôi! Hay bỏ qua sư muội ạ! Thuyền họ chạy nhanh như thế chúng ta đuổi theo không kịp đâu!

    Thanh Loan cau mày nói :

    - Mình không chọc ghẹo gì họ, sao họ lại uy hiếp mình?

    Quân Vũ cũng không biết phải trả lời với nàng làm sao, chàng trố mắt nhìn hai chiếc thuyền kia mỗi lúc một xa dần, rồi thở dài nói :

    - Tôi thường nghe sư phụ nói trên giang hồ lắm chuyện trái ngang! Việc này không đáng kể, chúng mình mau tiếp tục cuộc hành trình là hơn.

    Thanh Loan mỉm cười, quạt mạnh tay chèo, nhìn Quân Vũ hỏi :

    - Vũ ca! Bây giờ chúng ta đi ngả nào?

    Mã Quân Vũ thấy nàng mỗi lúc mỗi xưng hô thân mật hơn, làm cho chàng ái ngại, nghĩ thầm :

    - Nàng đối với mình như có một tình cảm sâu xa. Còn sư phụ mình lại dặn mình phải chiếu cố nàng. Câu nói sư phụ và tình cảm của nàng có liên quan chăng? Nếu quả lời nói của sư phụ có một ý nghĩa sâu xa, và lòng nàng đã cảm mến mình thì thật là chuyện rắc rối! Mình làm sao có thể chiều ý nàng được, vì mình đã có người yêu rồi.

    Chàng trầm ngâm suy nghĩ một lúc, bỗng ngẩng đầu lên thấy đôi mắt đen lay láy của nàng đang chăm chú nhìn chàng, với khuôn mặt chứa đầy tình ý. Chàng thất kinh nói lớn :

    - A! chúng ta đi về phía Đông. Nếu đêm nay thuận gió thì trưa mai có thể đến nhà rồi.

    Thanh Loan quay chèo, hướng mũi thuyền về phía Đông. Nàng vui vẻ hỏi Mã Quân Vũ :

    - Vũ ca! Nhà anh có mấy người? Chẳng biết bá mẫu có thích tôi không? Tôi từ nhỏ đã không có mẹ răn dạy, chắc tôi bị vụng về, dại dột lắm.

    Quân Vũ ngơ ngẩn nhìn dòng nước chảy xuôi :

    - Thân mẫu tôi hiền lắm, chắc là thích cô!

    Thanh Loan cười lớn, nói :

    - Thật thế sao anh? Nếu vậy tôi phải luôn luôn ngoan ngoãn, không làm cho bá mẫu giận!

    Dứt lời nàng lại cười dòn, thò tay ra ngoài thuyền hốt từng bụm nước ve vẩy như một đứa con nít.

    Động Đình hồ dài hơn năm mươi dặm, nước trong như gương, bọt sóng tung vào bờ trắng xóa. Thuyền càng đi nhanh, Thanh Loan càng thích thú, nàng đưa mắt nhìn khắp nơi trong cảnh chiều tà.

    Đêm tối lần lần lắng xuống như một tấm mành mành thong thả buông.

    Đó đây vài chiếc ghe chài thắp đèn, nhấp nhô ánh sáng rọi xuống mặt nước như những bầy đom đóm nhảy múa trong không gian.

    Mã Quân Vũ không say ngắm phong cảnh như Thanh Loan, chàng dựa lưng vào khoang, mặt trầm tư ôn lại những niềm tâm sự đang nổi dậy trong lòng chàng lúc thơ ấu!

    Bỗng từ xa, một chiếc ghe lớn giương hai buồm chạy tới rất mau. Bên cạnh chiếc ghe lớn lại có kèm theo bốn chiếc ghe nhỏ như để hộ tống.

    Lý Thanh Loan thấy vậy thò tay vào trong khoang rút hai thanh bảo kiếm, một cầm tay, một trao cho Quân Vũ và nói :

    - Vũ ca, bọn chúng lại đến nữa rồi! Lần này chúng ta không thể nhịn nhục để cho chúng uy hiếp mình nữa.

    Câu nói của nàng vừa dứt, thì bốn chiếc thuyền con đã rẽ sóng lướt tới như tên, đón đầu chiếc thuyền của Quân Vũ và Thanh Loan. Bốn thuyền ấy dàn thành hàng ngang, mỗi đầu thuyền xuất hiện một đại hán lực lưỡng, mặc áo quần cụt ngủn, tướng mạo oai hùng.

    Mã Quân Vũ không còn giữ được trầm tĩnh nữa, rút trường kiếm cầm tay, cười khanh khách hỏi lớn :

    - Mã tiểu nhân này với quý vị không hề quen biết, cũng chẳng có thù oán gì. Vả lại chúng tôi cũng không phải là khách thương lữ, lắm tiền nhiều vàng, quý vị uy hiếp chúng tôi để làm gì?

    Một đại hán đứng ở mũi thuyền thứ hai trạc bốn mươi tuổi, cất tiếng cười ha hả, đáp :

    - Nếu là phú thương hành lữ, chúng tôi đón lại để làm chi? Tôi hỏi quý hữu, quý hữu là người thế nào đối với Huyền Thanh đạo sư Tam Thanh quan viện chủ?

    Mã Quân Vũ giận đỏ mặt, nạt lớn :

    - Tam Thanh quan viện chủ là ân sư của ta. Các người hỏi đến với dụng ý gì?

    Đại hán đó ngửa mặt lên trời cười hô hố, với thái độ thật khó hiểu :

    - Huyền Thanh đạo sư là bậc tiền bối, lừng danh trên giang hồ, đối với đệ tử của đạo sư chúng tôi đâu dám vô lễ. Vị Tổng biên đầu của chúng tôi chỉ muốn làm thân với quý hữu để được quý hữu chỉ giáo vài chiêu “Phân Quang kiếm pháp” mà thôi.

    Lời nói nửa nhã nhặn, nửa khiêu khích ấy khiến cho Mã Quân Vũ muốn làm mặt giận cũng không được nữa. Chàng đáp :

    - Kẻ tiểu nhân này mới rời sư môn, quy luật trên giang hồ chưa hiểu rõ. Qúy Tổng biên đầu muốn hạ giao với tôi, lẽ nào tôi dám không bái kiến.

    Đại hán nhìn thẳng vào mặt khen :

    - Qúy hữu đáng là một hiệp sĩ trẻ tuổi. Kìa, Tổng biên đầu của chúng tôi đã đến để hội kiến với quý hữu đó.

    Dứt lời đại hán trỏ tay về phía trái. Mã Quân Vũ đưa mắt nhìn theo, thấy chiếc nghe lớn hai buồm đã đến gần. Cửa ghe mở rộng ra, bên trong ánh đèn chói sáng rực, bên ngoài hơn sáu tên thủy thủ cao lớn, mặt quần áo xanh, đang ve vẩy tay chèo.

    Chiếc ghe đó vừa đến trước mũi thuyền Quân Vũ thì bên trong, một ông già râu dài, tóc bạc, ung dung bước ra, chấp tay xá Quân Vũ một cái, và nói :

    - Vô cớ, chúng tôi đón thuyền làm mất hứng của khách, thật có lỗi. Vậy xin mời quý khách sang ghe lớn chúng tôi, đối ẩm vài chung rượu, để chúng tôi đền lại tội thất lễ này.

    Lời nói vừa nhã nhặn, vừa cung kính của ông lão làm cho Quân Vũ ngạc nhiên! Một người như chàng chưa hề quen biết bao giờ, tại sao đối xử với chàng như thế?

    Chàng không thể lạnh nhạt trước tấm thịnh tình của ông lão, nên quay lại nói nhỏ với Thanh Loan :

    - Hãy đeo bảo kiếm vào mình. Chúng ta cùng sang bên ghe đó xem sao.

    Tiếp đó, chàng tung chân nhảy sang chiếc ghe lớn của ông lão. Thanh Loan cũng nhảy theo không chút chậm trễ.

    Lão già râu dài quay sang bảo mấy đại hán trên bốn chiếc thuyền con :

    - Chúng bay coi chừng thuyền của quý khách. Nếu có điều gì thất thoát, chúng bay phải đền tội, nghe chưa?

    Bốn đại hán dạ lên một lượt, đưa tay ra trước ngực, gục đầu xá lão già một cái, rồi những chiếc thuyền con kia lanh lẹ tản mát ra bốn nơi.

    Lão già quay lại lễ mễ nói với Quân Vũ :

    - Bộ hạ tôi toàn là những đứa cộc cằn, khiếm nhã, nếu chúng có lời gì vô lễ xúc phạm đến quý khách, xin quý khách bỏ qua cho.

    Mã Quân Vũ đáp :

    - Vãn bối mới rời khỏi sư môn, quy luật giang hồ chưa am tường, được lão tiền bối đối đãi thế này thì hân hạnh biết bao. Vậy xin lão tiền bối cho biết cao danh quý tánh, để tiểu nhân tiện việc xưng hô.

    Lão già vuốt râu cười ha hả, nói :

    - Lão phu trước đây có một lần gặp mặt sư phụ của quý hữu là Huyền Thanh đạo sư. Ngày đó đến nay đã hơn hai mươi năm rồi. Tuy nhiên lão phu vẫn chẳng bao giờ quên, vì chính kẻ bất tài này được mang ơn lệnh sư cứu sống, mới còn trên thế gian. Nhưng thôi, chuyện đó dài dòng, xin mời hai vị ngồi đây uống vài chung rượu cho ấm đã.

    Mã Quân Vũ và Lý Thanh Loan lúc vừa bước vào ghe, trông thấy lối bày biện rất lạ mắt.

    Giữa khoang có bày một chiếc bàn bát tiên bằng gỗ tử đàn, trên mặt bàn để dủ thứ hương trà, hoa quả. Hai bên có mấy đứa đồng tử mặc áo xanh đứng hầu.

    Ông già đưa tay mời hai người an tọa, và mỉm cười hỏi Lý Thanh Loan :

    - Cô nương đây cũng là đệ tử của Côn Luân phái ư?

    Thanh Loan trố mắt đáp :

    - Sao lại không phải? Tôi và Vũ ca tôi không biết uống rượu. Ông có chuyện gì cần xin nói mau, chúng tôi có việc cần đi gấp.

    Quân Vũ thấy Thanh Loan nói năng thiếu nhã nhặn, lòng không vui. Nhưng ông lão vẫn tươi cười đáp :

    - Tốt lắm! Cô nương là người lanh lợi, ăn nói mau mắn, thật đúng là trang cân quắc nữ hiệp. Hai vị định đến nơi nào, chúng tôi xin theo hộ tống một quãng. Như thế không mất thì giờ của hai vị, mà chúng ta có được một cuộc tâm tình trong lúc đêm thanh.

    Mã Quân Vũ ngắt lời đáp :

    - Vãn bối đến Nhạc Dương, nhưng quyết chẳng dám phiền lão tiền bối đưa đón.

    ông già lắc đầu nói :

    - Gió thuận buồm xuôi, có mất công gì đâu?

    Vừa dứt lời, ông lão quay đầu ra lệnh cho sáu tay chèo, kéo buồm chạy thẳng về hướng Nhạc Dương.

    Quân Vũ và Thanh Loan cả hai chưa biết uống rượu, nhưng hai tên đồng tử đã rót mấy chén đưa mời tận tay.

    Quân Vũ nói :

    - Chúng tôi chưa từng lưu gót trên giang hồ, nên rượu chè chưa biết dùng, vậy xin thất lễ với lão tiền bối.

    Ông già cũng chẳng gượng ép, ngồi xuống nâng chén một mình. Lão uống một lúc đến mười mấy chung mới dừng tay. Trong lúc nói chuyện ông già cứ mải mê trong câu chuyện kỳ lạ giang hồ, không đề cập đến câu chuyện chính.

    Mã Quân Vũ nóng lòng, không chờ đợi được nữa, cất tiếng hỏi :

    - Trước khi lão tiền bối cho gọi chúng tôi sang đây có bảo là chuyện cần thiết. Vậy xin lão tiền bối dạy cho chúng tôi biết. Chúng tôi xin rửa tai mà nghe.

    Ông lão thở dài một hơi, chậm rãi nói :

    - “Lão phu đối với lệnh sư đã thọ ơn cứu mạng, nhưng hai mươi năm qua lão phu vẫn chưa gặp cơ hội báo đền. Hôm nay, lão phu có nghe đến lệnh sư mới được bức “Tạng Chánh đồ”. Tin đó đồn ra khắp miền Tương Bắc, và hiện nay các giới võ lâm kéo đến đây rất đông. Lão phu đoán biết chẳng mấy hôm nữa, trên dòng Nguyên Giang se có những cuộc ác đấu rợn người để tranh đoạt tấm “Tạng Chánh đồ” ấy.

    Đã mấy mươi năm, tấm “Tạng Chánh đồ” đã là một hiểm họa trên thế gian này. Các tay võ lâm cao thủ bỏ mình không biết bao nhiêu cũng vì nó. Hai vị là đệ tử của phái Côn Luân thì không thể nào tránh nổi tai vạ! Về việc này, thực hư thế nào lão phu cũng chẳng dám quyết đoán, nhưng thực ra, cũng vì tấm “Tạng Chánh đồ” ấy mà lão phu phải lặn lội đến đây. Vậy xin hai vị mau mau rời khỏi chốn này là thượng sách. Còn lệnh sư là một bậc hiệp nghĩa lừng danh, tất có đủ mưu chước để giữ mình.

    Hai vị còn non trẻ, đường đời chưa lão luyện, mà trong giang hồ cơ xảo không biết đâu lường, tốt hơn hai vị đừng bao giờ trổ tài năng của môn phái, để tránh ra con mắt dòm ngó của mọi người. Khi muốn đạt tới mục đích, người ta không từ bỏ một thủ đoạn tàn ác nào đâu! Những điều tôi cần nói với hai vị chỉ có thế thôi, còn việc gặp gỡ lần sau giữa chúng ta chưa biết sẽ là thù hay là bạn nữa”.

    Nói đến đây, ông lão bưng ly rượu uống một hơn cạn chén, rồi thong thả tiếp :

    - Tôi đưa hai vị một đoạn đường chỉ là để tỏ chút lòng thành chứ không dám nói đến chuyện đền ơn cứu mạng của lệnh sư thưở trước. Thật ra, hôm nay không may mà hai vị không gặp được tôi, mà gặp kẻ khác thì rất phiền phức cho hai vị đó!

    Nghe ông già nói một hồi, Quân Vũ và Thanh Loan vừa sợ, vừa lo.

    Quân Vũ nhớ lại thái độ của sư phụ chàng từ nửa tháng nay có vẻ khác thường.

    Chàng đoán chừng việc đó có liện hệ đến chiếc hộp ngọc tìm thấy trong thi thể của vị sư huynh Trầm Xương. Chàng lại nhớ tới vẻ mặt vội vàng nóng nảy của sư phụ chàng khi chàng và Thanh Loan rời khỏi Tam Thanh quan. Bao nhiêu diễn biến ấy, chàng cũng có thể đoán lời nói ông lão đúng đến tám phần mười rồi.

    Chàng trầm tư một lúc, đôi mày hơi xếch lên, nét mặt cau lại, tỏ vẻ cương quyết mỉm cười nói :

    - Cám ơn lão tiền bối có lòng muốn che chở cho vãn sinh, nhưng việc sư phụ của vãn sinh có bức “Tạng Chánh đồ” hay không vãn sinh thực không được rõ nên không dám trả lời. Còn việc cao thủ các phái họp tại Tương Bắc để đối phó với gia sư tôi, thiết tưởng đó là ý muốn của họ. Vãn sinh từ nhỏ đã được từ huấn của gia sư, không bao giờ dám ác tâm hại người. Tuy nhiên, đồ đệ của phái Côn Luân không phải là kẻ tham sống sợ chết. Nếu bất đắc dĩ phải lao đầu vào việc, thì dù có rừng đao núi kiếm, vãn sinh cũng không sợ. Lão tiền bối vì bản “Tạng Chánh đồ” mới đến đây, lại lưu vãn sinh trong thuyền này để tâm sự e có điều bất tiện, vậy xin cho chúng tôi cáo từ.

    Dứt lời, Quân Vũ đứng dậy, cúi đầu xá một lễ rồi dắt tay Thanh Loan ra trước mũi thuyền.

    Ông lão cười ha hả nói :

    - Mã hiền hữu quả là bậc hào khí trong đời, thực đã được ung đúc trong phong độ của lệnh sư vậy! Chẳng mấy khi cùng nhau tương ngộ, sao hiền hữu nỡ cự tuyệt? Nếu không có gì trở ngại thì trưa mai thuyền đã đến Nhạc Dương rồi! Đêm nay, chúng ta tâm tình, biết đâu sau này sẽ là thù địch. Lão phu ước mong có cơ hội làm bạn với hiền hữu để hiền hữu chỉ giáo cho môn “Phân Quang kiếm pháp” môn kiếm đặc dị nhất trên cõi đời này. Dẫu có xem lão phu là bạn hay thù xin hiền hữu cũng chớ vội, để cho lão phu được hả lòng đưa hiền hữu một thủy trình cho thỏa mãn lòng già đêm nay...

    Nói đến đây, mặt lão già ủ rũ như mang một nỗi buồn thảm sâu xa.

    Mã Quân Vũ cảm thông được lòng lão, biết rằng lòng lão lúc này khó xử. Lão vừa muốn báo ơn cứu mạng ngày trước, lại vừa muốn không trái mệnh giao phó của vị Chưởng giáo phái Thiên Long. Nhìn vẻ mặt băn khoăn đau khổ của lão, chàng cũng không nỡ bỏ đi, nên quay vào thuyền, ngồi xuống nói :

    - Lão tiền bối đã ân cần lưu khách, chẳng lẽ vãn bối dám thất lễ, vì vậy vãn bối phải ở lại hầu tiền bối một đêm. Còn việc gia sư vãn bối ngẫu nhiên cứu tiền bối, đó chẳng qua là chuyện thường trong võ lâm, xin chớ cho là một ân huệ mà phải lúng túng khó xử. Vả lại nếu tiền bối có vì ân huệ riêng, không nỡ tra vấn vãn bối bức “Tạng Chánh đồ” thì kẻ khác cũng chẳng buông tha vãn bối mà. Có điều bức “Tạng Chánh đồ” có lọt vào tay gia sư hay không thì thực tình vãn bối không được biết.

    Ông lão thở dài nói :

    - Mã hiền hữu là người thẳng thắn, lời nói rất chí khí. Lão phu không ngờ hôm nay lại may mắn được gặp một bậc trượng phu trong đương thế.

    Ngừng một lúc, ông già lại nói tiếp :

    - Dù thế nào lão phu đối với lệnh sư vẫn lấy làm hổ thẹn. Quy luật Thiên Long bang rất nghiêm mà những người được sai đi không chỉ một mình lão phu. Vậy xin hai vị nên thận trọng lấy mình.

    Dứt lời, ông lão lại nâng chén uống tiếp một hồi. Từ đó, lão không nhắc đến việc “Tạng Chánh đồ” nữa, mà chỉ nói toàn chuyện kỳ lạ trong giang hồ hiệp khách.

    Thanh Loan ngồi một bên, lắng tai nghe hai người nói chuyện, thỉnh thoảng liếc mắt nhìn Quân Vũ ngoẻn cười.

    Tuy là sơ ngộ, song cuộc nói chuyện không kém thân mật.

    Hai buồm giương thẳng, thuyền lướt tới như bay. Chẳng mấy chốc trời rạng đông thì thuyền cũng đã đến Nhạc Dương.Ông già tiễn Quân Vũ và Thanh Loan lên bờ rồi quay lại nhìn thì đã thấy bốn chiếc thuyền con rẽ nước chạy đến như bốn con thoi. Phía sau, một trong bốn chiếc thuyền, lại có buộc chiếc thuyền nhỏ của Quân Vũ kéo theo.

    Đợi cho chiếc thuyền đó áp vào bờ trao trả cho hai người, ông già mới cáo biệt, và ân cần dặn :

    - Hai vị nên khá thận trọng.

    Quân Vũ và Thanh Loan chưa kịp nói câu cảm tạ thì ông lão đã nhảy vụt lên thuyền giương buồm đi mất. Bốn chiếc thuyền con cũng nối tiếp đi theo đàng sau.

    Trong khoảnh khoắc, đoàn thuyền ấy đã khuất dạng trong mây mờ.

    Quân Vũ và Thanh Loan kiểm điểm lại những vật dụng dưới thuyền thấy vẫn nguyên vẹn, không thiếu món nào. Hai người cột thuyền nơi bến, rồi mang hành trang lên bộ.

    Lúc đó, vừa tảng sáng, trên đường quê chưa có bóng bộ hành qua lại. Hai người dùng thuật khinh công đi rất nhanh. Chỉ chốc lát họ đã vượt qua hơn hai mươi dặm đường.

    Trước mặt họ là một thôn trang nhỏ, núi xây ba mặt, phía trước có một dòng suối nước trong veo chảy róc rách. Bên mặt, gần suối có một bức tường đỏ.

    Quân Vũ đưa tay chỉ vào bức tường đỏ nói :

    - Hàng xá ở nơi chân tường đó. Gia phụ sau khi về ẩn cư đã chọn nơi này làm chốn an phận, gọi là Đông Mao Lãnh.

    Thanh Loan mỉm cười, đáp :

    - Nơi đây quang cảnh đẹp quá! Những lúc nhàn rỗi chúng ta ra bờ suối kia ngồi câu cá thì thú vị biết bao.

    Nghe Thanh Loan nhắc đến việc câu cá, Quân Vũ chợt nhớ đến thời thơ ấu, chàng đã cùng biểu tỉ Tiểu Quyên ra ngồi nơi đó đùa nghịch và câu cá.

    Tiểu Quyên với Quân Vũ là chị em cô cậu, nàng lớn hơn Quân Vũ ba tuổi, từ nhỏ bị mồ côi cha mẹ, nên mẹ Quân Vũ đem nàng về nuôi, cho ở chung một nhà.

    Hai người từ nhỏ đến lớn gần gũi nhau, cùng ăn, cùng chơi, cùng vui với tuổi thơ đầy thương mến. Quân Vũ lúc nào cũng chiều chuộng Tiểu Quyên, và Tiểu Quyên cũng yêu quý chàng lắm.

    Lúc Tiểu Quyên lên tám, sắc đẹp tuyệt vời, mi từ mỹ lệ, chẳng khác một đóa hoa xuất quần trong vườn xuân trước gió.

    Người đã đẹp, tính nết lại nhu mì, do đó, mối tình thơ đối với Quân Vũ chẳng lúc nào quên được.

    Cặp trai gái ấy đang sống trong cuộc sống thanh bình thì năm Quân Vũ lên tám được Huyền Thanh đạo sư đem về Tam Thanh quan để rèn luyện võ nghệ. Từ đó đến nay đã mười hai năm.

    Trong thời gian cách biệt đó, Quân Vũ có về thăm nhà hai lần. Lần trước chàng cùng đi với sư phụ, chỉ lưu lại có hai ngày nên không có cơ hội trò chuyện nhiều với Tiểu Quyên. Lần thứ hai cách đây ba năm, lúc chàng đã mười bảy tuổi, mà Tiểu Quyên thì đã hai mươi tuổi.

    Tiểu Quyên càng lớn càng đẹp đến nỗi Quân Vũ không thể ngờ. Chàng nhớ ngày nào nàng còn để chỏm quả đào, mà bây giờ nàng nghiễm nhiên trở thành một vị tiểu thư khuê các.

    Hôm đó, nàng nhân lúc Quân Vũ mới về, và Huyền Thanh đạo sư mắc trò chuyện với dượng nàng ở phòng khách, nên nàng sai tiểu tỳ đến mời Quân Vũ vào phòng nàng gặp mặt.

    Hai người lúc nhỏ chơi thân với nhau thế, mà nay lớn lên, cả hai gặp nhau đều có vẻ thẹn thùng. Họ ngồi đối diện nhau một lúc lâu vẫn không ai mở miệng nói câu nào.

    Cuối cùng Quân Vũ đánh bạo kể lại mối tình nhớ nhung của chàng đối với Tiểu Quyên trong lúc xa cách.

    Tiểu Quyên không bạo dạn như Quân Vũ nên không dám tỏ mối tình nàng đối với Quân Vũ, nàng chỉ khuyên :

    - Huyền Thanh đạo sư là bậc thế ngoại cao nhân, được đạo sư chỉ giáo thật là may mắn nhất đời, xin chớ vì nhớ nhung đến tôi mà xao lãng việc học hành.

    Lời tâm tình mỗi lúc một đậm đà thêm, và Tiểu Quyên nói một câu cuối cùng :

    - Bất luận lúc nào Quân Vũ thành tài trở về, dù một năm, hai năm hoặc hai mươi năm nữa tôi vẫn chờ.

    Câu khuyên giải của nàng chẳng khác nào một lời thề non hẹn biển, ngụ ý trao thân gởi phận cho Quân Vũ. Mã Quân Vũ lại là kẻ thông minh lý đâu lại không hiểu ý ấy.

    Sáng hôm sau vừa thức dậy, hai thầy trò Huyền Thanh đạo sư đã vội khởi hành trở lại Tam Thanh quan viện.

    Lần này Quân Vũ về thăm nhà mang theo cả một tình nhớ nhung Tiểu Quyên.

    Chàng đoán chừng Tiểu Quyên trông thấy chàng về sẽ mừng vui không sao tả nổi.

    Nhưng khổ thay, lần này chàng lại về cùng với Thanh Loan, chẳng biết Tiểu Quyên có hiểu lầm chàng chăng?

    Nghĩ như vậy, Quân Vũ áy náy trong lòng, dừng chân đứng lại không đi nữa.

    Thanh Loan ngạc nhiên, nhìn vào mắt Quân Vũ hỏi :

    - Vũ ca! Anh nghĩ gì mà ngẩn người ra thế?

    Quân Vũ thấy Thanh Loan quá lo lắng đến chàng, nên tim đập thình thịch. Chàng gượng cười đáp :

    - Tôi đương nhớ tới sư phụ...

    Không đợi Quân Vũ nói dứt lời, Thanh Loan đã hỏi :

    - A! Còn sư phụ của tôi! Sau này tôi nhập vào phái Côn Luân không còn được gọi sư phụ nữa, vậy tôi phải gọi bằng gì hả anh?

    Mã Quân Vũ đáp :

    - Thì gọi bằng sư bá.

    Thanh Loan nhoẻn miệng cười, gật đầu. Hai người lại cất bước tiến về phía bức tường đỏ.

    Họ đi qua dòng suối nhỏ, xuyên qua bãi cỏ thì tới trang viện, xung quanh có cây cối xanh tươi, khóm trúc đứng trước cổng cúi đầu tiễn gió. Trên một khung cửa lớn có treo tấm biển đề bốn chữ lớn :

    “Thủy Nguyệt sơn trang”.

    Quân Vũ dắt tay Thanh Loan rẽ vào cổng, vừa đến đại môn đã thấy một lão bộc đang lui cui quét dọn trước sân.

    Thấy Quân Vũ, lão bộc mừng quá, vứt chổi chạy đến đón, và nói :

    - Ôi chao! Thiếu gia đã về. Hôm qua lão gia vừa nhắc đến thiếu gia đấy. Ngày mai là ngày cúng tuần giáp năm cho Tiểu Quyên cô nương! Tội nghiệp Tiểu Quyên, cô nương lúc nào cũng nhớ đến thiếu gia.

    Người lão bộc đó tên A Lục, tuổi ngoài năm mươi, nhưng tính nết rất vui vẻ, nhanh lẹ, đã chung sống trong gia đình Quân Vũ trên ba mươi năm rồi, nên tình cảm rất thâm hậu.

    Mã Quân Vũ nghe lão nói, giật mình, toàn thân run lẩy bẩy, hỏi lại :

    - A Lục! Ông nói sao? Biểu tỉ của tôi chết?

    A Lục lắc đầu than :

    - Trời không có mắt! Một người trẻ tuổi, đẹp như ngọc, tươi như hoa lại chết trước lão già lam lũ này!

    Mã Quân Vũ chệnh choạng bước tới nắm chặt cánh tay người lão bộc hét lớn :

    - Tại sao nàng lại chết?

    Công lực của Quân Vũ rất mạnh, trong lúc nghe tin dữ, lòng chàng nóng như đốt, chàng nắm cánh tay của người lão bộc kia, thì người lão bộc còn chịu sao nổi! Lão “Á” lên một tiếng, toàn thân run lập cập, nước mắt, nước mũi chảy ra một lúc.

    Thanh Loan đứng một bên, thấy vậy cũng không hiểu được nguyên do làm sao, nàng cũng không biết phải dùng lời nào để khuyên can được.

    Chợt bên trong, một ông lão râu tóc bạc phơ, dáng mạo có vẻ tiên phong đạo cốt, bước ra hét lớn :

    - Vũ nhi! Làm sao thế? Hãy bỏ tay A Lục ra! Con điên rồi sao?

    Tiếng hét đó làm cho Quân Vũ tỉnh lại, chàng quay đầu chắp tay, hướng về phía đại môn, quỳ gối thưa :

    - Vũ nhi xin vấn an thân phụ.

    ông lão trố mắt nhìn người lão bộc hỏi :

    - Có bị thương tích gì không?

    Người lão bộc đưa tay áo lau nước mắt, và thưa :

    - Không sao! Tôi bị đau một chút nhưng còn chịu được.

    ông lão nói :

    - Thôi hãy vào nhà trong nghỉ một chút đã.

    Người lão bộc “dạ” một tiếng rồi lủi thủi đi vào trong.

    Thấy Mã Quân Vũ còn quỳ dưới đất, ông lão cất lời khiển trách :

    - Con đã hai mươi tuổi đầu rồi, sao còn dại dột thế. Nếu cha ra trễ thì cánh tay của A Lục còn gì?

    Quân Vũ cúi đầu nói :

    - Con vừa nghe tin biểu tỷ chết nên tâm trí rối loạn, xin phụ thân dung thứ.

    Ông lão thở dài, than :

    - Quyên nhi đang tuổi xuân thì chết đi thật là đáng tiếc, ta và mẹ con đã tận tâm cứu chữa, nhưng số trời đã định, sức người không chống nổi mệnh trời. Thôi con hãy đứng lên, vào nhà an nghỉ.

    Dứt lời, ông lão bước đến bên Thanh Loan, hỏi :

    - Cô nương này là ai?

    Quân Vũ đứng dậy thưa :

    - Nàng là Lý Thanh Loan, sư muội của con. Con phụng mệnh sư phụ đưa nàng đến núi Côn Luân yết kiến sư thúc.

    Đoạn chàng nói nhỏ vào tai Thanh Loan :

    - Đây là thân phụ của tôi.

    Thanh Loan liền đặt gối quỳ xuống, gọi lớn :

    - Thưa bá phụ.

    Ông lão mỉm cười gật đầu nói :

    - Ly cô nương mau đứng dậy! Sao cô nương lại dùng trọng lễ với tôi như vậy.

    Thanh Loan nhoẻn miệng cười, đứng ra sau lưng Quân Vũ, không biết lời nào để nói nữa.

    Thân phụ của Mã Quân Vũ tên Mã Long, giữ chức Ngự sử tại triều đình năm Minh Tống. Sau này vì Lưu Cẩn lạm quyền, nên ông ta bất mãn từ chức quy điền, ẩn tại Đông Mao Lãnh đóng cửa đọc sách trồng hoa uống rượu.

    Khi Mã Quân Vũ lên bốn tuổi, thường cùng với Tiểu Quyên ra suối câu cá chơi. Hôm ấy, Huyền Thanh đạo sư đi ngang qua thấy Quân Vũ khôi ngô tuấn tú, tánh nết ôn hòa, đem lòng mến, lấy cớ là đi quyên tiền chữa viện, lần vào Thủy Nguyệt sơn trang để chuyện trò với Mã Long.

    Mã Long thấy Huyền Thanh đạo sư có vẻ tiên phong đạo cốt, biết không phải người tầm thường, liền mời vào phòng khách uống trà.

    Hai người càng nói chuyện càng hợp ý nhau, nên kết nghĩ tâm giao.

    Tiếp đó, năm nào Huyền Thanh đạo sư cũng đến thăm chơi một lần. Qua nhiều lần gặp gỡ, Mã Long biết được Huyền Thanh đạo sư là người bát thông lục nghệ, văn võ tinh thông nên càng đem lòng cảm phục.

    Lúc Quân Vũ lên tám tuổi, Huyền Thanh đạo sư tỏ lời nói với Mã Long :

    - Quân Vũ có cốt kỳ thanh tú, khí khái hơn người, chẳng phải kẻ bôn ba trong bể loạn, chiếm lấy địa vị quan chức đâu.

    Mã Long cũng cười, nói :

    - Tôi đã chán cuộc đời quan chức, mới về ẩn cư nơi đây, đâu còn mong con cái lập thân trên đường thành danh ấy. Nếu đạo trưởng không chê bai nó là đứa ngu muội, tôi sẽ cho nó bái đạo trưởng làm thầy, và nhờ đạo trưởng đem về chỉ dạy giúp.

    Câu nói ấy hợp ý muốn của Huyền Thanh đạo sư, nên ông ta không hề từ chối.

    Cách hai ngày sau, Huyền Thanh đạo sư dắt Mã Quân Vũ về Tam Thanh quan. Bao nhiêu võ công đặc dị của phái Côn Luân, Huyền Thanh đạo sư trong mười hai năm trời đã dốc túi truyền cho Mã Quân Vũ.

    Hôm nay Mã Quân Vũ rời khỏi sư môn, tuy với lớp tuổi còn non nớt nhưng bản lãnh đã có hạng trong giới võ lâm rồi.

    Bây giờ Mã Long dắt Quân Vũ và Thanh Loan vào đại sảnh, rồi ân cần hỏi :

    - Lần này sư phụ con không đến chơi sao? Con định ngày nào trở lại Tam Thanh quan?

    Mã Quân Vũ thưa :

    - Sư phụ con dạy con về đây hầu hạ cha mẹ! Qua một tháng sẽ đưa sư muội con đến núi Côn Luân bái sư, không trở về Tam Thanh quan nữa.

    Mã Long đôi mắt đăm chiêu, nhìn con, vuốt râu, nói :

    - “Con là đệ tử của phái Côn Luân, phải nghe theo lời đạo trưởng chỉ dạy, lo làm tròn bổn phận một người trai. Còn cha mẹ con đã già rồi, qua những chuỗi ngày thừa đâu còn thiết gì nữa mà hầu hạ. Từ ngày Tiểu Quyên chết đi, mẹ con luôn luôn ở trong “Dưỡng Tâm đường” sớm tối đọc kinh nhiệm Phật, không muốn gặp mặt ai. Đến như cha đây mà mẹ con cũng chẳng cho vào đó, sợ làm bận lòng.

    Mẹ con đã thế, thì cha đây cũng tìm đường tu niệm cho xong, để tâm hồn được an ổn trong lúc tuổi già.

    Mẹ con tuy là xuất thân nơi đại gia thế phiệt, song người rất thông minh và hiền đức. Chính mẹ con đã khuyên cha bỏ con đường bể loạn, về ẩn thân nơi này, nên mới được chút an nhàn hôm nay. Trước đây, mẹ con thường nói với cha rằng :

    “Tiểu Quyên dung nhan mỹ lệ, nhưng mệnh bạc, ắt không thể sống quá hai mươi lăm tuổi”.

    Quả nhiên, Tiểu Quyên chết không quá hai mươi hai tuổi, nàng chết vì nàng lá một đóa thiên hoa, tạo hóa ghen hờn. Vả lại, thân phụ của nàng trước kia làm tri huyện Nhiệm Châu có nhiều hành vi thiếu đức, có lẽ vì thế mà lưu lại quả báo cho Tiểu Quyên chăng? Thôi con hãy vào “Dưỡng Tâm đường” bái yết mẹ con đã, rồi ngày mai sẽ đem chút lễ vật đi điệu bái linh mộ của biểu tỷ con. Còn về tương lai của con, cha cũng không muốn bận tâm đến. Huyền Thanh đạo sư là người thế ngoại huyền cơ, con cứ nghe theo lời đạo trưởng mà minh định bước đường tương lai của con”.

    Dứt lời, Mã lão gục đầu chào Lý Thanh Loan, rồi từ từ bước ra khỏi phòng.

    Quân Vũ đứng ngơ ngác, đôi mắt trao tráo như một con gà gỗ, chẳng hiểu vì đâu cha chàng lại lạnh nhạt với cuộc sống như thế? Chàng có hiểu đâu rằng qua một thời gian trầm luân trong bể loạn, cha mẹ chàng đều đã chán ngán sự đời, xem cuộc sống như giấc mộng phù du.

    Thấy bóng thân phụ đã khuất ngoài phòng, Quân Vũ từ từ rơi hai giọt lệ, Lý Thanh Loan rút chiếc khăn tay trao cho Quân Vũ chẳng nói lời nào.

    Quân Vũ lấy khăn lau nước mắt, và gượng gạo nói :

    - Chúng ta đến bái yết mẫu nghi.

    Thủy Nguyệt sơn trang chỉ là một trang viện cũ kỹ, không có gì đẹp đẽ. Sở dĩ Mã lão chọn nơi đây, và đặt tên ấy là vì ông cảm thán nhân tình, lấy cảnh thanh nhàn phôi phai cuộc đời quan chức, coi công danh phú quý như đám mây trôi.

    “Dưỡng Tâm đường” được kiến trúc trong đám thùy dương, bên trong vọng ra từng hồi chuông u tịch. Mã Quân Vũ dắt Thanh Loan đi vòng quanh một lúc thì đến ba căn nhà lá sơ sài, nhưng quét dọn rất sạch sẽ. Bên trong có đặt chiếc bàn trúc, trước bàn có bày một tượng Phật, khói hương nghi ngút. Một thiếu phụ tuổi trung niên, đôi mắt lim dim, đang chấp tay tụng niệm.

    Mã Quân Vũ bước nhanh tới, quỳ gối nói lớn :

    - Mẹ! Vũ nhi đã về đến!

    Mã phu nhân từ từ mở mắt ra, trên nét mặt trang nghiêm lộ một nụ cười phúc hậu.

    Bà bước đến vò đầu Quân Vũ, nói :

    - Con về rất đúng lúc! Quyên biểu tỷ của con đã chết rồi! Mai là ngày cúng tuần chu niên của nó! Tội nghiệp, trước giờ chết nó vẫn nhớ đến con. Mai con bảo lão A Lục dắt con đến mộ nó cúng tế để cho linh hồn nó dưới suối vàng được an tâm. Mồ nó mẹ chôn nơi chân núi tây, chỗ mà con và nó thường vui đùa chơi với nhau thưở nhỏ.

    Mã Quân Vũ rơi lệ, nói :

    - Tội nghiệp! Lúc biểu tỷ chết con không được thấy mặt nhau lần cuối cùng.

    Mã phu nhân đỡ Quân Vũ dậy, trong khuôn mặt trang nghiêm của bà chứa đầy bi thương, nói :

    - Tiểu Quyên sắc nước hương trời, thông minh có một. Tạo hóa cướp mất mạng nó tức là không muốn để nó phải chịu cảnh quả báo sau này! Con cũng đừng thấy thế mà đau lòng. Còn cô nương đây là ai vậy?

    Mã Quân Vũ chưa kịp đáp lời thì Thanh Loan đã quỳ gối xuống đất, nói :

    - Thưa bá mẫu, cháu tên Lý Thanh Loan, cùng Mã sư huynh đều là môn hạ của phái Côn Luân.

    Mã phu nhân bước tới đỡ nàng dậy, kéo nàng đến bên mình, hỏi :

    - Cháu là sư muội của Quân Vũ hả! Năm nay cháu được bao nhiêu tuổi?

    Lý Thanh Loan gục đầu thưa :

    - Cháu mười bảy tuổi.

    Mã phu nhân thấy nàng dễ thương, ôm nhẹ vào lòng, hỏi tiếp :

    - Nhà cháu ở đâu? Mẹ cháu có mạnh giỏi không?

    Câu hỏi ấy làm cho lòng Thanh Loan đau nhói lên. Nàng dựa vào lòng Mã phu nhân khóc sướt mướt.

    Từ nhỏ, nàng đã mồ côi cha mẹ, chỉ nhờ Ngô Không đại sư nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành. Tuy Ngô Không đại sư rất nuông chiều nàng nhưng cũng không sao đầm ấm như tình mẹ con được.

    Nay trước cảnh gia đình đầm ấm của Quân Vũ, mà Mã phu nhân lại hỏi đến thân thế của nàng, bảo sao nàng không đau lòng được.

    Nàng sụt sùi đáp :

    - Cháu gặp phải số kiếp đau thương. Từ nhỏ đến lớn không biết mặt mẹ cha, chỉ được sư phụ đem về nuôi dạy, và cho biết tên cháu là Lý Thanh Loan.

    Mã phu nhân nghe nói rất thương tình, đưa tay vuốt tóc nàng an ủi :

    - Cháu ạ! Đừng khóc nữa! Trong đời có ai khỏi chết? Có bà mẹ nào sống mãi với con được đâu?

    Thanh Loan nhìn vào vẻ mặt hiền từ của Mã phu nhân, đột nhiên hỏi :

    - Bá mẫu! Bá mẫu xem cháu có số bạc mệnh chăng? Cháu có giống như Quyên biểu tỷ của Mã sư huynh mà chết sớm chăng?

    Thanh Loan vốn tính trẻ con, nghĩ sao nói vậy. Nhưng Mã Quân Vũ nghe nàng hỏi như thế toàn thân lạnh toát.
     
  3. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,693
    Tiên Hạc Thần Kim
    Tác giả: Lý Liên Chi
    Chương 3: Bên nấm mộ cô đơn

    Dịch:
    Nguồn: Sưu Tầm

    Mã phu nhân nhiệm một tiếng “mô Phật” rồi nhoẻn cười nói :

    - Sinh sinh tử tử vốn có định số, sao cháu lại nghĩ đến việc đó làm gì?

    Thanh Loan đôi mắt đen lay láy, chớp chớp mấy cái rồi nói :

    - Cháu nghe bá mẫu nói đến mạng số của Quyên biểu tỷ nên hỏi cho biết thế thôi.

    Mã phu nhân đưa mắt nhìn Thanh Loan một lúc, rồi nói :

    - Không đâu, tướng mạo cháu có nhiều phúc khí, không thể bạc mệnh như Quyên nhi được.

    Đôi mắt Thanh Loan đang u buồn, nghe nói bỗng nhiên sánh quắc. Nàng mỉm một nụ cười tự an ủi, rồi đắc ý quay nhìn Quân Vũ, tỏ một niềm hoan lạc.

    Cử chỉ ấy vừa làm cho Mã Quân Vũ tức cười, vừa làm cho Mã phu nhân cảm mến.

    Mã phu nhân quay sang nói với Quân Vũ :

    - Hiện nay cha con đang tâm thành mộ đạo rồi. Vì qua mấy mươi năm trầm luân trong bể loạn, cha con đã trải bao đau khổ cho nên lúc mộ đạo, lòng cha con được yên tịnh như mặt nước hồ. Gần đây, mẹ thấy cha con gạt bỏ tất cả những liên hệ với đời, không còn quan tâm đến việc gì nữa. Mẹ đây tuy đã có nghiên cứu mấy mươi năm về Phật học, song cũng chưa thể nào cắt đứt được hoài cảm bên ngoài. Mẹ thường vẫn nhớ đến con. Nhưng đó là trời phú một mối tình thương trong lòng người mẹ, không thể tránh được. Về đường tu hành phải tự mình lo lấy thân mình, không thể lo cho kẻ khác được. Con còn niên thiếu, mẹ chỉ mong con một điều là thiện niệm làm đầu, vị tha hơn vị kỷ.

    Dứt lời, Mã phu nhân nhắm mắt lại, tay lần chuỗi hạt, miệng lâm râm tụng niệm, sắc mặt bà đổi lại vẻ trầm lặng vô tư.

    Mã Quân Vũ không dám làm rộn thêm nữa, khẽ kéo Thanh Loan lui ra khỏi Dưỡng Tâm đường.

    Bấy giờ người lão mộc A Lục đã quét dọn sửa sang phòng ngủ cho Mã Quân Vũ. Còn Thanh Loan thì đã có sẵn căn phòng của Tiểu Quyên để lại, nên lão bộc cũng đỡ phải bận tâm sắp đặt cho nàng.

    Sáng hôm nay, A Lục đã dự sẵn các đồ tế lễ. Ông bèn dắt Mã Quân Vũ thân đến ngôi mộ của Tiểu Quyên để lễ bái.

    Lúc đó, mặt trời mới mọc, cảnh núi rừng như vẽ. Dưới màn sương bên bờ suối, một nấm mồ trơ trọi nằm giữa thảm cỏ. A Lục bày lễ vật rồi quay lại gạt lệ nói với Quân Vũ :

    - Thưa thiếu gia! Đây là mộ của Quyên cô nương. Hồi tưởng lại lúc lão cùng tiểu gia và cô nương thường ra chỗ này đùa nghịch. Cô cậu thì ra bờ suối ngồi câu cá, lúc vui đùa cao hứng có khi quên cả bữa ăn. Dĩ vãng như còn in trước mắt! Bây giờ cảnh vật còn nguyên dấu mà Quyên cô nương đã ra người thiên cổ, tấm thân vàng ngọc vùi sâu ba thước đất.

    Quân Vũ nghẹn ngào nói với A Lục :

    - Lão bộc hãy về đi! Chỉ để một mình tôi ở đây.

    A Lục suýt bị gãy tay hôm trước, nên chẳng dám trái lời. Ông chỉ khuyên qua mấy câu :

    - Người chết rồi không thể sống lại được, xin thiếu gia chớ quá ưu sầu, phải thận trọng sức khỏe. Lão về nhà một lúc sẽ xin ra đây đón thiếu gia.

    Lão bộc đi rồi, Quân Vũ đứng một mình, nhìn cảnh vật nhớ đến tuổi thơ, bao nhiêu dĩ vãng êm đềm hiện đến trước mắt, chàng không sao ngăn được mối hoài cảm.

    Hai dòng lệ tuông trào, và quá đau thương chàng không khóc được lên tiếng, chỉ quỳ trước nấm mộ Tiểu Quyên như một pho tượng, nước mắt chảy lẫn máu, ngất đi lúc nào không hay biết.

    Mãi cho đến lúc A Lục trở lại thì thấy chàng mê man, gọi luôn mấy tiếng cũng chẳng đáp lời. A Lục thất kinh nhìn vào mặt thấy đôi mắt chàng trợn ngược, vẻ mặt hốc hác phi thường.

    Không biết làm sao hơn, lão bộc liền bỏ chạy về Thủy Nguyệt sơn trang để báo tin.

    Nhưng khi về đến nơi thấy Mã lão đi đâu từ sáng sớm, hành tung vô định, còn Mã phu nhân thì đang ngồi tham thiền tụng niệm ở Dưỡng Tâm đường. Lão bộc không dám kinh động, luống cuống chạy đi tìm Lý Thanh Loan.

    Lý Thanh Loan nghe lão nói chưa dứt đã hoảng hốt theo chân lão đến nơi.

    Bây giờ Quân Vũ vẫn còn quỳ trước nấm mồ Tiểu Quyên, nhưng toàn thân cứng đờ như pho tượng gỗ. Thanh Loan chạy tới nắm tay Quân Vũ gọi.

    - Vũ ca! Vũ ca...

    Quân Vũ vẫn với vẻ mặt hốc hác, không nói gì cả. Thanh Loan vô cùng thương cảm, nắm tay Quân Vũ kéo mạnh một cái, Quân Vũ ngã nằm dưới đất, mê man bất tỉnh.

    Thanh Loan khóc sướt mướt nói :

    - Vũ ca! Vì đâu Vũ ca ra thế! Nếu Vũ ca chết đi Thanh Loan này cũng không còn muốn sống nữa.

    Nàng ôm Quân Vũ vào lòng mếu máo nói không dứt lời.

    Bỗng một luồng kình phong từ phía sau tạt đến, Thanh Loan nghe một giọng quen thuộc quát lớn :

    - Mau buông tay! Cô nương muốn cho chàng chết hay sao?

    Giọng nói đột ngột ấy, làm cho Thanh Loan giật mình. Nàng buông Quân Vũ nhảy lùi ra đàng sau hai bước, định thần nhìn kỹ thì thấy người vừa nói là ông lão mà nàng đã cùng Quân Vũ gặp trên chiếc ghe lớn ở Động Đình hồ đêm trước đây.

    Không đợi Thanh Loan hỏi, ông lão thở dài, bảo :

    - Vì chàng quá xúc động nên bị tổn thương nguyên khí. Chân khí trong toàn thân bị ngưng đọng. Lúc này nếu ai sờ mó vào người chàng, thì chân khí sẽ ngưng tụ trong phủ tạng, không sơ tán được, mà ngưng hết thành nội thương. Người nội công càng cao thâm thì bị thương càng nặng, dù may mắn khỏi chết cũng phải chịu phế tật suốt đời.

    Thanh Loan vừa khóc sụt sùi, vừa nói :

    - Nó như thế thì không còn phương pháp nào chữa được ư? Nếu Vũ ca chết thực thì tôi cũng không thể nào sống nữa.

    Ông lão liếc nhìn trên má ngây thơ của Thanh Loan, hai dòng lệ nối nhau chảy như hai dòng suối nhỏ, bất giác cũng động lòng, khẽ bảo :

    - Không sao đâu! Lão có cách cứu chàng thoát khỏi hiểm nghèo.

    Dứt lời ông lão từ từ tiến tới, xòe bàn tay mặt vỗ mạnh vào huyệt “Mạch Môn” của chàng, tay trái thì xoa bóp vào hai huyệt “Xương Môn” và “Phế Hải”.

    Chỉ chốc lát Quân Vũ ngáp dài một cái, rồi tỉnh lại.

    Thấy Quân Vũ hồi tỉnh, Thanh Loan mừng quá, quên cả việc tạ ơn ông lão, cất tiếng gọi :

    - Vũ ca! Anh đã thấy khỏe rồi chứ?

    Vừa nói, nàng vừa đưa tay đỡ Quân Vũ đứng lên. Nàng rất tự nhiên không kể gì đến người đứng bên cạnh. Nàng kéo tay áo lau những giọt máu đọng ở khóe mắt chàng.

    Trên mặt Thanh Loan ngấn lệ vẫn chưa khô, nhưng nàng đã nhoẻn một nụ cười nhìn Quân Vũ rất trìu mến.

    Quân Vũ thấy Thanh Loan nhiệt tâm lo lắng cho chàng, chàng không nỡ từ chối, cứ đứng yên để cho nàng săn sóc.

    Chợt chàng nhìn thấy ông lão mà chàng đã gặp ở Động Đình hồ, đang đứng nghiêm chỉnh bên cạnh, chàng vột khẽ đẩy Thanh Loan sang một bên, rồi cúi chào và nói :

    - Lão tiền bối đến lúc nào vãn sinh không hay biết để tiếp đón, thật thất lễ.

    Bây giờ Thanh Loan mới chợt nhớ lại là nàng chưa cám ơn ông lão, nên vội cúi đầu nói :

    - Đa tạ lão bá cứu mạng Vũ ca của tôi.

    Ông già đáp lễ hai người rồi nghiêm giọng nói :

    - Tôi không có ý định đến đây cứu người. Chẳng qua là không muốn thừa lúc người ta nguy khốn mà hại mạng đó thôi. Vũ hiền hữu vẫn thường nói trong võ lâm ngẫu nhiên giúp nhau là chuyện rất thông thường... Thực ra lệnh sư muội có thể cứu Vũ hiền hữu được, chỉ vì nàng thiếu lịch duyệt, hơn nữa trong lúc hoảng hốt nên không biết phương pháp giải cứu đó thôi.

    Quân Vũ nghe ông già nói ngẩn người không hiểu ra sao. Nhưng sau một lúc trầm tư, chàng đã hiểu được rõ ràng những việc vừa xảy ra. Chàng mỉm cười nói :

    - Tôi đã thọ ơn cảnh giới lại mang ơn cứu mạng của lão tiền bối. Lão tiền bối đối với chúng tôi như thế thật chí tình chí nghĩa. Ơn đó còn trọng hơn chút ơn mọn của gia sư tôi đã cứu lão tiền bối năm xưa. Vậy bây giờ lão tiền bối có điều gì chỉ giáo, Quân Vũ này sẵn sàng rửa tai để nghe.

    Ông già vuốt râu cười khanh khách nói tiếp :

    - Thiên Long biên cuộc của chúng tôi và phái Côn Luân thưở nay không có gì hiềm khích cả, chỉ có tấm “Tạng Chánh đồ” là báu vật trong giới võ lâm mà môn phái nào cũng muốn đoạt cho được mới chịu. Trước đây, lúc gặp mặt trên Động Đình hồ, tôi đã nói rõ ý nghĩa bạn và thù rồi, giờ đây xin Mã hiền hữu cho tôi được nếm mùi “Phân Quang kiếm pháp”.

    Mã Quân Vũ mỉm cười, nói :

    - A! Sở dĩ lão tiền bối theo đuổi đến đây cũng chỉ vì “Tạng Chánh đồ”. Bây giờ không nói “Tạng Chánh đồ” có thật phải rơi vào tay phái Côn Luân hay không, nhưng trong mình tôi thật không có vật đó.

    Vẻ mặt lão già biến hẳn. Ông ta cười nhạt nói :

    - Nếu vậy phiền hiền hữu chịu khó một chút đến gặp vị Biên đầu của tôi.

    Mã Quân Vũ đôi mày cau lại, cười ha hả đáp :

    - Nếu vậy là lão tiền bối có ý định bắt tôi đem về biên cuộc Thiên Long khảo vấn ư?

    Lão già vuốt chòm râu bạc cười khúc khích nói :

    - Quy luật của phái Thiên Long rất nghiêm. Lão phu không trọn quyền định đoạt, chỉ biết mời quý hữu đến đó mà thôi.

    Mã Quân Vũ đứng lên cười lớn, nói :

    - Môn hạ đệ tử của phái Côn Luân không phải là những kẻ vô dụng, khiếp sợ uy danh kẻ khác, xin lão tiền bối chớ nghĩ đến điều đó.

    Ông lão nói :

    - Đúng vậy, uy danh của Côn Luân phái không vừa, và công lực của quý hữu chẳng phải tầm thường. Vậy thì chúng ta đấu nhau một trận rồi sẽ biện giải sau.

    Mã Quân Vũ nói :

    - Vãn bối rất ngu dốt và bất tài, sức học chưa bao nhiêu, nay được lão tiền bối không chê mà so kiếm thì vãn bối dám đâu từ chối. Nhưng chỉ hiềm mới gặp nhau có một lần, chưa rõ được cao danh của lão tiền bối. Vậy trước khi đấu lão tiền bối có thể cho vãn sinh rõ đại danh chăng?

    Ông lão vuốt chòm râu, ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp :

    - Ta là Tương Giang phân cuộc của Thiên Long tổng biên, có tên là Đặng Như Long, và có hơi khó nghe là Trường Giang Thần Giảo. Vậy thì quý hữu tiếp nhận lấy chiêu này.

    Vừa dứt lời, tay mặt lão đã chợp vào vai Mã Quân Vũ mau như chớp.

    Mã Quân Vũ lách qua một bên né khỏi. Thanh Loan lẹ làng ứng chiến. Võ công của nàng đâu phải tầm thường, nàng mới ra tay đã đánh liền ba chiêu một lúc, đôi bàn tay trắng như ngọc tung lên, và múa như đôi bướm.

    Đặng Như Long bị nàng đánh mấy chiêu quá gấp nên phải lùi lại ba bước. Lý Thanh Loan thu tay về, nói lớn :

    - Ông cứu Vũ ca tôi, tôi rất cảm ơn. Nhưng bây giờ ông lại đánh Vũ ca tôi, tôi không cảm ơn ông nữa.

    Đặng Như Long trợn đôi mắt trắng toát, nói :

    - Võ công của tiểu cô nương cũng khá đấy, nhưng lão Đặng Như Long này không muốn giao đấu với nữ nhi. Vậy cô nương hãy dang ra để tôi cùng sư huynh cô đọ sức.

    Lý Thanh Loan cười lanh lảnh, nói :

    - Võ công của Vũ ca tôi còn cao gấp bộ tôi, ông đánh sao cho lại?

    Câu nói khích của Thanh Loan làm cho lão Đặng Như Long thêm tức giận. Lão hét lớn :

    - Nếu cô đã có ý giúp sư huynh cô đánh tôi thì tôi xin lãnh giáo với cô mấy hiệp trước đã.

    Lý Thanh Loan nói :

    - Rất hay! Nếu tôi thua ông thì còn có Vũ ca của tôi giúp đỡ, lo gì!

    Dứt lời, nàng đưa mắt nhìn Quân Vũ, rồi phất tay áo đánh thẳng vào ngực đối phương gió lộng vù vù.

    Đặng Như Long cười hô hố, đưa tay trái ra, gài lấy chiêu thế của nàng, còn tay mặt trả lại một chưởng.

    Thanh Loan rất lanh lẹ, nàng quay lưng một cái chiêu thế đã biến đổi ly kỳ, tay trái nàng điểm vào huyệt “Khúc Trì” tay phải quay tròn một vòng chém vào vai của đối thủ.

    Đặng Như Long không ngờ nàng biến chiêu lẹ làng như thế, thiếu chút nữa bị điểm trúng huyệt, trong lòng vừa sợ vừa tức, tung đôi song chưởng liên hoàn đánh ra một lượt, gió lộng ào ạt, và dùng công lực đánh bồi liên tiếp đến tám chiêu.

    Lý Thanh Loan bị địch thủ dùng toàn lực công hãm, ứng biến không kịp nữa, chân tay luống cuống, bị ép phải thối lui, và chờ cho địch thủ đánh hết tám chiêu mới vận hơi thở phào một cái.

    Đặng Như Long thấy mình đã tận lực dùng hết tám chiêu ác liệt mà vẫn không thắng nàng được, nên không còn dám khinh địch.

    Lý Thanh Loan vận sức vào hai cánh tay, múa nhanh như gió, chế ngự ngón song chưởng của Như Long, làm cho ông ta phải hết lòng chống đỡ.

    Hai người đánh nhau một lúc vẫn chưa phân thắng bại.

    Mã Quân Vũ đứng ngoài xem, thoạt đầu thấy Thanh Loan bị công hãm, chàng đã toan nhảy vào để ứng chiến, nhưng sau đó nàng đổi thế thủ ra thế công, chiêu pháp sắc bén, thì chàng an lòng, không có ý tương trợ nữa.

    Lâu nay chàng nghe Ngô Không đại sư truyền cho nàng về môn “Thập bát La Hán chưởng” môn này tuy chàng đã học qua, nhưng chưa được tinh vi, giờ thấy Thanh Loan dùng môn ấy đương cự với Đặng Như Long là tay cao thủ trong phái Thiên Long, làm cho chàng phải tấm tắc khen thầm.

    Đôi tay nàng thoăn thoắt càng đánh càng lanh lẹ phi thường, chẳng khác đôi bướm vờn hoa, thân nàng rất linh động, tiến thoái nhanh như gió thoảng.

    Trong lúc Thanh Loan có được sức lanh lẹ phi thường và chiến thuật tinh kỳ ấy thì lão Đặng Như Long lại hơn về công lực thâm hậu, và sức kinh nghiệm ở đấu trường.

    Lão đã từng trải biết bao nhiêu trận chiến, giữ chức phân cuộc trong Thiên Long, nếu không hạ nổi một thiếu nữ như Thanh Loan thì còn đâu danh tiếng từ mấy mươi năm nay nữa.

    Thế là lão vì danh dự phải đem mớ kinh nghiệm ra để chiến thắng Thanh Loan.

    Lão đổi thay quyền pháp, không dùng lối đánh mau đánh mạnh như trước, mà xuất chiến một cách chậm chạp phi thường. Song mỗi quyền cước đánh ra đều mang theo một tiềm lực kinh khủng, sức gió phát ra vun vút, làm cho quần áo của Thanh Loan bay phơi phới.

    Thanh Loan còn trẻ tuổi, công lực chưa bao nhiêu, mặc dù thân pháp có lanh lẹ cũng không thể chịu đựng với sức trầm hùng của lão già ấy nổi.

    Hai bên tiếp tục giao đấu được mười hiệp nữa thì mặt phấn đã lấm tấm mồ hôi.

    Mã Quân Vũ thấy tình thế bất lợi cho Thanh Loan. Nhưng chàng lại không ngờ lão Đặng Như Long lại phải vận hết công lực để chống lại với thiếu nữ mà không sợ hao tổn nguyên khí như vậy, bất giác chàng nổi xung, toan gọi Thanh Loan lui ra, để cho chàng vào thay thế.

    Bỗng thấy Thanh Loan thay đổi quyền pháp, những chiêu thức giống như trong “Thập bát La Hán chưởng” nhưng lại có pha vào nhiều điểm rất khác lạ.

    Nguyên Ngô Không đại sư vì muốn cố công rèn luyện cho Thanh Loan, nên ông đã lao tâm khổ trí, nghiên cứu môn “Thập bát La Hán chưởng” và tham khảo các môn chưởng pháp khác đặc chế ra một chưởng pháp đặc biệt tinh kỳ. Vì “Thập bát La Hán chưởng” là chuyên về ngoại công, toàn là những thế đánh cứng mạnh. Thanh Loan là một thiếu nữ sức yếu, tuy có tinh thục về môn đó, nhưng lúc xuất chiêu không thể phát huy được hết công lực. Bởi vậy, Ngô Không đại sư mới tham chế ra lối hỗn hợp cả hai yếu quyết “xảo” và “lực” gọi là “Lưu Vân chưởng” để bù vào chỗ kém cương mãnh, thích hợp với Thanh Loan.

    Sau khi thay đổi chiêu thức, Thanh Loan dùng “Lưu Vân chưởng” thì khí thế lại xoay chiều, trở nên vững chắc. Thân nàng xoay chuyển thoăn thoắt, lẹ như mây trôi nước chảy, luôn luôn bám vào địch thủ nhắm những chỗ sơ hở mà đánh ra nhiều chiêu thức kỳ quái.

    Mã Quân Vũ thấy hai bên giao đấu đến hồi quyết liệt. Đặng Như Long vừa bị đánh trúng mấy chiêu, trở nên vững chắc. Thân nàng xoay chuyển thoăn thoắt, lẹ như mây trôi nước chảy, luôn luôn bám vào địch thủ nhắm những chỗ sơ hở mà đánh ra nhiều chiêu thức kỳ quái.

    Mã Quân Vũ thấy hai bên giao đấu đến hồi quyết liệt. Đặng Như Long vừa bị đánh trúng mấy chiêu, song nhờ công lực thâm hậu, nên chưa đến nỗi bị thương nặng.

    Ngược lại mỗi lần Đặng Như Long đánh ra một chiêu là Thanh Loan phải tránh né cho được, nếu không lỡ bị một đòn thì không chết cũng phải gãy xương.

    Mã Quân Vũ thầm nghĩ :

    - Nếu còn giao đấu nữa tất Thanh Loan phải thất bại.

    Chàng liền nhảy xổ vào giữa hai người đưa tay gạt ra, theo thế “Phân Lưỡng Đoạn Lưu” rồi mỉm cười nói :

    - Hai người không oán cừu gì nhau hà tất phải tử chiến. Đặng tiền bối công lực rất thâm hậu, nếu còn đánh nữa thì Thanh Loan sư muội nhất định là thua. Chi bằng tới đây chúng ta hưu chiến là hơn.

    Đặng Như Long biết Quân Vũ nói thế là có ý khiêm nhượng đối với ông, thực ra Thanh Loan càng đánh càng hăng, lão tự nhận chưa thể nắm chắc phần thắng được.

    Lời nói khiêm nhượng ấy lại làm cho lòng lão khó chịu hơn. Lão đỏ mặt nói :

    - Võ học Côn Luân phái quả thật cao cường. Hôm nay nếu là một cuộc tỷ võ thông thường thì lão phu phải nhận lấy phần thua. Nhưng trái lại hôm nay không phải là một cuộc tỷ võ để phân thắng bại thì lấy đâu phân định cao thấp.

    Mã Quân Vũ ôn tồn nói :

    - Nếu tiền bối vui lòng lưu lại chúng tôi một chút dư địa, mà ngừng cuộc giao đấu, thì sau khi chúng tôi đi Côn Luân về sẽ theo gót tiền bối đến yết kiến nơi Thiên Long bang chủ, trần thuyết sự hiểu lầm về bức “Tạng Chánh đồ” để khỏi thương tổn hòa khí giữa hai bên thì hay biết bao nhiêu. Còn nếu tiền bối nhất định ý mạnh quyết chiến thì Mã Quân Vũ này cũng phải vì sư môn mà bảo tồn danh dự. Điều đó xin tiền bối nghĩ kỹ lại.

    Đặng Như Long hai luồn nhãn quang như điện, nhìn thẳng vào mặt Quân Vũ một lúc lâu rồi đáp :

    - Qúy hữu nói phải lắm, song lão phu tới đây là do thượng lệnh, không thể tự mình định đoạt được, xin quý hữu lượng tình cho.

    Mã Quân Vũ cau mày đáp :

    - Tiền bối dạy chúng tôi như thế tức là bắt buộc chúng tôi phải giao đấu rồi.

    Đặng Như Long chưa kịp đáp lời thì đành xa có mấy tiếng hú vọng lại. Rồi chỉ loáng mắt bốn bóng người vượt qua bờ suối đến nơi. Mã Quân Vũ nhận ngay ra đó là bốn đại hán cùng đi với Đặng Như Long trên bốn chiến thuyền con ở Động Đình hồ đem nọ. Tất cả đều mặc võ phục, đeo kiếm, lần lượt đến sắp hàng đứng bên cạnh Đặng Như Long.

    Mã Quân Vũ đưa mắt nhìn bốn đại hán một lượt rồi quay lại hỏi Đặng Như Long :

    - Lão tiền bối đã xếp đặt từ trước, có ý buộc vãn bối phải phục tùng chăng?

    Đặng Như Long không lưu ý đến lời nói của Quân Vũ, quay sang hỏi bốn đại hán :

    - Người trong Tổng đường đều đến cả chứ?

    Một đại hán đứng bên cạnh cúi đầu đáp :

    - Hồng Kỳ biên cuộc và Hắc Kỳ biên cuộc đã họp nhau đến Tam Thanh quan rồi, còn Tổng Cuộc hộ pháp Tô hương chủ đã đến Động Đình hồ. Có lẽ cô nương cũng đến đây bây giờ.

    Đặng Như Long cau mày nói :

    - Thế ra cả ái nữ của Bang chủ cũng xuất động sao?

    Một đại hán cúi đầu đáp :

    - Theo lời Tô hương chủ nói thì Bang chủ xem việc này quan trọng. Rất có thể Bang chủ cũng thân hành đi nữa.

    Đặng Như Long “Ồ” một tiếng, trên mặt thoáng vẻ lo âu. Ông ta quay nhìn Mã Quân Vũ, thấy chàng thần sắc vẫn thản nhiên, coi như không có gì quan trọng vậy. Ông ta không khỏi than thầm, và nhớ tới cái ơn Huyền Thanh đạo sư cứu mạng lấy làm hổ thẹn.

    Mã Quân Vũ vốn không có ý giao đấu với Đặng Như Long, nên thấy nét mặt lão bơ phờ nghĩ ngợi, chàng khẽ bảo Thanh Loan :

    - Chúng ta đi khỏi!

    Thanh Loan mỉm cười gật đầu. Hai người rời bước đi thẳng về phía Thủy Nguyệt sơn trang.

    Một trong bốn đại hán mắt lườm lườm nhìn theo có ý muốn nhảy theo chận Quân Vũ, Thanh Loan lại. Nhưng Đặng Như Long xua tay nói :

    - Hai người này đều học được võ công đích truyền của phái Côn Luân, kiếm pháp rất lợi hại, nếu đánh nhau với họ chúng ta sẽ bất lợi. Hãy chờ những tay tiếp viện của chúng ta đến rồi sẽ giao đấu cũng chẳng muộn. Bây giờ chỉ cần mai phục quanh Thủy Nguyệt sơn trang, đừng để chúng nó trốn thoát là được.

    Một đại hán hỏi :

    - Có cần mời Tô hương chủ tới đây sớm một chút không?

    Đặng Như Long gật đầu thay câu trả lời. Đại hán đó lập tức cúi đầu chào rồi đi liền.

    Trường Giang Thần Giảo Đặng Như Long cùng ba đại hán kia cùng rời bước đi về phía tây Thủy Nguyệt sơn trang. Họ vừa đi được mấy bước thốt nhiên nghe một tràng cười lanh lảnh từ phía sau vọng đến.

    Đặng Như Long quay đầu nhìn lại thấy một lão già đã đứng trên nấm mộ xanh tự lúc nào, mình ốm như bộ xương, tóc bạc, mặc chiếc áo dài đen, lối phục sức tăng không ra tăng, đạo không ra đạo, tay cầm chiếc gậy đen bóng, đầu gậy có chạm hình con rắn, đứng yên không động đậy. Kể ra hình dáng người này không có gì là xấu xí, chỉ có lối ăn mặc lạ lùng, và cây xà trượng kia làm cho người ta trông thấy phải lạnh người.

    Đặng Như Long là người giang hồ lão luyện, trông thấy lối ăn mặc quái gở đã nhiều, ông ta cũng đã có lần nghe nói đến lối phục sức của người này, nhưng trong chốt lát không thể nhớ ra, liền gọi ba tên bộ hạ đến bảo nhỏ :

    - Đừng có gây chuyện với người đó. Chúng ta đi thôi.

    Bốn người vừa đi được mấy bước quay lại đã không thấy quái nhân ấy đâu nữa.

    Đặng Văn Long nghĩ bụng :

    - Người này thân pháp rất mau lẹ, hình dung cổ quái, chẳng biết ở vào phái võ nào. Xem thế thì những tay cao thủ giang hồ đã theo dõi đến Thủy Nguyệt sơn trang này không ít. Mã Quân Vũ cố nhiên bị cường địch dòm ngó đã nhiều, mỗi hành động của hắn không thể thoát khỏi tầm mắt của các tay cao thủ võ lâm. Còn như Thiên Long bang của ta đây muốn bắt hắn làm con tin cũng sẽ gặp phải nhiều cản trở khó khăn của các môn phái nữa. Ôi! tấm “Tạng Chánh đồ” là một báu vật nhưng cũng là một tai vạ giết người ghê gớm thật!

    Nghĩ như thế, Đặng Văn Long lấy làm lo lắng.

    Bốn người đến mé tây, liền rẽ sang rừng trúc, rồi mai phục nơi đại môn Thủy Nguyệt sơn trang.

    Bây giờ Mã Quân Vũ đã dắt Thanh Loan về đến nhà. Chàng thấy Mã Long, thân phụ chàng đang ngồi nơi đại sảnh xem sách.Vừa thoáng thấy Quân Vũ, Mã lão hỏi :

    - Con đã viếng mộ Tiểu Quyên biểu tỷ con rồi chứ?

    Mã Quân Vũ cúi đầu thưa :

    - Vâng! Con đã đi lễ mộ biểu tỷ con rồi! Nay con xin phép thân phụ được đến Côn Luân sớm.

    Mã lão mỉm cười, bảo :

    - Càng tốt! Con đi ngay bây giờ cũng được. Cha đã cho A Lục sắp sẵn hành trang cho các con kìa.

    Ông đưa tay chỉ vào một góc trường kỷ và nói :

    - Các con kiểm điểm lại xem có thiếu món gì không?

    Mã Quân Vũ xem lại thấy đủ cả, không còn thiếu sót gì nữa. Xem thế nếu chàng không xin phép rời gia trang, phụ thân chàng cũng sẽ thúc hối chàng ra đi lập tức.

    Lòng chàng bồi hồi thương mến! Mấy năm xa cách, giờ đây vừa gặp song thân lại phải lên đường. Nhưng chàng cũng thấy rõ nguy cơ sắp đến, nếu chậm một chút không còn trách vụ, chẳng những rắt rối bản thân chàng còn có thể gây tai vạ cho gia đình chàng là đằng khác.

    Chàng đeo trường kiếm vào mình, mang khăn gói lên vai, rồi cúi lạy phụ thân, nghẹn ngào nói :

    - Con bất hiếu, không thể ở nhà hầu hạ song thân được...

    Chàng nói chưa dứt lời, Mã lão đã khỏa tay, buông sách xuống bàn, đứng dậy cười ha hả, bước ra khỏi sảnh đường.

    Rồi bỗng nhiên ông quay lại bảo Mã Quân Vũ :

    - Các con ăn cơm rồi hãy đi.

    Nói xong, ông chắp tay sau lưng, từ từ ra khỏi đại môn, đi thẳng một mạch không hề quay đầu lại.

    Người lão bộc dọn cơm lên. Mã Quân Vũ nghẹn ngào không nuối nổi một chén.

    Thanh Loan thấy thế cũng chỉ ăn qua loa vài miếng mà thôi.

    Mã Quân Vũ trao cho Thanh Loan một thanh kiếm, và nói :

    - Chúng ta đi ngay cho tiện.

    Thanh Loan trố mắt nhìn vẻ mặt hấp tấp của Quân Vũ, hỏi :

    - Chúng ta không lạy bá mẫu để giã biệt ư? Bá mẫu mến tôi lắm mà!

    Mã Quân Vũ gạt lệ, lắt đầu :

    - Thôi! Phụ thân tôi sẽ chuyển lời giã từ. Bây giờ chúng ta cần đi ngay kẻo không kịp.

    Thanh Loan chớp mắt mấy cái, và mỉm cười, nói :

    - Cũng được, mọi việc tôi đều nghe theo lời Vũ ca cả.

    Hai người bước ra khỏi sơn trang, Mã Quân Vũ quay đầu lại nhìn thấy cảnh vật ruột gan như cắt.

    Lần này chàng về thăm nhà chưa đầy hai ngày. Nhưng hai ngày ấy chàng có cảm tưởng như là hai năm. Tiểu Quyên chết đi đã khiến cho chàng sầu thảm vô cùng, thân phụ chàng lại mộ đạo, vứt bỏ cả trần duyên. Mẫu thân chàng lại quy y đầu Phật, lòng đìu hiu lặng lẽ tợ giếng khô. Chàng là một đứa con duy nhất mà cha mẹ chàng hầu như không lưu ý tới. Điều đáng sợ nhất là bức “Tạng Chánh đồ” sẽ gây sóng gió, mà chàng chỉ cầu mong sao cho việc ân oán của sư môn không liên lụy đến song thân.

    Quân Vũ vừa đi vừa suy nghĩ, niềm riêng canh cánh bên lòng, không tiện nói ra.

    Thanh Loan thấy nét mặt chàng thay đổi bất thường, bất giác đôi mày liễu uốn cong, nàng hỏi :

    - Vũ ca! anh nghĩ gì thế? Anh có thể nói ra niềm tâm sự ấy cho tôi nghe chăng?

    Mã Quân Vũ liếc nhìn thấy nét mặt băn khoăn của nàng, nghĩ bụng :

    - Cô bé này thực thà, ngây thơ đến thế, lẽ nào ta lại bộc lộ tâm tư, làm cho nàng lo lắng. Hơn nữa, hoàn cảnh nguy nan trước mắt, nếu để lòng nàng hoang mang thì rất có hại.

    Nghĩ như thế, chàng cố gạt bỏ ưu sầu gượng cười, đáp :

    - Có rất nhiều nhân vật lợi hại trong võ lâm muốn đối đầu với chúng ta. Chúng ta cần đi gấp khỏi nơi này ngay. Ra đến Tương Bắc thì mới thoát được vòng vây của chúng.

    Thanh Loan cười đáp :

    - Điều đó tôi cũng hiểu như thế. Nhưng nếu được ở luôn bên cạnh anh thì dẫu nguy hiểm đến đâu tôi cũng không sợ.

    Dứt lời, đôi mắt nàng long lanh rướm lệ, mà miệng lại nhoẻn một nụ cười tươi.

    Nàng vừa thương cảm, vừa vui sướng.

    Quân Vũ lòng cũng hồi hộp, nắm tay nàng giục.

    - Chúng ta đi mau lên chứ!

    Thanh Loan chớp mắt mấy cái, hai giọt lệ từ từ lăn xuống, nàng nói :

    - Không. Tôi không muốn lên Côn Luân nữa.

    Quân Vũ ngạc nhiên, buông tay nàng, hỏi :

    - Sao thế? Sư muội không muốn làm đệ tử phái Côn Luân ư?

    Thanh Loan lắc đầu đáp :

    - Không phải thế! Tôi sợ đến Côn Luân rồi anh đi chỗ khác để một mình tôi ở lại thì buồn lắm!

    Quân Vũ thấy tình nàng khắn khít, cũng cảm mến, mỉm cười bảo :

    - Sao sư muội lại nghĩ lẫn quẩn như vậy. Tôi là đệ tử của phái Côn Luân, dĩ nhiên tôi chẳng bao giờ xa Côn Luân, và tôi sẽ săn sóc sư muội mãi mãi sau này.

    Thanh Loan nghe nói, mặt mày hớn hở, hỏi lại :

    - Thế thì Vũ ca hứa với tôi lúc nào cũng ở bên cạnh tôi phải không? Nếu thật vậy tôi mới chịu đi Côn Luân.

    Quân Vũ giật mình đáp :

    - Tôi hứa sẽ xem sư muội như một cô em gái ngoan, và tôi sẽ săn sóc, giúp đỡ sư muội.

    Thanh Loan tuổi còn nhỏ, tâm hồn trong trắng, nàng chỉ biết mến Quân Vũ, mong sao được sống luôn luôn bên cạnh Quân Vũ là đủ rồi. Nàng đâu biết đó là mối tình đầu của nàng đã chớm nở trong con tim cô quạnh ấy.

    Nghe Quân Vũ nói thế, nàng nhắc lại :

    - Thế là Vũ ca đã hứa với tôi rồi đấy chứ?

    Quân Vũ gật đầu. Thanh Loan sung sướng quá, vượt tới trước Quân Vũ đi như bay.

    Hai người đi độ một giờ đã vượt qua khỏi núi Đông Mao Lĩnh. Xuống khỏi đỉnh núi này tức đã giáp quan lộ đi Nhạc Dương.

    Bỗng trước mặt xuất hiện ba bóng người ngựa phi nhanh tới. Đi đầu là một thiếu nữ mặt áo xanh, lưng đeo trường kiếm. Theo sau là hai đại hán, mặt mũi hung hăng.

    Trong hai người đại hán đó, một người đúng là tên thuộc hạ của Đặng Như Long.

    Bóng ngựa phi gần đến, tên đại hán đó kêu lớn :

    - Tô hương chủ, chính đôi nam nữ thiếu niên này rồi!

    Thiếu nữ áo xanh gò cương, quay ngang ngựa lại, đưa mắt nhìn Quân Vũ và Thanh Loan một lượt, rồi mỉm cười, hỏi :

    - Hai vị đều là cao đồ của Huyền Thanh đạo sư tiền bối trong Côn Luân phái chứ?

    Quân Vũ lạnh lùng đáp :

    - Đúng vậy! Chúng tôi đều là môn hạ của phái Côn Luân. Cô nương muốn chỉ giáo điều gì mà nhọc lòng chiếu cố?

    Thiếu nữ xuống ngựa, hai luồng nhãn quang chiếu thẳng vào mặt Quân Vũ, nàng mỉm cười, nói :

    - “Phân Quang kiếm pháp” và “Thiên Cang chưởng” của Côn Luân phái đã lừng danh trong chốn võ lâm, tôi đâu dám xúc phạm đến hai vị. Tôi chỉ có việc cần thương lượng với hai vị mà thôi.

    Mã Quân Vũ thấy thiếu nữ đó trạc hai mươi, đôi má ửng hồng, mắt sáng như sao, mày thanh như vẽ, môi đỏ như son, vóc người thướt tha uyển chuyển, thật là một tuyệt sắc giai nhân. Nàng vừa nói vừa tiến tới bên chàng.

    Quân Vũ lùi lại mấy bước, nói :

    - Cô nương có điều gì xin cứ nói?

    Thiếu nữ cười lanh lảnh đáp :

    - Tôi chỉ sợ hai vị không nghe làm cho lời nói của tôi chẳng ích gì.

    Quân Vũ thấy giọng nàng có vẻ khiêu khích, tức giận cau đôi mày rậm, đáp :

    - Thì cô nương muốn gì cứ nói ra, còn việc có chấp nhận hay không là quyền của chúng tôi, chẳng lẽ cô nương lại bắt buộc chúng tôi phải xem lời nói cô nương như một mệnh lệnh hay sao?

    Thiếu nữ cười nhạt :

    - A! Ngươi ăn nói thật ngang bướng? Ngươi tưởng ta sợ ngươi sao? Đừng nói đến ngươi, ngay như Huyền Thanh sư phụ của ngươi, ta cũng chẳng cần phải nể nang nữa.

    Mã Quân Vũ nổi giận quát :

    - Nàng là ai mà dám xấc láo thế?

    Thiếu nữ đôi mắt xếch ngược, mặt lạnh như tuyết, cười lanh lảnh :

    - “Tạng Chánh đồ” có phải đã lọt vào tay phái Côn Luân chăng? Nếu trong người ngươi có giấu thì phải mau mau đem nạp cho ta để bảo toàn mạng sống?

    Quân Vũ nhếch mép, lạnh lùng đáp :

    - Nếu “Tạng Chánh đồ” không có trong mình ta, hoặc nếu có mà ta không đưa ra thì mi làm gì?

    Thiếu nữ cầm ngang trường kiếm, nói :

    - Thế thì ngươi đừng hòng thoát khỏi chỗ này. Nếu có gan ngươi cứ vượt qua xem thử.

    Quân Vũ chưa kịp phải ứng ra sao, thì thiếu nữ đã tiếp lời :

    - Ngươi hãy nghĩ lại cho kỹ, đừng để ta phải làm mất hòa khí giữ hai môn phái.

    Quân Vũ rút kiếm ra khỏi vỏ, nạt lớn :

    - Nàng khinh người thái quá! Đừng ăn năn hối hận nhé!

    Vừa nói, chàng vừa vung trường kiếm, dùng thế “Hàn Nguyệt Thương Ba”, lưỡi kiếm rung rung nhắm thẳng đối phương đâm tới.

    Thiếu nữ đưa ngang trường kiếm ra đỡ. Hai kiếm chạm nhau phát ra một tiếng “cheng” thực dài. Quân Vũ thấy chồn cả cánh tay, trường kiếm suýt bị tung đi.

    Ngược lại, thiếu nữ đầy vẻ mặt kinh sợ. Nàng trố mắt nhìn Quân Vũ một lúc rồi mới tiếp tục xông vào đánh nữa.

    Bên kia, Thanh Loan cũng đã bắt đầu giao đấu với hai tên đại hán. Nhưng Thanh Loan không trầm tĩnh như Quân Vũ, nàng vừa xuất thủ đã khởi ngay thế công, đánh mau và mạnh để mong áp đảo đối phương. Thanh trường kiếm của nàng múa tít, đâm bên tả, chém bên hữu như rồng cuốn nước, luồng kiếm quang bọc quanh người nàng không một chỗ hở. Mới mười mấy hiệp đã làm cho hai đại hán chống đỡ mờ cả mắt.

    Mã Quân Vũ cố ý muốn thoát thân chứ không muốn đánh lâu. Chàng thấy những thế kiếm của thiếu nữ rất tinh kỳ, nếu cứ bình thường mà đánh thì chưa biết bao giờ phân thắng phụ được.

    Chàng nóng ruột liền tung luôn một lúc ba thế kiếm “Khởi Phượng Đằng Giao” “Sóc Phong Cuồng Khiếu” và “Vụ Liễm Vân Thu” trong “Truy Vân thập nhị kiếm” đánh dồn dập như gió táp mưa sa, uy thế vô cùng mãnh liệt.

    Thiếu nữ tuy là bản lãnh cao cường, song đối với môn “Truy Vân kiếm pháp” là môn võ ưu tú nhất của phái Côn Luân, nàng làm sao chống nổi, nên buộc lòng phải lui luôn ba bước.

    Mã Quân Vũ nhân cơ hội ấy nhảy phóc về phía Thanh Loan, vung một đường kiếm, đánh bật thanh đao của một đại hán ra xa hơn một trượng, rồi khẽ bảo Thanh Loan.

    - Mau mau theo tôi thoát khỏi nơi này.

    Thanh Loan gật đầu, vung tít trường kiếm chém thật mạnh, đẩy lui đại hán thứ hai ra xa ba bước, rồi cùng Quân Vũ cắm đầu chạy như bay.

    Thiếu nữ đứng ngẩn người, nhìn theo hút bóng hai người đi khỏi sơn khẩu. Nàng thở phào một tiếng rồi quay lại nói với hai tên đại hán :

    - Các ngươi về báo với Tổng đà chủ là bọn họ đã đi khỏi sơn khẩu rồi, yêu cầu ông ta hãy trở về Động Đình hồ đi.

    Đoạn nàng nhảy lên ngựa, một mình đuổi theo đối phương.

    Quân Vũ và Thanh Loan chạy miết một hồi quay lại không thấy ai đuổi theo, bấy giờ mới đi thong thả một chút.

    Thanh Loan ngửa mặt nhìn trời, thấy bốn bề mây đen kéo tới, liền quay lại nói với Quân Vũ :

    - Vũ ca! Trời sắp mưa tới nơi rồi.

    Chẳng mấy chốc gió thổi vù vù, và sấm chớp đã bủa giăng tứ phía.

    Quân Vũ đưa mắt nhìn quanh, xem xét địa thế, thấy hai người mới ra khỏi Đông Mao Lĩnh chừng ba dặm, nơi đây cảnh vắng đồng hoang. Muốn đến Nhạc Dương còn phải trải qua một quãng đường khá dài, mà xem chừng trời mưa đã đến nơi, nếu không tìm chỗ ẩn núp sẽ bị ướt hết.

    Chàng quay lại hỏi Thanh Loan :

    - Chung quanh đây không có làng mạc, biết làm sao tìm nơi ẩn núp?

    Thanh Loan trỏ tay về phía đông, nói với Quân Vũ :

    - Hình như chỗ rừng rậm kia có thấp thoáng một nóc nhà, chúng ta mau đến đó thì vừa.

    Hai người vội vàng chạy miết tới. Té ra đây là một tòa cổ miếu hoang phế, khói lạnh hương tàn đã từ lâu, cửa đã mục, xung quanh cỏ mọc um tùm, tường rêu phủ kín, trông rất thê lương. Nhưng may, trong chánh điện vẫn còn nguyên vẹn, đành sau hương án có mấy pho tượng rất lớn, nhưng pho tượng nào cũng bị sứt bể, không còn rõ đó là tượng của vị thần nào nữa.

    Hai người vừa vào bên trong thì trời đổ mưa như trút nước, sấm chớp dữ dội, gió thổi vù vù.

    Quân Vũ dắt tay Thanh Loan đến ngồi nơi một góc điện nhìn ra. Bốn bề âm u lạnh lẽo.

    Bỗng Thanh Loan cất tiếng hỏi Quân Vũ :

    - Vũ ca! Anh có “Tạng Chánh đồ” thật không?

    Quân Vũ lắc đầu đáp :

    - Đâu có!

    Thanh Loan thở dài nói :

    - Thế mà bọn họ cứ đuổi theo chúng ta để hỏi “Tạng Chánh đồ” thì thật là ngu xuẩn.

    Quân Vũ thấy Thanh Loan quá ngây thơ, thật thà nên không dằn được, cười ra tiếng.

    Thanh Loan trợn mắt hỏi :

    - Anh cười gì? Tôi nói sai rồi sao?

    Quân Vũ lại càng cười lớn, đáp :

    - Không, không, sư muội có nói gì sai đâu!

    Thanh Loan nét mặt ngơ ngác, hai mắt buồn rớm lệ, ngồi dựa vào bên chàng, nói :

    - Tôi từ nhỏ không có mẹ cha, không được ai gần gũi dạy dỗ, tôi tự biết còn khờ dại, có nhiều việc chưa hiểu. Vậy anh dạy dỗ tôi, sau này tôi lớn lên hiểu biết thêm thì tôi sẽ không còn nói sai nữa.

    Quân Vũ thấy vẻ thật thà của Thanh Loan cũng vui mà cũng bực! Chàng thấy nàng buồn rầu, ái ngại nói :

    - Sao sư muội lại buồn bã như vậy? Tôi đâu có cười sư muội nói sai?

    Thanh Loan ngồi thẳng người, hỏi lớn :

    - Vậy anh cười tôi về việc gì?

    Quân Vũ ôn tồn đáp :

    - Sư muội không nói sai, nhưng tôi nghe sư muội nói tôi tức cười.

    Thanh Loan ngơ ngác như chưa hiểu Quân Vũ nói gì.

    Chàng giảng giải :

    - Thì bọn chúng tưởng chúng ta có mang tấm “Tạng Chánh đồ” trong người nên chúng mới theo đuổi làm khó dễ chứ!

    Thanh Loan nói :

    - Bởi vậy tôi mới bảo bọn họ là ngu ngốc! Chúng ta không có “Tạng Chánh đồ” mà cứ đuổi đánh chúng ta thì ích gì?

    Quân Vũ nói :

    - Họ định bắt chúng ta làm con tin để buộc sư phụ tôi đem “Tạng Chánh đồ” đến chuộc mạng đấy.

    Thanh Loan hỏi nhỏ :

    - Như thế thì bức “Tạng Chánh đồ” có thật trong tay Huyền Thanh sư bá ư?

    Quân Vũ nói :

    - Điều đó tôi cũng chưa biết đích xác.

    Thanh Loan bây giờ lại khúc khích cười, nàng dựa lưng vào Quân Vũ như đang tìm hiểu một việc gì khó khăn lắm.

    Bên ngoài trời vẫn mưa tầm tã, gió thổi lạnh lùng, nhưng bên trong có vẻ ấm áp giữa đôi tâm hồn trẻ trung, đượm mùi hương sắc ấy.

    Mặc dù Quân Vũ là kẻ thông minh, thấy xa hiểu rộng, nhưng cũng không thể không thừa nhận tấm lòng trinh bạch của Thanh Loan đối với chàng. Trên khuôn mặt ngây thơ kia không có vẻ gì là lẳng lơ lãng mạn cả.

    Trong lúc hai người đang nói chuyện thì bỗng có tiếng hú từ xa đưa lại, lẫn với tiếng sấm rền. Quân Vũ giật mình, đẩy nhẹ Thanh Loan sang một bên rồi đứng dậy để tai nghe ngóng.

    Sau vài giây đồng hồ, đã thấy có tiếng người cười nói ở ngoài cửa điện :

    - Trận mưa này còn có thể kéo đến hai ba giờ nữa. Tòa cổ miếu này nóc chánh điện vẫn còn tốt, chúng ta có thể vào đó tránh mưa núp gió, rồi lát nữa sẽ hay.

    Quân Vũ vội kéo Thanh Loan núp vào sau pho tượng. Hai người vừa ẩn xong thì cửa điện hé mở, hai bóng người xông vào.

    Người thứ nhất ăn mặc theo lối đại sĩ, áo bào đen, đầu búi tóc, hình vóc cao lớn, mặt tía, râu dài, tuổi độ ngũ tuần, lưng đeo một thứ binh khí gì rất lạ, giống như kiếm mà trước mũi có thêm hai cái móc. Người thứ hai là một nho sinh, tuổi tứ tuần, mặt trắng không râu, chít khăn màu lam, mặc áo màu xám, trong lưng có vật gì cộm lên, tựa như một thứ binh khí mềm.Sau khi vào trong điện, họ cở lớp áo ngoài vắt cho khô nước, rồi cũng ngồi đối diện với nhau tâm tình.

    - Huyền Thanh đạo sư không phải là một nhân vật tầm thường, không dễ gì đối phó với lão đâu. Bức “Tạng Chánh đồ” tất phải trải qua một phen tranh đoạt khốc liệt. Cứ theo tin tức thu lượm được trong hai ngày vừa qua thì các tay cao thủ ở các nơi cũng đã đến đây nhiều lắm. Thực lực lớn nhất là Thiên Long bang, Hoa Sơn và Không Động. Ngoài ra còn có các phái khác như Nga My, Thiếu Lâm, Thanh Thành, tuy cũng có phái người đến, nhưng những nhân vật đầu não vẫn chưa tới. Các phái đó chúng ta chưa đáng ngại. Đáng sợ nhất là Thiên Long bang và Hoa Sơn, lực lượng của họ lớn lắm. Nghe nói Hoa Sơn do Bát Cánh Thần Ôn Đỗ Duy Sinh thân dẫn các môn hạ cao thủ đến đây rồi. Còn Thiên Long bang thì Hải Thiên Nhất Tào Tô Bằng Hải chưa tới, nhưng bộ hạ có Hồng, Bạch, Hắc “Tam kỳ phân cuộc” đều đã đến Tương Bắc. Phái Không Động có ai đến thì chưa rõ...

    Người mặt trắng nói đến đây ngừng lại, đưa tay vuốt mấy giọt mồ hôi trộn lẫn với nước mưa trên vừng trán, rồi nói tiếp :

    - Chưởng môn sư huynh chưa đến, tôi và sư huynh chưa đủ sức kháng cực với Thiên Long bang và Hoa Sơn phái đâu.

    Người đạo sĩ gật đầu, mỉm cười nói :

    - Tam đệ lo ngại rất đúng! Nhưng mỗi phái có một kế hoạch riêng, không nói đến thực lực, chỉ bàn về kế hoạch thì chưa biết kế hoạch phái nào đã đạt được kết quả sớm. Như Thiên Long và Hoa Sơn, tuy phái bộ hạ đến đông thật, nhưng họ chỉ cốt bao vây ở Tam Thanh quan. Mà nơi Tam Thanh quan thì Huyền Thanh đạo sư kiếm thuật tinh vi, dễ gì đã hạ nổi.

    Người nho sinh nói :

    - Bởi vì kiếm thuật Huyền Thanh đạo sư lợi hại, nên các phái mới tập trung ở Tam Thanh quan. Họ cần tập trung các bộ hạ cao thủ để làm hai việc. Một là vây hãm Tam Thanh quan, không cho Huyền Thanh tẩu thoát, hai là họp sức nhau để hạ cho được Huyền Thanh. Đó là dự mưu của Bát Cánh Thần Ôn, mà tôi đã điều tra biết đích xác.

    Người đạo sĩ nói :

    - Phải phải! Tam đệ nhận xét rất đúng. Nhưng tôi thấy rằng một Bát Cánh Thần Ôn và bộ hạ của hắn vị tất đã làm gì nổi Huyền Thanh đạo nhân. Kế hoạch đó nếu được cũng còn lâu mới thành. Chúng ta không làm thế, chỉ tìm bắt cho được đứa đồ đệ của Huyền Thanh, rồi sẽ đến tìm lão, bảo đem “Tạng Chánh đồ” ra chuộc mạng là yên.

    Đạo sĩ nói chưa dứt lời, bên ngoài bỗng nổi lên một tràng cười hăng hắc. Tiếp đó, một bóng người xuất hiện trước cửa. Đó là một lão già tóc trắng da thâm, mặc áo dài màu xám, tay cầm một cây gậy trúc.

    Lão ung dung bước vào, đưa tay vẫy nước mưa ướt đẫm trên áo, đôi mắt sáng quắt, nhìn hai người kia, nói :

    - Ái chà! Trời mưa gió lạnh mà quý hữu vào trong cổ miếu để tâm sự thì ấm áp biết bao! À! Lệnh sư huynh của quý hữu sao không thấy có mặt ở đây?

    Hai người nhận ra lão già ấy đúng là vị Chưởng môn của phái Hoa Sơn, Bát Cánh Thần Ôn Đỗ Duy Sinh, giật mình đứng dậy chắp tay xá một cái, và đáp :

    - Chưởng môn sư huynh chúng tôi vì bận việc, ít khi xuống núi. Chỉ có hai đứa tôi là kẻ rảnh rang, thường hành tẩu trên giang hồ. Chẳng ngờ hôm nay được gặp lão hữu nơi đây, thật vạn hạnh.

    Đỗ Duy Sinh vuốt râu cười ha hả. Tiếng cười làm rung cả mái ngói. Ông ta nói :

    - Phái Điểm Thương từ khi sư huynh của quý hữu nhận chức Chưởng môn, đã làm danh vang khắp thiên hạ. Đó là một công trạng của sư huynh quý hữu. Tuy nhiên, cũng phải kể đến công lao của quý hữu, nếu không có quý hữu giúp sức thì chắc gì tiếng nghe tiếng “Điểm Thương song nhạn” muốn được hội ngộ, nhưng chưa có dịp, nay bất ngờ lại được gặp “Song nhạn” nơi đây, thật là may mắn. Chỉ tiếc không gặp đủ mặt “Tam nhạn” cho vui.

    Đạo nhân áo đen vừa cười vừa đáp :

    - Đỗ lão huynh là Chưởng môn của phái Hoa Sơn, uy danh vang dội, hôm nay để bước đến đây hẳn có việc gì trọng đại?

    Đỗ Duy Sinh nhìn hai người kia một lúc, đôi mắt lóe hào quang cười nhạt nói :

    - Sao ngươi dùng lời khách sáo trước mặt ta như vậy? Hai người đến đây hẳn có một mục đích gì rồi! Hà tất phải che mắt ta?

    Chàng trung niên nho sinh cười nhạt, nói :

    - À! Ra chúng mình đến đây cùng một chủ đích cả. Không nói ra ai cũng biết rồi! Vậy thì chúng ta còn cãi cọ nhau làm gì, hãy để thì giờ nói chuyện khác cho vui.

    Đỗ Duy Sinh nói :

    - Dù có nói gì nữa, đã vào việc tất không thể nhường nhịn nhau. Hoa Sơn và Điểm Thương kỳ này có lẽ được dịp thử sức đó.

    Đôi mày chàng trung niên nho sĩ bỗng nhướng lên, hai mắt nhìn chòng chọc vào vị Chưởng môn phái Hoa Sơn nói :

    - Môn võ “Đàn Chỉ Kim Hoàn” của Đỗ lão huynh từ lâu nức tiếng giang hồ. Nếu hôm nay lão huynh dạy như thế thì có lẽ anh em “Song nhạn” chúng tôi được dịp nếm thử mùi vị nó rồi! Đỗ Duy Sinh cười lớn :

    - Chỉ tiếc không gặp đủ mặt “Tam nhạn” của Điểm Thương.

    Đạo nhân áo đen nét mặt khinh khỉnh nói :

    - Không cứ gì phải Tam Nhạn! Nếu Đỗ lão huynh lấy võ công làm vui thì từng người một trong chúng tôi cũng đủ hầu lão huynh rồi!

    Sắc mặt Đỗ Duy Sinh bỗng biến đổi. Ông ta đưa cây gậy trúc ra trước mặt nói :

    - Thế thì hay lắm! Chúng ta thử chơi một chặp cho ấm vậy.

    Chàng trung niên nho sinh nói :

    - Đánh nhau bây giờ thì hơi sớm! Một ngày nào đó chúng ta sẽ gặp nhau, và lúc đó dẫu ai muốn từ chối cũng không được. Giời đây, việc chưa đến, chúng ta đánh nhau chỉ làm lợi cho các môn phái khác. Lão huynh có nhận ra điều bất lợi ấy chăng?

    Đỗ Duy Sinh dịu hẳn nét mặt, gật gù đáp :

    - Có lý! Hiện nay thủ hạ bang Thiên Long đến đây rất đông, chúng ta cần phải giữ lấy thực lực của môn phái chúng ta để đối phó với bất cứ một ai trong lúc cần.

    Câu nói chưa dứt, chợt ngoài xa có tiếng hú vọng đến. Đỗ Duy Sinh liền chống đầu gậy trúc xuống đất, lắc mình một cái nhảy vọt ra ngoài. Tiếng hú vọng đến gần, và chỉ chốc lát, hai đại hán xuất hiện trong làn mưa, chạy như bay đến chỗ Đỗ Duy Sinh. Chúng cúi đầu chào và nói nhỏ vào tai Đỗ Duy Sinh mấy câu, tức thì Đỗ Duy Sinh dùng thuật khinh công chạy như bay biến. Chẳng mấy chốc đã mất dạng.

    Chàng trung niên nho sinh thấy thế quay lại nói với đạo nhân áo đen :

    - Bát Cánh Thần Ôn được bọn bộ hạ đến báo điều cơ mật, chắc là có chuyện gì quan trọng đây! Chúng ta nên theo dõi thử.

    Đạo nhân áo đen gật đầu, đứng dậy nắm tay người trung niên nho sĩ bước ra khỏi điện, rồi cùng vượt mưa gió đuổi theo.

    Mã Quân Vũ và Lý Thanh Loan núp sau pho tượng thần nghe thấy rõ ràng mọi sự việc vừa xảy ra.

    Lý Thanh Loan hỏi :

    - Vũ ca! Cả ba người này đều có ý tìm chúng mình. Nếu họ gặp mặt thì chắc chúng mình phải đánh với họ rồi!

    Mã Quân Vũ xem thử thấy cử chỉ và lời nói của ba người lúc nãy, biết đó toàn là những cao thủ trong các phái võ lâm, nếu gặp nhau không thể chống lại nổi. Vả lại còn biết bao nhiêu kẻ khác theo dõi chàng trong bóng tối chưa ra mặt. Tình thế thật nguy hiểm. Chàng trầm ngâm một lúc rồi nói với Thanh Loan :

    - Chúng ta cứ núp trong miễu này chờ đến tối sẽ đi mới tiện. Cố gắng làm sao đêm nay ra khỏi Tương Bắc thì mới mong thoát hiểm.

    Thanh Loan có bao giờ trái ý Quân Vũ đâu, nàng ngoan ngoãn tuân lời ngồi trong góc điện, chờ cho trời tối.

    Trận mưa kéo dài đến hết canh một thì tạnh hẳn. Vầng trăng quang đãng tỏa ánh sáng lung linh. Mã Quân Vũ dắt Thanh Loan ra khỏi cổ miếu, chạy một mạch không thể kể gì đến sình lầy. Cho đến lúc hai người vượt qua khỏi mấy dãy rừng núi thì đã đi quá hai mươi dặm đường rồi.

    Quân Vũ bảo Thanh Loan đi chậm bước lại, thì bấy giờ mình mẩy nàng đã đẫm cả bùn đất.

    Quân Vũ nhìn nàng mỉm cười, nói :

    - Ô kìa! Em sắp thành một “con người” bùn biết đi đó!

    Thanh Loan nhìn quần áo nàng, le lưỡi nói :

    - Ồ! ghê nhỉ!

    Chưa dứt lời, đàng sau có tiếng cười lanh lảnh vọng tới. Rồi tiếp theo, một giọng nói trong như suối ngọc :

    - Hai vị trò chuyện thú nhỉ? Còn có thì giờ để cợt đùa với nhau sao?

    Mã Quân Vũ quay đầu lại thấy bóng một cô gái lướt tới như bay, đuổi theo.

    Mình nàng khoác chiếc áo dạ hành màu đen, bó sát vào người, làn tóc mây được bao lại bằng một chiếc khăn nhung, có gắn mấy hạt minh châu lóng lánh, trên lưng đeo thanh trường kiếm, bên hông nàng còn treo lủng lẳng một cái túi nhỏ, thân hình uyển chuyển dưới ánh trăng chẳng khác một tiên nữ xuất trần.

    Trông thấy vẻ mặt tươi đẹp của nàng, không đọng chút giận dữ, Mã Quân Vũ an tâm, quay lại hỏi :

    - Cô nương! Vì đâu mà cô nương cứ theo đuổi bức bách chúng tôi mãi như thế. Chúng ta hai bên không thù oán nhau, cô nương không thể bỏ qua chúng tôi được sao?

    Thiếu nữ áo đen mắt nhìn Quân Vũ và Thanh Loan một lúc, rồi cười ha hả nói :

    - À! Chúng tôi! Tiếng chúng tôi nghe thân mật quá! Nàng đó là người gì của ngươi?

    Quân Vũ đỏ mặt, vừa ngượng vừa giận, nói :

    - Nàng là Thanh Loan, sư muội của tôi. Chúng tôi đã không có ý tranh tài với cô nương, nếu cô nương cứ theo áp bức chúng tôi mãi thì chúng tôi không nhịn đâu.

    Thiếu nữ áo đen cười một tràng dài, nói :

    - Thì “Phân Quang kiếm pháp” của ngươi ta đã thử qua rồi. Thật ra, chúng ta đánh nhau chưa biết phần thắng sẽ về ai. Nhưng này, sư muội của ngươi trông đẹp đẽ, dễ thương đấy chứ.

    Quân Vũ thấy thiếu nữ áo đen cứ soi bói mãi, bực mình, quay lại nắm tay Thanh Loan, bảo :

    - Thôi chúng mình đi, không cần tranh luận với ai làm gì.

    Chàng chưa dứt lời thì thiếu nữ áo đen đã nhún mình một cái, toàn thân như một chiếc lá, nhảy tung tới trước đón đường, và nói :

    - Trong vòng năm mươi dặm, nơi nào cũng có những cao thủ đón đường, muốn thoát ra đâu phải dễ.

    Mã Quân Vũ nổi giận nói :

    - Chuyện đó can hệ gì đến nàng mà nàng phải lo lắng. Nàng chỉ cần tránh đường cho chúng tôi đi, nếu không đừng trách tôi vô lễ đấy!

    Thiếu nữ cũng trợn mắt đáp :

    - Ngươi tưởng ta sợ ngươi sao? Nữ hiệp Tô Phi Phụng này chưa hề nể một ai trong chốn giang hồ! Ta đã có hảo ý báo lại cho ngươi biết những gian nguy khó khăn mà ngươi lấy ân làm oán?

    Trong đôi mắt thiếu nữ quả có chứa một từ tâm, khiến Mã Quân Vũ không thể nào nghi ngờ được. Chàng lại nghe thiếu nữ xưng là họ Tô, chợt nhớ lại đêm tâm sự trên ghe với Đặng Như Long trên Động Đình hồ. Đặng Như Long có nói cho chàng biết Tô Bằng Hải, Chưởng môn Thiên Long bang có một cô con gái sắc nước hương trời, tài năng xuất chúng, thường ngang dọc trong chốn giang hồ, chàng đoán thiếu nữ này đúng là cô con gái của Tô Bằng Hải rồi, nên dịu giọng, nói :

    - A! Như vậy thì tại hạ đã trách lầm cô nương! Vậy cô nương có phải là ái nữ của Tô bang chủ phái Thiên Long chăng?

    Tô Phi Phụng giật mình hỏi :

    - Sao ngươi lại biết?

    Mã Quân Vũ biết nàng võ công không phải tầm thường, hiện nay chàng chỉ cần thoát thân, chưa phải lúc đem tài năng tranh đấu, nên nhẹ giọng đáp :

    - Đại danh của Tô cô nương đã vang khắp giang hồ, Mã Quân Vũ này được nghe lâu rồi. Vậy thì ơn chỉ giáo của cô nương để ngày sau báo đáp, bây giờ chúng tôi xin chào cô nương.

    Dứt lời Quân Vũ kéo tay Thanh Loan, lướt qua khỏi thiếu nữ bỏ chạy.

    Tô Phi Phụng bị Quân Vũ dùng lời ôn hòa khích lệ, không còn biết nói sao, đành phải để cho chàng và Thanh Loan thoát đi. Nàng sững sờ đứng nhìn theo cho đến khi hai chiếc bóng của đôi thiếu niên nam nữ kia mất hút dưới ánh trăng mờ, nàng mới buông tiếng thở dài, lắc đầu buồn bã.

    Tô Phi Phụng bình thường là một nữ hiệp ngang tàng, đã từng tung hoành trên đất Giang Nam, không hề biết phục hay cảm mến ai bao giờ, thế mà trước Mã Quân Vũ, anh chàng dung nghi tuấn tú này, nàng cảm thấy như mất hẳn tự chủ, tánh ngạo nghễ của một cô gái chọc trời khuấy nước bỗng biến đi đâu mất.

    Nàng thẫn thờ nhìn lên mặt trăng. Ánh trăng mơ màng như gieo vào lòng nàng một mối tình sầu.

    Bỗng nhiên, nàng quắc mắt nhìn về đàng trước trong cõi âm u kia như có việc gì quan trọng, nàng liền nhún chân một cái, thân hình lướt đi thoăn thoắt đuổi theo Mã Quân Vũ và Thanh Loan.

    Tô Phi Phụng có biệt hiệu là “Vô Hình nữ hiệp” vì thuật khinh công của nàng rất mau lẹ. Dưới ánh trăng mờ, thân hình nàng lướt mau như một vệt khói đen.

    Bấy giờ, Mã Quân Vũ và Lý Thanh Loan đã chạy được một quãng khá xa.

    Trước mặt họ là một khoảng rừng cây rậm rạp, nối tiếp liên miên. Mã Quân Vũ bảo Thanh Loan đi chậm lại để phòng nguy biến.

    Hai người vừa vượt qua khỏi một khúc quanh trong khu rừng rậm thì trước mặt hiện ra một ông lão, mình ốm như bộ xương, râu bạc trắng, mặt áo dài đen, tay cầm cây xà trượng, đứng nơi đó tự bao giờ rồi. Gió rừng thổi vi vu, phất phơ chòm râu bạc và chiếc áo dài của ông lão, làm cho ai trông thấy cũng phải rợn người.

    Mã Quân Vũ tuy là một chàng trai dạn dĩ, nhưng vừa nhìn thấy ông lão đó đã giật mình đánh thót một cái. Còn Lý Thanh Loan miệng ú ớ nói không ra tiếng, lảo đảo ngã vào người Quân Vũ.

    Qua một lúc, Quân Vũ lấy lại được bình tĩnh, nắm tay Thanh Loan nép mình bên đường, vượt qua ông lão gầy đó.

    Đột nhiên, một tràng cười nổi lên, làm rung chuyển cả không gian. Tiếng cười nghe rùng rợn và quái gở làm sao! Ông lão gầy cất tiếng nói :

    - Tao cũng lười biếng không muốn đánh hai đứa bay làm gì, vì hai đứa bay thuộc vào hàng con nít. Tao chỉ hỏi chúng bay một lời là “Tạng Chánh đồ” hiện nay ở đâu? Nếu bay nói thật chẳng những tao tha mạng chúng bay mà còn đưa chúng bay ra khỏi vùng Tương Bắc nữa.

    Mã Quân Vũ không đáp, trố mắt nhìn ông già ốm có ý dò xét.

    Ông già ốm lại lại nói tiếp :

    - Bọn Thiên Long bang cuộc bố trí khắp nơi, theo dõi chúng bay đủ lối. Nếu tao không ra tay điểm huyệt mấy đứa rình rập nơi Thủy Nguyệt sơn trang thì chúng bay có cánh cũng không thể chạy đến nơi đây được. Tuy chúng bay đã trốn đến đây, song những tay cao thủ trong các phái võ lâm còn như lưới nhện, từ đây đến năm mươi dặm, khó nổi vượt qua. Bây giờ chỉ có hai đường, là đưa “Tạng Chánh đồ” cho tay hay không. Đó là con đường sống chết, tùy hai đứa bay lựa chọn.

    Mã Quân Vũ thấy ông lão đó râu bạc phơ, mình ốm như que củi, mà đôi mắt lóe hào quang, tay cầm cây xà thần quái trượng, giọng nói trầm hùng, chứng tỏ nội công đến độ uyên thâm, không phải là tay vừa, nên giả cách ôn hòa đáp :

    - Tạng Chánh đồ như thế nào thực ra tôi không hề biết.

    Lão già ốm cười ha hả nói :

    - Có lẽ, có lẽ, mày không biết “Tạng Chánh đồ” là gì, nhưng chắc chắn nó đã lọt vào tay Huyền Thanh đạo nhân rồi! Thằng già lỗ mũi trâu, sư phụ của mày đó, chắc không nói cho mày biết...

    Ngừng một chút, lão tiến đến bên Mã Quân Vũ cười hề hề :

    - Thôi được! Thế thì tao phải bắt hai đứa mày trước để làm con tin, rồi tao sẽ tìm thằng thầy lỗ mũi trâu của chúng mày đem “Tạng Chánh đồ” đến mà chuộc mạng.

    Mã Quân Vũ lùi ra một bước, hét lớn :

    - Ông là ai mà lại phách lối như vậy? Chúng tôi đâu để cho ông bắt dễ dàng...

    Chàng nói chưa dứt thì ông già ốm đã lướt tới, cưới hô hố :

    - Mày chưa xứng đáng là kẻ được hỏi danh hiệu tao...

    Vừa nói, lão vừa vươn tay toan bắt Mã Quân Vũ, bỗng nhiên, bên mé rừng nổi lên mấy tiếng cười khúc khích, và một bóng người xông đến rất nhanh.

    Thoáng thấy bóng người ấy, Mã Quân Vũ đã thất kinh, vì không ai xa lạ mà chính là lão Bát Cánh Thần Ôn Đỗ Duy Sinh, Chưởng môn phái Hoa Sơn.

    Đỗ Duy Sinh tay cầm gậy trúc, vẻ mặt hiên ngang, trố mắt nhìn vào lão già ốm, cười nhạt hỏi :

    - A! Té ra Trần lão huynh! Lão huynh vẫn còn được sống dai đến hôm nay sao?

    Lão già ốm nhấc bổng cây xà trượng lên, cười khúc khích :

    - Hay lắm! Đỗ lão huynh tai mắt vẫn còn tinh anh đấy chứ? Chỉ nghe hơi gió cũng biết được mà đến đây. Chúng ta lại được một phen kỳ ngộ!

    Đỗ Duy Sinh không để ý đến lời khích lệ của lão già ốm, quay sang hỏi Mã Quân Vũ :

    - Hai đứa bay có phải là môn hạ của Huyền Thanh đạo nhân trong Côn Luân phái chăng?

    Mã Quân Vũ trước đây đã núp sau tượng thần nơi cổ miếu, biết rõ lão là Chưởng môn trong phái Hoa Sơn, nên tìm cách nhỏ nhẹ để thoát hiểm, chàng đáp :

    - Vãn bối đúng là môn hạ của phái Côn Luân, còn lão tiền bối có phải là Bát Cánh Thần Ôn, Chưởng môn phái Hoa Sơn chăng.

    Đỗ Duy Sinh giật mình thầm nghĩ :

    - Thằng bé chưa ráo máu đầu sao cũng biết được danh hiệu của ta?

    Lão gật đầu hỏi :

    - Đúng rồi, ta là Đỗ Duy Sinh, nhưng vì sao mày lại biết?

    Mã Quân Vũ liến thoắng đáp :

    - Lão tiền bối là một Chưởng môn trong một phái võ, uy danh chấn động. Trước đây vãn bối thường nghe gia sư nhắc đến cử chỉ và dáng điệu của lão tiền bối nên vãn bối rất kính phục.

    Nói câu này, Mã Quân Vũ muốn gây cảm tình với một người và khích một người để cho cả hai người kia đánh nhau, chàng tìm cơ hội lánh nạn.

    Quả nhiên, câu nói của chàng đã làm cho mặt mày Đỗ Duy Sinh đầy vui tươi và tự đắc. Lão cười lớn nói :

    - A ha! Đúng rồi! Thằng nhỏ này nói đúng lắm! Ta và Huyền Thanh đạo nhân có gặp nhau mấy lần! Phái Hoa Sơn và Côn Luân đều là những bậc đại nghĩa lừng danh.

    Dứt một tràng cười, Đỗ Duy Sinh lại đổi giọng hỏi Quân Vũ :

    - Ta có nghe đồn sư phụ của ngươi tìm được “Tạng Chánh đồ”. Việc ấy có thật hay không?

    Quân Vũ mỉm cười, nghĩ thầm :

    - “Lão già này thật khôn ngoan. Mình có nịnh lão đến đâu lão cũng không quên ý định là tra hỏi “Tạng Chánh đồ”. Bây giờ nếu mình bảo là không có thì lão sẽ nổi giận ngay. Như thế chỉ gây thêm khó khăn mà thôi”.

    Chàng giả cách lờ mờ đáp :

    - Theo vãn bối được biết thì sư phụ vãn bối gần đây có được một cái hộp bằng ngọc rất đẹp, trong đó không biết có phải là “Tạng Chánh đồ” không? Việc đó thực tình vãn bối không hiểu được.

    Đỗ Duy Sinh lại hỏi :

    - Sư phụ ngươi hiện nay đã rời khỏi Tam Thanh quan. Vậy ngươi có biết lão ta đi đâu không?

    Mã Quân Vũ chư kịp đáp thì lão già ốm như bộ xương đã hét lên một tiếng chói lói, và nói :

    - A! Lúc nãy ta hỏi “Tạng Chánh đồ” mi trả lời không biết, bây giờ mi lại đem khai hết cho lão Thần ôn này. Mi thật là khinh dễ tao...

    Chưa dứt lời, lão đã tung cây xà thần quái trượng, dùng thế “Phi Bảo Lưu Hoàn” điểm vào ngực Quân Vũ.

    Nhưng Đỗ Duy Sinh nhanh như chớp, chỉ lắc mình một cái đã nhảy đến trước mặt Quân Vũ đưa cây gậy trúc lên đánh vẹt cây xà trượng sang một bên, rồi cười nhạt, nói :

    - Danh hiệu Xà Tào Trần Hổ vang lừng khắp chốn võ lâm mà lại đi bức bách một đứa con nít, chẳng sợ đời cười chê sao?

    Người ốm như bộ xương chính là Xà Tào Trần Hổ, mà lâu nay trong giang hồ ai nghe tên cũng phải khiếp sợ. Lão nghe Đỗ Duy Sinh nói, đôi mày bạc dựng lên, hét :

    - Bát Cánh Thần Ôn! Mi đừng dùng lời nhân nghĩa giả dối mà che mắt thê gian! Mi vượt hàng trăm dặm đến đây không phải với dụng ý cướp giật tấm “Tạng Chánh đồ” sao?

    Đỗ Duy Sinh cười ha hả, đáp :

    - Điều đó đã hiển nhiên rồi! Hiện nay ai cũng mong ước tấm “Tạng Chánh đồ” cả, không riêng gì ta. Có điều tấm “Tạng Chánh đồ” lại lọt vào tay Huyền Thanh đạo nhân là kẻ lừng danh về “Phân Quang kiếm pháp” và “Thiên Cang chưởng”. Nay ta muốn bắt hai tên đồ đệ của lão làm con tin, để lão đem “Tạng Chánh đồ” đến chuộc mạng! Còn ngươi, nếu ngươi tự hào là võ công thâm hậu, có thể thắng nổi “Phân Quang kiếm pháp” thì cứ đi tìm lấy Huyền Thanh đạo nhân mà đánh giật lấy “Tạng Chánh đồ”. Ngươi đủ gan làm điều ấy chăng?

    Trần Hổ cười lanh lảnh, nói :

    - Hai đứa bé này đang ở trong tay ta, ngươi từ đâu đến đây lại muốn cướp giật nó. Ta thấy chuyện này làm không dễ. Ngươi nên nghĩ lại để khỏi tổn thương hòa khí giữa đôi bên.

    Đỗ Duy Sinh trợn mắt, nói :

    - Ta đã có ý định, không ai dám trái ý ta cả.

    Vừa nói, Đỗ Duy Sinh vừa vung cây gậy trúc lên điểm một đòn vào mặt Trần Hổ. Trần Hổ đâu phải tay vừa, cây xà trượng múa vèo vèo, dùng thế “Tấn Lôi Kích Mộc” quét qua dưới chân Duy Sinh một cái.

    Đỗ Duy Sinh cười hô hố, nhảy vút lên cao hai trượng để tránh, đồng thời đá vút vào mặt Trần Hổ một đòn rất mạnh.

    Trần Hổ biết Đỗ Duy Sinh là tổ sư phái Hoa Sơn, công lực siêu quần, nên không dám khinh thường, dùng hết sức mình để phản kích.

    Hai bên đều dùng những chiêu tuyệt kỷ. Mới xem qua tưởng tầm thường, nhưng thực ra gậy trúc và xà trượng đều được nội lực truyền sang, sức mạnh chẳng khác một luồng chưởng khí.

    Trước đây hai mươi năm, hai người đã có đánh nhau một lần. Trần Hổ bị bại dưới tay Đỗ Duy Sinh. Trần Hổ cho đó là một điều nhục nhã nhất trong đời, vì vậy lão mới trốn mặt vào Cửu Công sơn khổ công rèn luyện. Nay tuy lão tuổi đã già, nhưng công lực tinh vi hơn trước nhiều.

    Còn Đỗ Duy Sinh hai mươi năm qua luyện được môn “Phục Ma trượng pháp”. Môn này rất lợi hại, gồm có tám mươi mốt chiêu. Trong giới giang hồ chưa ai cự nổi với lão mười chiêu, thế mà lúc này lão đã xuất đến hơn hai mươi chiêu mà vẫn chưa đánh bại được Trần Hổ.

    Thấy cây xà trượng của Trần Hổ vẫn ngang nhiên tung hoành với gậy trúc, Đỗ Duy Sinh tức giận đem hết chiêu thuật ra áp dụng, càng đánh càng lanh lẹ phi thường.

    Mã Quân Vũ đứng xem, thấy hai cây gậy luôn luôn quấn vào nhau như bóng với hình, càng đánh chiêu thuật càng mạnh thêm, và gió lộng vù vù. Chàng đoán biết hai người từ chiêu thuật biến sang nội gia chân lực, tập trung vào hai cây trượng để tranh thắng phụ.
     
  4. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,693
    Tiên Hạc Thần Kim
    Tác giả: Lý Liên Chi
    Chương 4: Sóng tình rung động lòng nhi nữ

    Dịch:
    Nguồn: Sưu Tầm

    Lúc này, Mã Quân Vũ có thể thừa dịp hai người đang đánh hăng say mà tẩu thoát. Nhưng khổ nỗi, kiếm thuật của hai người trao đổi nhau rất kỳ thú, hấp dẫn, làm cho Quân Vũ đứng xem say mê, quên cả gian nguy.

    Giữa lúc đó, chàng cảm thấy như có một bàn tay mềm mại nắm lấy vạt áo chàng kéo đi. Chàng đinh ninh là Lý Thanh Loan, nên đưa tay nắm nhẹ bàn tay ấy, có ý bảo Thanh Loan chờ thêm chút nữa.

    Quả nhiên, chàng vừa nắm lấy bàn tay thì bay tay kia mát rượi và mềm mại phi thường. Bên chàng lại tỏa một mùi hương thơm phức, mùi hương của cô gái xuân thì phát xuất từ khi gần gũi Thanh Loan chàng mới được cảm thấy.

    Lại có một giọng nói rỉ rả bên tai :

    - Sao mà sững sờ như vậy? Không thừa dịp thoát thân thì chốc nữa chạy sao cho khỏi.

    Mã Quân Vũ giật mình. Giọng nói ấy không phải Thanh Loan. Chàng quay đầu nhìn lại thì thấy chàng đang nắm tay một thiếu nữ, mà thiếu nữ ấy lại là nàng Tô Phi Phụng.

    Chàng quá hổ thẹn vội buông tay ra, muốn nói vài lời xin lỗi, nhưng ngượng quá nói không ra tiếng.

    Tô Phi Phụng vẫn đưa mắt nhìn chàng với cái nhìn đầy cảm mến.

    Bấy giờ Quân Vũ mới thấy việc quan hệ cần phải bỏ trốn, nên đưa mắt ra dấu bảo Thanh Loan.

    Từ bấy giờ Thanh Loan cũng như Quân Vũ, say sưa đứng nhìn hai lão già chiến đấu, đột nhiên nàng thấy thiếu nữ áo đen luồn vào giữa hai người nói chuyện với Quân Vũ một cách thân mật. Nàng ngơ ngác không hiểu gì cả, thầm nghĩ :

    - “Nàng này lúc nãy đón đường gây sự, tại sao giờ đây lại tỏ vẻ ôn hòa thân mật?”

    Nàng còn đang thắc mắc thì Quân Vũ đã nắm lấy tay nàng, nói nhỏ :

    - Chúng ta chạy mau, đừng nói chuyện gì cả.

    Loáng mắt, bóng hai người đã dắt nhau chạy vào rừng rậm mất dạng.

    Tô Phi Phụng đứng nhìn theo, thấy cử chỉ thân mật của Quân Vũ đối với Thanh Loan làm cho lòng nàng ghen tức. Nàng nghiến răng thở dài, quay đầu lại thì thấy Đỗ Duy Sinh và Trần Hổ hai người đã đánh nhau đến mức kịch liệt.

    Hai bên đều dùng hết nội công chân lực để mong triệt hạ nhau. Mỗi cái đánh, mỗi cái đá đều mang một kình lực vô cùng thâm hậu.

    Tô Phi Phụng thấy thế thất kinh thầm nghĩ :

    - Hai người này thuộc hạng tiền bối võ lâm, công phu đã đến mức nhập hóa. Nếu ta không lánh mặt đợi đến lúc họ phân thắng phụ, e họ gây rắc rối đến ta nữa, thì ta còn làm sao thoát nguy.

    Nàng chưa kịp lánh mình thì Đỗ Duy Sinh đã phát giác ra được việc Quân Vũ bỏ trốn, nên lão hét lên một tiếng, dùng gậy trúc quét ngang qua một đường, ép cây xà trượng của Trần Hổ sang một bên đồng thời tay trái tung ra một chưởng tống thẳng vào giữa ngực Trần Hổ.

    Đòn chưởng đó vốn là một yếu quyết lợi hại, sức gió tạt thẳng tới rất mạnh và nhanh. Trần Hổ đoán biết nếu ra tay đỡ lại chưởng đó, hai bên đều không tránh khỏi nguy hại cho bản thân, nếu lão tung mình nhảy lên cao, tránh khỏi chưởng phong của đối thủ.

    Làn gió không có sức cản, tại tới phía trước làm gãy “răn rắc” mấy cành cây lớn rồi đổ ầm xuống đất.

    Thấy Trần Hổ đã nhảy sang một bên tránh được đòn chưởng, Đỗ Duy Sinh hùng hổ phóng mình đến trước mặt Tô Phi Phụng, đón nàng lại hỏi lớn :

    - Con bé này ở đâu đến đây? Cặp nam nữ thiếu niên vừa rồi trốn ngả nào?

    Tô Phi Phụng ngẫm nghĩ :

    - “Mã Quân Vũ mới trốn đi chưa bao lâu, nếu chỉ hướng đi của chàng thì lão này sẽ đuổi theo ngay. Võ công của lão có thể ngang hàng với phụ thân mình, nếu lão gặp Mã Quân Vũ lần nữa thì chàng không sao thoát khỏi tay của lão nổi”.

    Nàng không muốn Mã Quân Vũ bị hại, nhưng nghĩ đến cử chỉ thân mật của Quân Vũ và Thanh Loan, nàng lại nổi lên căm tức, muốn chỉ cho lão già ấy đuổi theo hạ sát cho đáng đời.

    Nhưng nàng vừa mở miệng lại thôi, không nỡ nói. Tình yêu và căm hận như đang cấu xé trong lòng cô gái lâu nay đã có tiếng là ngạo nghễ, khinh đời ấy.

    Đỗ Duy Sinh thấy thiếu nữ cứ mãi ú ớ mà không nói, nên nổi giận hét :

    - Chẳng lẽ mày cũng là đệ tử của phái Côn Luân nữa sao? Nếu không đáp đúng câu hỏi của ta, đừng trách ta cậy già hiếp trẻ.

    Tô Phi Phụng liếc mắt nhìn Trần Hổ, thấy lão già này đứng phía sau, đôi mắt lóe hào quang như muốn bênh vực Đỗ Duy Sinh để bắt nạt nàng nữa.

    Thật vậy, Đỗ Duy Sinh và Trần Hổ đánh nhau để giành bắt “con mồi” Mã Quân Vũ, mà giờ đây Mã Quân Vũ đã trốn thoát thì họ còn tranh nhau để làm gì nữa? Do đó, hai người không còn chút hận nhau, mà họ có ý ngầm muốn khai thác cô bé mới xuất hiện này.

    Tô Phi Phụng đã thấy rõ tình thế như vậy, biết không thể thoát được, nên bình tĩnh, nói :

    - Tôi cũng đang đi tìm môn hạ của phái Côn Luân, vừa đến đây gặp hai ông đánh nhau kịch liệt, nên tôi đứng lại xem. Bây giờ hai ông không đánh nhau nữa thì tôi đi nơi khác.

    Dức lời nàng ung dung cất bước.

    Đỗ Duy Sinh là một Chưởng môn của một phái võ, ai nấy đều kính nể. Nay thấy một thiếu nữ nhỏ tuổi, tính tình ngạo nghễ như vậy, nên ông tức giận trợn mắt nói :

    - Mày là môn hạ của phái võ lâm nào mà nghinh ngang quá vậy? Mày liệu có thể qua mặt được ta chăng?

    Chưa dứt lời, Đỗ Duy Sinh đã vung tay đánh tạt tới một đòn.

    Tô Phi Phụng là ái nữ của Tô Bằng Hải, một vị Bang chủ của bang Thiên Long, lâu nay tánh tình ngạo nghễ đã quen, không coi ai ra gì cả. Dẫu kẻ nào bản lãnh có cao hơn nàng đi nữa, nàng cũng chẳng bao giờ chịu phục.

    Bởi vậy, Đỗ Duy Sinh vừa đánh tới, nàng đã kịp thời chuẩn bị trước, nhảy trái sang một bên né tránh, rồi rút trường kiếm vung lên, nói :

    - Ông đón đường tôi để làm gì? Nếu ông không tránh ra thì mũi kiếm này sẽ cho ông biết lỗi phải.

    Đỗ Duy Sinh cười lớn nói :

    - Ha ha! Con bé này phách lối dữ chứ? Được, được! Mày cứ qua thử dùng kiếm cho ta xem nào?

    Tô Phi Phụng hét một tiếng, phất lưỡi trường kiếm quét ngang qua theo thế “thủ phất”.

    Đỗ Duy Sinh không thèm né tránh, dùng tay trái đánh gió một cái, lưỡi trường kiếm của nàng bạt sang một bên.

    Tô Phi Phụng từ lúc nãy đã thấy công lực của Đỗ Duy Sinh rồi, nàng biết tài năng của nàng đối với Đỗ Duy Sinh không thấm vào đâu. Tuy nhiên, nàng là một cô gái gan dạ và ngạo nghễ, không vì kém tài năng mà nhượng bộ ai.

    Nàng thu hồi trường kiếm, rồi xông vào đâm chém tới tấp.

    Đỗ Duy Sinh không dùng đến gậy trúc, chỉ dùng một bàn tay trái đánh gió, làm cho lưỡi kiếm của Tô Phi Phụng bạt đi mà thôi.

    Sở dĩ lão đánh như thế là vì lão đã tự nhận mình là kẻ tiền bối, và là Chưởng môn của một phái võ lâm, không thèm đem hết sức lực để áp đảo một cô bé gái.

    Nhờ thế mà Tô Phi Phụng được lợi thế, nàng sử dụng đường kiếm loang loáng tấn công tới tấp.

    Tô Phi Phụng là con gái cưng của Tô Bằng Hải, được Tô Bằng Hải sớm truyền dạy kiếm pháp. Nàng đã luyện được những tuyệt chiêu trong kiếm thuật. So với Tô Bằng Hải thì về kiếm pháp nàng đã tập luyện đến bảy, tám phần; chỉ vì công lực nàng chưa thâm hậu, nên chưa thể đương đầu với các cao thủ đệ nhất võ lâm mà thôi.

    Tuy nhiên, sức lanh lẹ, mềm dẻo nàng lại linh diệu không ai bì.

    Do đó, Bát Cánh Thần Ôn định trong năm ba hiệp sẽ đánh rơi cây trường kiếm của nàng ngay, không ngờ lão đã đánh đến ngoài mười hiệp mà Tô Phi Phụng vẫn còn múa trường kiếm loang loáng, không hề nao núng. Cây trường kiếm của nàng lại biến nhiều chiêu thế rất tinh kỳ.

    Đỗ Duy Sinh lấy làm lạ, nghĩ thầm :

    - Trong thiên hạ về kiếm pháp thì chỉ có ba phái giỏi nhất là Võ Đang, Côn Luân, Nga My, nhưng kiếm thuật của con bé này lại không giống với kiếm thuật của ba phái ấy, chẳng biết nó thuộc môn phái nào nhỉ?

    Càng khó chịu hơn nữa là cuộc đấu này có mặt lão Trần Hổ, nếu trong hai mươi hiệp mà ông ta không đánh bại một con bé hai mươi tuổi đầu thì còn gì là uy tín của một vị Chưởng môn phái Hoa Sơn nữa.

    Nghĩ như thế, Đỗ Duy Sinh quá nóng lòng, không còn kể gì đến danh dự nữa, vận lực vào hai cánh tay đánh tống một lúc, chưởng vun vút tạt vào người Tô Phi Phụng như xé gió.

    Tô Phi Phụng nghe hơi gió, biết sức mình không cản nổi, vội búng chân nhảy lùi ra hơn tám bước để tránh làn chưởng phong.

    Tuy nhiên, nàng là kẻ gan lì, gàn bướng, không chịu nhượng ai, nên vừa nhảy lui thì nàng lại chồm tới ngay, dùng trường kiếm đâm vào bụng Đỗ Duy Sinh.

    Đỗ Duy Sinh quát lớn :

    - A! Con bé gan lì quá sức! Nếu không cho mày nếm mùi đau đớn, mày chẳng bao giờ chịu phục ai.

    Vừa nói, lão vừa phất tay qua một cái, một luồng chưởng lực tạt ngang đánh bạt cả tay của Tô Phi Phụng.

    Tô Phi Phụng cảm thấy cánh tay tê buốt, nếu không buông kiếm tất bị thương, nàng liền thả thanh kiếm ra thì luồng chưởng lực đã đánh phăng cây kiếm bay xa hơn chín trượng chém vào một cành cây lớn gãy tiện.

    Lẽ ra đã bị rơi kiếm, Tô Phi Phụng phải thấy rõ năng lực non nớt của mình, nhưng nàng là người gan dạ, chẳng bao giờ nhịn ai, nàng liền thò vào túi nhỏ lấy ra mũi “Phi yến” phóng vào giữa mặt Đỗ Duy Sinh.

    “Phi yến” này là một loại ám khí quái gở. Nói là ám khí cũng không đúng, vì nó không phải là một vật để giết lén ai. Mũi “Phi yến” lúc phóng ra kêu lên những tiếng “tinh tinh” chát chúa. Đầu nó giống như một cánh én, nhưng sắc bén vô cùng, giữa ruột có chứa một số kim độc.

    Ám khí này nguy hiểm ở chỗ nếu đối thủ vô tình không biết, đỡ nhằm cơ quan của nó, thì nó phun ra một loạt kim độc rất nguy hiểm, còn nếu không đỡ nó thì mũi nhọn sẽ ghim thẳng vào người cũng bị thương.

    Với loại ám khí này, Tô Phi Phụng đã làm cho các tay võ lâm giang hồ khủng khiếp.

    Nàng vừa phóng mũi “Phi yến” ra thì mũi nhọn xoáy một vòng tròn, xé gió vèo vèo bay đến giữa mặt Đỗ Duy Sinh.

    Đỗ Duy Sinh cũng là tay kiến thức rộng, nên ông đã đề phòng trước, lúc nghe tiếng “tinh tinh” đã kịp dừng lại, đưa cây gậy trúc đánh vẹt mũi “Phi yến” sang một bên.

    Nhưng nguy thay, đầu gậy ông vừa chạm vào ám khí, thì ám khí đã phun ra kim độc tua tủa bắn vào người.

    May mà Đỗ Duy Sinh nội công quá thâm hậu, và đôi mắt tinh anh, chợt trông thấy việc lạ liền hét lên một tiếng, dùng chưởng lực đánh gió, làm cho kim độc bị làn gió mạnh cuốn sang một bên, đồng thời ông ta tung chân nhảy tới trước mới tránh thoát được.

    Đỗ Duy Sinh giận dữ, nói :

    - A! Con bé này lợi hại nhỉ! Mày dám dùng thứ ám khí này để hại ta sao? Ta sẽ trừng phạt mày một phen để mày chừa tánh ngạo đời, hống hách.

    Chưa dứt lời, Đỗ Duy Sinh lại tung tay đánh tiếp ba đường chưởng một loạt.

    Thật là một sức mạnh khủng khiếp! Nàng Tô Phi Phụng không dám đỡ lại, tung mình nhảy lùi ra, nhưng sức gió cuốn nàng như một chiếc lá khô, quăng nàng ra xa hơn tám trượng.

    Tuy vậy, nàng cũng không vì thế mà bối rối. Chân nàng vừa đáp xuống đất, nàng đã gượng dậy được ngay, và toan xông đến, thì sau lưng nàng đã nghe tiếng cười lanh lảnh của Đỗ Duy Sinh :

    - Này cô bé! Cô còn tài nghệ gì nữa chăng?

    Nàng Phi Phụng ngạc nhiên, không ngờ lão đã lanh lẹ đến gần nàng mau đến thế! Lão nói chưa dứt, đã dùng bàn tay đánh tạt qua sau gáy nàng một cái, gió lộng vù vù.

    Tô Phi Phụng thuận theo đà ráng sức phóng tới để tránh. Tuy tránh được bàn tay ác nghiệt đó, song bị sức gió quét mạnh làm cho toàn thân nàng lảo đảo, sắp qụy xuống.

    Đỗ Duy Sinh cười ha hả, nhảy tới dùng hai ngón tay toan điểm vào huyệt “Phong Thủ” của nàng.

    Tô Phi Phụng vừa tránh hai đòn chưởng quá độc, sức nàng đã kiệt, mồ hôi toát ra như tắm, còn làm sao đối phó được nữa. Thấy hai ngón tay địch thủ xỉa tới, nàng đành cắn răng chịu trận.

    Giữa lúc nguy cấp, bỗng từ phía sau lưng Đỗ Duy Sinh phát ra hai luồng kình phong vun vút, đồng thời hai bóng người xuất hiện như hai bóng ma. Đỗ Duy Sinh thất kinh vội thu tay về nhảy sang một bên tránh khỏi, và định thần nhìn kỹ thì thấy hai cái bóng vừa xuất hiện là hai vị cao thủ ngoài năm mươi tuổi, mặc quần áo đen, lưng mang trường kiếm.

    Hai người này đúng là hai kẻ đã lừng danh trong giang hồ vậy. Một người là Hồng Kỳ phân cuộc của phái Thiên Long tên là Hồ Nam Bình. Một người là Hắc Kỳ phân cuộc cũng của phái Thiên Long tên Cư Nguyên Phát.

    Hồ Nam Bình bước tới đỡ Tô Phi Phụng, trong lúc đó Cư Nguyên Phát nhìn chòng chọc vào mặt Đỗ Duy Sinh, cười lạt, nói :

    - Danh dự thay! Một vị Chưởng môn phái tổ sư mà lại dùng độc thủ đối phó với một cô gái nhỏ yếu như vậy ư? Cái danh hiệu Bát Cánh Thần Ôn của ngươi còn mặt mũi nào xưng hùng trong thiên hạ nữa.

    Đỗ Duy Sinh vừa giận, vừa thẹn, nói :

    - Con nhỏ này ngang tàng và ngạo nghễ, lẽ ra ta phải trừng phạt nặng nề. Tuy nhiên, vì thấy hắn bé người nhỏ tuổi, nên ta chỉ dùng một tay đánh nó mà thôi. Nếu ta cố sát thì hắn đã tan xương rồi. Hiện có Trần lão huynh đây làm chứng. Các người đừng có hồ đồ, ta há sợ các ngươi sao?

    Cư Nguyên Phát lạnh lùng nói :

    - Cần gì phải tranh luận! Chúng mình không ai sợ ai cả. Thiên Long bang cuộc trước sau rồi cũng phải đánh với các Chưởng môn của các phái mà họ đã tự xưng là bậc cao thủ võ lâm.

    Dứt lời, Cư Nguyên Phát ngửa mặt lên trời cười ha hả, trông rất ngạo nghễ.

    Hồ Nam Bình đỡ Phi Phụng dậy, dìu đi mấy bước, rồi hỏi nhỏ :

    - Cô nương thử vận khí xem có bị nội thương chăng?

    Phi Phụng thở mạnh vài hơi, rồi lắc đầu nói :

    - Không sao! Chỉ mệt sơ sài thôi.

    Bây giờ Hồ Nam Bình mới an tâm quay lại nhìn Đỗ Duy Sinh và Cư Nguyên Phát thì thấy hai người này vẫn đứng yên. Tuy nhiên, trên nét mặt hai người đều đỏ ngầu, chứng tỏ họ đang vận nội lực để chống đối nhau.

    Hồ Nam Bình biết Cư Nguyên Phát là tay nóng nảy, Đỗ Duy Sinh cũng chẳng phải vừa, nếu đã đánh nhau tất đi đến chỗ một chết một sống, không ai còn nhường ai. Vả lại, trong lúc tình thế đang khẩn thiết này mà không lo truy tầm “Tạng Chánh đồ”, lại đánh nhau với người khác thì vô ích quá.

    Bởi vậy Hồ Nam Bình bước đến, đứng giữa hai người, nói lớn :

    - Hãy khoan! Qúy vị nghe tôi nói một lời đã.

    Hai người đang dồn sức, sắp đánh nhau, nghe nói đều thu hồi nội lực, trố mắt nhìn Hồ Nam Bình.

    Hồ Nam Bình nói với Cư Nguyên Phát :

    - Đỗ Duy Sinh tuy đánh với Tô Phi Phụng, nhưng lão huynh cũng không biết nàng là ái nữ của Thiên Long bang chủ của chúng mình. May mà cô nương không bị thương tích gì. Như thế chúng ta không nên làm mất hòa khí trong lúc chưa cần thiết.

    Nói đến đây, Hồ Nam Bình ngửa mặt lên trời cười lanh lảnh. Đoạn quay qua Đỗ Duy Sinh, nói tiếp :

    - “Đàn Chỉ Kim Hoàn” tuyệt kỹ của Đỗ lão huynh đã vang danh trong chốn giang hồ, chúng tôi rất hâm mộ, mong được dịp lãnh giáo. Song Tô bang chủ của chúng tôi sắp có cuộc mời các cao thủ trong chín phái võ lâm đến hop mặt để so tài luận kiếm, ngày ấy chắc cũng không xa, chúng tôi sẽ được dịp hầu lão huynh sau này. Hôm nay, xin lão huynh vui lòng bỏ qua cuộc đấu này cho.

    Đỗ Duy Sinh cầm cậy gậy trúc đưa lên trước mặt cười hăng hắc, nói :

    - Qúy Bang chủ đã có hùng tâm như vậy thì còn gì hơn nữa. Ta tuy bất tài, song lấy danh nghĩa phái Hoa Sơn, ngày ấy cũng xin góp mặt để chia vui với các môn hữu vậy. Còn việc hôm nay chỉ vì ta không rõ cô nương đây là ái nữ của quý Bang chủ. Lúc nào gặp mặt Tô Bằng Hải ta sẽ có lời xin lỗi sau.

    Vừa nói dứt lời, Đỗ Duy Sinh lắc mình một cái, dùng thuật khinh công biến mất trong đêm tối.

    Hồ Nam Bình lại quay sang Trần Hổ nói :

    - A! Còn Trần Hổ lão huynh! Đã mấy lần Bang chủ chúng tôi cho người đi triệu thỉnh Trần lão huynh, nhưng mấy lần đều không gặp mặt. Đêm nay lão huynh lại xuất hiện nơi đây cho chúng tôi được thấy mặt thật là may mắn.Trần Hổ mỉm cười nói :

    - Phải! Qúy Bang chủ lâu nay có nhã ý mời ta nhập vào phái Thiên Long, điều đó không khó gì! Nhưng muốn được vậy, lão phu này phải được dịp chiêm ngưỡng công lực của quý Bang chủ đã. Qúy Bang chủ liệu có thể thắng nổi ta không mà buộc ta vào môn phái?

    Cư Nguyên Phát nổi giận, nói :

    - Ngươi đừng phách lối! Dẫu ngươi có luyện thêm năm mười năm nữa cũng chưa chắc đã dám đấu với Bang chủ Thiên Long trong mười hiệp.

    Trần Hổ cười ha hả, nói :

    - Được! Trong nửa năm nữa. Xà Tào Trần Hổ này sẽ có dịp đến lãnh giáo vị Bang chủ của các ngươi. Giờ đây ta bận thì giờ không thể đứng đây đấu miệng với các ngươi được. Thôi! Xin chào!

    Dứt lời, Trần Hổ cũng quay người biết mất dạng.

    Hồ Nam Bình hỏi Tô Phi Phụng :

    - Cô nương đã gặp được đệ tử của Huyền Thanh đạo nhân chưa?

    Vô Hình hiệp nữ Tô Phi Phụng suy nghĩ một lúc rồi đáp :

    - Tôi đã được gặp một lần, nhưng chận lại không được, bị nó thoát chạy mất.

    Huyền Thanh đạo nhân hiện còn ở nơi Tam Thanh quan không?

    Cư Nguyên Phát lắc đầu đáp :

    - Lão lỗ mũi trâu đó đã bỏ Tam Thanh quan đi nơi khác rồi! Nhưng vì đâu cô nương lại đánh với lão Bát Cánh Thần Ôn?

    Tô Phi Phụng vốn biết trong “Ngũ kỳ bang cuộc” có Hồng Kỳ phân cuộc Hồ Nam Bình đa mưu túc trí, nhưng tánh tình rất nham hiểm, còn Hắc Kỳ phân cuộc Cư Nguyên Phát thì lại nóng nảy, ác độc, nếu nàng kể lại chuyện Mã Quân Vũ cho hai người này biết thì Mã Quân Vũ sẽ phải lâm nguy.

    Tuy nhiên, nếu không nói cho họ biết để lo liệu thì làm sao đoạt được tấm “Tạng Chánh đồ”, cái mà cha nàng đã mong muốn từ bấy lâu nay. Lòng Tô Phi Phụng bối rối cả hai bên, không biết nói sao cho khỏi ân hận.

    Qua một lúc suy nghĩ, nàng chậm rãi đáp :

    - Tôi vừa đón nơi eo Đông Mao Lãnh gặp được chúng nó. Kiếm pháp của phái Côn Luân thật độc đáo. Tôi đánh không lại nên nó thoát được và chạy trên nẻo đường này. Tôi đuổi theo đến đây lại gặp hai lão Xà Tào và Bát Cánh Thần Ôn đang đấu nhau. Nội lực hai lão già ấy rất thâm hậu. Tôi đứng lại xem, chẳng ngờ Bát Cánh Thần Ôn nghi tôi là đồ đệ của phái Côn Luân nên đón đánh.

    Hồ Nam Bình nghe xong, quay sang nói với Cư Nguyên Phát :

    - Theo tôi nghĩ, Huyền Thanh đạo nhân thế nào cũng tìm đến Quát Thương sơn rồi. Nếu lão đã tìm được quyển “Quy Nguyên mật tập” thì chúng ta có bắt được đệ tử của lão, lão cũng không chịu đem “Mật tập” ra chuộc mạng đệ tử lão đâu. Tốt hơn chúng ta trở về thưa với Tổng biên đầu đem hết các cao thủ trong Ngũ kỳ đuổi đến Quát Thương sơn, đánh với Huyền Thanh đạo nhân đoạt lại “Tạng Chánh đồ” mới kịp.

    Tô Phi Phụng đắc ý cười lớn, xen vào :

    - Hồ lão nói phải lắm. Thế thì hai ông trở về bàn với phụ thân tôi cho gấp. Nếu chậm trễ “Tạng Chánh đồ” sẽ lọt vào tay người khác mất.

    Cư Nguyên Phát gật đầu nói :

    - Nếu vậy, cô nương cùng đi với chúng tôi cho tiện. Hiện giờ khắp Tương Bắc có rất nhiều cao thủ các phái đang theo đuổi bọn đồ đệ Côn Luân. Cô nương không khéo bị chúng gậy sự, và phỏng có bề nào chúng tôi không khỏi bị Tổng biên đầu khiển trách.

    Tô Phi Phụng mỉm cười nói :

    - Tôi không sợ chúng nó đâu! Các ông cứ trở về gặp phụ thân tôi mà bàn việc.

    Tôi gởi lời thưa với phụ thân tôi, độ nửa tháng nữa tôi sẽ trở về.

    Nói xong, không chờ hai người kia đáp lời, nàng tung mình nhảy tới, lượm cây trường kiếm mà lúc nãy Đỗ Duy Sinh đã đánh rơi, đeo vào lưng rồi phi thân biến mất như một làn khói.

    Hồ Nam Bình và Cư Nguyên Phát biết nàng được Tô Bằng Hải nuông chiều từ nhỏ, tánh tình ngang bướng đã quen, dẫu có nói gì nữa cũng vô ích, nên cả hai dắt nhau trở lại Động Đình hồ.

    Nhắc lại Mã Quân Vũ và Lý Thanh Loan nắm tay nhau vượt khỏi khu rừng rậm, rồi dùng thuật khinh thân chạy hơn hai mươi dặm đường mới dám dừng lại, đi chậm rãi để nghỉ hơi.

    Mã Quân Vũ nghĩ đến nguy hiểm vừa qua, giật mình hỏi Thanh Loan :

    - Lúc này tôi mải mê xem hai ông già đó giao đấu, sao sư muội không nhắc tôi chạy trốn?

    Thanh Loan thực thà đáp :

    - Sư huynh đang xem người ta đánh nhau tôi sợ bỏ đi sư huynh không vui chăng? Vì vậy tôi cũng đứng đó xem luôn.

    Mã Quân Vũ cười ha hả, nói :

    - Tôi chỉ thích xem về chiến thuật của họ, chứ đâu phải thích xem họ đánh lộn.

    Thanh Loan cũng cười và phụ họa :

    - Ừ! Hai người đó võ công tuyệt diệu. Họ đánh nhiều chiêu thuật tôi xem không hiểu gì cả.

    Dứt lời, nàng như sực nhớ lại điều gì, nhìn Quân Vũ nói :

    - Vũ ca! Em có điều này muốn hỏi, nhưng lại sợ không đúng làm cho anh cười em nữa chăng?

    Quân Vũ nhìn thấy vẻ mặt vừa thật thà, vừa ngây ngô của Thanh Loan đem lòng thương hại. Chàng nắm lấy vai Thanh Loan, bảo :

    - Em cứ nói, đừng sợ gì cả!

    Thanh Loan hỏi :

    - Cô nương lúc nãy không phải tìm chúng mình để đánh sao? Vì đâu nàng lại đứng bên anh và thân mật như một người bạn của chúng mình vậy?

    Mã Quân Vũ thở dài nói :

    - Đêm nay nếu không nhờ nàng giúp đỡ thì chúng mình không thoát khỏi tay hai lão già đó đâu.

    Thanh Loan nhướng mày nói :

    - Cô gái áo đen đó có lòng tốt quá nhỉ!

    Câu nói nàng rất tự nhiên, và thành thực, không tỏ một ý gì thắc mắc ghen hờn, khiến cho Quân Vũ cảm động nhìn nàng nói :

    - Em cũng rất tốt! Và còn tốt hơn cô gái áo đen đó nữa.

    Thanh Loan không hiểu nàng tốt ở điểm nào, nhưng được Quân Vũ khen, nàng quá sung sướng, mặt tươi như hoa, phi thân chạy vượt tới đàng trước như một con ngựa điên.

    Nàng chạy quá mau, và không để ý đến trước mặt, thỉnh thoảng quay nhìn Quân Vũ, nên suýt chạm vào một khách qua đường.

    Nàng vừa thoáng thấy một bóng người đi ngược lại, thất kinh, vội hãm mình lại, nhưng không còn kịp nữa, bóng người kia đã đưa tay nắm vào cánh tay nàng.

    Tuy sơ ý, nhưng nàng cho người kia có cử chỉ bất nhã, nên nàng nổi giận, vung tay mặt đánh tới một quyền vào giữa ngực người khách qua đường ấy.

    Người khách qua đường lại là một đạo cô, tuổi quá hai mươi, tóc đen lay láy, môi thắm tợ sen, mắt trong như ngọc, tuy là một kẻ xuất gia tu hành nhưng sắc đẹp lộng lẫy ít kẻ bì.

    Đạo cô thấy Thanh Loan xuất thế rất nhanh, liền vung tay trái điểm vào huyệt “Khúc Trì” của nàng.

    Ngón quyền của Thanh Loan vừa đánh ra chỉ để dọa đạo cô buông tay mà thôi, chứ không cố ý đánh thật, giờ lại thấy đạo cô dùng một độc chiêu điểm huyệt, nên nàng tức giận nhảy lùi ra xa hơn bảy thước, rồi rút kiếm quét vào đối thủ, đâm chém vun vút.

    Vị tiểu đạo cô tuy có thân hình uyển chuyển, lanh lẹ phi thường, song thấy Thanh Loan xuất chiêu rất tinh diệu, không dám khinh khi, vội quàng tay ra sau lưng rút trường kiếm kháng cự.

    Thế là chỉ trong nháy mắt, hai bên đã trao đổi nhau bảy tám chiêu cực ác.

    Nhưng có điều kỳ lạ là chiêu thức hai người đều giống nhau. Hai bên đều dùng tư thế trong “Phân Quang kiếm pháp” cả.

    Tiểu đạo cô muốn dừng tay để hỏi đối thủ là ai, nhưng Thanh Loan múa kiếm vèo vèo, đánh rất nhanh, làm cho đạo cô không sao dừng tay được.

    Hai người đấu thêm được mấy chiêu nữa thì Mã Quân Vũ đã chạy đến. Chàng thấy Thanh Loan hăng say chiến đấu, đinh ninh là nàng đã gặp phải các tay cao thủ chận đường, liền xông vào trợ chiến, không hề để ý xem địch thủ là ai và thuộc môn phái nào. Chàng cốt làm sao giải thoát để trốn đi mà thôi.

    Lưỡi kiếm chàng chém tới rất nhanh, tung một lúc hai chiêu lợi hại trong “Truy Vân kiếm pháp” dùng thế “Thạch Phá Thiên Kinh” và “Triền Tràn Nam Hải”.

    Tiểu đạo cô trẻ đẹp đó đâu phải là đối thủ của chàng, làm sao chịu nổi hai thế kiếm tinh kỳ của phái Côn Luân được. Nàng bị đẩy lui hơn bảy thước. Đó là Mã Quân Vũ nương tay, nếu không cây trường kiếm của tiểu đạo cô đã phải rơi mất rồi.

    Thừa dịp ấy, Quân Vũ kéo tay Thanh Loan bỏ chạy.

    Hai người chạy chưa đầy năm sáu trượng, bỗng trước mặt lại hiện một vị trung niên đạo cô, thân hình nhẹ như gió, chập chùng lướt tới.

    Đạo cô đó tuy lớn tuổi, song sắc đẹp chưa phai nhòa với thời gian, tay cầm phất trần, lưng đeo trường kiếm, vẻ mặt đạo mạo uy nghi, đưa tay cản Thanh Loan và Quân Vũ lại.

    Mã Quân Vũ sợ hãi, mong thoát nạn nên không chậm trễ phút nào tung trường kiếm dùng thế “Yến Bạch Đàn Hồi” phất ngang qua một nhát.

    Trung niên đạo cô thấy Quân Vũ vừa ra tay đã xuất độc chiêu, nổi giận đưa phất trần đánh tiếp một lúc ba chiêu, tiếng gió vun vút.

    Chiếc phất trần trong tay đạo cô ai cũng tưởng mềm yếu, nhưng thực ra có một uy lực rợn người. Luồng gió tạt tới đánh bạt mũi kiếm của Quân Vũ...

    Trung niên đạo cô nghiêm mặt hỏi :

    - Ngươi ở trong môn phái nào? Ai truyền dạy cho ngươi “Truy Vân thập nhị kiếm pháp” đó.

    Mã Quân Vũ thấy trung niên đạo cô võ công trác tuyệt, lại biết được môn tuyệt học của phái Côn Luân, thất kinh thu kiếm về, không dám đánh nữa, lễ phép nói :

    - Vãn bối là đệ tử của Huyền Thanh đạo nhân, môn hạ của phái Côn Luân. Trưởng đạo cô là ai mà lại nhìn ra được kiếm pháp của vãn bối?

    Trung niên đạo cô chưa kịp đáp thì tiểu đạo cô trẻ đẹp vừa đánh với Thanh Loan lúc nãy đã chạy đến nói lớn :

    - Nếu là đệ tử của đại sư bá sao gặp tam sư thúc không chịu bái kiến?

    Mã Quân Vũ còn do dự, thì trung niên đạo cô ung dung nói :

    - Ta là Ngọc Chánh Tử! Sư phụ của ngươi đã nói cho ngươi nghe chưa?

    Mã Quân Vũ nghe đến ba tiếng “Ngọc Chánh Tử” vội vã bỏ kiếm, quỳ mọp xuống đất bái lạy và thưa :

    - Gặp tam sư thúc mà đệ tử không biết, tội rất nặng, xin tam sư thúc tha thứ.

    Ngọc Chánh Tử bảo Quân Vũ đứng dậy, và hỏi :

    - Ngươi đi đâu vậy?

    Quân Vũ đáp :

    - Đệ tử phụng mệnh sự phụ đến Côn Luân một là để vấn an hai vị sư thúc, hai là trình lên hai vị sư thúc bức mật thư. Không ngờ đến đây lại gặp tam sư thúc rồi!

    Ngọc Chánh Tử nhìn Mã Quân Vũ một lúc lâu rồi mỉm cười nói :

    - Ta không ngờ đại sư huynh lại truyền dạy môn “Truy Vân thập nhị kiếm” cho con sớm như thế! Còn cô nương mặc áo đỏ này là ai? Có phải cũng là môn hạ Côn Luân phái không?

    Mã Quân Vũ vội kéo Thanh Loan sụp lạy, rồi lấy hai phong thư đưa cho Ngọc Chánh Tử và nói tiếp :

    - Sư phụ có đưa cho đệ tử hai phong thư này để diện trình hai vị sư thúc. Có lẽ công việc đã dặn rõ trong thư, xin tam sư phụ xem qua sẽ rõ.

    Ngọc Chánh Tử tiếp lấy thư tín, mở ra xem, thấy đúng là bút tích của Huyền Thanh đạo nhân, bất giác bà hồi tưởng đến việc ba mươi năm về trước.

    Lúc đó, Ngọc Chánh Tử hãy còn là một thiếu nữ nhỏ tuổi, mắc vào cuộc tình ái giữa hai sư huynh, khó bề lựa chọn.

    Sau khi sư phụ bà đã quy tiên, đúng lý ra thì đại sư huynh Huyền Thanh phải thừa kế chưởng môn, nhưng Huyền Thanh thấy rõ nhị sư đệ với tam sư muội đã mang một mối tình quá thắm thiết, không thể nào gỡ ra được nữa, e rằng nếu ông còn cáng đáng sẽ làm tổn thương đến tình sư môn. Bởi vậy, ông viết thư để lại nhường cho sư đệ Thông Linh đạo nhân thừa kế Chưởng môn, còn ông thì bỏ đi vân du đây đó suốt năm năm trường.

    Trong thời gian đó, Thông Linh va Ngọc Chánh Tử đã dắt nhau đi tìm kiếm khắp chân trời góc bể, nhưng không thấy bóng Huyền Thanh đâu cả.

    Thông Linh không còn biết sao hơn, dành thể theo lời dạy trong bức thư của Huyền Thanh lưu lại, làm lễ trước di tượng của tổ sư rồi tiếp nhận chức Chưởng môn.

    Chẳng ngờ Thông Linh vừa nhận chức được hai năm, thì Huyền Thanh trở về Côn Luân thăm viếng.

    Thông Linh định trả lại chức Chưởng môn lại cho Huyền Thanh, nhưng Huyền Thanh từ chối nói :

    - Sư đệ đã cử hành trọng lễ trước di tượng tổ sư, nhận chức Chưởng môn rồi, không thể nào thay đổi được nữa. Vả lại tôi tìm về đây là cố ý thăm Chưởng môn sư đệ thôi. Hiện nay tôi đã tìm được một chỗ để tu hành rồi. Dẫu tôi làm Chưởng môn hay sư đệ làm Chưởng môn cũng thế thôi. Cốt sao cho uy danh của môn phái Côn Luân không sút kém với đời là được.

    Huyền Thanh chỉ lưu lại nơi Côn Luân sơn một tuần lễ, rồi đến Tam Thanh quan viện nơi Tương Bắc mà ở, ít có dịp trở lại Côn Luân sơn nữa.

    Dụng ý của Huyền Thanh là đợi cho cuộc tình ái của Thông Linh và Ngọc Chánh Tử đi đến chỗ mỹ mãn, hai bên họp tịch đồng tu, rồi sẽ trở về Côn Luân sơn sống chung với sư đệ và sư muội.

    Song Thông Linh và Ngọc Chánh Tử đều hiểu rõ sự hy sinh vô bờ bến và vô cùng cao cả của vi đại sư huynh đối với hai người, cho nên từ đó, cả hai không ai còn nhắc đến chuyện tình ái nữa.

    Vả lại, lòng Ngọc Chánh Tử đã gửi vào vị sư đại huynh đã lâu, song thấy nhị sư huynh quá nặng lòng với đối với mình mà Huyền Thanh cũng không muốn cho nhị sư đệ phải đau khổ tuyệt vọng, cho nên mối tình vị diệu thiêng liêng cứ lơ lửng như thế kéo dài mãi cho đến mấy chục năm.

    Sự tình đó dĩ nhiên đã trở thành chuyện quá khứ, song kỷ niệm vẫn ấp ủ trong thâm tâm giữa ba người, mà không một ai dám thố lộ ra cả.

    Ngọc Chánh Tử xem thư xong đứng ngẩn người ra một lúc, quên cả Mã Quân Vũ và Thanh Loan đang quỳ gối đợi lệnh.

    Lâm Ngọc Bích, người đạo cô trẻ đẹp vừa giao đấu với Thanh Loan lúc nãy vốn là đồ đệ của Ngọc Chánh Tử, thấy thế vội bước đến thưa :

    - Thưa sư phụ! Xin sư phụ dạy cho hai người lẽ nào.

    Ngọc Chánh Tử giật mình như tỉnh mộng đưa mắt nhìn Thanh Loan hỏi :

    - Tên con là Lý Thanh Loan ư?Thanh Loan cúi đầu đáp phải. Ngọc Chánh Tử nghiêm mặt hỏi tiếp :

    - Con muốn nhập môn đệ của phái Côn Luân chăng?

    Mã Quân Vũ liền nắm tay Thanh Loan nói nhỏ :

    - Mau làm lễ ra mắt sư phụ.

    Thanh Loan nhanh nhẩu dập đầu lạy chín lạy, và nói :

    - Loan nhi xin bái kiến sư phụ.

    Ngọc Chánh Tử bước tới đỡ hai người dậy, và quay qua chỉ Ngọc Bích nói với Thanh Loan :

    - Đây là sư tỷ của con.

    Thanh Loan quay mình vái chào sư tỷ, rồi cả Mã Quân Vũ và Ngọc Bích cũng đồng làm lễ tương kiến.

    Ngọc Chánh Tử đang lo lắng trong lòng, vì các yếu quyết trong bức thư mà bà vừa xem.

    Trong thư, Huyền Thanh có nói việc “Tạng Chánh đồ” và cho biết hiện nay ông cùng Ngô Không đại sư đã đến Quát Thương sơn tìm “Quy Nguyên mật tập” rồi.

    Trong thư Huyền Thanh đạo nhân lại dặn để cho Mã Quân Vũ và Lý Thanh Loan được trú nơi Côn Luân sơn. Lúc nào ông tìm được “Quy Nguyên mật tập” sẽ trở về, dặn Ngọc Chánh Tử và Thông Linh không nên đến Quát Thương sơn làm gì.

    Thật ra, lúc viết thư này, Huyền Thanh không ngờ Ngọc Chánh Tử lại đi Tương Bắc để tìm ông.

    Sau một lúc trầm tư, Ngọc Chánh Tử bảo Quân Vũ :

    - Đúng là sư phụ con đã được “Tạng Chánh đồ” và đã đi Quát Thương sơn rồi. Mấy hôm nay ta có nghe phong thanh nhiều người nói tới việc này, ta vẫn hồ nghi, e người đồn không thực. Giờ đây xem thư, ta mới biết việc đó đích xác. Nếu không gặp các con nơi đây có lẽ ta phải đến Tam Thanh quan.

    Ngừng một lúc, Ngọc Chánh Tử lại nói tiếp :

    - Cứ theo như ý trong thư của sư phụ con thì con và Thanh Loan phải đến trú ngụ nơi Côn Luân sơn. Song hiện giờ tình thế lại khác hẳn. Sư phụ con đâu biết ta đến Tương Bắc. Mà từ đây đến Côn Luân sơn đường xa muôn dặm. “Tạng Chánh đồ” lại bị tiết lộ, các con tuy cũng đã học qua mười mấy năm võ công, song kinh nghiệm chiến đấu còn non nớt, để các con đi một mình đến Côn Luân sơn ta không thể nào yên tâm được. Chi bằng chúng ta cùng nhau đến Quát Thương sơn tìm gặp sư phụ con, và đồng thời có thể giúp sư phụ con một tay nữa.

    Mã Quân Vũ sực nhớ ra, liền đem mọi việc giữa đường, gặp những tay cao thủ các môn phái cản trở thế nào nói lại cho Ngọc Chánh Tử rõ.

    Ngọc Chánh Tử nghe xong cau mày :

    - Tất cả những nhân vật đó đều là những kẻ thành danh trong giang hồ, tiếng tăm vang dội đó đây, mà mục đích của họ là đón đường con cũng đều nhắm vào bức “Tạng Chánh đồ”. Trước khi họ chưa giành được tấm “Tạng Chánh đồ” vào tay, bọn họ có thể dùng bất cứ thủ đoạn tàn ác để hãm hại sư phụ con. Vậy trước tình thế quan trọng này chúng ta phải khởi hành đi Quát Thương sơn ngay mới kịp.

    Ngọc Chánh Tử vừa nói đến đây thốt nhiên ngưng bặt, và trố mắt nhìn về phía một cây cổ thụ cách đó chừng ba trượng, rồi cất tiếng hỏi :

    - Vị cao nhân nào giá lâm mà lại ẩn núp trên cây, chẳng lẽ cho Ngọc Chánh Tử này không xứng đáng nghênh tiếp hay sao?

    Lời nói chưa dứt, trên cây cổ thụ đã phát ra một tràng cười lanh lảnh, rồi một cái bóng đen từ trên cao phi thân xuống, tiến đến trước mặt Ngọc Chánh Tử, và tự giới thiệu :

    - Lão chủ Đỗ Duy Sinh này là kẻ quê mùa nơi sơn dã, đâu dám nhận là cao nhân, ngang hàng với Côn Luân tam tử được.

    Mã Quân Vũ thấy Bát Cánh Thần Ôn xuất hiện, e có điều chẳng lành nên cầm trường kiếm lăm le phòng bị. Nhưng Ngọc Chánh Tử thản nhiên mỉm cười nói :

    - Thế ra vị Chưởng môn của phái Hoa Sơn giá lâm mà bần đạo sơ xuất, xin thứ lỗi cho.

    Đỗ Duy Sinh cười ha hả nói :

    - Không dám! không dám! Côn Luân tam tử quả tiếng đồn chẳng ngoa. Nhưng tại hạ còn có hai người bạn đồng hành nữa, chẳng dám đứng đây nói chuyện lâu một mình.

    Ngọc Chánh Tử tiếp lời :

    - Thế thì mời cả các vị xuống đây, chúng ta cùng đàm đạo.

    Vừa dứt lời thì hai bóng người đã từ ngoài năm trượng, phi thân xuống. Xem lối phục sức thì một người là đạo sĩ tuổi ngoại ngũ tuần, còn một người là nho sinh tuổi quá ba mươi.

    Bát Cánh Thần Ôn mỉm cười giới thiệu :

    - Hai vị này là lão nhị và lão tam trong Điểm Thương tam nhạn, thanh danh đã lừng lẫy khắp Vân Nam và Qúy Châu.

    Đoạn, lão lại quay qua Ngọc Chánh Tử nói với hai người kia :

    - Còn vị này là Ngọc Chánh Tử, một trong Côn Luân tam tử.

    Ngọc Chánh Tử tiếp lời :

    - Chúng tôi vẫn ngưỡng mộ đại danh “Tam nhạn” từ lâu, hôm nay được hội kiến hai vị, bần đạo lấy làm hân hạnh.

    Chàng nho sinh khoanh tay đáp :

    - Côn Luân tam tử đã lừng danh trong giang hồ về “Thiên Cang chưởng” và “Phân Quang kiếm pháp”. Anh em chúng tôi may mắn mới được hội ngộ trên đất Tương Bắc này.

    Nói dứt lời, chàng nho sinh đưa tay lên xá một cái, một luồng chưởng lực đánh thẳng vào ngực Ngọc Chánh Tử.

    Ngọc Chánh Tử vẫy chiếc phất trần, tay trái dựng trước ngực, mỉm cười đáp :

    - Các vị quá khen, bần đạo đâu dám nhận.

    Cái vẫy tay của Ngọc Chánh Tử tuy là nhẹ nhàng, song nội lực phát ra rất mạnh, đón làn chưởng phong của đối phương, phát ra một tiếng “bùng”.

    Trong lúc vạt áo đạo cô bay phơi phới thì toàn thân chàng nho sinh cũng bủn rủn.

    Đỗ Duy Sinh thấy hai bên chào nhau một cách ác liệt mỉm cười nói lớn :

    - Hai vị đều là khách khí cả! Thôi, tôi xin cáo biệt và sẽ gặp nhau trên núi Quát Thương sơn.

    Nói xong, lão phất tay áo một cái, một làn kình lực xuyên qua giữa hai người như có ý can ngăn vậy. Loáng mắt, bóng Đỗ Duy Sinh đã mất dạng.

    Chàng nho sinh nhìn theo gọi lớn :

    - Đỗ lão huynh, hãy chậm bước đợi chúng tôi đi với cho có bạn.

    Đoạn quay lại nói với Ngọc Chánh Tử :

    - Ngày tái ngộ sẽ gần đây! Anh em chúng tôi xin cáo biệt!

    Dứt lời, cùng với đạo nhân cất bước đuổi theo Đỗ Duy Sinh.

    Ba người đã đi khỏi, Ngọc Chánh Tử thở dài, tự trách :

    - Ta vô ý nói mấy câu chẳng khác nào chỉ vẽ đường lối cho chúng theo dõi đại sư huynh.

    Ngọc Chánh Tử lại cúi đầu, bảo Quân Vũ :

    - Chúng ta phải mau mau lên đường gấp.

    Quát Thương sơn ở về phía Đông Nam tỉnh Triết Giang cách Tương Bắc hơn mấy ngàn dặm. Ngọc Chánh Tử vì quan tâm đến an nguy của đại sư huynh nên mải miết cuộc hành trình bất kể ngày đêm.

    Nhờ Ngọc Chánh Tử là người bôn tẩu giang hồ đã lâu, lịch duyệt có nhiều, nên lúc đi dọc đường Quân Vũ và Thanh Loan không còn phải bận tâm như trước nữa.

    Tuy nhiên, Thanh Loan mới đi xa lần đầu, chỗ nào cũng cảm thấy mới lạ, đáng tiếc là mọi người đều mải miết đi mau, không được thong thả để thưởng ngoạn dọc đường.

    * * * * *

    Đi được hai mươi ngày thì đã đến địa phận Tiên Cư, thuộc tỉnh Triết Giang.

    Đây tuy không phải là nơi phồn hoa đô hội song cũng có đủ khách sạn và tửu điếm.

    Ngọc Chánh Tử dẫn bọn Mã Quân Vũ vào một khách sạn lớn nhất, thuê ba phòng trên lầu. Ngọc Chánh Tử và Mã Quân Vũ mỗi người nghỉ riêng một phòng, còn Thanh Loan và Ngọc Bích hai người nghỉ chung một phòng.

    Sau khi cơm nước xong, Ngọc Chánh Tử bảo ba người :

    - Sáng mai chúng ta phải lên núi sớm, Quát Thương sơn liên miên hàng ngàn dặm, non cao vực thẳm, hiểm trở vô cùng, muốn tìm người không phải là dễ, chưa biết phải đi trên núi bao nhiêu lâu, vậy các con đêm nay phải nghỉ sớm để dưỡng sức.

    Dặn dò xong, Ngọc Chánh Tử nhắm mắt ngồi tĩnh tọa. Bọn Quân Vũ ai về phòng nấy.

    Trong thời gian đi đường, lúc nào Thanh Loan cũng dính liền với Ngọc Bích.

    Hai người rất thân mật. Thanh Loan thực thà ngây thơ nên chuyện gì cũng nói với Ngọc Bích cả.

    Đêm nay vào khách sạn, Ngọc Bích và Thanh Loan được nghỉ chung một phòng, nên đôi bạn gái ấy rất cảm khoái. Hai người ngồi đốt đèn, đối diện nhau.

    Thanh Loan hỏi Ngọc Bích :

    - Sư tỷ, tôi gia nhập vào phái Côn Luân rồi, sau này có phải ăn mặc đạo cô giống sư tỷ không?

    Ngọc Bích đáp :

    - Cái đó cũng không nhất định. Tùy ở mình có ưng ý hay không. Có điều môn hạ phái Côn Luân phần nhiều là trang phục theo lối đạo gia.

    Thanh Loan thở dài, nói :

    - Tôi vốn dĩ cũng muốn xuất gia, có điều mặc theo lối đạo cô thì không gần gũi Vũ ca mãi được. Sau này nếu sư phụ có buộc tôi phải ăn mặc theo lối đạo cô thì nhờ sư tỷ thưa giùm cho tôi nhé Ngọc Bích thấy Thanh Loan chân thật mỉm cười đáp :

    - Tôi sẽ giúp Loan muội việc đó. Nhưng sư phụ không bắt Loan muội xuất gia đâu.

    Thanh Loan nhoẻn cười, gật đầu nói :

    - Vũ ca là người rất tốt! Tỷ tỷ có mến anh ấy chăng?

    Câu hỏi của Thanh Loan làm cho Ngọc Bích thẹn đỏ mặt. Nhưng nàng đã biết Thanh Loan vốn từ nhỏ sống với một vị thầy tu, chưa hề tiếp xúc với đời, nên tâm hồn trong trắng, nghĩ sao nói vậy, nếu có trách mắng nàng cũng chẳng hiểu gì. Do đó, Ngọc Bích cũng chỉ nhoẻn miệng cười, nói :

    - Vũ ca của Loan muội tốt thực! Nhưng nếu chàng lại tốt với những thiếu nữ khác thì Loan muội có thấy khó chịu không?

    Nghe Ngọc Bích hỏi Thanh Loan ngồi ngẩn người ra, suy nghĩ một chút rồi đáp :

    - Chỉ cần anh ấy tốt với tôi là tôi vui thích rồi. Trừ khi anh ấy ghét tôi, không thích tôi nữa thì tôi mới khó chịu, hoặc có thể không còn muốn sống nữa mà thôi. Nhưng này tỷ tỷ, anh ấy có thể đổi lòng, không thương tôi nữa không?

    Thấy Thanh Loan quá thật thà và ngây ngô. Ngọc Bích tìm lời trêu chọc :

    - Cũng có thể, khi mà anh ấy mến một cô gái khác.

    Đôi mắt Thanh Loan tròn xoe, rướm lệ nhìn Ngọc Bích hỏi :

    - Thực thế sao sư tỷ?

    Ngọc Bích không ngờ câu nói đùa của nàng lại làm Thanh Loan đau lòng như vậy, hối hận nói :

    - Thôi, chúng ta ngủ đi. Vũ ca của Loan muội là người tốt lắm! Chẳng bao giờ đổi lòng đâu.

    Thanh Loan kéo tay áo lau nước mắt, và hình như lòng nàng có gì bâng khuâng không chịu nổi, ghé tai nói nhỏ với Ngọc Bích :

    - Sư tỷ ngủ đi! Tôi đi tìm Vũ ca hỏi thử xem sao!

    Ngọc Bích ngạc nhiên, nắm áo Thanh Loan giữ lại, nói :

    - Ấy chết! Sư muội định nói lại với chàng những câu mà tôi vừa nói sao?

    Thanh Loan lắc đầu :

    - Không, không! Tôi chỉ hỏi xem sau này anh ấy có đổi lòng hay không mà thôi.

    Dứt lời, nàng phóng mình chạy tuốt đến phòng Quân Vũ.

    Lúc đó Quân Vũ đang ngồi điều hòa khí lực, chợt thấy Thanh Loan đứng ngoài cửa sổ nhìn vào, dưới ánh đèn rọi sáng, trông nét mặt nàng ngây thơ và trong trắng như đóa hoa xuân, hai mắt long lanh ngấn lệ. Chàng vội vàng chạy ra mở cửa, và hỏi :

    - Sư muội chưa ngủ sao? Vì đâu lại khóc?

    Thanh Loan nhìn Quân Vũ hỏi :

    - Anh nói thực với tôi nhé! Sau này anh có thay lòng mà đối với tôi không tốt chăng?

    Mã Quân Vũ cau mày hỏi lại :

    - Tại sao sư muội lại nghĩ đến chuyện đó?

    Thanh Loan chớp chớp đôi mắt, trả lời :

    - Anh còn lạ gì tôi nữa! Tôi nghĩ sao thì hỏi anh vậy.

    Quân Vũ không muốn để Thanh Loan buồn lâu, ghé vào tai nàng nói nhỏ :

    - Thôi, về ngủ đi kẻo khuya rồi. Tôi chẳng bao giờ thay lòng đổi dạ, luôn luôn tốt với sư muội.

    Thanh Loan gật đầu, nét mặt lại vui vẻ hồn nhiên như cũ. Nàng xoay mình trở về phòng ngủ. Mã Quân Vũ nhìn theo bóng nàng thở dài một hơi, lòng lâng lâng niềm cảm mến.
     
  5. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,693
    Tiên Hạc Thần Kim
    Tác giả: Lý Liên Chi
    Chương 5: Thám hiểm trong thủy động

    Dịch:
    Nguồn: Sưu Tầm

    Sáng hôm sau, khi thức dậy, Ngọc Chánh Tử và ba người môn hạ đã chuẩn bị rất nhiều lương khô, rời khỏi huyện Tiên Cư bắt đầu lên núi.

    Ngọc Chánh Tử tuy giang hồ lịch duyệt, song đối với Quát Thương sơn chẳng khác nào một con thuyền nhỏ lạc vào giữa bể khơi.

    Nơi đây núi rừng liên tiếp, trùng trùng điệp điệp, hang sâu vực thẳm rất nhiều. Một bầu trời bao la chứa hàng trăm dặm núi non, như một cõi mênh mang vô tận.

    Đường núi càng đi càng khúc khuỷu gồ ghề, quanh co như ruột dê đi vun vút mãi lên. Lúc mới đầu còn thấy năm ba chú tiều phu hái củi ở sườn núi, về sau đi sâu vào thì tuyệt nhiên không thấy một bóng người nào nữa. Ngay trên con đường mòn chẳng thấy bóng ai qua lại.

    May nhờ bốn người đều giỏi về thuật khinh thân, nên sau khi nhận định về phương hướng, họ nắm những dây bìm bám lên cây mà đu người vượt đèo qua suối, thẳng hướng mà đi.

    Vượt được mười mấy ngọn núi thì mặt trời đã ngã về tây, Mã Quân Vũ, Lý Thanh Loan và Ngọc Bích đều thấm mệt, mồ hôi ướt áo, riêng có Ngọc Chánh Tử thì vẫn như thường, không thấy chút gì uể oải cả.

    Ngọc Chánh Tử để ba người ngồi nghỉ trên một tảng đá, đem lương khô ra ăn để dưỡng sức, còn bà một mình dùng thuật khinh công tuyệt đỉnh phi thân vút lên ngọn núi cao để xem xét địa thế.

    Ba người vừa ngồi ăn vừa ngắm cảnh vật chung quanh.

    Mã Quân Vũ đưa mắt nhìn xuống một khe sâu, bỗng chàng kêu lên một tiếng kinh ngạc. Thanh Loan và Ngọc Bích cũng đưa mắt nhìn theo về phía ấy, thì thấy một con mãng xà rất lớn, dài hơn hai trượng đang đánh với một con bạch hạc lớn bằng bốn lần con bạch hạc thường, mắt đỏ như lửa, lông trắng như tuyết.

    Con mãng xà mình đen như mực, vảy lóng lánh như sao, khúc đuôi quấn tròn như chiếc mâm, nửa thân trên dựng đứng thẳng lên trời.

    Cứ mỗi lần bạch hạc sa xuống là con mãng xà há mồm, le lưỡi đỏ choét phun hơi độc.

    Bạch hạc hình như rất sợ chất độc trong miệng mãng xà, nên tung cánh quạt mạnh cho hơi độc tỏa đi, rồi mới dám sa xuống mổ vào đầu mãng xà.

    Hai con vật đánh nhau đến hàng nửa giờ mà không con nào chịu thua con nào cả.

    Một lúc lâu, hơi độc trong miệng mãng xà phun ra mỗi lúc một nhạt dần. Và hình như nó biết không đủ sức cầm cự với bạch hạc, nên thừa lúc bạch hạc bay lên tránh hơi, nó lắc lắc chiếc đầu toan bỏ trốn.

    Song bạch hạc rất tinh, nhác thấy đầu mãng xà cúi xuống, tức khắc nó sà xuống đánh liền, buộc mãng xà phải vươn đầu lên để nghênh chiến, không thể trốn chạy được nữa.

    Đánh thêm một lúc nữa thì mãng xà đuối sức, nổi giận phùng hai cái mang rất lớn, há mồm le lưỡi, toàn thân lao vút như một mũi tên, nhắm phóng vào bạch hạc.

    Bạch hạc cũng trổ hết thần uy, dùng cánh đập mạnh, hai móng chân bấu chặt vào cổ mãng xà, khí thế rất mau lẹ, trong nháy mắt, bạch hạc đã nắm được cổ mãng xà xách bổng lên cao mấy trượng rồi buông ra.

    Mãng xà rơi xuống đấy chết tươi, không còn động đậy nữa. Ấy chính vì bạch hạc đã bấu trúng vào yếu huyệt “Thất Thốn” của mãng xà.

    Sau khi mãng xà bị chết, bạch hạc liền xà xuống lấy chân lật ngửa mãng xà ra, dùng mỏ mổ bụng moi lấy mật mà ăn.

    Ăn xong, bạch hạc lại đập cánh bay lượn mấy vòng kêu choe chóe.

    Bóng bạch hạc bay lên cao, làm rợp ánh nắng cả một vùng. Nó lượn quanh chỗ Quân Vũ mấy vòng rồi hướng về phía Đông bay mất.

    Thanh Loan ngửa mặt nhìn theo cho đến lúc không còn thấy bạch hạc nữa, nàng mới cất tiếng nói khẽ :

    - Con bạch hạc này to thực! Nếu cho mình cỡi thì có thể bay tít được đến mây xanh.

    Mã Quân Vũ và Ngọc Bích thì không nói gì cả, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.

    Mã Quân Vũ lén xem bạch hạc và mãng xà tranh đấu, nhận thấy những tư thế đánh đỡ của hai con vật này rất kỳ diệu, chàng mơ màng trong óc, phân định những cái hay cái dở mà bắt chước.

    Ngọc Bích thì cúi đầu ngắm cái xác con mãng xà nằm chết dưới khe thẳm. Nàng nhận thấy đây là loại hắc lân thiết giáp xà, một thứ rắn độc ghê gớm ít khi gặp thấy.

    Thứ rắn này không mấy khi có to lớn, thường thường chỉ dài độ hai ba thước. Còn con rắn này lại dài hơn hai trượng thì chắc nó đã sống trên hàng nghìn năm rồi.

    Nàng có nghe sư phụ nói về loại hắc lân thiết giáp xà, theo đó da của nó vô cùng quý báu, đao thương chém không đứt, người trong võ lâm xem tấm da của nó như là một châu bảo. Có điều thứ rắn này ít khi gặp được, mà có gặp cũng chỉ gặp loại nhỏ mà thôi, hơn nữa, nó là một thứ rắn độc vô kể, lại rất nhanh nhẹn, ai mà bị nó cắn phải thì không còn có cách gì chữa được, chỉ chốc lát là chết liền.

    Trong lúc mỗi người đang trầm tư mỗi ý nghĩ thì Thanh Loan thích thú nhất, với ý nghĩ cởi bạch hạc lên mây xanh, nên cất tiếng hỏi Quân Vũ :

    - Vũ ca! Anh có muốn cởi bạch hạc chăng?

    Quân Vũ đang mải mê nghĩ về bạch hạc, nghĩ đến tư thế của bạch hạc móc vào yếu huyệt “Thất Thốn” của mãng xà, nên không nghe câu hỏi của Thanh Loan.

    Thanh Loan thấy Quân Vũ không đáp, toan hỏi nữa, bỗng thấy chàng vung cao tay trái lên, tay phải đưa ngang rồi đánh vào nhau. Nàng không hiểu ra sao, vừa định đưa tay toan níu lấy Quân Vũ, thì một bàn tay ngọc đã đưa ra, nắm lấy tay nàng, khẽ bảo :

    - Đừng, đừng! Đừng làm rối hắn.

    Thanh Loan quay đầu lại đã thấy Ngọc Chánh Tử đứng bên cạnh tự lúc nào rồi.

    Nàng cất tiếng hỏi :

    - Sư phụ! Sư huynh con đang làm gì thế?

    Ngọc Chánh Tử mỉm cười đáp :

    - Hắn đang luyện võ! Sư huynh con tư chất thông minh! Không trách đại sư bá của con đem “Truy Vân thập nhị kiếm” dạy cho hắn! Người Chưởng môn sau này ngoài hắn ra không còn ai hơn được. Tương lai của phái Côn Luân hy vọng ở hắn mà hưng thịnh, và vang danh chốn giang hồ.

    Thanh Loan tuy không hoàn toàn hiểu ý nghĩa vì sao Ngọc Chánh Tử nói như vậy, song thấy sư phụ khen sư huynh nàng là lòng nàng cảm thấy sung sướng rồi. Nàng lại mỉm cười nói tiếp :

    - Sư phụ! Vũ ca con là người rất tốt, bất cứ việc gì cũng hơn con! Những điều gì không biết, con phải hỏi anh ấy cả!

    Thấy Thanh Loan ngây thơ, thực thà đáng yêu, Ngọc Chánh Tử bỗng thở dài, nghĩ đến cuộc tình duyên dĩ vãng của bà.

    Huyền Thanh đạo nhân là một người mà bà kính yêu rất mực, chỉ vì đại cuộc mà bà không thể cùng với vị đại sư huynh của bà thỏa lòng ước nguyện. Giấc mộng đẹp đẽ ba mươi năm qua rồi mà lòng bà vẫn còn mang hận. Do đó, bà thấy người đệ tử mới của bà lại đem lòng lưu luyến sư huynh của hắn, bà chợt nảy ra một ý nghĩ, muốn sớm tác thành cuộc tình duyên này cho xong. Bà không muốn để bọn trẻ ôm mối hận tình, suốt đời đau khổ như hai vị sư phụ của chúng.

    Tuy Ngọc Chánh Tử có lòng tốt, muốn tạo hạnh phúc cho kẻ khác nhưng lương duyên là chuyện của trời, đâu phải do ý muốn của con người. Vì vậy, về sau đã đưa hai người đến chỗ tan tác mảnh tình xuân.

    Mã Quân Vũ đưa tay tập luyện một hồi, tâm thần không còn biết gì đến mọi việc xung quanh nữa. Qua một lúc, chàng cảm thấy không thể nào khám phá hết cái huyền diệu bên trong được, nên thở dài, buông thõng hai tay xuống.

    Đoạn chàng quay đầu nhìn lại, thấy sư thúc đang đứng ngay bên cạnh, bèn khoanh tay vái, và nói :

    - Đệ tử vì mải mê luyện võ công nên thất lễ, xin sư thúc lượng thứ cho.

    Ngọc Chánh Tử mỉm cười hỏi :

    - Vừa rồi con luyện môn gì vậy? Ta xem giống như thế “Xích Thủ Bộ Long” trong “Thiên Cang chưởng” đó. Nhưng lại có chỗ khác và còn tinh diệu hơn. Con tìm ra thế võ đó ở đâu vậy?

    Mã Quân Vũ đáp :

    - Vừa rồi, dưới khe sâu có bạch hạc và mãng xà khổng lồ giao đấu nhau. Đệ tử xem thấy hai móng chân bạch hạc quặp lấy cổ mãng xà, chỉ đánh có một đòn mà mãng xà vong mạng. Đòn này lại giống như thế “Xích Thủ Bộ Long” mà đệ tử tập mãi vẫn không sao tìm ra diệu quyết của nó.

    Ngọc Chánh Tử trầm ngâm một lúc rồi nói :

    - Tiếc rằng lúc đó ta không được mục kích, nên không biết thế nào nói được. Vừa rồi ta nhận thấy cách xử dụng của hai tay con đánh nhau, ta xem có phần thâm diệu lắm. Nếu con gắng luyện đến chỗ tinh vi của nó thì sau này có thể sáng tạo một chiêu thức riêng cũng chưa biết chừng.

    Ngọc Bích đợi Ngọc Chánh Tử nói với Quân Vũ xong mới cúi đầu thưa :

    - Sư phụ! Ở dưới khe núi kia có con mãng xà rất lớn, nằm chết queo, sư phụ xem thử phải là giống “Hắc lân thiết giáp xà” chăng? Lúc nó đánh với bạch hạc nó luôn luôn phun hơi độc.

    Ngọc Chánh Tử vận nhãn quang nhìn xuống khe sâu một lúc, lòng rất kinh ngạc, vì thấy hình dáng mãng xà đúng là loại “Hắc lân thiết giáp” có điều đáng ngờ là sao nó lại dài đến thế được! Chẳng những là chưa bao giờ nghe ai nói qua, mà chẳng thế nào tưởng tượng nổi như vậy.

    Qua một lúc phân vân, Ngọc Chánh Tử mỉm cười nói :

    - Chúng ta xuống đó xem cho tường tận. Vì đây là một con vật lạ đời, cổ kim chưa từng thấy.

    Bốn người cùng đứng dậy, phi thân len lỏi vào các mõm đá, nhắm phía khe sâu tiến bước.

    Khi xuống gần đến nơi, Ngọc Chánh Tử nhặt một khối đá, vận kình lực vào hai cánh tay, ném vút một cái, trúng vào giữa lưng mãng xà. Chỉ nghe kêu một tiếng “bịch”, hòn đá bị vỡ ra, tung đi, mà vảy rắn không hề suy sứt một chút nào.

    Ngọc Chánh Tử dẫn ba người đến bên xác mãng xà, nói :

    - Đây la dịp may ngàn năm một thưở, chúng ta có được bảo vật này! Các con thử tuốt kiếm chém vào mình rắn xem sao?

    Mã Quân Vũ không biết da “Hắc lân thiết giáp xà” có thể chống lại đao kiếm, nên chàng hăm hở tuốt trường kiếm ra, giơ cao chém luôn ba nhát. Mình rắn không hề

    sờn chút nào mà lưỡi kiếm chàng bị mẻ đi nhiều miếng. Chàng vô cùng kinh ngạc, đứng đờ người ra, không nói năng gì cả.

    Ngọc Chánh Tử tiếp lấy trường kiếm của Mã Quân Vũ, lật mình mãng xà lên theo đường chỉ dưới bụng rạch từ trên đầu xuống, máu phụt ra đỏ ối. Máu mãng xà hôi tanh vô hạn. Mọi người đều phải nín hơi mới khỏi ọe mửa.

    Ngọc Chánh Tử đưa tay lột lấy da mãng xà, rồi bảo Quân Vũ mang đến dòng suối bên cạnh, rửa cho thật sạch.

    Mã Quân Vũ chưa hiểu dụng ý của sư thúc như thế nào, nhưng không dám hỏi.

    Ngọc Chánh Tử hiểu ý, dẫn giải :

    - Hắc lân thiết giáp xà là một thứ rắn độc ít ai gặp được. Nó có tánh hiếu sát, bất luận gặp người hay thú vật nó đều cắn chết. Nó sinh sản ở những hang núi u tối, miệng phun ra nhiều chất độc, hễ ai trúng phải tất bị hôn mê ngay. Cứ theo truyền thuyết thì loại rắn này do hai loài rắn độc khác nhau giao hợp rồi sinh ra, nên nó hiếm lắm. Nó tuy độc, nhưng da nó lại là một báu vật vô giá, nhất là loại to như con mãng xà này, thì thực cổ kim chưa ai từng thấy. Hôm nay, chúng ta tuy vượt núi băng ngàn vất vả, mà được tấm da con hắc lân thiết giáp xà này thì thật là một kỳ duyên hãn hữu vậy. Thứ da này đem ngâm dấm, rồi thuộc mềm đi, đem may thành áo giáp mà mặc có thể tránh được độc chưởng và đạo kiếm.

    Dứt lời, Ngọc Chánh Tử gấp gọn miếng da, đeo vào người, rồi cả bốn người cùng trèo lên vách đá, phăng phăng lên núi.

    Bốn người lại nhắm những ngọn núi liên miên bất tuyệt tiến tới.

    Lúc này, Ngọc Chánh Tử đã lên đỉnh núi cao quan sát địa thế, nhận thấy về hướng Đông Nam có những ngọn núi trùng trùng điệp điệp, cao vút tận mây xanh, khí thế rất hùng vĩ. Cứ theo truyền thuyết thì “Tạng Chánh đồ” trước đây được tìm ra nơi chân núi Bạch Vân, mà nơi đó là một tòa núi cao nhất, nên Ngọc Chánh Tử hướng dẫn ba đồ đệ thẳng đến phía ấy.

    Mã Quân Vũ thấy Thanh Loan vừa đi vừa chau mày, chẳng nói năng gì cả, lấy làm ngạc nhiên, hỏi :

    - Sư muội có điều gì bất ý vậy?

    Thanh Loan thở phào một hơi, nói :

    - Tôi muốn cỡi Bạch hạc, nhưng biết Vũ ca không làm sao bắt nó được, cho nên tôi không hỏi.

    Dứt lời, nàng lại nhoẻn cười! Nụ cười có hơi gượng gạo như đứa con nít đòi ăn, làm cho Quân Vũ thấy thật buồn cười.

    Mã Quân Vũ nghĩ thầm :

    - Cô bé này lúc trước chẳng hề bận tâm điều gì, sao hôm nay cũng sanh ra suy nghĩ vẩn vơ như vậy?

    Chàng mỉm cười bảo :

    - Việc đó không khó gì! Đợi lúc nào gặp được bạch hạc tôi sẽ bắt cho sư muội cưỡi.

    Thanh Loan hớn hở nói :

    - No bay mau như vậy, Vũ ca làm sao bắt được?

    Quân Vũ nói để làm vui Thanh Loan, chẳng ngờ bị Thanh Loan hỏi lại, chàng không biết đáp làm sao được, cúi gầm mặt xuống đất.

    Thanh Loan thấy vậy, ghé bên tai chàng thỏ thẻ.

    - Vũ ca! Anh đừng buồn nữa! Tôi không đòi anh bắt bạch hạc đâu.

    Mã Quân Vũ mỉm cười :

    - Đợi mấy hôm nữa tôi sẽ tìm cách bắt một con bạch hạc tặng cho sư muội chơi...

    Thanh Loan hỏi :

    - Thế thì tìm bắt cho được hai con. Anh không thích chơi bạch hạc ư?

    Mã Quân Vũ gật đầu. Thanh Loan hớn hở vui mừng.

    Bốn người đi đến tối, và tìm một hang đá ấm áp nghỉ ngơi.

    Hôm sau, trời hừng sáng, họ lại tiếp tục lên đường. Bây giờ bốn người đã tiến sâu đến quãng giữa Quát Thương sơn rồi, họ phóng tầm mắt nhìn quanh thấy đâu đâu cũng kỳ lạ và hiểm yếu.

    Những đỉnh núi cao chọc trời, những sườn núi đứng thẳng tắp, tiếng gió vi vu thổi, tiếng cây lá xào xạc, hòa lẫn với tiếng thú dữ chốc chốc hét lên, bao nhiêu tiếng đó họp lại tạo thành một cái gì hoang vắng hãi hùng! Có lẽ nơi đây chẳng mấy khi có dấu chân người bước đến.

    Bốn người đành cứ liều thân nhắm thẳng hướng mà đi, vượt hết đỉnh núi này đến đỉnh núi nọ, liên miên như chẳng bao giờ dứt.

    Ngọc Chánh Tử tuy không nói ra, nhưng lòng đã thấy ngao ngán. Bạch Vân sơn không hiểu ở chỗ nào, chẳng lẽ lại phải vượt khắp cả hàng ngàn ngọn núi để tìm hay

    sao.

    Thốt nhiên có một tiếng rống như sấm vang, rồi những tiếng hồi âm từ trong các hang sâu theo nhau vọng lại. Ngọc Chánh Tử nghiêng đầu nhìn theo, thấy ở góc bên một sườn núi có một con sư tử thật lớn, lông vàng rằn đen, hai con mắt tròn xoe, sáng quắc đang chòng chọc nhìn vào bốn người.

    Thanh Loan có vẻ sợ hãi, nắm tay Ngọc Bích nói :

    - Sư tỷ! Con hổ lớn quá! Chết! Nó cắn chết.

    Ngọc Bích bấm tay Thanh Loan nói :

    - Không phải hổ! Sư tử! Giống này còn dữ hơn hổ nhiều.

    Chợt sư tử gầm lên một tiếng, nhắm hướng bốn người nhảy xổ tới.

    Ngọc Chánh Tử ngầm vận nội lực đứng thủ thế. Trong lúc đó Quân Vũ, Thanh Loan và Ngọc Bích đồng tuốt kiếm ra một lượt, xếp thành hàng, đứng sát bên nhau.

    Song con sư tử chỉ nhảy đến một bước, rồi đứng lại, quay đầu bỏ chạy.

    Ngọc Chánh Tử lấy làm lạ, thầm nghĩ :

    - Sư tử to dường ấy, nó lại là chúa các thú dữ, tình rất hung hăng, sao trông thấy người lại bỏ chạy.

    Bà còn đang phân vân thì trên đỉnh núi cao lại có tiếng hạc kêu. Nháy mắt đã thấy một con bạch hạc sà xuống.

    Thanh Loan vỗ tay reo :

    - Vũ ca! Kìa con hạc trắng về đó!

    Mọi người trố mắt nhìn. Con hạc bay sà xuống cách mặt đất chừng năm trượng, lượn vòng quanh một quả núi, rồi tung cánh đuổi theo hướng con sư tử vừa chạy.

    Ngọc Chánh Tử nhận thấy có sự lạ lùng, để ý lắng nghe, quả nhiên văng vẳng có tiếng tiêu theo gió vọng lại.

    Tiếng tiêu tuy không to, nhưng âm thanh réo rắc, bên trong hàm chứa một uy lực thâm diệu vô cùng. Ngọc Chánh Tử nghe một lúc cảm thấy tâm hồn xao xuyến, tựa hồ như muốn nhảy múa theo nhịp tiêu, bất giác lòng bà thấy sợ sệt, vội thu liền tâm thần, đưa chân khí xuống đan điền, đưa tâm vào linh đài, nhắm mắt lại để vận chuyển nội lực.

    Còn Mã Quân Vũ, Thanh Loan và Ngọc Bích vì công lực còn kém, nên bị tiếng tiêu ma thu hút cả lý trí.

    Ngọc Chánh Tử thấy vậy cuống quýt. Vừa định điểm huyệt cho ba đồ đệ để giữ vững tinh thần, thì bỗng tiếng tiêu ngưng bặt, dư âm tản lạc vào không trung.

    Mã Quân Vũ sau khi bừng tỉnh vội hỏi :

    - Sư thúc! Tiếng tiêu này quái lạ lắm! Âm thuật réo rắc làm rúng động lòng người. Đệ tử đã vận nội công để chống lại, nhưng vẫn bị tiếng tiêu làm mê mẩn cả thần trí.

    Ngọc Chánh Tử trầm ngâm một lúc, rồi nói :

    - Người thổi tiêu này phải là một nhân vật võ công thâm hậu tột bực trong võ lâm. Theo ta, đoán thì chắc người này là Ngọc Tiêu Tiên Tử. Nếu quả tên nữ quái ấy cũng đến Quát Thương sơn thì một nguy hiểm không nhỏ đối với sư phụ con.

    Mã Quân Vũ hỏi lại :

    - Ngọc Tiêu Tiên Tử là người thế nào? Chẳng lẽ còn nguy hiểm hơn Bát Cánh Thần Ôn Đỗ Duy Sinh nữa sao?

    Ngọc Chánh Tử gật đầu đáp :

    - Ngọc Tiêu Tiên Tử hình dạng thế nào không ai có thể nói rõ được. Ít người được thấy rõ nàng, song tiếng tiêu của nàng thì thường nghe xuất hiện. Biết bao tay cao thủ võ lâm đã ngã gục trước tiếng tiêu đó, vì thế người ta mới đặt cho nàng cái biệt hiệu là Ngọc Tiêu Tiên Tử. Nghe người ta nói, Ngọc Tiêu Tiên Tử là một cô gái hay mặc áo đen, mặt có che miếng sa đen. Nàng là một quái nhân ẩn hiện bất thường, không ai thấy rõ mặt thật của nàng bao giờ.

    Ngọc Chánh Tử vừa dứt lời thì đã nghe tiếng hạc kêu, cùng tiếng sư tử rống vang lại. Lòng bà nghi hoặc, nói :

    - Chúng ta thử đi xem sao?

    Bốn người lại nhảy xuống dưới chân núi, đi vòng sang bên trái, qua mấy khúc quẹo thì thấy cảnh giới thay đổi hẳn.

    Có một con đường sơn cốc chạy quanh theo sườn núi, đi sâu vào một cái hang rộng hơn ba bốn trượng. Mặt đất ở đây bằng phẳng, kỳ hoa dị thảo đủ thứ, gió lộng vươn hương, hai bên sắc núi xanh dờn, dưới chân nền cỏ xanh như một tấm nệm. Phong cảnh trông đẹp như vẽ, và không thấy bạch hạc, sư tử đâu cả.Bốn người cứ trên cỏ mềm chạy riết một hồi quanh qua mười trái núi thì trời đã xế chiều.

    Ngọc Chánh Tử thấy các đồ đệ đều có vẻ mệt nhọc, ngừng bước nói :

    - Chỗ thâm cốc này khí hậu ấm áp như mùa xuân, phong cảnh lại đẹp, chúng ta hãy ngồi đây nghỉ một lúc rồi sẽ tiếp tục cuộc hành trình.

    Lúc đó trời về chiều, ánh nắng vàng rọi xuống dưới hang, những cây thông xanh biếc pha màu với ánh tà dương trông càng rực rỡ.

    Thanh Loan nằm ngửa trên thảm cỏ, nhìn những đám mây hồng biến ảo, nét mặt tươi vui như đang nghĩ đến một điều gì thích thú lắm.

    Ngọc Chánh Tử đưa mắt nhìn tứ phía, nhận xét vị trí của mỗi nơi, thỉnh thoảng lại dùng ngón tay vạch ngang vạch dọc trên mặt đá, rồi hốt nhiên đứng phắt dậy, chạy đến bên sườn núi, để chân khí quy tụ vào đan điền ấn lưng vào vách đá, nhón người vươn lên một sườn núi đứng sững, cao vút hơn trăm trượng. Rồi chỉ trong chốc lát Ngọc Chánh Tử đã trườn lên đến đỉnh núi.

    Mã Quân Vũ quay sang nói với Ngọc Bích :

    - Tam sư thúc về môn “Bích Hổ công” tinh diệu quá! Chỉ dùng một hơi thở mà có thể vượt lên cao đến trăm trượng. Sức tôi thì chỉ lên cao được chừng bốn năm mươi trượng mà thôi.

    Ngọc Bích mỉm cười, nói :

    - Thế thì anh còn hơn tôi nhiều! Tôi có ráng lắm cũng chỉ lên được chừng hai mươi trượng là cùng.

    Hai người đang nói chuyện thì bỗng có tiếng Thanh Loan nói :

    - Vũ ca! Có người đi tới kia!

    Thanh Loan vừa nói vừa nhổm người lên, Quân Vũ và Ngọc Bích đều quay đầu nhìn lại quả nhiên từ phía đông một chàng thiếu niên mặc áo xanh tiến đến, chân bước tuy chậm, nhưng thân hình lướt đi vun vút, thoáng mắt đã đến chỗ ba người.

    Nhìn kỹ chàng thiếu niên đó, cả ba đều thất kinh. Vì người đó đi chân không chấm đất, mà chỉ đặt nhẹ lên đầu ngọn cỏ. Do đó, lúc thiếu niên đến nơi mà không ai có thể nghe một tiếng động nào.

    Về thuật “Thảo Thượng Phi Hành” kể ra nó là một thuật khinh thân tuyệt đỉnh, không lấy gì làm lạ lắm, nhưng ở đây có chỗ lạ là thiếu niên chỉ đi một hơi mà có thể vượt qua một hành trình quá xa, chứng tỏ nội lực kinh khủng.

    Theo môn này, muốn sử dụng phải vận khí ở đan điền, nhưng một hơi như vậy chỉ đi chừng độ ba bốn mươi trượng là cùng. Đằng này thiếu niên áo xanh lại đi một hơi tới hai ba chục dặm, dáng đi trông thong thả mà cực nhanh! Thật là một công lực phi thường.

    Mã Quân Vũ càng xem càng sợ hãi, và nghĩ rằng về môn khinh công của thiếu niên đó đã đến mức siêu việt. Chàng không hề bì kịp đã đành, mà ngay cả sư phụ chàng cũng không thể bì nổi công lực ấy được.

    Bất giác, chàng đờ người ra, nhìn mãi thiếu niên áo xanh đó. Thiếu niên áo xanh vẫn cứ dùng thuật “Thảo Thượng Phi Hành” lướt qua lướt lại trước mặt mọi người như đang dò xét việc gì vậy.

    Trong lúc đó thì Ngọc Chánh Tử đang đứng trên đỉnh núi cao, phóng tầm mắt nhìn chung quanh, thấy về hướng Đông có ba đỉnh núi chót vót, đứng thành hình tam giác, ngọn núi chính giữa có một vệt trắng rũ xuống, ánh mặt trời rọi vào có những tia sáng long lanh phản chiếu lại. Cứ theo tầm mắt nhìn thì ngọn núi này hùng vĩ nhất vùng. Bà lại cúi xuống nhìn, thấy bên dưới là một thâm cốc âm u, tuy lối đi quanh co xoay chiều, nhưng đường hướng vẫn nhắm thẳng tới chỗ ba ngọn núi đó.

    Sau khi đã nhận rõ địa thế, Ngọc Chánh Tử lại dùng môn “Bích Hổ công” từ trên đỉnh núi theo vách đá tụt xuống dưới sâu.

    Bà vừa đặt chân đến nơi, Mã Quân Vũ liền thuật lại việc chàng thiếu niên áo xanh vừa rồi.

    Nghe xong, Ngọc Chánh Tử thất sắc, trầm lặng hàng giờ, không nói câu nào. Vì bà nghe Quân Vũ diễn tả lại về thân pháp của thiếu niên đó, biết không phải là môn

    “Thảo Thượng Phi” mà là môn “Lăng Không Hư Bộ”. Đây là một môn thần công nội gia. Kẻ nào sử dụng được môn này thì công phu đã đến mức siêu đẳng, chẳng những có thể bứt một chiếc lá, một cành hoa búng tới giết người được, mà còn có thể cỡi trên một bụi cỏ vượt qua một khúc sông xa trăm dặm.

    Tuy nhiên, về môn “Lăng Không Hư Bộ” này, Ngọc Chánh Tử cũng chỉ được nghe truyền thuyết trên chốn võ lâm mà thôi, bà đã hành tẩu hơn mấy mươi năm, khắp chốn giang hồ mà vẫn chưa hề thấy ai sử dụng được môn ấy.

    Ngọc Chánh Tử lại thấy Quân Vũ là kẻ chính chắn, ngôn ngữ rất cẩn thận, cứ như chàng diễn tả môn phi hành của thiếu niên kia thì thấy quá rành mạch, không thể nào lầm được. Vì vậy Ngọc Chánh Tử lấy làm lo lắng.

    Sau một lúc trầm tư, Ngọc Chánh Tử hỏi Quân Vũ :

    - Con xem người thiếu niên áo xanh đó độ bao nhiêu tuổi?

    Mã Quân Vũ nghĩ một hồi lâu rồi mới đáp :

    - Đệ tử rất hổ thẹn, tuy đã lưu tâm quan sát, song chẳng làm sao nhìn rõ được mặt mày, vì người ấy bước chân lanh lẹ như nước chảy mây trôi. Trông dáng người thì mảnh mai, ẻo lả, có lẽ không bao nhiêu tuổi, nhưng con không hiểu vì đâu có được sức nội công như vậy.

    Ngọc Chánh Tử lắc đầu nói :

    - Theo lời con nói thì đây không phải là môn “Thảo Thượng Phi” đâu. Lúc người ấy lướt qua mặt các con, các con có nghe một luồng gió nhẹ tạt qua không?

    Câu hỏi ấy làm cho Quân Vũ sực nhớ lại, chàng vội nói :

    - Nếu sư thúc không hỏi đến con quên mất. Lúc chàng áo xanh đi ngang qua chẳng những không có một chút gió nào, mà cả tà áo cũng chẳng thấy bay, đầu gối cũng chẳng thấy co lại. Lúc chàng rời bước như là lá rụng khói bay, so với môn “Thảo Thượng Phi” thật khác hẳn.

    Ngọc Chánh Tử rợn người, song vẫn cố giữ vẻ trầm tĩnh, lạnh lùng mỉm cười, không nói. Quân Vũ biết sư thúc nói chưa hết ý, nhưng không dám hỏi thêm.

    Trời dần dần quang đãng, phương Đông nhấp nhô một vừng trăng tròn vành vạnh, soi sáng vào rừng núi xanh biết. Nơi u cốc càng tịch mịch, cảnh vật càng thấy đẹp la. lùng.

    Ngọc Chánh Tử từ từ đứng dậy, ngoảnh mặt nhìn trăng, thong thả bước trên thảm cỏ xanh, thần thái tuy rất thanh nhã, nhưng thực ra lòng bà đang rối ren nhiều việc.

    Trong sơn cốc đang yên lặng, bỗng vang lên một tiếng hú dài, từ xa vọng đến.

    Quân Vũ, Thanh Loan, Ngọc Bích đều đứng dậy một lượt. Ngọc Chánh Tử dừng chân nghe ngóng đợi cho đến lúc tiếng hú im bặt, bà mới quay lại nói với ba người đồ đệ :

    - Rất nhiều cao thủ đã đến Quát Thương sơn, tiếng hú đó cách đây trong vòng năm dặm, chúng ta thu xếp lên đường ngay.

    Bốn người dùng thuật khinh công đi nhanh như gió. Đến canh hai thì họ đã vượt qua hơn bảy tám mươi dặm. Cái hang u cốc này hình như vô cùng vô tận, càng đi càng thấy tân kỳ thanh thú.

    Đi quanh vài khúc đường nữa thì lại nghe tiếng thác nước dội ào ào. Ngửa mặt lên thì thấy ba ngọn núi cao chót vót đứng quanh nhau. Hai ngọn đàng trước, một ngọn đàng sau. Ngọn núi chính giữa có một thác nước từ trên đổ xuống, dưới ánh trăng trông chẳng khác một dải lụa trắng, rải từ ngọn núi đến chân núi vậy.

    Bây giờ u cốc cũng thấy rộng ra, đầy hoa thơm cỏ lạ, mùi thơm man mác tỏa khắp nơi. Chỗ tận cùng của u cốc là một rừng thông, có mấy cây thông vừa to vừa cao đặc biệt, trên ngọn cành lá xòe ra như một chiếc lọng.

    Khu đất này rộng ít nhất cũng phải một mẫu, sau lưng rừng thông là những ngọn núi nhỏ đứng thẳng vút. Những ngọn núi này có một vẻ đẹp rất thanh nhã. Dưới gốc một cây thông cổ thụ có một tảng đá lớn đến nửa mẫu đất. Dòng suối trong vắt lượn quanh tảng đá ấy rồi chảy xuống một trủng nước sâu.

    Tiếng thác nước dội lên ầm ầm trông rất ngoạn mục, Ngọc Chánh Tử và bọn đồ đệ ra đứng ở đầu ngọn suối nhìn xuống thì thấy ngọn nước đổ từ trên xuống vực chẳng khác nào một tấm rèm trắng phau.

    Tấm rèm ấy như nhúng xuống một vũng nước mà chúng ta tạm gọi là vực. Nhưng thực ra khúc vực này không sâu lắm, nó chỉ là một khoảng rộng, dưới đáy đang bằng phẳng, đột nhiên có một chỗ thu hẹp lại, mà chỗ đó thì sâu hoắm, nhìn không thấy đáy.

    Những cái thần kỳ của tạo hóa không thể nào người ta có thể suy lường được.

    Ngọc Chánh Tử chú ý nhìn xuống chỗ sâu, song khốn nỗi trong đó tối om. Bà tuy nhờ có nội công uyên thâm, mục lực minh mẫn, nhưng cũng chỉ nhìn rõ được trong vòng mười trượng, ngoài ra không còn phương pháp nào nhìn rõ cảnh vật trong hang sâu đó được.

    Trong lúc đó, bỗng có một vệt trắng từ phương xa bay tới, trong nháy mắt, mọi người nhận ra đó là con bạch hạc.

    Thanh Loan vỗ tay reo :

    - A! Con bạch hạc lại vào trong thâm động này rồi!

    Vừa nghe tiếng nói của Thanh Loan, Mã Quân Vũ thấy bạch hạc lượn qua đầu chàng. Chàng không kịp suy nghĩ, vội vàng vươn người lên, tai trái che mặt, tay phải dùng thế “Xích Thủ Bộ Long” một thế tuyệt diệu trong “Thiên Cang chưởng” đánh trúng vào bạch hạc.

    Bạch hạc đương lúc vươn mình bay lên, chợt thấy có người đánh trộm, vội xoay lại, dùng cánh bên trái quạt mạnh một cái, một luồng kình phong phát ra vô cùng mãnh liệt, đập luồng chưởng lực của Quân Vũ trở lại.

    Quân Vũ bị kình lực đánh trúng, tâm thần giao động, liểng xiểng đứng không vững bị rơi xuống đất từ một trượng cao. Bạch hạc liền nghiêng đầu bay vút đi mất.

    Ngọc Chánh Tử thấy Quân Vũ rơi xuống vội phất tay áo phi thân theo. Lúc Mã Quân Vũ vừa rơi xuống đất, Ngọc Chánh Tử cũng đã đến kịp và đỡ chàng thoát nạn.

    Thanh Loan thấy Quân Vũ bị té sợ quá, đôi mắt rướm lệ, nhìn Quân Vũ không nói nên lời.

    Ngọc Chánh Tử đưa tay trái ấn vào nhân trung Quân Vũ một cái. Mã Quân Vũ tỉnh hẳn, mở mắt nhìn thấy Thanh Loan mặt mày đẫm lệ. Chàng lắc đầu, nói lớn :

    - Sư muội! Đừng khóc! Tôi không bị thương tích gì cả.

    Thanh Loan đưa tay áo lau nước mắt, nói :

    - Con bạch hạc khốn nạn! Tôi không còn thích nó nữa.

    Thanh Loan vừa nói dứt lời, bỗng nghe có tiếng quát từ trong bóng cây thông vọng ra :

    - Loan nhi! Làm sao con lại đến Quát Thương sơn này?

    Tiếng nói ấy đối với Thanh Loan không còn xa lạ gì. Nàng không cần nhìn rõ người ấy đã reo to :

    - Sư phụ! Sư phụ!

    Từ gốc cây thông, một vị hòa thượng phi thân đến, theo sau là một đạo sư. Hai người này chính là Ngô Không và Huyền Thanh.

    Thanh Loan nhảy đến ôm chầm lấy Ngô Không đại sư. Lão hòa thượng tay phải cầm thiền trượng, tay trái vuốt tóc Thanh Loan mặt đầy thương xót nói :

    - Con đã là đệ tử phái Côn Luân rồi, sao còn gọi ta là sư phụ?

    Ngọc Chánh Tử thấy Huyền Thanh đạo nhân xuất hiện trước mặt, cuộc tình ái trước đây mấy mươi năm lại như nhắc nhở vào lòng. Bà ngẩn người một lúc rồi mới chấp tay bái kiến, và hỏi :

    - Đại sư huynh vẫn được an khang chứ?

    Huyền Thanh đạo nhân gật đầu đáp lễ, mặt tươi vui, đáp :

    - Vì đâu sư muội lại dẫn các đồ đệ đến đây? Chưởng môn sư đệ vẫn bình yên chứ?

    Ngọc Chánh Tử mắt long lanh ngấn lệ, mỉm cười đáp :

    - Nhị sư huynh vẫn mạnh khỏe. Anh ấy và tôi luôn luôn nhớ đến đại sư huynh.

    Tôi lặn lội ngàn dặm đến Tương Bắc để thăm đại sư huynh, giữa đường gặp bọn chúng. Sau khi xem thư, biết là đại sư huynh đến Quát Thương sơn, nên tôi dẫn

    chúng đến đây tìm, may ra giúp được đại sư huynh việc gì chăng.

    Huyền Thanh đạo nhân khẽ thở dài, hình như muốn nói điều gì rồi lại thôi. Tiếp đó ông dẫn Ngọc Chánh Tử đến giới thiệu cùng Ngô Không đại sư.

    Ngô Không đại sư đưa tay lên trước ngực niệm Phật, rồi từ tốn nói :

    - Tôi vẫn được nghe lệnh sư huynh nhắc đến hạc giá, nhưng tưởng mình vô duyên không bao giờ được hội kiến. Loan nhi thân thế rất bi thảm, tứ cố vô thân, bần tăng vô phương giáo dưỡng để nó quen thói bê tha, mong hạc giá phí chút tâm sức răn dạy, lão tăng xin thay mặt cảm tạ ân đức muôn vàn.

    Dứt lời, Ngô Không chấp tay bái ba bái.

    Ngọc Chánh Tử vội vàng chấp tay đáp lễ và nói :

    - Loan nhi về võ học đã được chân truyền của đại sư rồi! Ngọc Chánh Tử này có tài đức gì đâu mà dám thu nhận đồ đệ tài giỏi như thế. Chẳng qua vì mệnh lệnh của đại sư huynh tôi, tôi không dám trái ý nên đành đánh bạo thừa nhận. Ngày sau nếu vì Loan nhi mà ân oán lan rộng đến đâu, tôi quyết đem thân cáng đáng, không hề ra ngoài thế cuộc.

    Huyền Thanh cười ha hả tiếp lời :

    - Tam sư muội không nên quá khiêm tốn! Tôi là đại sư huynh, nhưng mệnh lệnh cũng phải tuân theo ý của Chưởng môn sư đệ. Việc này cũng mong sư muội bẩm qua với Chưởng môn sư đệ, vì ngày sau dư ba lan tràn không phải nhỏ đâu. Việc này quan hệ đến một cuộc tranh chấp lớn lao về môn phái. Tôi không dám tự chuyên một mình được.

    Ngọc Chánh Tử vui vẻ đáp :

    - Nhị sư huynh tuy là người Chưởng môn, song từ mấy chục năm nay vẫn cảm ân đức của đại sư huynh. Việc này xin cứ an tâm. Tôi dám chắc nhị sư huynh chẳng bao giờ phản đối.

    Ngô Không đại sư không hiểu rõ Côn Luân tam tử có một mối tình ái lâm ly đau khổ, nên không thể hiểu được những ý nghĩa của câu nói đó.

    Thấy Ngọc Chánh Tử quả quyết thừa nhận đảm đương những việc ân oán của Thanh Loan, ông ta khâm phục vô cùng, đưa thiền trượng lên cao, nói :

    - Bần tăng tuy không phải là một môn hạ của Côn Luân, song xin tình nguyện hiệp lực cùng quý phái, một khi nếu cần dùng tới, bần tăng sẵn sàng nghe lời sai bảo, dù phải nhảy vào lửa đỏ cũng chẳng dám chối từ.

    Huyền Thanh đạo nhân nét mặt trầm ngâm lo lắng. Ông ta biết rằng “Tạng Chánh đồ” là một vậy kỳ bảo mà trong giới võ lâm ai cũng ham muốn. Giữ được “Tạng Chánh đồ” tất phải đổi bằng xương máu. Thế mà hôm nay Ngọc Chánh Tử lại đem một lũ đồ đệ trẻ đến đây, thực ra chẳng ích gì mà còn cho ông thêm một mối lo về sinh mạng của chúng nó nữa. Tuy ông không nói ra, nhưng lòng không vui.

    Trong mười mấy năm rồi, Ngọc Chánh Tử không gặp mặt Huyền Thanh, bây giờ trông thấy nhau, lòng bà cảm hứng vô cùng, nói không ngớt miệng. Mấy người ngồi lại quây quần dưới ánh trăng, đem những chuyện trông thấy ở dọc đường kể lại.

    Huyền Thanh đạo nhân nghe kể đến câu chuyện các tay cao thủ kéo nhau đến Tương Bắc để tranh đoạt “Tạng Chánh đồ” ông không lấy làm lạ, là vì chính việc đó ông cũng nghĩ đến rồi. Chỉ có điều không ngờ họ lại kéo đến sớm như thế.

    Theo lời Ngọc Chánh Tử thuật qua thì phái Hoa Sơn có Bát Cánh Thần Ôn, phái Điểm Thương có Song Nhạn, còn về Thiên Long bang có Tô Bằng Hải là kẻ quái kiệt nhất đời, e rằng hắn sẽ bố trí nghiêm mật.

    Tuy nhiên, người mà làm cho Huyền Thanh lo lắng nhất là vị thiếu niên áo xanh mà họ gọi là Thanh y quái nhân, mà mọi người đã gặp dưới u cốc. Ngoài ra lại còn

    người thổi tiếng tiêu mê hồn ma nữa. Hai người đó chẳng khác một con thần long, chỉ thấy đầu mà không thấy đuôi.

    Ngọc Tiêu Tiên Tử ẩn hiện trong giang hồ một cách nhập thần xuất quỷ, còn Thanh y quái nhân kia lại không ai biết rõ lai lịch, không thể nào lường được sức võ công cao thâm của hai người đó. Mà cả hai đều đã xuất hiện nơi Quát Thương sơn này thì thật là chuyện vô cùng quan hệ.

    Huyền Thanh đạo nhân tuy trong lòng chan chứa mối lo âu, mà ngoài mặt vẫn giữ nét thanh thản, nhìn Ngọc Chánh Tử nói :

    - Tôi và Ngô Không đại sư chiếu theo chỉ dẫn của “Tạng Chánh đồ” đi tìm rất công phu, vất vả hơn sáu bảy ngày mới tìm ra chốn u cốc này đây. Thế mà sư muội và đồ đệ vừa mới lên núi đã tìm được đến đây ngay, lại còn đến trước chúng tôi một chút, kể ra cũng hay lắm đấy chứ.

    Ngọc Chánh Tử đáp :

    - Đây chỉ là một sự may mắn ngẫu nhiên thôi, thực ra chúng tôi cũng chỉ nhắm mắt đi càn.

    Huyền Thanh đạo nhân thấy thì giờ quý báu vô cùng, không thể chậm trễ được, ông liền trải tấm “Tạng Chánh đồ” dưới ánh trăng, chiếu theo đồ vẽ sơn thủy thì đúng y như cảnh vật nơi đây, không khác một mảy may nào. Chỉ có điều khó là “Tạng Chánh đồ” không chỉ rõ chỗ cất “Quy Nguyên mật tập” ở đâu. Nếu vậy còn phải mất công suy nghĩ tìm tòi qua một thời gian nữa.

    Mọi người xúm lại bàn luận nghiên cứu. Kẻ bàn cách này, người nói thế kia, nhưng không dự đoán được một lý lẽ nào có thể chắc chắn được.

    Huyền Thanh đạo nhân ngẩng mặt lên nhìn trời, ánh trăng rọi qua những cành cây kẽ lá, thỉnh thoảng từng luồng gió thổi tới, làm cho những chấm vàng trên mặt đá rung rinh tựa hồ như những ánh sao di động. Ông ta cất tiếng ngâm hai câu thơ phần sau dưới bài kệ ghi trong bức “Tạng Chánh đồ”.

    Kẽ thông ánh trăng rọi,

    Dòng suối quanh thạch đầu.

    Thốt nhiên, ông đứng dậy, chạy đến gốc cây thông lớn để ý tìm kiếm, thấy dòng nước chảy róc rách lượn quanh tảng đá rồi chảy vào một thâm động cách đó chừng một trăm thước.

    Nhìn kỹ tảng đá đó, Huyền Thanh thấy nó là một vật thiên nhiên không phải do tay người xếp đặt. Tuy nhiên ông cũng rút trường kiếm gõ tỉ mỉ từng chút, từ chỗ này đến chỗ khác, mất hàng giờ mà vẫn chẳng tìm ra một vết tích gì.

    Thanh Loan thấy dòng nước mát rượi lấy làm thích thú, chạy đến ngồi trên một triền đá, cởi giày thòng chân xuống, đá tung những bọt trắng lên, cười ha hả.

    Quân Vũ thấy thế, chạy đến bên nàng hỏi :

    - Có gì mà thích thú như vậy sư muội?

    Thanh Loan đưa mắt nhìn xuống vực rồi nhìn Quân Vũ, nói :

    - Tai sao dòng suối thế này mà chảy xuống cái vực bé xíu. Ước gì vực nước lớn ra, đừng chảy mạnh để chúng ta xuống tắm, bơi lội cho vui.

    Mã Quân Vũ thấy nàng ao ước điều vu vơ, mỉm cười nói :

    - Trời sanh như thế thì phải chịu, đâu phải lòng người ước mong mà được.

    Thanh Loan nũng nịu, nói :

    - Dòng suối to, mà cái vực bé xíu, nếu nước cứ chảy vào đấy mãi nó tràn lên thì chết.

    Bỗng Quân Vũ “Á” lên một tiếng rất lớn, làm cho Thanh Loan giật mình.

    Vì câu nói vu vơ của Thanh Loan mà một ý nghĩ thoáng qua trong óc chàng. Chàng lẩm bẩm :

    - Khe suối này chảy xuống đây hàng mấy nghìn vạn năm, thì cái vực này dù to và sâu đến đâu cũng không chỗ chứa, tất nó phải tràn lên. Xem thế này thì dưới đáy vực nhất định có một đường ngầm thủy đạo chảy thông qua nơi khác.

    Quân Vũ chạy tới bên cái hang sâu, đưa tay rờ bốn phía, thì thấy xung quanh toàn là vách đá dựng đứng lên, bất giác chàng nhớ đến câu kệ trong “Tạng Chánh đồ” và reo to :

    - Đúng rồi! Trong cái hang sâu này nhất định phải có một đường hầm thông một chỗ khác.

    Huyền Thanh đạo nhân và mọi người đang bóp trán suy nghĩ, nghe tiếng Quân Vũ la, đều xúm lại hỏi. Quân Vũ trình bày ý nghĩ của mình. Huyền Thanh trầm ngâm nói :

    - Điều đó cũng có lý, nhưng hang sâu thăm thẳm, tối ngòm, xung quanh đều có vách đá thẳng tấp, không chỗ đặt chân xuống để dò thăm đáy vực, thì xuống đó là cả một sự khó khăn nguy hiểm.

    Sau một lúc suy nghĩ, Huyền Thanh đạo nhân quay qua bảo Quân Vũ :

    - Con đi tìm cho ta một ít dây thật chắc đem về đây.

    Nói xong, ông liền ngồi xếp bằng trên bãi cỏ, nhắm mắt để vận nội công.

    Ngọc Chánh Tử biết rõ ý định của vị sư huynh muốn thám hiểm đáy vực, miệng tuy không nói gì, nhưng lòng băn khoăn không được yên chút nào.Được một lúc, Quân Vũ đã tìm được một bó dây mang về, Huyền Thanh đứng phắt dậy, mỉm cười nói :

    - Cái vực thẳm này bốn vách đều trơn nhẵn, mà không ai hiểu sâu hay cạn bao nhiêu, nếu dùng môn “Hổ Bích công” e xuống không đến đáy. Ta muốn mượn sức sợi dây mây để xuống cho đỡ phần nguy hiểm. Mọi người hãy đợi tôi ở trên bờ.

    Đoạn ông ta bảo Quân Vũ nối liền từng sợi dây vào với nhau.

    Quân Vũ tuân lời nối lại thành một sợi dây dài, và thưa với Huyền Thanh :

    - Thưa sư phụ! Đệ tử xin thám hiểm thay cho sư phụ.

    Huyền Thanh lắc đầu nói :

    - Vực sâu không biết đâu mà lường. Trong đó biết đâu chẳng có quái vật hung ác, sức con chưa thể đảm nhiệm việc khó khăn này.

    Ngọc Chánh Tử tiếp lời :

    - Tôi xuống thay cho sư huynh được chăng?

    Huyền Thanh đạo nhân cười lớn, nói :

    - Chưởng môn sư đệ còn phải cần sư muội giúp đỡ nhiều việc, sư muội không thể thay tôi làm việc nguy hiểm này. Thân tôi nếu có điều gì bất trắc, mong sư muội trông nom giùm Quân Vũ và Thanh Loan là đủ. Và nhờ sư muội thay lời tôi xin lỗi với Chưởng môn sư đệ về việc tôi tự tiện truyền “Truy Vân kiếm pháp” cho Quân Vũ mà chưa được sự đồng ý của nhị vị sư đệ và sư muội.

    Ngọc Chánh Tử nghe nói rất thương cảm, song vẫn gượng cười nói :

    - Tôi biết lắm! Chẳng có việc gì nhị sư huynh không tuân theo lời dạy của đại sư huynh đâu.

    Huyền Thanh đạo nhân cầm một đầu dây tới gần bờ, nhảy xuống vực. Ngô Không đại sư ở trên cứ cầm đầu dây thả mãi ra. Trong phút chốc Huyền Thanh đạo nhân đã chìm hẳn trong đáy vực sâu

    Ngọc Chánh Tử và mọi người đều chú mục nhìn xuống đáy vực, trong lòng hồi hộp lo lắng.

    Ngô Không đại sư cứ cầm đâu dây thả mãi, từ mười trượng, rồi đến một trăm trượng, hai trăm trượng mà vẫn còn phải thả mãi. Bỗng nhiên, một tiếng rú từ dưới

    đáy vực văng vẳng vọng lên, rồi đầu dây nhẹ nhõm.

    Ngô Không đã biết Huyền Thanh đã xuống tới đáy vực rồi, thở phào một hơi.

    Và mọi người ai cũng nóng lòng chờ đợi.

    Cái giờ phút ấy thật quan trọng làm sao!

    Một giờ rồi hai giờ trôi qua... và cho đến lúc mặt trăng sắp lặn, và mặt trời đã nhấp nhô ở đồi non, mà Huyền Thanh vẫn biệt vô âm tín.

    Mã Quân Vũ bận lòng về an nguy của sư phụ, không thể chờ đợi được nữa, liền cúi đầu nói với Ngọc Chánh Tử :

    - Sư thúc! Con xin xuống vực tìm sư phụ xem sao?

    Ngọc Chánh Tử thấy Quân Vũ có vẻ cương quyết, và chính bà cũng nóng lòng nên không cản trở, gật đầu dặn :

    - Con phải thận trọng. Nếu không tìm được sư phụ thì cũng phải lên ngay, không nên chần chờ ở dưới đó.

    Quân Vũ vâng lời, chạy ra bờ vực. Thanh Loan bước theo nói nhỏ :

    - Em cũng muốn xuống đó.

    Quân Vũ xua tay nói :

    - Tôi xuống một chút thì lên liền. Sư muội cứ chờ tôi.

    Dứt lời, chàng vịn bờ đá tung mình xuống vực. Xuống được mười trượng chàng cảm thấy hơi lạnh rợn người. Chàng vội vàng vận khí để chống với sức lạnh.

    Chàng vừa xuống vừa quan sát tình thế, thấy cái hầm ấy càng xuống càng thu hẹp lại. Xuống đến hai trăm trượng, thì đáy hầm chỉ còn bề rộng hơn một sải tay. Chàng lại thấy từ đáy hầm dần về phía Tây, nước ở khe chảy xuống đều trào ra phía đó. Giáp vách đá về phía Đông có một cái cửa, cao bằng đầu người đứng. Quân Vũ len mình tiến vào, thấy trước mặt có con đường hẹp, hai bên là vách đá chỉ vừa một người đi, đường ngoằn ngoèo và tối như mực. Đi một quãng thì thấy rộng dần và có ánh sáng.

    Đi một quãng nữa thì ánh sáng rõ dần, cảnh vật xung quanh tuyệt đẹp. Hai bên vách đá nhưng ánh ngọc thạch rọi ra những tia sáng long lanh, huyền ảo chẳng khác nào một thế giới lưu ly vậy.

    Thấy cảnh vật đẹp mắt, Quân Vũ bất giác buột miệng khen :

    - Thật là không thể tưởng tượng. Ai ngờ trong cái vực thăm thẳm, sâu hơn hai trăm trượng này lại có một bầu trời riêng biệt? Nếu không tự mình mục kích mà nghe ai kể lại cũng không thể tin nổi.

    Bỗng Quân Vũ nghe có tiếng thở dài phía trước, nhận ra đấy chính là tiếng sư phụ, chàng ngạc nhiên, vội rảo bước về phía ấy. Đi qua hai khúc quanh thì hai bên vách đá không còn nữa, cảnh vật mở rộng hẳn ra, một khoảng đất bằng, rộng độ một mẫu, có trồng đủ thứ cây trái. Huyền Thanh đạo nhân đang ngồi xếp bằng ở giữa vườn cây, nét mặt có vẻ trầm tư.

    Chàng lần bước đến, nhưng hình như Huyền Thanh đạo nhân chẳng hay biết gì cả.

    Chàng có cảm giác lạ lùng, vội chạy nhanh đến bên rừng hoa, định xông thẳng vào. Nhưng bỗng óc chàng thoáng nghĩ ra điều gì vội dừng lại.

    Chàng nhận thấy như sư phụ chàng đang bị vây khốn trong vườn hoa này, không thể nào tìm được lối thoát.

    Chàng biết rõ sư phụ chàng chẳng những võ công thâm diệu, mà còn thông hiểu cả về bát quái, dịch lý và ngũ hành kỳ môn nữa. Vạn nhất vườn hoa này người ta trồng theo thuật bát quái đồ thì sư phụ chàng cũng hiểu rõ phương hướng thoát ra dễ dàng có đâu lại khoanh tay ngồi đó.

    Lòng nghi hoặc, chàng thận trọng nhìn kỹ những lối trồng cây, thì thấy cây trồng tán loạn, không có thứ tự, không giống như thế trận bát quái.

    Nhìn một lúc lâu, Quân Vũ vẫn không tìm ra chỗ đặc biệt của vườn hoa.

    Thốt nhiên, chàng thấy sư phụ chàng đứng dậy suy nghĩ một lúc rồi rẽ sang bên trái, đoạn vòng sang bên phải. Mã Quân Vũ đứng ngoài thấy rõ sư phụ chàng đang chiếu theo bộ pháp ngũ hành kỳ môn, đi sang bên trái bảy bước, rẽ sang bên phải tám bước quanh đi quẩn lại mãi mà không ra trong vòng một trượng. Có lúc chàng thấy sư phụ chàng đã đi đến mép rừng, chỉ cần bước thêm mấy bước nữa thì ra khỏi, nhưng rồi lại quay trở lui về chỗ cũ.

    Chàng quá nóng ruột, vội lên tiếng, gọi :

    - Sư phụ bước thêm hai bước nữa!

    Chàng gọi rất lớn mà Huyền Thanh đạo nhân không hề nghe thấy gì cả, mà cũng chẳng quay đầu lại.

    Huyền Thanh đạo nhân đi một hồi rồi lại quay về chỗ cũ ngồi thở dài. Nhưng tiếng thở dài ấy Quân Vũ nghe rất rõ.

    Chàng nóng lòng quá, vì thấy sư phụ chàng bị khốn trong vườn hoa mà không sao cứu được. Sau một lúc suy nghĩ chàng tìm ra một biệt pháp. Chàng nhẩm đếm vườn hoa có tất cả là 9x9 = 81 cây. Chỗ Huyền Thanh bị khốn vào khoảng giữa. Nếu chặt hẳn đi một mặt bao nhiêu cây thì trận thế không còn hiệu lực nữa, mà sư phụ chàng chắc có thể thoát ra được. Có điều tám mươi mốt cây hoa này cây nào cũng tươi thắm, trông đẹp mắt, chết đi thực đáng tiếc.

    Nhưng dù sao việc cứu sư phụ là hệ trọng, không thể vì cái đẹp của cành hoa mà đáng tiếc.

    Chàng cả quyết, tuốt kiếm! Cứ mỗi lần vung kiếm là một thân cây ngã xuống.

    Quân Vũ lại hết sức thận trọng, mỗi lần chàng vung kiếm chém đều cúi rạp người xuống, đợi cho cây ngã xong mới dò bước đi. Khi không thấy có gì khác lạ chàng mới chém tới cây thứ hai.

    Chàng chém một lúc thì ngã được hai mươi bảy cây.

    Huyền Thanh đang thất vọng không còn biết phương pháp nào ra khỏi vườn hoa đột nhiên thấy trước mặt sáng hẳn. Nhìn lại thấy Quân Vũ đang cầm kiếm đứng ngay bên cạnh, ông ta thong thả đứng dậy nói :

    - Trận hoa này rất kỳ lạ, khác hẳn trận ngũ hành kỳ môn. Trận thế huyền diệu khôn lường, nếu không có đồ đệ nghĩ ra biện pháp này thì ta không thể nào thoát được. Nhưng tại sao ngươi lại xuống đây?

    Quân Vũ thuật lại việc mọi người nóng lòng chờ đợi bên trên.

    Huyền Thanh nói :

    - Dẫu nóng lòng, nhưng ta không thể nào bỏ lên sớm được. Vì một lần thám hiểm là một lần khó, phải tìm được kết quả nào. Ta sơ ý, suýt hỏng việc lớn.

    Quân Vũ hỏi :

    - Bây giờ có cần phải chặt cho hết vườn hoa này để lúc ra khỏi bị vây hãm nữa không?

    Huyền Thanh lắc đầu nói :

    - Không cần, con đã chặt mất hai mươi bảy cây thì vườn hoa đâu còn hiệu lực nữa. Chúng ta lần sâu vào trong xem sao.

    Mã Quân Vũ thấy chưa yên lòng, tay cầm kiếm dài đi mở đường. Chàng thấy cây hoa nào đứng gần đều phát ngay cho ngã xuống. Huyền Thanh đạo nhân mải suy nghĩ nên cũng để mặc cho chàng hành động.

    Bỗng Quân Vũ thấy quanh đấy lại có mấy đống xương, lớp đã mục, lớp còn nguyên. Có bộ xương đứng, có bộ xương nằm, có bộ xương ngồi, không giống nhau nhưng đều là xương người cả.

    Chàng quay lại hỏi Huyền Thanh đạo nhân :

    - Những bộ xương này đều là xương người cả hay sao?

    Huyền Thanh đạo nhân thở dài nói :

    - “Quy Nguyên mật tập” đã hại người như thế đó. Những người này trước đây cũng chỉ vì đi tìm “Quy Nguyên mật tập” bị khốn trong vườn hoa này đến nỗi bỏ xương. Nếu con không xuống đây và không có sáng kiến chặt vườn hoa này thì ta cũng góp vào đây một bộ xương nữa rồi.

    Quân Vũ nói :

    - Con đứng ngoài thấy sư phụ bị khốn, không biết cách nào, nghĩ rằng chỉ vì các cây hoa ấy đã làm hại sư phụ nên quyết định chặt nó. Đó cũng là hành động liều lĩnh, may là có kết quả.

    Hai người đi qua khỏi khu vườn thì có một con đường hẹp, hai bên vách đá cheo leo. Trước mặt có một cánh cửa bằng đá ngăn chận. Huyền Thanh đạo nhân liền vận nội lực đẩy tới, tức thì cánh cửa mở ra, trong đó có một hang rộng bằng ba căn phòng.

    Hai bên vách đá có gắn hai cục ngọc lưu ly rất lớn, tỏa ánh sáng lờ mờ. Giữa phòng có một cái bàn thạch bóng nhẵn. Trên bài thạch có một sư nữ và một đạo nhân ngồi xếp bằng trông rất nghiêm chỉnh. Trong phòng lại phát ra một mùi thơm khác lạ.

    Trước mặt hai người có để một ly hương lớn, trong đó tàn hương trắng xóa. Mùi thơm trong lòng phát ra là do ở bình hương đó. Cái mà Huyền Thanh đạo nhân chú ý nhất là phía trong bình hương có một chiếc hộp ngọc, bề dài một thước, bền ngang hơn ba tấc, chiếu lóng lánh trên mặt bàn.

    Huyền Thanh đạo nhân đoán ra một sư một đạo đó chính là pháp thân của Ngọc Long chân nhân và Tam Âm thần ni, mà thế nhân đã truyền tụng trước đây một trăm năm đó.

    Ông liền cúi rạp mình xuống tham bái. Mã Quân Vũ thấy sư phụ quỳ lạy rất cung kính cũng phải quỳ xuống lại theo. Nhưng chàng không khỏi thắc mắc, chẳng hiểu hai người ngồi trong thạch động này chết hay sống.

    Trong lúc quỳ lạy, chàng lén ngẩng đầu lên nhìn thì thấy hai pháp thể của hai vị đó ngồi im, đôi mắt nhắm kín như tham thiền nhập định.

    Chàng nghĩ thầm :

    - Cứ theo lời sư phụ thường nói thì hai vị này đã chết trước đây hơn một trăm năm. Thế sao xương thịt không bị tiêu tan mà vẫn giữ được nguyên hình như kẻ sống? Có lẽ hai vị cao nhân tiền bối này đã luyện được một phương phát đặc dị nào chăng?

    Tuy chàng thắc mắc nhưng thấy vẻ mặt của sư phụ chàng quá trịnh trọng, nên không dám hỏi.

    Huyền Thanh đạo nhân tham bái xong từ từ bước tới bàn thạch, nhìn kỹ chiếc hộp ngọc, thấy trên nắp hộp có khắc tám chữ lớn:

    “Mật tập trọng bảo trân kỳ mạc tuyển”.

    Qua một trăm năm lưu truyền trong các giới võ lâm về “Mật tập kỳ thư” này, chẳng khác nào một bảo vật quý giá nhất đời, mà lòng người ai cũng hằng mong ước.

    Nay được thấy của quý ấy trước mặt, Huyền Thanh đạo nhân là kẻ trầm tĩnh nhất mà tâm hồn cũng phải xao động. Nét mặt ông đổi khác, không thể đoán được ông ta mừng vui hay lo lắng. Chỉ thấy tay ông run run đưa tới, mở nắp hộp ngọc ra.

    Nắp hộp vừa mở, bên trong để lộ ra ba cuốn sách mỏng. Quyển sách đầu tiên trên bìa có đề bốn chữ “Quy Nguyên mật tập”.

    Mặt Huyền Thanh tái nhợt vì sung sướng, ông ta rút trong bọc ra một miếng vải vàng mỗi bề một thước, đặt trước bàn thạch, rồi trịnh trọng lấy ba quyển sách bỏ vào đấy gói lại đeo lên vai.

    Đoạn ông rạp mình bái lạy hai pháp thân của hai vị tiền bối một lần nữa, rồi mới từ từ dắt Quân Vũ bước ra, theo đường cũ trở về đáy vực.

    Đến nơi, Huyền Thanh từ dưới đáy thẳm vận khí nơi đan điền hét lên một tiếng dài. Tiếng hét có một công lực rất mạnh xé nước tung lên.

    Ngọc Chánh Tử và Ngô Không đại sư đang đứng trên miệng vực nóng lòng chờ đợi, bỗng nghe tiếng hét vang lên, ai nấy đều khoan khoái thở phào ra một hơi như trút được niềm lo lắng.

    Qua một lúc, mới thấy Mã Quân Vũ theo dây leo lên trước.

    Lý Thanh Loan từ khi Mã Quân Vũ xuống đáy vực thám hiểm, lòng nàng hồi hộp từng giây từng phút. Đôi mắt nàng không lúc nào rời khỏi cái đáy vực thăm thẳm kia. Đến khi thấy Mã Quân Vũ trồi đầu lên, nàng cười to một tiếng, và la lớn :

    - Kìa! Vũ ca! Vũ ca đã lên đến!

    Tiếp đó Huyền Thanh đạo nhân cũng nói theo Quân Vũ xuất hiện.

    Ngọc Chánh Tử vui mừng hỏi :

    - Sao ở dưới vực thẳm lâu như vậy? Cái gói đại sư huynh đeo trên vai có phải là “Quy Nguyên mật tập” chăng?

    Huyền Thanh đạo nhân gật đầu, nhìn qua mọi người, rồi mỉm cười đáp :

    - Tôi bị vây trong trạân hoa ở đáy vực, thiếu chút nữa là bỏ mình. May nhờ có Mã đồ đệ xuống kịp và có óc thông minh nên mới tìm được báu vật đó.

    Ngọc Chánh Tử quay mặt nhìn Mã Quân Vũ , rồi mỉm cười nói với Huyền Thanh :

    - Nó không những có óc thông minh mà còn đầy lòng quả cảm nữa. Đại sư huynh có được người đệ tử như vậy chắc phái Côn Luân chúng ta sau này có kẻ thừa kế rồi!

    Mã Quân Vũ được sư thúc khen, mặt đỏ bừng, không nói ra lời.

    Huyền Thanh đạo nhân nhìn Quân Vũ tỏ vẻ ái ngại. Ông ta thầm nghĩ :

    - Bây giờ lấy được mật tập rồi, nhưng chưa phải là đã hết khó khăn. Việc tiếp theo là phải tìm một nơi hoang vu cô tịch để nghiên cứu. Trong mật tập thế nào cũng có nhiều khó khăn, mà không phải một năm hai năm có thể thấu đáo nổi. Trong lúc đó thì các cao thủ võ lâm đâu chịu để yên, chúng đến cướp giật, gây nhiều khổ sở cho phái Côn Luân ta, mà bọn đồ đệ trẻ tuổi không thể nào tránh khỏi thảm họa. Việc đánh giết này không phải một cuộc trả thù cá nhân, mà nó là một đại sự, ảnh hưởng khắp giang hồ, bất cứ môn phái nào cũng tham chiến, dự phần vào cuộc tranh giành thảm khốc này.

    Suy nghĩ một lúc không tìm ra cách nào để giải thoát cho các đồ đệ của ông được, Huyền Thanh đạo nhân thở dài não nuột.

    Ngọc Chánh Tử thấy đại sư huynh được “Quy Nguyên mật tập” đã không vui, mà nét mặt đầy vẻ lo lắng, liền hỏi :

    - Đại sư huynh có điều gì khó nghĩ?

    Huyền Thanh đạo nhân nói :

    - Có được bảo vật càng phải lo lắng nhiều hơn, vì nó là một “khoáng thế kỳ thư di bảo” mà cũng là một căn nguyên của tai họa trong giới võ lâm.

    Ngọc Chánh Tử sực nhớ đến tâm da rắn của bà vừa lấy được, vội mở ra chỉ cho Huyền Thanh đạo nhân xem, và nói :

    - Lần đi Quát Thương sơn này tôi cũng không phí công. Trong lúc đại sư huynh lấy được “Quy Nguyên mật tập” thì tôi cũng được một “võ lâm kỳ trân”. Sư huynh xem đây.

    Huyền Thanh đạo nhân lấy tấm da rắn để dưới ánh nắng mặt trời xem xét thấy trên da lóng lánh như sao, đúng là da của loại “Hắc lân thiết giáp xà”, mỉm cười gật đầu nói :

    - Tấm da “Hắc lân thiết giáp xà” mà to như thế này thực là một vật vô cùng quý giá, ít khi kiếm được. Sư muội tìm đâu ra vậy?

    Ngọc Chánh Tử vồn vã nói :

    - Kể ra cũng chỉ là chuyện may thôi, chứ một quái xà to như thế dẫu có gặp cũng không thể nào bắt nó được. Tuy nhiên, giờ đây hai vật báu đã vào tay phái Côn Luân. Một là “Quy Nguyên mật tập”, hai là “Thiết Giáp xà” thì phái Côn Luân chúng ta có đủ điều kiện xưng hùng trong chốn võ lâm sau này.

    Ngọc Chánh Tử chưa nói dứt lời, thì bỗng nhiên có một tràng cười lanh lảnh vọng đến. Tiếng cười tuy không to nhưng nghe rất rõ.

    Huyền Thanh đạo nhân thất kinh đứng phắt dậy, đưa hai luồng nhãn quang tìm khắp bốn phía. Nhưng lạ thay, tiếng cười rất gần mà không thấy ai cả.

    Huyền Thanh đạo nhân công lực đã cao, có thể nghe rõ một chiếc lá rơi trong vòng năm trượng thế mà người này cười ngay ở bên ông mà ông cũng không biết họ đến tự lúc nào và biến ẩn nơi đâu.

    Cả Ngọc Chánh Tử và Ngô Không đại sư cũng nhận thấy tiếng cười rất quái lạ.

    Người nào cũng nhớn nhác đưa mắt tìm tòi nhưng tuyệt nhiên không nhận ra vết tích gì.

    Bỗng có tiếng Thanh Loan gọi :

    - A! Bạch hạc lại bay tới rồi!

    Huyền Thanh, Ngọc Chánh Tử và Ngô Không còn đang chú ý tìm tông tích người vừa phát ra tiếng cười quái lạ, nên không để ý đến biến cố xảy ra trên đỉnh đầu.

    Đến khi nghe Thanh Loan nói thì đã muộn. Họ vừa ngẩng đầu lên thì bạch hạc đã cuộn gió bay vút qua bên Huyền Thanh, vừa thò chân quặp lấy miếng da mãng xà rồi.

    Ngọc Chánh Tử đứng gần sát bên Huyền Thanh, thấy bạch hạc đột nhiên đáp xuống quặp tấm da rắn, trong lòng vừa tiếc vừa giận, quát to một tiếng lớn, phất tay áo phi thân theo, đánh một chưởng vào bạch hạc, luồng kình phong veo véo. Bạch hạc bị quây lộn một vòng, rồi lại cất cánh bay vút tận mây xanh, ré lên một tiếng lớn.

    Ngọc Chánh Tử vận dụng hết nội lực, đánh ra một chưởng với sức mạnh có thể tan bia vỡ đá, mà vẫn không hạ được bạch hạc, lòng vừa tiếc, vừa giận, vừa thẹn, nên sau khi đã đứng được xuống mặt đá, bà ngước đầu nhìn trời, mặt buồn tênh, không nói gì cả.

    Huyền Thanh thấy vậy bước đến bên bà tìm lời an ủi :

    - Con bạch hạc này đánh chết một con mãng xà dài hai trượng thì phải là một loài có sức mạnh phi thường. Nó chỉ quặp lấy tấm da rắn mà không đánh người, đủ biết nó là một loài linh điểu. Mà linh điểu này tất phải có một kẻ nào nuôi dưỡng. Một đòn “Phách Không chưởng” của sư muội ít nhất cũng nặng tới năm sáu trăm cân, đừng nói gì loài chim, ngay đến loại mãnh thú như hổ báo cũng phải chết ngay với chưởng đó, thế mà bạch hạc vẫn an toàn vô sự. Cứ lấy đó mà suy, thì chủ nhân nuôi bạch hạc này phải là bậc tiên hiệp. Tiếng cười vừa rồi biết đâu không phải là chủ nhân của con bạch hạc ấy. Vả lại, con hạc đánh chết mãng xà biết đâu chẳng phải là lệnh của chủ nhân nó sai khiến. Và, giờ đây cũng chính lệnh của chủ nhân nó sai đến cướp tấm da lại. Chúng ta đã mất tấm da quý rồi, ở đây lâu nữa cũng vô ích, chi bằng rời khỏi nơi đây cho sớm là hay hơn.

    Ngọc Chánh Tử thở dài, gật đầu. Mọi người đều vội vã cất bước theo lối thâm cốc trở ra đường cũ.

    Đi được một hồi lâu thì đến chỗ Quân Vũ gặp Thanh y quái nhân lúc trước. Ai nấy đã có vẻ mệt mỏi, nên ngồi lại đó nghỉ ngơi và đem lương khô ra ăn.

    Sáu người ăn xong, đang ngồi trò chuyện thì đột nhiên có một tiếng cười vang dội từ trong u cốc vọng ra.
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Thành viên đang xem bài viết (Users: 0, Guests: 0)