Linh Dị Tặc Miêu - Thiên Hạ Bá Xướng ( Full )

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Alpha Wolf

    Alpha Wolf Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/5/15
    Bài viết:
    1,211
    Được thích:
    169

    Tặc Miêu


    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng

    Hồi 4 - Cáo ba mắt


    Nguồn: truyenngan.com.vn



    Lại nói trước lúc Nhạn doanh ra trận, sau cuộc rượu, Trương Tiểu Biện dẫn các tiêu quan thuộc hạ đi nghe kể chuyện "Rải đậu sông La Sát"

    Vốn là vị tiên sinh nọ đã nhìn ra số phận kì lạ của Trương Tiểu Biện, biết hắn đang rước họa lớn vào thân, hơn nữa sẽ còn liên lụy đến tất cả quân dân trong thành Linh Châu, không phân già trẻ, gái trai, cho tới chó gà cũng đều phải chết hết. Chỉ có điều chuyện này không hề tầm thường chút nào, ông ta cũng không dám nói thẳng sự tình, đành mượn một mẩu chuyện xưa mách bảo. tuy câu chuyện kể ra không liên quan trực tiếp với cảnh ngộ của Trương Tiểu biện nhưng kỳ thực, đạo lý ở bên trong thì rất tương đồng.

    Cái gọi là "Sách chẳng cần dày, có đạo thì hay; lời chẳng cần dài, có lý thì phải" Muốn hỏi đạo lý trong câu chuyện của vị tiên sinh đó là gì chăng? Ông ta đang định mách bảo Trương Tiểu Biện là: "Từ xưa đến nay không có gì tự dưng từ trên trời rơi xuống, tuy tiểu tử nhà ngươi hôm nay uy phong thế nhưng sớm muộn gì cũng có ngày phải trả hết nợ nần, ác quỷ sẽ tìm đến trước cửa. tới lúc đó, có muốn hối cũng muộn.

    Thế nhưng, sự thật mất lòng, Trương Tiểu Biện tuy ngầm hiểu rõ ý tứ, trong lòng thấy bất an, song thâm tâm hắn luôn tự nghĩ mình tuyệt đối không phải hạng phàm phu tục tử, mà số phận đã định sẵn việc Trương Tam gia được hưởng vinh hoa phú quý, hoạn lộ thênh thang, đời nào hắn chịu tin vào miệng lưỡi của vị tiên sinh nọ.

    Trương Tiểu Biện đảo đảo tròng mắt, lại nghĩ rằng, sống chết có số, phú quý nhờ trời, hơn nữa, Trương Tam gia vốn là kẻ nghèo rớt mùng tơi, chí có mỗi món bắt gà, trộm chó chật vật sống qua ngày, có được ngày hôm nay âu cũng là hợp với lẽ "bĩ cực thái lai". Trên là trời, dưới là đất, con người ta ở đời chỉ như bầy cá, được sung sướng một ngày là tốt một ngày rồi

    Tiên sinh kể chuyện lén đưa mắt nhìn, thấy Trương Tiểu Biện vẫn tỏ vẻ nhơn nhơn dường như không để ý câu chuyện vừa rồi, ông ta biết việc mình làm chẳng khác nào đàn gảy tai trâu, chỉ cười nhạt trong lòng, chỉ chắp tay nói với khách: "Hôm nay may mắn được kể hầu chư vị quan gia một câu chuyện, cũng coi là chúng ta có duyên với nhau. Bọn người kể chuyện như tôi đây chẳng qua dựa vào mồm mép để kiếm tiền sinh sống qua ngày, không kể mấy chuyện tình tứ thì cũng kể mấy chuyện lạ, để mong người ta dễ nghe là được rồi, đương nhiên không phải là việc thực, thế nên có chỗ nào sơ suất, cũng mong các vị quân gia lượng thứ cho. Đáng tiếc là tiệc vui cũng có lúc tàn, chuyện dài rồi có hồi kết thúc" Nói đoạn, ông ta bảo thời giờ cũng không còn sớm nữa, rồi sai thư đồng tiễn khách.

    Bọn Nhạn Bài Lý Tứ và Tôn Đại Ma Tử không hiểu rõ huyền cơ bên trong, chỉ mong nghe tiếp mấy sự tích mới mẻ, sinh đông. Tuy cả bọn chưa đã hứng nhưng cũng đành thôi, đều cảm tạ rằng: "Chuyện tiên sinh kể quả là ly kỳ, nhất định hôm khác chúng tôi sẽ lại xin được nghe tiếp" DDaonj mọi người chắp tay từ biệt, theo Trương Tiểu Biện về trong doanh.

    Mấy hôm nay mưa lớn không dứt, mấy chỗ để xung quanh Linh Châu bị vỡ, lập tức lũ lụt tràn lan, ngập rát nhiều xóm làng và đường xá. Tuần phủ Mã đại nhân tuy là quan lớn trong tỉnh nhưng địa bàn nắm giữ trong tay hết sức có hạn, các nơi xung quanh phần lớn đã bị Việt khấu nắm giữ cả rồi. Thế giặc trước mặt đang thịnh, khó lòng khống chế, mau mà trời giáng một trận mưa lớn, khiến lũ quét tràn về nhấn chìm vô số Việt khấu, mấy vạn quân Việt khấu đang vây thành Linh Châu mất đi tiếp viện, lại thêm vào đó là lương thảo không đủ cung ứng, đợi đến khi mưa ngừng nước rút, nhất định chúng sẽ rút quân.

    Mã Thiên Tích thấy hao hôm nay mưa đã bớt đi nhiều, quan sát tình hình, đoán định quân Thái Bình nhất định sẽ tạm hoãn đánh thành, đợi đến khi đi cướp bóc xung quanh một trận, bổ sung đủ lương thảo và quân lính mới có thể tổ chức đánh thành lần nữa. Thấy đường xá xung quanh đều bị lũ lụt làm hư hại nặng, liệu chừng nếu không có quân thủy tiếp ứng, quân thái Bình đông như thế chỉ còn cách rút lui theo lối Hoàng Thiên Đăng ở phía Nam.

    Chính vì vậy, Mã đại nhân đã sai Nhạn doanh nhân đêm tối qua cửa Thủy môn ra khỏi thành, mai phục trên con đường quân Thái Bình bắt buộc phải đi qua để giết cho chúng trở tay không kịp, dẫu rằng không tiêu diệt được cả nhưng chí ít cũng làm nhụt nhuệ khí của bọn Việt khấu, để chúng nghe hơi mà kinh hồn táng đởm, trong thời gian ngắn sẽ không dám quay lại xâm phạm Linh Châu. Được như thế thì quan phủ mới có thời gian để chỉnh đốn quân bị, chiêu mộ và luyện tập lính diongx mới, cũng cố bố phòng trong thành.

    Trương Tiểu Biện thấy trời đã tối, mưa đã ngừng liền dẫn binh lính Nhạn doanh thắp hương, cùng vái trước thần vị của Miêu Tiêm, khấu đầu caaiu xin Miêu Tiên gia rất mực linh thiêng, từ bi vô bờ phù hộ Nhạn doanh ra quân đắc thắng, mã đáo thành công. Đoạn, mọi người đều nai nịt gọn gang, sai gần một ngìn lính dõng, ai nấy đều vác thuốc nổ, mang súng đạn, mở cửa thủy môn dưới thành, cưỡi thuyền nhẹ ngầm ra ngoài.

    Lúc ấy, mây mù che kín, bốn phía đen như mực, ngoài thành chỗ nào cũng có Việt khấu, Nhạn doanh không dám dùng đèn đuốc gì. Dân săn nhạn quen đi săn bắn vào lúc đem khuya nên nhãn lực phi thường, mò mẫm đẩy từng chiếc thuyền nhẹ đến sông rồi vòng theo đường thủy đến thẳng Hoàng Thiên Đăng, thực là thần không biết, quỷ không hay.

    Trương Tiểu Biện tuy được đề bạt là quân quan nhưng chẳng biết một chút gì về chiến trận, may mà có bọn Nhạn Bài Lý Tứ và Nhạn Linh Nhi ở bên cạnh vốn là những người từng trải trăm trận. Cánh mãi lộ trong Nhạn doanh trước đây từng đánh nhau với quan binh càn quét, đồng thời cũng từng chém giết với cánh lính dõng ở địa phương, bây giờ lại đáh với quân Thái Bình, thực không kể xiết đã làm bao nhiêu việc giết người, phóng hỏa, hơn nữa Hoàng Thiên Đăng chính là sào huyệt cũ của Nhạn doanh, đến được đó tức là chiếm được thiên thời, địa lợi, dẫu cho quân Thái Bình có mười vạn ắt cũng bị đánh cho một trận tơi bời hoa lá.

    Thuyền đi trọn một đêm thì trời đã hơi hửng, may mưa đã tạnh hẳn, bọn Trương Tiểu Biện ngồi trên đàu thuyền nhìn bốn phía xung quanh chỉ thấy trời đất vẫn một màu u ám, trên mặt nước toàn các xác chết bập bềnh, có lời rằng: "Người dậy xát cơ, ngoại cnarh biết ngay; trời động sát cơ, người đâu có hay" Vào lúc thiên hạ loạn lạc, khắp nơi đều có cảnh tàn sát lẫn nhau, ấy cũng là bởi ông trời đã động ý niệm giết choc. Chỉ riêng cuộc trấn áp Thái Bình Thiên Quốc của triều nhà Thanh trong vòng mười mấy năm cũng khiến cho số người chết vì thiên tai địch họa lên tới hơn bảy chục triệu người, trong khi thời đó, tổng dân số của nước Đại Thanh có được bao nhiêu? ở những tỉnh xảy ra chiến vụ ác liệt nhất thì mười họ mất đi chín, lửa bếp nguội lạnh, đi mấy chục dặm cũng không gặp một bóng người, cho dù là những thôn làng không bị nạn lũ lụt thì phần lớn cũng đã vườn không nhà trống, đổ nát điêu linh, đến tiếng gà gáy chó sủa cũng không có, đâu đâu cũng đầy mùi tử khí nặng nề.

    Trương Tiểu Biện đã làm môt doanh quan của Nhạn doanh, trong lòng vốn hết sức đắc ý, nhưng đứng trên thuyền chứng kiến cảnh đổ nát thê thảm do thiên tai địch họa gây nên, trong lòng bất giác nhận ra rằng nếu loạn thế bất giác còn chưa dứt thì khó mà sống cho sung sướng được, bèn nói với mọi người: "Ta xem ra, trước vận bước hưng vong thì kẻ thất phu cũng phải gánh vác, Nhạn doanh chúng ra xả thân liều chết để dẹp giặc giã chẳng vì cái gì khác, chỉ mong sớm được cảnh quốc thái dân an, để bách tính trong thiên hạ đỡ phải chịu cảnh loạn ly đau khổ"

    Bọn Nhạn Bài Lý Tứ và Tôn Đại Ma Tử, Nhạn Linh Nhi đều đồng thanh khen phải, thán phục sát đất, biết đâu rằng, Trương Tiểu Biện thầm toan tính: "Nếu không dân không giàu, nước không mạnh, không phải là một thời thái bình thịnh trị thì Trương Tam gia ta dẫu có gia sản ức vạn thì cũng lấy đâu ra chỗ để ăn tiêu, hưởng lạc. Thân làm quan to sẽ phải gánh các lo âu cho quan trên, dân dưới, cái gọi là: "Tướng quân mặc giáp đêm qua ải; quan lại năm canh khắc khoải chờ", cả ngày bôn ba lao tâm khổ tứ thì còn vui vẻ gì chứ?"

    Nhạn Linh Nhi thấy bên cạnh Trương Tiểu Biện có một con mèo đen tuy trông lười nhác nhưng có cặp mắt vàng rực, đảo liếc xung quanh rất linh động. Con mèo này xưa nay gắn chặt với Trương Tiểu Biện, không bao giờ gàn với người ngoài, cô ta hết sức tò mò hỏi: "Tam ca! Nghe người ta nói hồi huynh làm Bài đầu của nha môn Linh CHâu toàn nhờ vào sự giúp đỡ của bầy mèo hoang mà bắt sống được mấy tên cướp như Phan hòa thượng và Bạch Tháp chân nhân, liệu chuyện này có thật không?"

    Trương Tiểu Biện vốn có ý khoe khoang chuyện anh hùng của mình, bây giờ lại được Nhạn Linh Nhi hỏi đúng chỗ ngứa, hắn liền đáp:"Ta và mèo hoang, trời sinh đã có duyên với nhau, nói về chuyện mèo nhà, mèo hoang trong thành Linh Châu thì thực là rất ly kỳ. ly kì như thế nào? Đúng là: "Trời chia đất mở chưa từng thấy, từ cổ chí kim ít kẻ hay". Lại nói về lão kể chuyện to mồm không biết xấu hổ hôm qua, còn dám xưng là" Đánh giá ngay, gian binh thiện, ác; Liệt kẻ xấu, tốt luận cổ kim" Hắn chẳng qua cũng chi nhai đi nhai lại mấy cuốn sách cũ, đến caauc huyện mèo già nói được tiếng người cũng không biết. CHỉ giận loại người có mắt không tròng đó, không biết chúng ta đều là anh hùng hảo hán đương thời. Nếu hắn chịu đi theo làm gia sư ở cạnh Tam gia ta, đảm bảo sẽ mở mang được nhiều kiến thức, chỉ riêng sự tích bầy mèo hoang Linh Châu của chúng ta cũng đủ cho hắn soạn được mấy chuyện ăn khách rồi"

    Trương Tiểu Biện ngồi trên thuyền trong quân trảy đi, thấy bốn bề mênh mông, còn xa nữa mới tới được Hoàng Thiên Đăng, bèn thuận miệng ứng đáp, nhân có mấy người bên cạnh mà tán khoác về "Miêu kinh", nói rằng mèo hoang Linh CHâu chúng ta có từ đời Hán, hết sức có linh tính và thần thông, ít nhất cũng có hơn hai trăm loại nổi tiếng, các loại mèo thường ở địa phương khác không sánh kịp. Đừng tưởng chúng cả ngày chỉ biết chơi đùa nghịch ngợm mà nhầm, kỳ thực không có sự tình gì của loài người mà chúng không hiểu, không chỉ riêng chuyện cảm hứng với việc hung cát, họa phúc mà còn có nhiều năng lực thàn kỳ khác.

    Mèo Linh Châu không con nào là không pha hai màu lông, phàm là loại này, thì đều giỏi chế Miêu nhi dược. Hồi xưa, Miêu tiên gia cũng đã từng đi khắp hang cùng ngõ hẻm bán Miêu nhi dược cứu nhân độ thế, trị không biết bao nhiêu nan y tạp chứng. Nhưng loại Miêu nhi này chỉ có lũ mèo hoang mới biết cách phối chế, ngay Đàm đạo nhân cũng không biết hết bí phương. Tuy tinh thông thuật về mèo nhưng ông ta cũng không thể nắm hết được Thứ Miêu nhi dược thiên biến vạn hóa đó.

    Thì ra trong ngoài thành Linh Châu mọc rất nhiều thảo dược, giả dụ mèo bị rắn độc, bọ cạp cắn trúng, hoặc bị thương tổn gì, nó đều tự biết đi hái mấy loại thảo dược về nhai chung với thức ăn để trừ độc chữa thương, đó chính là Miêu nhi dược có thể trị khỏi nhiều bệnh, rất công hiệu, tuy nhiên, việc phối chế thuốc lại phải thay đổi theo thời tiết. Cho tới nay thì không ai biết bọn mèo hoang làm cách nào chế ra loại linh đan có công dụng cải tử hồi sinh đó.

    Trương Tiểu Biện nói đến đoạn hứng khởi, bọn Nhạn Linh Nhi chăm chú nghe thì bỗng có một tiếng còi nhạn, ai nấy đều cả kinh, biết rằng có biến. Những tưởng trên đường gặp phải cướp, lại không biết kẻ địch có bao nhiêu, mọi người đều lăm lăm tay súng, nhưng chỉ thấy từ đằng xa có một vật đang phập phềnh trôi tới.

    vật đó theo sóng dập dềnh trôi đến càng lúc càng gần, trong phút chốc đã cách đội thuyền của Nhạn doanh một khoảng bằng tầm bắn tên, mọi người mới nhìn rõ thì ra là một òn hồ ly già rất lớn đang ôm một quả dưa to, trôi nổi trên mặt nước . Con hồ ly ấy có một đốm trắng trên trán, thoáng nhìn trông như có ba con mắt. Nó nhướng mắt nhíu mày cười trên quả dưa, tuy gặp phải mấy chục chiếc thuyền của Nhạn doanh và hàng loạt mũi súng, cánh cung đang dương lên nhưng không mảy may sợ hãi, tỏ ra như không trông thấy ai.

    Lính dõng Nhạn daonh tuy anh dũng thiện chiến nhưng rất mê tín vào quỷ thần. Thấy con hồ ly ba mắt đang cưỡi một quả dưa bơi trên sông, lại không biết sợ người, ai nấy cho rằng con vật kì quái này chắc hẳn đã thành tinh, có lẽ là điềm dữ, nhưng chỉ e giết nó sẽ gặp ơhari điều chẳng lanh. CHính vì vậy, họ chí dám giơ súng chứ nào ai dám động thủ hạ sát.

    Nhạn Bài Lý Tứ thấy con hồ ly có vẻ quái dị, biết nó là vật chẳng lành, hẳn có gì cổ quái, bèn nghiến răng nói: "Con nghiệt súc nàh người đến thật không đúng lúc, xem ra kết thúc tính mạng của ngươi đây... " gã sợ tiếng súng gậy kinh động nhẹ nhàng rút loan cung đầu nhạn từ trên vai xuống, lắp một mũi tên lông đuôi nhạn trắng, chuẩn bị bắn chết nó. Trương Tiểu Biện vội ngăn lại nói: "Từ ca hãy khoan! Con hồ ly ba mắt này có lẽ là chủ tâm đến tìm chúng ta, không thể mạo muội giết được."

    Thật đúng là: "Khuyên người chớ kết thù gây oán; thù oán đã gây tựa bể sâu." Muốn biết chuyện sẽ thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.

     
  2. Alpha Wolf

    Alpha Wolf Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/5/15
    Bài viết:
    1,211
    Được thích:
    169

    Tặc Miêu


    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng

    Hồi 5 - Hoàng Thiên Đăng


    Nguồn: truyenngan.com.vn



    Lại nói, đám mây do Phong Vũ chung ngưng tụ đã hóa thành trận lụt lớn, bốn phía bên ngoài thành đều trũng thấp nên bị ngập trong nước lũ. Đội thuyền của Nhạn doanh rời thành Linh Châu, giấu kín hành tung, theo đường thủy tiến về Hoàng Thiên Đăng, dọc đường đi chỉ thấy cảnh tượng thể lương do cơn lũ gây ra.

    Nào ngờ đi đến nửa đường, bỗng gặp phải một con hồ ly già ba mắt. Con hồ ly đó bám trên một quả dưa trôi từ đằng xa lại, trong chớp mắt đã đến cạnh mọi người. Nhạn Bài Lý Tứ thấy con vật rất quái lạ, không biết báo điềm lành, dữ ra sao, liền động sát cơ, giương cung lắp tên định bắn chết nó.

    Trương tiểu Biện đứng trên thuyền nhìn chăm chú, chợt nhớ ra mình dã từng thấy con hồ ly này trong Hoang Táng lĩnh. Lúc ấy, nó bị bầy chó hoang đuổi vào tuyệt lộ, phải nảh viên nội đan để chuộc mạng, về sau Trương Tiểu Biện giết con Thát tử khuyển, móc được viên ngọc từ trong bụng con chó dữ. Viên ngọc đó do hồ ly hấp thụ tinh hoa từ mặt trăng, mặt trời lâu năm mới luyện thành, sao có thể để mất dược? Lúc ấy, nó cưỡi quả dưa dập dềnh theo dòng nước đến đây, chắc hẳn định đòi Trương Tiểu Biện trả ngọc.

    Trương Tiểu Biện tuy chuyên nghề du đãng, là chúa thích gây rắc rối, nhưng trước việc quan cấp bách phải đến Hoàng Thiên Đăng để mai phục, chuyện thành bại, phú quý của cả đời hắn đều ở trận này. Hắn đâu dám sơ suất chút nào, đương nhiên không thể để lỡ chỉ vì một viên ngọc hồ ly. Nghĩ đến đây, hắn vội ngăn cung tên của Nhạn Bài Lý Tứ, lại nói đó alf hồ ly tiên không chừng, phàm lạ vật dị thường, tuyệt đối không được khinh suất sát hại, nếu không ắt sẽ rước họa vào thân, chi bằng mở cho nó một con đường sống.

    Hồi trước, Đường Thái tông Lý Thế Dân tha mạng cho một con rắn Xích luyện xà mà về sau có thể đăng cơ làm vua thiên hạ, Y thánh Tôn tư Mạo hồi trẻ cũng đã trị bệnh cho một con rồng già ở đáy giếng mới được truyền cho bốn cuốn kỳ thư, từ đó y thuật có bước nhảy vọt. Có thể thấy rằng, phàm là vật bất thường, chắc chắn sẽ có linh tính, nếu chưa từng gây họa cho nhân gian thì không nên tùy tiện giết nó. Kẻ tích đức được phúc, kẻ gây họa sẽ bị báo oán, trong cõi u minh đều có mối quan hệ nhân quả, xưa nay việc lành dữ, nhân quả đều ứng nghiệm về sau.

    Nhạn Bài Lý Tứ nghe thấy thế, king ngạc nói: "Thì ra là thế", đoạn liền thu loan cung đầu nhạn lại. Chỉ thấy Trương Tiểu Biện móc trong bọc ra một viên ngọc, giơ nhử về đằng trước, con hồ ly nhận thấy từ xa, tựa như hiểu ý. Vốn nó nấp trong thâm sơn cùng cốc, khi lũ lớn cuốn đến, vô số muông thú trong núi bị nước dìm chết, riêng nó cưỡi được một quả dưa nổi trên nước tránh được tai họa, may thay đã giữ được tính mạng, cũng không biết đã quẫy đạp mất bao nhiêu lâu, chẳng ngờ số trời run rủi, cơ duyên xảo hợp thế nào, rốt cuộc lấy lại được viên ngọc từ doanh nhân chữ Nhạn, thực đúng là:"Của rơi đáy nước nay tìm được; Kim mất bể sâu lại trở về" Con hồ ly trôi lại gần, há mồm nuốt viên ngọc vào bụng, tự vẫy đuôi chồn rẽ nước, ôm quả dưa trôi xuôi đi xa, chẳng mấy chốc khuất sau một dốc núi, không thấy tung tích đâu nữa.

    Việc thiện, ác trong lòng người ta vốn chỉ wor trong một ý niệm mà thôi. Dẫu đã tính toàn kĩ càng hay chỉ một phút sơ ý, hễ phát sinh ác ý lập tức có hung thần đến ngay, nếu người ta có ý lương thiện lập tức sẽ có phúc thần phù trợ. Trương Tiểu Biện chẳng mấy khi nảy ra được lòng thành, không cho Nhạn Bài Lý Tứ giết con hồ ly ba mắt, tự cho rằng mình làm một điều nghĩa cử tích đức hành thiện. Nhưng thực chất, hắn cũng không biệt được đâu là yêu tà, đâu là thiện ác, việc làm đó rốt cuộc sẽ là lành hay dữ thì phải chờ xem đoạn sau mới rõ, trước mắt tạm chưa bàn tới.

    Đoàn thuyền Nhạn dopanh đi tiếp hơn mười dặm nữa, trông xa xa thấy mặt nước mênh mông, lau lách mọc um tùm, cuối cùng cũng đã đi vào địa giới của Hoàng Thiên Đăng. Thuyền đi tiếp vào trong, nhòn bốn phía thấy từng cơn gió thổi qua khiến bông lau bay rợp trời, trên không trung xam xám, thi thoảng lại cso mấy con nhạn lạc đàn thảng thốt bay qua, cũng không biết đi đâu về đâu nữa, thực là: "Ngàn lau mặt nước tơ bay loạn; Đoàn nhạn trên không thoáng vụt qua"

    Nhạn Bài Lý Tứ giải thích địa thế vùng này cho Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử: "Khu đầm lầy này vốn là một cái hồ cạn lớn, xưa nay là nơi đàn nhạn hoang di trú nhất định phải đi qua. Chỗ này, phía Bắc gần với Trường Giang, phía Nam giáp với Lục CHâu, không rõ là rộng bao nhiêu dặm, hình thế rất hiểm ác. Trong đầm còn có vô số chuột nước tha rơm rác, bùn đất tạo thành các con đê thiên nhiên, hình dáng như ba vòng đồng tâm. Đê của lũ chuột vô cùng đặc biệt, có thể điều tiết được lũ hồ lên xuống, vì vậy mặc cho bên ngoài nước lũ có to đến mấy, mực nước bên trong đầm vẫn không thay đổi, trpng cả một năm luôn giữ mức nước và bùn xâm nhập. Nhạn dân chúng tôi từ xưa tới nay đều sinh sống bằng nghề đánh cá và bắt nhạn, hiểu rõ các chỗ hố, vũng, ao, đầm và mực nước nông sâu"

    Quân Thái Bình vây công Linh Châu không có quân thủy tiếp ứng, tới giờ bị đứt nguồn lương thảo, chỉ có thể rút về pía Nam theo đường bộ, nhưng đường xá vùng xung quanh đều dã bị lũ lụt làm hư hại. Quân Thái Bình kịch chiến mấy ngày trời, rốt cuộc không hạ được thành Linh Châu, muốn bỏ đi thì lâm vào cảnh không còn đường rút lui, vì vậy bất đắc dĩ pải men theo con đường đê của chuột nước trong Hoàng Thiên Đăng mà rút về Nam.

    Trương Tiểu Biện thân làm doanh quan cảu Nhạn doanh, nhưng hắn chẳng thông hiểu gì về cách hành binh, bày quân bố trận, lại nghĩ thế quân Việt khấu cực lớn, bên mình chẳng qua chỉ có một doanh lính dõng, nhiều nhát cũng không đủ một nghìn người, ít hơn tới mười lần. Trước lúc đại chiến, hắn không khỏi lo ngại làm thế nào để đổi phó cho nổi.

    May mà Nhạn Bái Lý Tứ từng theo Lão Nhạn Đầu đánh trận nhiều năm, chỉ có điều cánh nhạn dân như họ xuất thân từ đám mãi lộ, nên tuy dược thu dụng và biên vào lính dõng Linh CHâu, nhiều lần lập chiến công nhưng vẫn bị người ta dị nghị về quá khứ, trước sau khó được quan phủ tín nhiệm. Nhưng Nhạn Bài Lý Tứ và Trương Tiểu Biện trước sau đã kết nghĩa an hem, đương nhiên gã phải tận tâm, tận sức giúp đỡ. Gã điềm nhiên nói với Trương Tiểu Biện: "Tam ca chớ lo âu, nước đến thì đất chắn, binh đến thì tướng ngăn, quân tinh nhuệ của giặc tóc dài chẳng qua cũng chỉ một, hai phần mười, còn lại toàn đám ô hợp, căn bản không thể chịu được một đòn. Huống chi, hoàng Thiên Đăng là sào huyệt của ta, đường thủy ngoắt ngoéo phức tạp, người ngoài rất khó biết được. Đã dám đến địa bàn của chúng ta đây thì dù là Việt khấu cũng chỉ có đi mà không về, đến một đưa thì chết một đứa, đến hai đứa thì bỏ mạng hai đứa, chỉ sợ bọn chúng đến không đông mà thôi.

    Nhạn Bài Lý Tứ nói xong liền giơ tay ra lệnh cho lính dõng dừng thuyền. trong doanh ai nấy đều mang theo một cái còi nhạn. Cái còi này chế ra từ xương sọ của nhạn hoang, khi thổi lên thì tiếng kêu hết sức thế lương, saau thẳm, có thể bắt chước được tiếng nhạn kêu. Lúc ấy, tiếng còi nhất loạt vang lên làm kinh động bốn bề.

    Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử là người dân ngoài nghề, không biết vì sao toàn doanh lại thổi còi nhạn, chực hỏi rõ thì thấy từ đám lau lách, lối nước um tùm ở bốn phía bỗng xuất hiện vô số bè tre, người trên bè thì đầu đều cắm lông đuổi nhạn, người khóac áo tơi, nhưng trên tay đều cầm vũ khí giết người như súng tực hế, tiêu tre, chĩa đâm cá, phi tiêu ngạch, nhạn linh đao.

    Vốn hồi trước, Lão Nhạn Đầu muốn tìm một kiểu thoát trong thời loạn thế nên dẫn rất nhiều dân loạn về thành Linh Châu làm lính dõng, nhưng trong đầm vẫn còn lại không ít thợ săn nhạn. những người ở lại tuy phần lớn đều là ông già, bà cả, phụ nữ, trẻ ưm nhưng xét trên tổng thể thì số người có thể cầm đao giết người cũng không dưới hai nghìn. Cho tới nay, nhwungx người này vẫn ẩn nấp trong Hoàng Thiên Đăng làm cái việc trăng lu giết người, gió lớ phóng hỏa, có thịt cùng ăn, không lương cùng nhịn.

    Lính dõng trong Nhạn doanh đều là con em vùng Hoàng Thiên Đăng, nên khi hai bên gặp nhau thì vui mừng lắm. Nghe tin Lão Nhạn Đầu đã bỏ mạng ở trận tiền, mọi người nhớ lại những ân tình xưa kia, ai nấy đều thở than thương tiếc, nghiến răng nghiến lợi muốn báo thù rửa hận co lão thủ lĩnh. Khi cơn bĩ phẫn tạm nguôi, Nhạn bài Lý Tứ mới dẫn đám nhạn dân mãi lộ đến diện kiến Trương Tiểu Biện: "Trương tam ca có nghĩa khí hơn người, là bậc hảo hán khẳng khái. Con Thần Ngao ở Hoang Táng Lính, hòa thường Chuột thành đũa, Bạch Tháp chân nhân ẩn náu trong phủ Đề đốc đều bị Tam gia đây bắt sống, giết chết, đúng là người vì dân trừ hại, thiên hạ đều khen ngợi. Không chỉ như vậy, Trương Tam gia đây còn học được bản lĩnh do Miêu Tiên Đàm đạo nhân truyền lại, rất được tuần phủ đại nhân tin tưởng, tới nay, an hem Nhạn doanh chúng tôi đều đi theo Tam ca để giết giặc lập công"

    Nhạn Bài Lý Tứ là con của Lão Nhạn Đầu, xét về võ nghệ và kiến thức thì gã là hảo hán số một trong mấy nghìn thợ săn nhạn. Đám thợ săn nghe gã nói như vậy thì thảy tin là thật, đều tranh nhau kết bái với Trương Tiểu Biện.

    Trương Tiểu Biện thầm kêu: "Thật xấu hổ! Trương Tam gia ta cũng có ngày vẻ vang như hôm nay sao?" Đoạn, hắn mặt dày nói với đám nhạn dân rằng: "Không biết kiếp trước đã thắp bao nhiên nén hương mà kiếp này được kết giao vói biết bao huynh đệ, thực là không uổng một đời tiểu đệ đây. Trương Tam vốn là người thẳng tính, xưa nay chưa từng học lối uốn giọng khom lưng, nịnh nọt bợ đỡ. Hôm nay đến đây, chính là quyết chém giết với Việt khấu tại Hoàng Thiên Đăng, chỉ mong các vị hảo hán rút đao tương trợ. Có câu rằng: "Hổ chết để dạ, người ra để tiếng". Cam chịu chôn vùi trong đám bụi đất, thảo mãng, chẳng bằng làm một hảo hán oanh oanh liệt liệt, lập nên kỳ công bất hủ, bình định giặc giã, ắt sẽ được sử sách nghìn thu ca tụng, cũng là để hậu thế còn biết đến rằng, dưới gầm trời này cũng từng có tên tuổi Nhạn doanh chúng ta"

    Trương Tiểu Biện hiểu rằng, nhạn dân đều xuất thân nghèo khổ, có câu rằng: "ngừơi nghèo chí hèn, ngừi quèn lắm mộng", đối với những người chỉ hiểu việc trượng nghĩa một cái hết sức giản đơn thì những trung quân ái quốc, sử sách lưu danh không thích hợp để nói ra, vì vậy hắn mạnh bạo ba hoa một phen: "Từ khi Việt khấu làm loạn đến nay, đánh từ Nam đến Bắc cướp châu, đoạt phủ, đã thu được không biết bao nhiêu vàng bạc, lụa là, đó đều là của bất nghĩa, vì vậy chúng cũng giàu có chẳng khác nào cánh thương nhân buôn bán hàng hóa. Hơn nữa, nghe nói những tên đầu sỏ của bọn giặc đều là những tên cướp biển có tiếng, từng cướp rất nhiều thuyền buôn của cánh người Tây Dương, vì vậy thu được nhiều Kim Dương tiền. Ngoài ra chắc hẳn những tên từng làm cướp biển sẽ tìm được kho báu của Long cung, những vật lấy được đương nhiên đều là những kỳ trân dị bảo, đã là châu thì ắt là châu dạ quang, đãlà ngọc thì ắt là ngọc bích Doanh Xích. Bây giờ, triều đình to nhỏ đều coi việc dẹp yên giặc giã làm đầu, chỉ cần các nơi tiêu trừ sớm nạn việt khấu thì những của cải trên người bọn giặc tóc dài, ai có bản lĩnh, có gan lớn để lấy được thì sẽ thuộc về người ấy, sau này quan phủ sẽ không truy cứu"

    Trước đây, Trương Tiểu Biện đã phân phát một ít Kim Dương tiền cho lính dõng Nhạn doanh."Kim Dương tiền: là cách gọi trong dân gian, kỳ thực là tiền vàng của nước ngoài. Tuy chúng không chính thức lưu thông, giao dịch trong nước Đại Thanh nhưng đều là vàng thật, bạc trắng chính cống, lại được đúc hết sức tinh tế, ai nhìn thấy mà chẳng mừng? Chính vì vậy giá cảu chúng rất cao, vượt quá giá trị thực. Nhạn dân nghe nói trên người Việt khấu đều giắt vàng bạc, của cải thì đều phấn chấn, nhao nhao bày tỏ ý nguyện theo quân giết giặc.

    Bên cạnh đó, Nhạn Bái Lý Tứ chọn mấy người có mối quen biết với cánh mãi lộ, cướp cạn, sai thuyền đi Phi Nhạn lệnh để tụ tập lại cả đây. Bây giờ chiến loạn kèm theo thiên tai khiến dân các vùng đều không còn đường sống, thấy trước mặt có một cơ hội phát tài thì đều không ngại hiểm nguy mà hưởng ứng, trong một ngày đã tụ tập được năm, ba ngìn người, phân thành các đội trên bộ, dưới nước, mỗi đội do một viên tiêu quan cảu Nhạn doanh thống lĩnh, lại dự bị nhiều súng và thổ pháo, bố trí nhiều tầm vông, tên nỏ để mai phục trên các bè nhạn ở khắp nơi.

    Tới tờ mờ sáng hôm sau, thám tử về báo, đã trông thấy đại đội người ngựa của quân Thái Bình rung rung trảy đến, quân sĩ ken dày như kiến, đội ngũ cuốn rời rợp đất, không thấy đầu đuôi, chẳng rõ rốt cuộc có bao nhiêu người ngưa. Nhạn Bài Lý Tứ hạ lệnh cho các đội người ngựa phân tán vào đám lau lạch, giấu kín hành tung, khi nào nghe tiếng còi nhạn thì mới nhất tề xông lên chém giết.

    Một trận huyết chiến sắp nổ ra, thật đúng là: "Lạnh mặt trời, ngút cao sát khí; Buốt mây trôi, ảm đạm khói lang." Muốn biết chuyện sẽ thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.

     
  3. Alpha Wolf

    Alpha Wolf Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/5/15
    Bài viết:
    1,211
    Được thích:
    169

    Tặc Miêu


    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng

    Hồi 6 - Mèo gào


    Nguồn: truyenngan.com.vn



    Lại nói Nhạn doanh với một nghìn lính dõng hội hợp với nhiều cánh cướp cạn, mãi lộ mai phục trong Hoàng Thiên Đăng, bố trí thế trận thiên la địa võng chết người. Những người đó phần lớn đều xuất thân làm nghề săn nhạn và đâm cá, quen các ngón nghề mai phục, trong khu đầm lầy lại có cỏ nước, lau lách um tùm dày đặc, kín tầm mắt, che dấu đi sát cơ nguy hiểm ở bên trong. Cả một vùng nước hoang dã, lạnh lùng, im lìm, người ngoài căn bản không thể nhìn thấy điểm nào khác lạ.

    Tới tờ mờ sáng, khi giọt sương đầu ngọn cỏ còn chưa tan, trong vùng nước xẫm ấ, lau lách mênh mông, từng dám sương dật dờ bay, đã trông thấy quân Thía Bình tiến vào Hoàng Thiên Đăng, Trương Tiểu Biện vội sai Nhạn Bài Lý Tứ ở lại cắt đặt lính dõng, chuẩn bị phục kích. Hắn mang con mèo đen, rồi sai Tôn Đại Ma Tử và Nhạn Linh Nhi làm người tùy tùng cùng chống một cái bè nhạn ra đến vùng nước sâu nhất là khu "Mộ Nhạn"

    Mộ Nhạn này vốn là một núi đất ở giữa Hoàng Thiên Đăng, sau này bị nước nhấn chìm, nghe đồn, trong đàn chim di trú theo mùa giữa phương Bắc và phương Nam ấy vốn có rất nhiều con tuổi già sức yếu hoặc giữa đường bị bệnh tật không qua được, chúng biết không thể bay tiếp tới đích, đành đậu lại trên Mộ Nhạn chờ chết. Khi chúng sắp tuyệt mệnh vẫn ngẩng đầu lên nhìn trời trừng trừng, trông đồng loại dang vỗ cánh trên không trung. Từ xưa tới nay không ai rõ vì sao những con chim di trs hoặc nhạn hoang sắp chết đều đậu lại trên Mộ Nhạn này. Nhưng. Nhạn dân luôn luôn sùng bái nghĩa khí, giũ phong tục xa xưa truyền lại, không bao giờ sắt hại những con chim di trú đáp xuống xung quanh vùng Mộ Nhạn.

    Bên cạnh đó, Mộ Nhạn còn có một truyền thuyết khác mà ngay cả những thợ săn già nhất trong đám nhạn dân cũng không biết rõ nguồn gốc, chỉ truyền miệng cho nhau từ đời này sang đời khác. CHuyện kể rằng, vào khoảng cuối đời Đường, trong thời kỳ Ngũ đại Thập quốc, có một tướng quân đã bị người ra hại chết ở đó. Nhạn dân trong đàm thương tiếc trước cái chết tráng liệt đã dựng một cái miếu tuềnh toàng ở Mộ Nhạn để chôn cất thi thể của vị Tướng quân nọ, năm nào cũng thắp hương cùng bái.

    Đến những tượng đất nơi miếu hoang nếu thường xuyên nhận hưng thì cũng còn linh thiêng, huống gì bộ hài cốt trong miếu Thổ địa là một vị tướng quân phải ngậm hờn mà chết. Không rõ có phải vị anh linh trường tồn bất diệt hay không mà từ khi trên Mộ Nhạn có tòa "Tướng quân miếu", núi đất bắt đầu sụt lún, cuối cùng chìm xuống dưới nước, sau đó điềm trời bất thường, có vô số chuột nước bắt đầu tha rơm rác, đá gỗ đến đắp xung quanh Mộ Nhạn một vòng đê kéo dài đến mấy chục dặm khiến cho các dòng nước đổ vào Hoàng Thiên Đăng được lưu thông, nuôi dưỡng đám cỏ nước mọc rậm rạp, ngay cả hạn hán cũng không ảnh hưởng tới được.

    Chỉ có điều từ đó trở đi, trong vùng đầm lầy lau sậy này thường có những trận gió âm và sương mù xuất hiện, khiến cho trời đất biến sắc, nước mây mờ mịt, những hiện tượng dị thường này lúc có, lúc không,trước giờ không theo một quy luật nào cả. Nhạn dân thường bảo ấy là oán khí chưa tiêu tan của vị tướng quân trong Mộ Nhạn kia, chỉ cần một trận gió âm nổi lên là báo hiệu trên thế gian có tai họa như binh đao, hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh.

    Trước đấy, người ta rất tin vào câu chuyện này, cứ đầu năm lại mua những đứa trẻ nhà nghèo ở ngoài tỉnh, phối thành một cặp đồng nam, đồng nữ, rồi cho trang điểm chỉnh tề, nèm xuống vùng đất xung quanh Mộ Nhạn, dìm chết để nuôi cá, cầu xin thần linh dưới nước bớt giận, phù hộ cho phương này được bình yên vô sự. tuy nhiên, việc làm đó còn chưa thấy tác dụng thực sự đâu, mặc cho đám ngu dân tha hồ cúng bái, chiến sự, thiên tai vẫn cứ thế nổ ra. Chính vì vậy, dần dần hương lửa chõ này trở nên lạnh lẽo. Cho tới cuối thời Minh, phong tục tàn nhẫn đó mới bị xáo bỏ hoàn toàn.

    Trương Tiểu Biện nhớ hồi ở trong Miêu Tiên từ lúc gặp Lâm Trung Lão Quỷ lần thứ hai từng đưuọc lão mách bảo rằng tướng tinh của hắn đang chiếu, sẽ phát ở nghiệp vô trong thời loạn thế, chỉ cần làm theo những lời cặn dặn của lã thì dẫu dẹp loạn hay giết giặc, cũng ắt định là thắng. nay muốn thủ thắng ở Hoàng Thiên Đăng thì phải dùng con mèo đen để lôi di cốt của tướng quân trong Mộ Nhạn ra, nếu sơ suất chút nào thì toàn quân sẽ bị tiêu diệt ngay.

    Thường có câu: "Mật ngọt chết ruồi". Câu đó thật không sai, nhưng Trương Tiểu Biện bị ma quỷ mê hoặc, cứ xem lời Lâm Trung Lão Quỷ như khuôn vàng thước ngọc, bảo sao là làm vậy, đương nhiên việc thành bại hôm nay hắn chỉ trông chờ vào mỗi việc đó mà thôi, thế nên vội vội vàng vàng đến Mộ Nhạn, thật đúng là: "Lòng như tên bắn còn e chậm; chạy tựa đằng vân thấy chẳng nhanh"
    Nhạn Linh Nhi là người dẫn đường, từ nhỏ cô đã lớn lên ở Hoàng Thiên Đăng, đối với đường thủy các nơi đều thông thuộc. Cô chống bè nhạn trên mặt nước, len lỏi trong đám lau sậy rậm rạp lòa xòa, đưaTrương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử đến một vùng nước rộng, chỉ thấy nước ở quãng lau lạch sâu trong đầm, phẳng lặng như gương, khói sóng man mác, hết sức thanh u.

    Nhạn Linh Nhi chống sào dừng bè, nói với Trương Tiểu Biện: "Tam ca! Nơi đây chính là Mộ Nhạn, chỗ tòa miếu tướng quân chìm dưới đáy nước thường có xoáy mạnh, hút người ta xuống, mức nước nông sâu khó mà biết được. Nhiều năm nay, không ai dám thăm dò cho rõ thực hư"

    Trương Tiểu Biện không thạo bơi lội cho lắm, nhiều nhất cũng chỉ quều quào chân tay như chó bơi mà thôi., bây giờ đang ở trên mặt nước nên hắn không khỏi run sợ nhưng vẫn nói cứng: "Người làm đại sự không câu nệ tiểu tiết, Nhạn doanh chúng ta toàn là hảo hán, khi hành động thì chỉ cần hợp với lương tâm trong vòng trời đất chứ không cần phải đắn đo về lời xì xào cửa người ta, sao phải tin vào những chuyện quỷ thần huyễn hoặc ấy? Bọn các ngươi chỉ cần đứng xem cho rõ Tam gia ta làm thế nào mời vị tướng quân bị vùi thây dưới đáy nước ra diện kiến là được"

    Tôn Đại MA Tử vốn xưa nay không sợ quỷ thần nhưng hết sức kính trọng các bậc anh liệt thời xưa, bây giờ đang chuẩn bị ác chiến với lũ Việt khấu, không hiểu vì sao Trương Tiểu Biện đột nhiên muốn làm một chuyện kì quái như vậy. Nghe thế, gã vội khuyên ngăn: "Cha mẹ ơi, chuyện này không phải chuyện đùa đâu. Xét ra thì vị tướng quân kia cũng alf bậc thủy thần oanh liệt, tam đệ sao lại mạo muội làm kinh động đến ông ta?"

    Trương Tiểu Biện nói: "Nếu quả thực ông ta ở dưới nước có linh thiêng thì đáng ra phải giúp đỡ Nhạn doạn chúng ta dẹp yên giặc". Nói đoạn, hắn sai Nhạn Linh Nhi chống bè tới sát chân đê. Trên thân đề đầy những miệng hang to chừng nắm đấm, đám chuột nước đào hang dày đặc, thông với nhau. Chuột nước là loài gần giống hải ly, cũng có răng nanh sắc nhọn, có thể gặm đổ thân cây cổ thụ nghìn năm,giỏi việc đắp đập, xây đê. Nhưng, chuột nước ở Hoàng Thiên Đăng được dân gian truyền nhau gọi là Chuột cống nước hoặc là Âm Thử Tinh, không phải đồng loại với họ hàng nhà hải ly. Chúng thích những nơi lạnh lẽo, ẩm thấp, tính tình tàn nhẫn, giảo hoạt, có thể bơi dưới nước lôi cá lớn lên bờ, lại có thể cắn chết, ăn thịt những con chim nước hoặc nhạn hoang đang đậu trên lau lách, những con chuột lớn thậm chí có thể bắt giết cả mèo già. Ở trong đầm lầy, chúng lợi dụng khí âm tụ tập mỗi lúc một đông, nhiều không kể xiết, chỉ riêng có mèo khoang Linh Châu mới khắc chế được chúng.

    Trương Tiểu Biện chiểu theo thuật xem tướng mèo do Lâm Trung Lão Quỷ truyền thụ, đêm Nguyệt ảnh ô đồng kim tuyến miêu đảy tới gần hang chuột nước. Loài mèo hễ ngửi thấy mùi hôi tanh là lập twucs phát tá, tuy mèo khoang Linh Châu xưa nay không bắt chuột nhưng trời phú là thiên ddihcj của loài chuột, con mèo khoang vừa ngửi thấy mùi tanh nồng xông lên từ hang chuột nước liền không thể nhịn được, kêu "gàoo... o" lên một tiếng.

    Có thể bạn đọc sẽ muốn hỏi, thế nào là "gàoo... o" lên? Vốn là, tiếng kêu của mèo từ xưa tới nay chia thành một số mức độ. Phần những con mèo nào kêu được tiếng "gàoo... o" thì quý nhất, còn những con mèo lười nhác chỉ chuyên nằm gác bếp sưởi ấm thì tiếng kêu là "meo". Tiếng kêu uy mãnh nhất của loài mèo được gọi là"mèo gào". Con mèo đen gào lên một tiếng thật khác thường, đúng là: "Vọng chín tầng trời, mây phải dạt; Vang vào khe suối, cá đều kinh"

    Trong "Miêu kinh", có câu rằng: "Con mèo trong mắt có đường kim tuyến thì tiếng như hùm hổ. sư tử,trông nhà nằm ngoài sảnh, dẫu ngủ thì chuột cũng chết". Những con Âm Thư Tinh dưới nước rất sợ tiếng mèo gào, chỉ cần nghe hơi là đã chốn ráo. Nỗi sợ của chúng nhanh chóng lan ra khắp nơi, một đồn mười, mười đồn trăm, cả bầy chuột nước đang ẩn nấp trong các hang hốc trên thân đê thảy như có tai họa lớn sắp ập xuống, thế là già bám trẻ, mẹ ngậm con, nhao nhao lao ra khỏi các miệng hang, chạy tràn ra bờ đê như một cơn thủy triều.

    Cả bọn Trương Tiểu Biện không ai ngwof mấy tiếng mèo kêu mà có thể gây ra cơ sự đến thế, chiê thấy vô số con chuột cống nước da bóng lông mượt, răng nhọn nanh sắc đang tranh nhau cướp đường chạy trốn, lũ lượt tựa như những luống nước đục đang vọt ra tứ phía, khiến người ta cảm thấy như trời sắp long, đất sắp lở, ngày tận thế đã tới vậy. Cả ba người đều thấy hết sức kinh dị, toàn thân nổi gai ốc. Nhạn Linh Nhi vội chống bè ra giữa vùng nước, chỉ mong chạy càng xa càng tốt.

    Số lượng chuột cống nhiều tới mức kinh người. Con đê "chuột" chật hẹp, vốn không thể đủ chỗ cho chúng tháo chạy, có rất nhiều con chuột bị đẩy xuống nước. Loài Âm Thử Tinh đó bẩm sinh đã rất giỏi bơi lăn, đám chuột bị rơi xuống nước tranh nhau bơi đi, lập tức khiến mặt nước vốn đang yên tĩnh bỗng nổi lên sùng sục như thể người ra mở nắp vung nồi nước sôi vậy.

    Đột nhiên trên mặt nước nhấp nhô, xuất hiện một xoáy nước cực lớn khiến những con chuột ở gần bị hút xuống dưới, sự việc càng khiến bầy chuột trỏ nên hoảng loạn. Nhạn Linh Nhi kêu lên: "Không xong rồi! Chắc hẳn đó là con My Độn Lăng Ngư vốn tiềm phục dưới đày nước Hoàng Thien Đăng" Cô biết con casnayf rất lợi hại, cả bọn lại ở trên mặt nước, khó mà chống đỡ, liền nhanh chóng đẩy bè nhạn cập vào một chỗ đất cao gần đó. Vốn đây là một thân cây cổ thụ đã bị chặt còn trơ gốc, miễn cưỡng có thể đặt chân được.

    Ba người vừa đặt chân trước lên gốc cây thì bè đã lật nhào. Chỉ thấy sóng nước rẽ làm đôi, từ trong vọt ra một con cá to như bầy thủy quái, thấy đầu không thấy đuôi. Đầu cá còn lớn hơn cả cái cối xay cỡ đại những ba lần, mặt cá giống hệt mặt người, màu da như màu đá, cái mồm rộng đến khiếp hãi đang mở rộng hút nước, liên tục nuốt sống những đám Âm Thử Tinh đang tập trung bên cạnh.

    Vạn vật trên thế gian tuân theo vòng luân hồi của vòm trời, có câu rằng dùng muối chế đậu hũ, vật này trừ vật khác. Đàn chuột nước tập trung trong đầm rất nhiều, tự sinh sẽ sinh ra loài cá My Động Lăng Ngư chuyên ăn thịt chuột nước. Cái gọi là "My Động" có nghĩa là hút nước. Loài cá này xù xì như tảng đá, cả năm trời cứ nằm phục dưới đáy nước không động đậy nhưng lúc nào đàn chuột nước tập trung làm mặt nước động mạnh thì con cá này mới xuất hiện, lôi theo bùn cát dưới đáy nước vọt lên, khiến cho mặt nước như bị lật nhào.

    Tôn Đại Ma tử không biết loại My Động Lăng Ngư này, tưởng là thủy thần hóa thành. Gã trông đến đờ người ra, nhưng Nhạn Linh Nhi thì biết con Lăng Ngư hút nước, sức có thể nuốt cả trâu, ngựa. Cô không hiểu việc làm vừa rồi của Trương Tiểu Biện rốt cuộc nhằm mục đích gì, đành hỏi: "tam ca, đại quân Việt khấu sắp sửa đến nơi rồi. giờ huynh còn đi bắt cá là sao?"

    Trương Tiểu Biện vốn là một kẻ du đãng. Lưu manh, tuy lâm vào cnahr nguy hiểm nhưng cũng không quên chu môi thò mỏ liens thoắng nói: "Muội tử không biết đấy thôi, trong nhà Tam ca ta còn có mẹ già tám mươi tuổi, chỉ mong bắt con My Động Lăng Ngư về để bán kiếm tiền nuôi mẹ thôi... "

    Nhạn Linh Nhi nghe thấy thế rất cảm động. nghĩ bụng: "Doanh quan Trương Tam ca của Nhạn doanh chúng ta chẳng những đa mưu túc trí, cử chỉ khẳng khái, nghĩa khí hơn người mà còn là một người con hiếu thảo hiếm có, đến lúc chuẩn bị đánh trận mà cũng còn không quên việc phụng dưỡng bà mẹ tám mươi tuổi ở quê. Tục ngữ có câu: "Vạn điều ác, tội dâm lớn nhất; Trăm việc lành, lấy hiếu làm đầu" Thời nay đã không còn như xưa, có được người như thế mới thật là đáng quý" Từ đấy cô càng thêm kính phục Trương Tiểu Biện.

    Nhưng, Trương Tiểu Biện chưa kịp nói hết câu, con Lăng Ngu đọt nhiên quẫy đuôi, giương vây, từ trong miệng hộc ra bộ xương người. Bộ xương ấy rất to lớn, tuy da thịt toàn thân đã tiêu tan hết chỉ còn lại xương cốt trắng nhởn, nhưng hình dáng khôi vĩ đó vẫn còn lớn hơn Tôn Đại Ma Tử nửa cái đầu. Bên ngoài bộ xương, toàn thân nhân dưới đều mũ mão, nai nịt tề chỉnh. Mũ kim khôi là loại Nhật nguyệt phi hổi khôi, áp giáp là loại giáp liên hoàn trăm vòng sắt, bịt vai hình mặt thú, hộ tâm dắt bằng đồng, dây buộc bằng sợi gân bò, chiến bào thêu chim Anh vũ, chẳng biết vì nguyên cớ gì mà bộ nhung giáp đó còn nguyên như mới.

    Trương Tiểu Biện nấp ở gốc cây nhìn thấy rõ ràng, nghĩ bụng: "Dúng là Miêu Tiên gia hiển linh, rốt cuộc cũng mời được vị" lão gia" từ dưới nước lên. Bộ xương này đã vùi dưới đáy nước nghìn năm, quả nhiên vì lâu lăm nên đã tích tụ nên yêu khí. Không rõ sau khi hiện hình thì nó sẽ tác yêu tác quái thế nào?

    Đúng là: "Mây xanh nào có ý gì; Chẳng qua ngọn gió đưa về mà thôi". Muốn biết bộ xương của tướng quân này làm thế nào giúp Nhạn doanh giết giặc lập công, xem hồi sau sẽ rõ.

     
  4. Alpha Wolf

    Alpha Wolf Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/5/15
    Bài viết:
    1,211
    Được thích:
    169

    Tặc Miêu


    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng

    Hồi 7 - Huyết chiến


    Nguồn: truyenngan.com.vn



    Lại nói, vùng Hoàng Thiên Đăng, đường thủy đan xen chằng chịt, lau lách trải rộng hàng vạn khoảng, đất rộng, dân thưa. Xưa nay là sào huyệt ẩn náu cảu đám hảo hán lục lâm chuyên chặn đường cướp của, mai phục giết người. Không biết khách qua lại đã bị giết oan vì vậy âm khí trong đầm rất nặng.

    Lời tác giả: Năm xưa, khi ngôi mộ tướng quân ở Mộ Nhạn bị chìm xuống đáy nước, miếu thờ đổ nát thi thể của vị tướng quân nọ bị My Động Lăng Ngư nuốt vào bụng. Nhưng đó là di cốt của bậc anh hùng thời xưa, trên người lại mặc bộ áo giáp hộ thân quý báu, có thể tránh được lửa nên đã tạo thành một vầng khí sáng vô hình, vô chất dày đặc, bao xung quanh. Vì vậy, dẫu nằm trong bụng cá, xương thịt đã rữa nát hết nhung bộ xương mặc giáp trụ vẫn không hề bị tiêu hóa.

    Con My Độn Lăng Ngư hết sức tham ăn, lúc ấy chỉ mong nuốt đầy bầy Âm Thử Tinh dang bơi dưới nước, nhưng bộ xương nọ choáng hết chỗ trong khoang bụng nên nó khó lòng ăn cho sung sướng, đành phải hộc ra khỏi dạ dày. Chỉ thấy nước đne vọt ra cuồn cuộn trong miệng con My Động Lăng Ngư, một bộ xương còn mặc nguyên khôi giáp được phun ra, trắng nhơn nhởn, ướt đầm đìa. Trên cái đầu lâu, hai hốc mắt sâu thẳm như cái lỗ đen vô thần nhìn thẳng lên không trung. Bộ xương được bộ giáp báu nâng đỡ, cứ thế dập dềnh trôi nổi trên mặt nước.

    Trong Miêu Tiên từ, Lâm Trung Lão Quỷ đã từng mách bảo Trương Tiểu Biện rằng: "Chỉ cần ngươi trông thấy Bạch Cốt tướng quân trên mặt nước thì Nhạn doanh nhất định đại phá đưuọc Việt khấu", các tình tiết cụ thể hơn thì chẳng nói một chút nào.

    Trương Tiểu Biện nghĩ đến vỡ óc cũng không đóan được chỗ ảo diệu bên trong. Tuy hắn rất tin tưởng vào chuyện đó nhưng khi chuẩn bị đánh trận tới nơi thì lòng lại thấp thỏm không yên, thầm chửi đổng rằng: "Con bà thối tha nhà nó chứ, trông cái bộ xương to trong Mộ Nhạn này tuy hồi còn sống chắc oai phong lắm nhưng bây giờ chẳng qua chỉ là một đống xương vô tri vô giác mà thôi, làm sao chỉ nhờ vào nó mà thắng trận được? Thằng cha Lâm Trung Lão Quỷ không biết uống nhầm thuốc gì nữa? Nhỡ lão ta nhất thời hồ đồ tính nhầm, bày kế cho ta, chẳng hóa ra liên lụy đến cái mạng nhỏ Trương Tam gia này phải chịu chết ở đây hay sao?"

    Đang lúc nghĩ ngợi lung tung, bỗng một trận gió âm thấu xương thẩu đối. trận gió này không phải tầm thường. thật là: cuốn dậy đất bằng nơi Địa ngục, thổi tung bụi núi Phong Đô, trong phút chốc, đất trời biến sắc, mây mù đều tan. Trương Tiểu Biện toàn thân rét run lên, nhìn vào mặt nước thấy cả con My Động Lăng Ngư lẫn bộ xương trắng của vị tướng quân đều đã chìm xuống đấy nước, chỉ còn lại đàn chuột cống đang nhào nhào cướp đường bộ chạy trên dưới chân đê.

    Nhạn Linh Nhi thấy mây mù tan hết, không dám chậm trễ, vội vã lật lại cái bè vừa bị úp trên mặt nước, kéo Trương Tiểu Biện và Tôn Đại Ma Tử lẩn vào trong đám lau sậy để hội hợp với cánh lính dõng Nhạn doanh đang mai phục gần đó.

    Trương Tiểu Biện rạp trên bè, trong lòng chợt thấy hồ nghi không thôi, không hiểu bộ xướng của vị tướng quân vùi thân dưới đáy nước có tác dụng gì. Hắn đâu có biết rằng, bộ giáp báu mặc trên bộ xương vốn là một cổ vật đã từng trải qua nhiều chinh chiến, sát khí tích tụ trên đó rất nặng, thêm vào đó, nghìn năm nay không phơi ra trước ánh sáng mặt trời, lần này xuất hiện khiến trong khoảng khắc, gió âm nổi dậy, thổi cho hàng vận bông lau lay động, lại khiến cho đám mây mù mỏng manh đang che phủ Hoàng Thiên Đăng bị cuốn sạch đi, làm tiêu tan hết sát khí. Bộ bảo giáp sau đó tàn thành từng mảnh vụn rồi cùng bộ xương chìm xuống đáy nước Mộ Nhạn.

    Trận gió đến đi quá nhanh nhưng đó là then chốt thành bại của việc quân, ảnh hưởng vô cùng lớn lao. Thơ cổ có lời rằng: "Gió đông chẳng mến Chu Lang; Thi dài Đồng Tước đã giam hai Kiều" Đó là thời Tam Quốc giai đoạn Hậu Hán, trước khi nổ ra trận Xích Bích, nếu không có hiện tượng cá trạch đào hang báo hiệu có gió đông thì những khổ nhục kế, liên hoàn kế, phân gián kế dẫu tinh vi đến mấy cũng vứt đi. Nhược bằng Vũ hầu Gia Cát Lượng không mượn được gió Đong thì làm gì có trận hỏa thiêu liên hoàn của quân Tào? CHính vì vậy, có một bài tán, tán tụng riêng về cái hay của gió trời rằng:"

    Bay. Bay, bay;
    Gió Nam Bắc Đông Tây;
    Bóng hình đâu chẳng thấy;
    Cuốn sạch bụi trần ai;
    Giúp trời vén hết mây;
    Bắt hoa dương, thổi liễu gầy;
    Lòng sông đưa đẩy thuyền này lênh đênh;
    Đỡ mây trắng, rời núi xanh;
    Nhẹ vờn lá cây cành một phen.
    Xuyên song cửa, lọt qua rèm;
    Rung rinh bóng lửa, ánh đèn lúc khuya.

    Bộ giáp báu dưới đáy Mộ Nhạn lmaf dậy lên một trận gió âm thì có liên quan gì đến việc Nhạn doanh mai phục trong Hoàng Thiên Đăng? Số là, Việt khấu khởi binh đánh thành Linh CHâu, dụng quân lâu ngày mà chẳng nên công cán gì, lại thêm bốn phía nước lụt dâng cao, lương thảo cnaj kiệt khiến lòng quân hoảng loạn, đành phải nhân lúc mưa ngừng để vội vã rút lui.

    Nhưng đường cái quan phần lớn đã bị lũ lụt làm sạt lở, nhiều nơi hoàn toàn không cso đường để đi, chổ duy nhất đủ để cho đâị quân vyowtj qua là Hoàng Thiên Đăng. Đại đội người ngựa quân Thái Bình cuốn cờ im tiếng, rút lui trong đêm, vòng vèo quanh co đi theo đường núi, lục tục đến bờ đầm thì đội ngũ đã không được chỉnh tề, người nào nguwofi nấy lê bước uể oải. trời tảng sáng, trong đầm chỉ thấy toàn là mây mù mỏng che phủ, im lặng đến lạ lùng.

    Thủ lĩnh quân Thái Bình là người từng trải sa trường, hiểu rõ binh cơ, lại cực kỳ đa nghi, nhìn động tĩnh mà đoán được tình hình. Hắn tuy biết xung quanh Linh Châu không có đội quan binh nào lớn nhưng khi tới đây, thấy đám mây mù trong Hoàng Thiên Đăng có ẩn náu sát cơ, liệu chừng nơi đây rất nguy hiểm, nhất thời không dám khinh suất đi vào, định phái thám tử dò la tìm đường khác.

    Ngay lúc ấy, bỗng thấy trong đầm xuất hiện rất nhiều chuột chạy vọt qua bên cạnh, trốn vào vùng đất hoang, đồng thời , giữa khoảng trời đất lại xuất hiện gió mạnh cuốn tới, quét sạch mây mù, viên thủ lĩnh quân Thái Bình thấy thế liền lập tức trấn tĩnh trở lại. Hắn hiểu rõ, loài chuột nước vốn sợ người, thấy người ắt sẽ chui vào hang, chúng chạy lung tung khắp nơi thế này, nhất định trong Hoàng Thiên Đăng không có phục binh, chắc chỉ là trái gió trở trời nên mới như thế mà thôi. Hơn nữa, bụi bặm, mây mù đã hơi tan, hắn sợ chậm trễ sẽ bị lạc đường, thầm tính toán rằng, nếu bên trong có vài tên thảo khấu, cướp cạn đang ẩn nấp thì cũng chẳng dám xông vào đại đội người ngựa của ta, trừ phi chúng chán sống.

    Thêm vào đó, vất vả hành quân đã trọn một đêm, sĩ tốt đều mệt mỏi, vì vậy, quân Thái Bình trở nên sơ suất, chẳng thèm phái thám tử đi trước dò đường, từng đợt cứ thế chen nhau tiến lên, men theo các bờ đê chuột để đi vào vùng lau lách rậm rạp. Đoàn quân dày đặc, nối đuôi nhau như một con rắn dài, thấy đầu không thấy đuôi, đi xuyên qua Hoàng Thiên Đăng, chầm chậm đi xuôi về phía Nam.

    Trung quân đã trảy vào vùng giữa đầm, đang hớt hải đi vỗng nghe thấy một tiếng còi nhạn thê lương vút lên lanh lảnh như xé toạc cả không gian mờ mịt. tiếng còi chưa dứt, đã thấy có vô số bè nhạn xuất hiên ở trong đám lau sậy ở bốn phương tám hướng. Các bè nhạn phía trên có đặt thổ pháo, lại có nhiều lính dõng giơ súng nhất tề bắ thẳng vào đám quân Thái Bình vốn không chút phòng bị trên thân đê.

    Trong phút chốc,tiếng pháo, tiếng súng nổ vang trời nhức óc. Trong đầm, khói súng mù mịt, máu thịt tung tóe. Tướng sĩ quân Thía Bình không kịp đề phòng, đến nằm mơ cũng không tưởng tượng nổi trong đầm lại có quân Thanh, vả lại trông tình hình thì không phải là một cánh quân nhỏ. Các bè nhạn thoắt ẩn thoắt hiện trong đám lau sậy um tùm, không rõ có bao nhiêu quan quân nữa.

    Hơn nữa, khí quân Thái Bình trảy qua lại bày thành trận trường xà hình chữ nhất, khi đột ngột bị đánh vào khúc giữa thì người ngựa ở đầu đuổi không kịp tiếp ứng lẫn nhau, thêm vào đó, trong lúc lòng quân đang không yên lại đột ngột bị tấn công trên bờ đê chuột chật hẹp, binh lính chen chúc, người chạm người dẫm đạp lên nhau, ngựa đụng ngựa thảy nằm đầy đất. Cả đại đội người ngựa hỗn loạn, súng giương lên mà không bắn được một phát nào.

    Trong khi đó, nhạn doanh đã chuẩn bị mai phục từ lâu, đúng là một bên ở ngoài sáng, một bên trong bóng tối, cứ một loạt súng nổ lên là quân Thái Bình đổ rạp một mảng người, số lính bị giết quá nhiều, các thi thể rơi xuống nước nhuốm đỏ cả mặt hồ.

    Cánh quân Thái Bình vây công thành Linh Châu, phần lớn là tù binh và dân chạy loạn, mười phần thì có đến bảy phần là quân ô hipwj, vừa bị tấn công là lập tức hoảng loạn tan vỡ. Quân lính không biết đầm lầy nông sâu thế nào, hàng vạn người cứ nhè vào chỗ vũng nước không có quan quân bắn giết mà lao tới, cũng không có ít người đua nhau nhảy xuống nước chạy trốn, tướng lĩnh cầm đầu hô hoán cũng không ngăn cấm được, đành phải rút dao chém ngã mấy tên lính bỏ trốn. Thế nhưng, quân thua như núi lở, hò hết thế nào cũng không cản nổi.

    Nhạn doanh đã chuẩn bị rất nhiều tầm vông vừa dài vừa nhọn, khiến đối phương muốn cận chiến cũng không được, bầy giờ, từng đàn, từng đàn tầm võng đâm ra khiến quân Thái Bình không thể chống đỡ. Trông thấy thế trận cảu việt khấu đã đại loạn, lính dõng liền đuổi theo truy sát, thi nhau đâm nhầu khắp nơi, quân Thái Bình rơi xuống nước đầu bị đâm chết, số còn lại chết đuối trong đầm nước không biết bao nhiêu mà kể, tử thi trôi nổi khắp nơi.

    Chỉ duy nhất có cánh trung quân ở gần vùng Mộ Nhạn vốn là quân tinh nhuệ từ các doanh cũ ở Việt Tây là chưa tan vỡ. Các tướng lĩnh quân Thái Bình hiểu rằng nếu không thể mở một đường máu phá vây ra khỏi đầm thì toàn quân sẽ bị tiêu diệt, vì vậy mặc cho binh sĩ tử thương nghiêm trọng, các tướng vẫn chỉ huy những quân sĩ còn sống sót chất thi thể đồng bọn bị thương vong thành đống để ngăn làn đạn đang oanh kích liên tục, đồng thời đem súng ống, tên nỏ bắn trả, liều chết chống giữ không lui.

    Lính dõng, nhạn dân và dám mãi lộ mai phục xung quanh đánh đuổi toàn quân Việt khấu tan tác xong mới phát hiện ra, cả vùng Hoàng Thiên Đăng, chỉ còn một dải Mộ Nhạn còn đang ác chiến kịch liệt, liền huýt còi nhạn liên tục, tụ tập người ngựa từ bốn phương tám hướng đồng loạt đánh tới. Nhạn doanh tuy kiêu dũng thiện chiến nhưng gặp phải đội quân tinh nhuệ của Việt khấu thì cũng khó lòng chiếm được thế thắng. Bấy giờ, quân đổi quân, tướng chạm tướng, mở ra một trường huyết chiến sống còn. Chỉ thấy đao thương vung lên, kiếm kích ngang dọc, hễ một đao, xả vai đứt lưng, trúng một thương, đầu vỡ thân rời, đón phải kiếm, yết hầu đoạn khí, xuyên vào kích, bụng rách máu rơi. Chém giết đến nỗi thây chất như nuism màu chảy thành sông, thật đúng là: "Gặp đối thủ khó phân cao thấp; Chạm kẻ tài khó định được thua"

    Lúc ở thành Linh Châu, Trương Tiểu Biện nhiều lần thấy cảnh chém giết trên chiến trường nhưng chưa từng thấy trận nào thảm khốc như trận này. Trông thấy huynh đệ Nhạn doanh tử thương vô số, hắn cũng không khỏi nghiến răng mắm lợi, mắt vằn đỏ tia máu. Chính lúc hai bên chưa phân định thắng thua, mọi người thấy xa xa trong trận của Việt khấu có một người cao lớn, râu tóc dài thượt, tuổi chừng trên dưới bốn mươi, cưỡi một con ngựa cao, mặc hoàng bào gấm thêu, dắt bảo kiếm và súng tây, ung dung chỉ huy sĩ tốt, vây xung quanh là mấy chục quân sĩ giơ thuẫn bài hộ vệ xung quanh, xem phục sức và khí phách của hắn đều rất phi phàm, liệu chừng là ngụy vương đầu sỏ của quân giặc.

    Nhạn Linh Nhi đánh Việt khấu đã lâu, biết rõ lối phục sức của ngụy vương, liền trỏ tay nói: "Tên giặc đó nhất định là Chiếm Thiên hầu cầm quân của Việt khấu". Nói đoạn, cô giương loan cung đầu nhạn, lắp tên đuôi nhạn, rồi cung giương như trăng ngày rằm, tên bay như ánh sao băng, miệng hô: "Trúng này!" một mũi tên bay vụt ra, xuyên qua đúng khe thuẫn bài, bắn Chiếm Thiên hầu ngã ngay xuống đất. thấy chủ tướng trận vong, thế quân của Thái Bình lập tức đại loạn, binh lính không còn lòng ham đánh nữa.

    Nhạn Bái Lý Tứ thấy thủ lĩnh Việt khấu ngã ngựa, biết thời cơ đã đến liền rúc còi nhạn u u. Lính dõng Nhạn doanh nghe thấy hồi lệnh đều rút phắt Nhạn linh đao cầm trên tay, ồ ạt xông lên, đẩy đổ đám thi thể chất như núi, xả thân thâm nhập vào quân địch, vung đao chém giết.

    Thanh Nhạn linh đao có thân dài, cán ngắn, sống dày, lưỡi mỏng, rất thích hợp trong lúc xông trận chém giết, phát huy được sở trường đặc biệt khi cận chiến. Chỉ thấy trường đao vung lên đến đâu thì đầu người lăn lông lốc, màu từ cổ họng phun vọt lên, không thể chống đỡ được. Tôn Đại MA Tử mưu đồ sát khí, đứng trong đám người liếc thấy Chiếm Thiên hầu trúng tên, bị thương đang lồm cồm trên mặt đất định đứng dậy. Gã vội vã vung đao tiến lên, đánh tan quân Thái Bình hộ vệ, toan một đao cắt đầu Chiếm Thiên hầu.

    Nào ngờ, Chiếm Thiên hầu thường dẫn theo một tên thị đồng có dung mạo tuyệt đẹp. Trong đám hỗn loạn, hắn ngã ra đất giả vờ chết, nhân lúc Tôn Đại Ma Tử không phòng bị, vọt lên đâm một kiếm. Tôn Đại Ma Tử tuy giỏi võ nghệ nhưng không có nhiều kinh nghiệm trong chiến trận, lần này vì thamc ông, chỉ mong giết được Chiếm Thiên hầu mà không đề phòng gì cả, đột nhiên thấy sau lưng lạnh buốt, một mũi kiếm đã đâm xuyên qua ngực, lập tức máu vọt ra như suối, bị tên thị đồng giết chết. thương thay, "Chum vó phải vỡ nơi thành giếng; Làm tướng vong thân trước trận tiền"

    Nhạn Bài Lý Tứ đúng lúc đó đang ở bên cạnh, tuy trông thấy rõ ràng, nhưng đang ở trong đám loạn quân, không thể cứu kịp. gã và Tôn Đại Ma Tử mới kết nghĩa anh em, tình như thủ túc, thấy thế nổi giận, trước mắt như phủ vầng mây đên, hét to một tiếng, vung tay lao tới. Nhạn Linh đao chém một nhát, tên thị đồng của Chiếm Thiên hầu gục xuống. Gã đá văng cái thây ra rồi tiếp tục xả đao vào Chiếm Thiên hầu.

    Nào ngờ, Chiếm Thiên hầu cảu quân Thái Bình tuy bị thương nhưng vẫn hung hăng hơn người, chẳng khác nào một con thú đã bị dồn vào đường cùng. Lúc hắn ngã xuống đống xác người, trong tay vẫn nắm chặt một khẩu súng nhưng chưa vội bắn. bấy giờ, thấy có người lao đến, hắn liền nổ súng, trúng ngay đầu của Nhạn Bài Lý Tứ, lập tức máu tươi vọt ra, thân người ngã xuống, đúng thực là: "Cửa Âm phủ thêm hồn oan uổng; Chốn Dương gian vắng một thiếu niên". Muốn biết chuyện sẽ thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.

     
  5. Alpha Wolf

    Alpha Wolf Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    5/5/15
    Bài viết:
    1,211
    Được thích:
    169

    Tặc Miêu


    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng

    Hồi 8 - Thưởng cô lệnh


    Nguồn: truyenngan.com.vn



    Lại nói về trận ác chiến giữa Nhạn doanh và quân Thái Bình trong Hoàng Thiên Đăng, chém giết tới mức "Đầu lăn lông lốc như dưa rụng; Thây chất tầng tầng tựa núi cao". Trong đám hỗn loạn, Nhạn Bài Lý Tứ đinh xông thẳng tới lấy đầu Chiếm Thiên hầu, chẳng ngờ bị trúng một viên đạn, may mà gã nhanh nhẹn hơn người, tránh qua cực nhanh, nhưng cự ly quá gần nên cũng bị viên đạn chì bắn trúng một con mắt, lệch một chút nữa thì chỉ e đã bắn suốt óc rồi.

    Nhạn Bài Lý Tứ hết sức dũng mãnh, không để ý đến một bên mắt bầy nhầy máu thịt, chồm dậy như phát cuồng, cả người lẫn đao chồm xuống, một tay chộp cứng mớ tóc rối bời của Chiếm Thiên hầu, giật hắn từ dưới đất lên, kẹp vào bụng, nắm cứng cần cổ, bắt sống giữa trận tiền.

    Quân Thái Bình thấy đại thế đã mất, lập tức tan vỡ tứ tung, quẳng mũ bỏ giáp, tranh nhau chạy trốn, những tên không chạy kịp thì vứt vũ khí đầu hàng. Lính dõng Nhạn doanh chém giết hăng máu không thiết đến việc bắt tù binh, cứ thế vung đao đuổi giết, thấy kẻ sống là chém, thấy còn chạy trốn là giết. Trận ác chiến kéo dàì tới gần tối mới kết dừng, mặt nước trong đầm đều nhuộm đỏ máu tươi.

    Nhạn doanh sai người về gấp Linh Châu báo tiệp, còn đại đội người ngựa đều ở lại để chạy chữa người bị thương, chôn cất người chết. từ xưa tới nay, chuyện binh đao hung hiểm, thường có câu rằng: "Giết địch một nghìn, mình cũng tổn thất tám trăm", tuy một trận phá tan đạo quân lớn của Việt khấu, bắt sống thủ lĩnh Chiếm Thiên hầu nhưng khi điểm lại số quân thì lính dõng, thợ săn nhạn và cánh mãi lộ cũng tử thương hơn hai nghìn người.

    Nhạn Bài Lý Tứ hỏng một mắt, mặt đầm đìa máu tươi, may mà viên đạn không xuyên vào não. Viên lang trung trong quân đội vội chạy đến phải dùng thủy ngân làm tiêu tan viên đạn chì đang khảm trong hốc mắt mới giữ được tính mạng của gã.

    Trương Tiểu Biện đứng bên canh, trông thấy Nhạn Bài Lý Tứ bị thương bặng và thi thể sõng soài của Tôn Đại Ma tử, hắn muốn khóc rống lên nhưng không thể nào rơi được nước mắt, trái lại trong lòng hắn ớn lạnh, hối hận khôn nguôi: "Nếu sớm biết trường vinh hoa phú quý mà Lâm Trung Lão Quỷ mách bảo được đáp bằng tính mạng của an hem thủ túc thì Tam gia ta thà rằng không cần đến nó cho xong. Tôn Đại Ma Tử và ta đã kết nghĩa sống chết, hồi trước hai người cùng chạy nạn khỏi làng Kim Quan, trước nay luôn đỡ đần bên nhau, gắn bó keo sơn, sau này, cả bọn kết bái thành huynh đệ sống chết có nhau, chỉ mong có một ngày được cùng hưởng vinh hoa phú quý, thế mà ngờ đâu tới hôm nay thì âm dương cách biệt rồi.

    Trước nay, Trương Tiểu Biện thấy chuyện chết chóc không ít lần nhưng đều không liên can gì tới mình, nhìn nhiều thì tronmg lòng cảm thấy cũng bình thường, nhưng tới giờ phút này, mất đi một huynh đệ thủ túc mới hiểu rõ thế nào là nỗi đau khổ của cảnh sinh li tử biệt. Sau trận đánh, kẻ hảo hán đường đường nọ đã không còn nữa rồi, reong lòng Trương Tiểu Biện làm sao vui cho được? Hắn định từ bỏ chức doanh quan của Nhạn doanh, tính các cao chạy xa bay là thượng sách, nhưng nghĩ ở một góc độ khác, lúc này thiên hạ đang đại loạn, trên đời làm gì còn nơi trú ngụ bình an? Tới giờ thì đã không còn đường nào quay lại nữa, nếu trước đây không cắm đầu cám cổ đi theo đường này, thì Tôn Đại Ma Tử sao phải chết oan uổng? Trong đầu hắn nghĩ ngợi miên man, một lúc lâu cũng không định đoạt được chủ ý nào.

    Nhạn Linh NHi đắp xong vết thương cho huynh trưởng rồi cả hai cùng khuyên giải Trương Tiểu Biện, đánh trận thì sao tránh khỏi chết người, hơn nữa chúng ta không làm lễ dâng tù báo công nữa mà đem tên đầu sỏ của giặc ra, mổ bụng moi tim để tế vong hồn các anh em đã chết trận. Trương Tiểu Biện trong lòng bấn loạn, gật đầu nói: "Mọi việc xin Tứ ca cứ làm chủ cho"

    Lúc ấy trời đã sụp tối hẳn, trong Hoàng Thiên Đăng lạnh lẽo, thê lương đang bao phủ một bầu mây đen thảm đạm, lính dõng của Nhạn doanh đã thu niệm, chôn cát các tử thi đâu đấy thiết lập một cái bài vị và bàn thờ sơ sài trước phần mộ. Nhạn Bài Lý Tứ sai thủ hạ trói giật cánh khuỷu của Chiếm Thiên hầu giải ra trước linh vị.

    Chiếm Thiên hầu nọ bị trúng một mũi tên vào cai còn chưa được nhổ ra. Từ miệng vết thương, máu tươi nhỏ thành từng giọt, quỳ sụp xuống trước mặt Nhạn Bài Lý Tứ, va vi rằng: "Xin tráng sĩ tha mạng cho tôi... "

    Nhạn Bái Lý Tứ rút phắt cương đao ra tay, lạnh lão chỉ vào từng hàng linh vị mà rằng: "Tha cho tính mạng của nhà ngươi không khó, choir cần các anh em đang nằm đây gật đầu đồng ý thì tat ha". Nói đoạn, vung tay chém xuống, một làn gió mát thổi qua, cái đầu của Chiếm Thiên hầu lăn xuống, máu tươi từ cổ họng phun lên trời. Nhạn Bài Lý Tứ lại sai hai tên đao phủ đứng chờ lệnh ở bên cạnh, tiến lên moi tim của hắn ra, đặt trước bàn thờ tế lễ.

    Những người chết trận cảu Nhạn doanh phần lớn là con em của cánh nhạn dân trong Hoàng Thiên Đăng. KHi bàn thờ vừa lập thì tiếng khóc than đã nổi lên ầm ĩ, nào là vợ khóc chồng, nào là mẹ khóc con, cũng có nhiều người khóc thương cho anh em thủ túc tử nạn. Theo lệ của cánh lục lâm, một viên tiêu quan vừa tung tiền giấy, vàng mã, vừa tụng bài " Thưởng cô lệnh". Bài lệnh rằng:

    "Non xa nước xa xa;
    Hai bầu trời dắp một tòa cầu ngang.
    Bày rõ ràng cơm phần cúng tế;
    Thắp hương lên thêm lễ tiền vàng.
    Gọi hòn hào kiệt hãy khoan;
    Trên đường về tới suối vàng dừng chân.
    Nghe lời ngâm Thưởng cô một lát,
    Ngày trước từng đối awmtj kết giao;
    Ân tình nhật nguyệt khác nào;
    Đã sâu tựa bể lại cao tột cùng.
    Đồng một lòng làm quân ứng mộ.
    Liễu sa trường amsu đỏ chiến bào.
    Nay anh em, đã về đâu;
    Âm dương cách trở khi nào thấy đây.
    Tiền giấy này tuy rằng chẳng mấy;
    Mông linh hồn nhận lấy làm vui.
    Cầu cho hồn sớm lên trời;
    Phù hộ may mắn cho người còn đây.
    Ở kiếp này thôi đành chia cắt;
    Nguyện kiếp sau gặp mặt anh em"

    Lời chú lệnh niệm xong, mội người cùng rúc còi nhạn mộ tràng dài rồi đốt vàng mã trước linh vị. Đêm ấy, Nhạn doanh ở lại trong đầm, tới tờ mờ sáng nhận được quân lệnh trở về Linh Châu. Những lộ săn nhạn và các lộ cướp cạn tới trợ chiến đều cướp đoạt được các chiến lợi phẩm từ xác chết, có người lấy được tiền bạc thì từ biệt trở về con đường làm ăn cũ, nhưng cũng có không ít tên thảo khấ, mãi lộ có dã tâm, không quản sinh tửu để kiếm của cải trong thời loạn thì gia nhập đoàn lính dõng của Nhạn doanh.

    Cứ như thế, khi Nhạn doanh rời khỏi thành thì chưa đầy nghìn người, sau trận chiến ở Hoàng Thiên Đăng lại tổn thất rất nhiều anh em, nhưng khi thu quân trở về lại tăng quân số lên hơn gấp hai lần. CHính vì vậy, ở giữa đường, Nhạn doanh lại tổ chức chỉnh đốn, yêu cầu những người mới kết nạp phải thắp hương ăn thề. Đó là tục lệ rất phổ biến trong các cánh dân quân. Chỉ khi nào kết thành huynh đệ thì mọi người mới đem tính mệnh giao phó cho nhau. Muốn như thế phải lập bàn thờ, bày Khai sơn lệnh ra.

    Lần lượt, doanh quan Trương Tiểu Biện và Nhạn Bài Lý Tứ đứng đầu, phía dưới là các viên tiêu quan và lính dõng, thứ tự xếp hàng, đọc lời lệnh như sau:

    "Hảo hán núi Đông đến núi Tây.
    Đều vì của cải mới về đây.
    Bươm bướm tham hoa nên mất mạng,
    Tiếc tiền lão Triệu chết không sai.
    Huynh đệ có duyên đã đến núi,
    Dẫu cho ở dưới hay trên đài.
    Trước đặt ba mươi sáu ghế lớn,
    Sau là ghế bạc bảy mươi hai.
    Rồng hổ chỗ nào ra chỗ ấy,
    Lính trơn thì đứng xếp hàng dài"

    Cánh cướp cạn, mãi lộ trong thiên hạ, tuy phân bố khắp nơi nhưng từ thời quân lục lâm Xích Mỹ đời Hán tạp phản đến nay thì đã kết thành bè đảng, liên lạc, hỗ trợ lẫn nhau giữa các địa phương. Trải qua các triều đại, cánh đạo tặc đều có một đầu lĩnh được gọi là :Tổng biều bà tử" chiếm cứ vùng hồ Động Đình tám trăm dặm. hồ Động Đình có muôn ngọn búi bao quanh, liền với ba sông, là nơi có hình thế hiểm yếu trong thiên hạ, xưa này vẫn là sào huyệt của đạo tặc. Đám thợ săn nhạn mãi lọ trong Hoàng Thiên Đăng cũng chỉ là một phái tỏng đó mà thôi.

    Cũng bởi những kẻ mới gia nhập Nhạn doanh phần lớn là người ngoài nên Nhạn Bái Lý Tứ phải đích thân đọc bài vè chất vấn những tân binh rằng:

    Sơn môn giờ ngọ mở rồi,
    Huynh đệ đâu đấy nghe lời truyền đây,
    Chín đường sống chết đã bày,
    Đâu nào những kẻ núi này dám lên?
    Người tài hèn chớ nên bén mảng,
    Kẻ mạnh tâm đừng lảng vảng vào.
    Nhân thân mờ ám đi mau;
    Tính toán chưa chín thôi nào bề nhanh,
    Mạo xưng danh cũng chuồn luoonc ho lẹ;
    Kẻo tra ra là sẽ mất đâu.
    Những phường abcj nghãi lau nhua;
    Hôm nay la flcus lạc sâu hang hùm.
    Kẻ trùm sỏ mà vi phạm lệnh;
    Cũng cầm bằng tính mệnh vứt đi.
    Anh em cấp dưới không nghe,
    Ba đao khoét mắt chẳng nề hà đâu"

    Mọi người đã nghe rõ quy củ, liền tự động khai báo thân phận lai lịch, đồng thời cũng làm bài vè để đáp lại, ví dụ như:

    Nghe lời huynh trưởng bảo ban;
    Chúng tôi chỉnh đốn y quan vào hầu.
    Hôm nay may gặp được nhau,
    Đúng alf duyên tự thuở nào đến nay.
    Chúng tôi đây có tài cso dũng,
    Ai nấy danh cũng nổi như cồn.
    Xin trên tỏ chút đoái thương;
    Nếu có sơ suất trăm đường xá cho.
    Tôi đến từ kia kia đó nọ;
    Thôn làng nào là chỗ gia cư.
    Vào hồi năm, tháng, ngày giờ;
    Mẹ tôi trở dạ sinh cho làm người.
    Từng wor núi này trại ấ,
    Hôm nay xin bái nhập Nhạn doanh.
    Lệnh ban ắt phải thi hành;
    Ăn thề uống amus lòng thành dâng lên.
    Không kính trên nguyện dâng thủ cấp;
    Dưới chẳng nhường cứ mặc moi tim.
    Nếu không nhường dưới kính trên;
    Tôi xin nộp mạng để đền nợ thân.

    Doanh quan còn phải hỏi:"Có gì làm bằng chứng?" Kẻ được hỏi sẽ dáp: "Bẻ hương làm bằng" Người đó sẽ bẻ đôi cây hương trong tay, biểu thị ý là nếu cò gì gian dối thì sẽ giống như cây hương này, sẽ bị chém chết dưới lưỡi đao.

    Nhạn Bài Lý Tứ giữ lại những người có thể đi theo, còn những kẻ thân phận không rõ ràng đều trả về, đó kiểm điểm lại lính dõng trong doanh được hai nghìn hai trăm người, khiến cho thực lực của Nhạn doanh tăng hơn gấp bội. Gã rất mừng, chỉ riêng Trương Tiểu Biện thì hết sức lo âu. Thấy binh mà càng tăng nhiều thì báo hiệu các trận đánh càng lúc càng ác liệt và người chết chắc chắn sẽ càng nhiều hơn. Cứ như trận vừa rồi mà xét thì còn phải hi sinh tính mạng không biết bao nhiêu huynh đệ tay chân nữa. Con đường mà Trương Tam gia này đi, không biết đến bao giờ mới kết thúc đây? Liệu chừng, cứ suy nghĩ mãi cũng chẳng giải quyết được gì, hắn đành chỉ biết vâng theo mệnh lệnh trời xui khiến, đoạn liền cho chỉnh đốn đội ngũ về thành nghe lệnh.

    Chuyện Nhạn doanh đại phá Việt khấu tại Hoàng Thiên Đăng quả nhiên làm chấn động thiên hạ, đến Hoàng thượng ở trong kinh thành cũng nhận được báo tiệp. Long nhan vui mừng, bảo rằng cơ hội trung hưng của triều ta đã sáng sủa, lập tức chính tay ban cho ngự bút bốn chữ" Trung dũng Nhạn doanh", đồng thời sai bộ Binh phá lệ phong Trương Tiểu Biện Trương Tiểu Biện làm chức tham tướng, hàm võ quan chánh tam phẩm, nhận bổng lộc của triều đình. Kỳ thực ra đó cũng chỉ là một chức quan hư hàm, hữu danh vô thực, rốt cuộc hắn vẫn chỉ là một doanh quan. Ngoài ra triều đình cũng phong thưởng gấp đôi tiền lương cho lính dõng Nhạn doanh cả cũ lẫn mới.

    Đề đốc Đồ Hải vốn định mượn dao của quân Thái Bình để xóa sổ Nhạn doanh, nhưng ai ngờ nổi lại có kết cục như vậy, thành ra nối giáo cho giặc. Lão càng cảm thấy tài nghệ cao cường của Trương Tiểu Biện và Nhạn Bài Lý Tứ, lại thêm bè đảng trong thành của họ quá nhiều sẽ trở thành mối uy ***********, chỉ e về sau phát sinh ra đại loạn. Song, tạm thời lão nuốt giận nín nhịn, vả lại việc điều động Nhạn doanh phục kích Việt khấu lần này lại đúng là chủ ý của lão nên đường nhiên lão cũng lập tức tấu báo công lao với triều đình để nhận thưởng. Những chuyện đó không bàn tiếp nữa.

    Chỉ nói về thời gian thấm thoát qua mau, đông qua hạ tới, chẳng mấy chốc mùa thu, mùa đông qua đi, đã đến cuối xuân đầu hè, Trương Tiểu Biện được Tuần phủ đại nhân tin tưởng, làm doanh quan của Nhạn doanh, tuy không hiểu phép hành quân, bày trận, chém giết, nhưng thủ hạ của hắn có bọn Nhạn Bái Lý Tứ đều là những tướng tài kiêu dũng thiện chiến, hơn nữa, họ đều nghe theo mệnh lệnh của hắn. Dưới sự thống lĩnh đó, Nhạn doanh liên tiếp giao chiến với Việt khấu. công thành bạt trịa khắp nơi, thu phục được mấy chỗ trọng trấn xung quanh thành Linh Châu.

    Một hôm nọ, Nhạn doanh được trở về thành dưỡng sức quân, Trương Tiểu Biện nhân lúc nhàn rỗi, một mình đi đến Miêu Tiên từ. Lũ mèo hoang gặp lại người quen, liền nhao vào trong đền quấn quít lấy hắn.

    Trương Tiểu Biện cho mèo hoang ăn vài thứ thức ăn rồi vắt chân chữ ngũ, dựa ngả ngốn lên bệ thờ. Hơn nửa năm nay, hắn phải trải qua vô số chuyện chém giết, trong lúc này chợt dấy lên niềm cảm khái, hồi trước đến nằm mơ cũng mơ đến cảnh vinh hoa, phú quý, nhưng dưới gầm trời khắp nơi đều nổi lên đao binh, chẳng biết Trương Tam gia này ngày nào tháng nào mới được ăn bữa yên ổn đây? Nếu sớm biết làm người khổ cực như vậy thì hồi đầu thai đã khẩn cầu Luân hồi Diêm vương cho Tam gia ta làm một con mèo hoang Linh CHâu có khi còn được sung sướng rong chơi, chứ cứ vào sinh ra tử thế nào thì biết bao giờ mới ngừng được.

    Chính đương lúc phiền não, bỗng nghe có tiếng nói lạnh lẽo như củi khô vang lên: "Hay đây! Cố nhân lâu nay vẫn khỏe chứ?" Trương Tiểu Biện giật mình, vội vã bật dậy khỏi bệ thờ, đưa mắt nhìn thì thấy trong Miêu Tiên từu đã xuất hiện thêm một người nữa. Người này mình mặc áo bào màu tro lam lũ, tựa như xác chết mặc đồ thời cổ vừa sống dậy từ trong mộ, trên mặt bịt kín, chỉ lộ ra đôi mắt vô hồn, không sức sống. Kẻ đó không phải ai khác, chính là Lâm Trung Lão Quỷ hay mách bảo họa phúc, lành dữ cho Trương Tiểu Biện.

    Nửa nam nay, Trương Tiểu Biện không thấy người này, chẳng ngờ hôm nay lão lại tự tìm đến. hắn đang có mấy điều quan trọng muốn hỏi, liền vội vã chào to. Nào ngờ chưa kịp nói năng gì nhiều, Lâm Trung Lão Quỷ đã đột nhiên cất tiếng: "Truong Tam gia, đại họa của nhà người sắp đến rồi, đến tính mạng cũng không thể giữ được, thế mà nhà ngươi vẫn còn thời gian để đùa giỡ nữa ư?" Thật đúng là: "Ở nhà chơi suốt cả ngày; Biêt đâu họa lớn đổ ngay lên đầu"

     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Thành viên đang xem bài viết (Users: 0, Guests: 0)