Nhạc Phi Diễn Nghĩa Tác giả: Mộng Bình Sơn Chương 72: Hồi Thứ Bảy Mươi Hai Dịch giả + Biên dịch: Kiều Mai Nguồn: NXB Văn Học Mời đọc Các quan lại địa phương tới tấp gửi chỉ làm bổn chương báo cáo về dinh thừa tướng tâu chuyện Hắc Man Long kéo binh qua khỏi Tam Quan đã truyền hịch cho dân chúng biết mục đích của đoàn quân này là đi bắt cho được Tần Cối để bảo thù cho Nhạc Nguyên soái. Bọn gian thần như Trương Tuấn, Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập đều thất kinh dắt nhau ra mắt Tần Cối. Bây giờ Tần Cối đang bị ung thư phát bối, nằm liệt giường. Ba người vào thư phòng, phải quỳ dưới chân giường bẩm: - Này Hắc Man Long đã đánh vào khỏi Tam Quan rồi, hắn tuyên bố là quyết báo thù cho Nhạc Phi nên buộc triều đình phải đem Thái sư dâng cho nó thì nó mới chịu lui binh. Nay bổn chương các nơi gửi về tới tấp, chúng tôi không dám tự tiện phải đến đây chờ lệnh. Tần Cối nghe nói hét lên một tiếng rồi hôn mê bất tỉnh, không nói gì được. Ba người thấy tình trạng Tần Cối như vậy không biết tính sao đành từ biệt trở về bàn với nhau. Trương Tuấn nói: Hắc Man Long võ nghệ cao cường, lại thêm hắn đến đâu dân chúng đồng tâm ủng hộ, khó mà đánh lại nó, nay ta cần phải làm một chiếu giả sai người ra Vân Nam trút hết tội lỗi cho vợ Nhạc Phi, khiến hắn phải viết thư rút Miêu binh về mới được. Thương nghị xong, Trương Tuấn một mặt làm chiếu giả sai người đem ra Vân Nam, một mặt truyền cho các tướng gìn giữ ải quan đồng thời đem thêm binh ngăn ngừa những nơi hiểm yếu. Qua bữa sau Trương Tuấn vào quỳ trước Kim giai tâu: - Nay Tần Thừa tướng bệnh tình trầm trọng mà trong nước xảy ra nạn binh đao, vậy xin Thánh thượng hãy lập người khác để lo việc triều chính. Cao Tông nghe tâu, truyền chỉ xe giá ngự đến trướng phủ thăm Tần Cối. Con nuôi Tần Cối là Tần Hy cùng Vương thị đều dắt nhau ra ngoài thành tiếp giá. Cao Tông đi thẳng vào thư phòng đến ngồi bên giường Tần Cối nhưng Tần Cối vẫn mê man, không hay biết gì hết. Tần Hy bước tới vừa lay, vừa gọi: - Cha ơi! Có thánh giá ngự đến đây này! Tần Cối nghe kêu hé mở mắt ra nhìn, nhưng tay chân cứng đơ không cựa quậy nổi, rồi cố gắng lắm Tần Cối mới thì thào được mấy tiếng: - Thánh giá đến đây làm gì cho nhọc mình rồng? Hãy xá tội cho hạ thần nay mang trọng tội, nên phải bị Âm ty hành phạt, bệ hạ cũng nên an dưỡng mình rồng. Hạ thần bị Nhạc Phi theo đòi mạng, lại đánh một chùy phía sau lưng đau đớn vô cùng, chắc không thể thấy thánh thượng được nữa! Nói vừa dứt lời, Tần Cối rú lên một tiếng rồi chết giấc. Cao Tông vô cùng xúc động, sai thái y hết lòng chữa chạy rồi lui giá về cung. Hôm sau lâm triều, vua hạ chỉ cho Vạn Sĩ Hoa và Lã Võ Tập hợp lo việc triều chính. Bấy giờ đoàn quân của Hắc Man Long tiến mạnh như vũ bão, thế mạnh như chẻ tre, gặp châu chiếm được châu, gặp huyện chiếm được huyện, đánh thốc đến Lâm An đồn binh tại Phạm thôn. Quân chạy vào thị báo, Trương Tuấn thất kinh sai Tổng binh Vương Võ lãnh năm ngàn binh ra thành cự địch với Miêu tướng. Vương Võ vâng lệnh dẫn binh ra Phạm thôn an dinh hạ trại. Hắc Man Long vung chùy giục ngựa lướt tới kêu lớn: - Bớ Tống tướng, nếu ngươi thức thời, hãy vào thành bắt Tần Cối đem đây dâng nạp cho mau thì muôn việc đều xong, bằng chậm trễ, ta đánh thốc vào thành, chắc chắn lão hôn quân kia ta cũng không tha. Quân sĩ vào phi báo, Vương Võ lên ngựa vung đao xông ra khỏi trại, nạt lớn: - Chúng bay là loài Miêu man, lẽ ra phải khuất phục chịu phong vương tước mới phải, sao dám cả gan xâm phạm thiên triều, tội ấy khó dung. Nay bổn soái đã ra đây tất nhiên thây ngươi phải đứt làm mấy đoạn. Hắc Man Long lửa giận phừng gan, lớn tiếng mắng: - Mi cũng là loài gian đảng nghịch thần, nhưng nếu đem tên đại gian ác Tần Cối dâng nạp, ta cũng tha thứ cho ngươi, nếu ngươi cố tình phò trợ hắn để tiếp tục làm điều tàn ác, thì ít ngày nữa đây ta vào được trong thành, vàng đá khó phân, ta sạn thành Lâm An bình địa, lúc ấy dù ăn năn cũng đã muộn. Vương Võ giận quá không thèm nói thêm nửa lời, lập tức vung đao xốc tới chém. Hắc Man Long vung chùy đánh hất đao ra, hai bên đánh nhau chưa đầy sáu hiệp, hai quả chùy của Hắc Man Long quá nặng, khiến hai cánh tay của Vương Võ bủn rủn không đỡ nổi được nữa. Chỉ một khắc sau, Hắc Man Long giáng Vương Võ một chùy trúng giữa sọ, óc huyết văng tứ tung, chết không kịp ngáp. Hắc Man Long thừa thế xua binh chém giết quân Tống chết quá phân nửa, còn bao nhiêu chạy thoát vào thành. Hắc Man Long kéo thẳng đến Thê Hà lãnh hạ trại, rồi sai quân sĩ sắm lễ vật đem đến trước mộ Nhạc Phi tế điện.Vị dũng tướng vô cùng xúc động, đứng trước phần mộ khóc lóc thảm thiết. Hôm sau Trương Tuấn thân dẫn binh ra thành, kéo đến trước chùa Tịnh Từ đóng quân rồi đem cây, đá lấp hết các nẻo đường xung quanh, đoạn triệu tập bốn viên Ngự tiền Tổng binh là Ngô Luân, Trần Kỳ, Vương Đắc Thắng và Lý Tất Hiển vào thương nghị. Trương Tuấn nói: - Nay Hắc Man Long là viên Miêu tướng dũng mãnh vô .song, cần phải dùng trí đánh hắn may ra mới thắng nổi. Vương Đắc Thắng nói: - Tôi đã tính sẵn một kế, đêm nay phải đem vài trăm cái bàn thả dưới hồ, rồi đem hình nộm cột vào chân bàn, mỗi hình nộm phải cho cầm một cây đèn lồng để cho chúng lầm. Sai tướng dẫn binh mai phục gần bên mé hồ. Trong lúc ban đêm tăm tối, nó lại thấy quân ta ở dưới hồ, nó sẽ tưởng lầm hồ cạn thế nào cũng sa xuống hồ, chừng ấy bắt nó dễ như trở bàn tay. Trương Tuấn khen là diệu kế, bèn sai quân lính y theo kế ấy mà thi hành. Chờ đến trời tối, Vương Đắc Thắng dẫn binh đến gần trại của Hắc Man Long la hét om sòm. Lúc ấy Hắc Man Long đang ngủ mơ màng, bỗng nghe tiếng quân reo vang trời dậy đất, liền mang giáp, vung chùy lên ngựa xông ra khỏi dinh. Vương Đắc Thắng thấy Hắc Man Long, liền lướt tới đâm đại một thương rồi quay ngựa bỏ chạy. Hắc Man Long giục ngựa đuổi theo nhưng khi Vương Đắc Thắng chạy đến mé hồ thì rẽ qua con đường nhỏ trốn mất. Đến đây, Hắc Man Long nhìn quanh nhìn quất không tìm thấy Vương Đắc thắng đâu cả, lại thấy dưới hồ có quân cẩm đèn, phần vì trời tối không trông rõ ràng, liền giục ngựa chạy đại xuống hồ để chém sạch địch quân, chẳng dè cả người lẫn ngựa chìm nghỉm dưới hồ. Trương Tuấn điều khiển đoàn quân mai phục, vừa trông thấy Hắc Man Long sa xuống nước lòng mừng khấp khởi, liền dốc quân dùng câu liêm móc kéo lên trói chặt, rồi sai Tổng binh Trương Khôn dẫn ba ngàn quân áp giải Hắc Man Long về thành. Lúc đang đi, bỗng có một tướng cầm bạch mã ngân thương, xốc tới đâm Trương Khôn một thương chết lập tức rồi hắn liền mở trói cho Hắc Man Long, một mình vung thương giết sạch ba ngàn quân sĩ. Hắc Man Long được thoát nạn nhưng không biết ân nhân là ai, vội bước tới chấp tay hỏi: - Chẳng hay tướng quân là ai xin cho biết quí danh đề sau này đền ơn sâu. Người ấy đáp: - Tôi họ Hàn tên Ngạn Trực, cha tôi là đại Nguyên soái Hàn Thế Trung, chỉ vì thấy cha con Nhạc Nguyên soái bị hãm hại, nên buồn giận không muốn làm quan, sống ẩn cư nơi đây. Vừa rồi nghe tướng quân báo thù cho Nhạc Nguyên soái lòng người ai cũng thuận và vui mừng. Hôm nay cha tôi nghe tướng quân giao binh với Trương Tuấn, sợ tướng quân lầm gian kế của hắn, nên sai tôi đến đây dò nghe tin tức, chẳng dè đi đến đây gặp tướng quân. Hắc Man Long nói: - Tôi mang trọng ân của tướng quân, nếu tướng quân không chê tôi là người Hóa ngoại, thì tôi xin tình nguyện kết nghĩa anh em. Hàn Ngạn Trực nghe nói mừng rỡ vô cùng, liền dắt Hắc Man Long đến cầu Lục Điều bốc đất làm hương, vái trời đất kết nghĩa anh em, thề cùng sống chết. Rồi Hàn Ngạn Trực nắm tay Hắc Man Long thân mật nói: - Bây giờ đệ xin kiếu ca ca để về, vì đệ ở đây sợ e gian thần biết được đồn danh, bán tiếng thì bất tiện lắm. Hắc Man Long quyến luyến nói: - Lúc nào hiền đệ có rảnh hãy ra nơi Hóa ngoại thăm anh chơi. Hai người bịn rịn một hồi lâu mới chia tay. Hàn Ngạn Trực trở về nhà, còn Hắc Man Long thì trở về trại, điểm binh mã kéo xốc tới hồ đóng quân. Sáng hôm sau, Hắc Man Long lại kéo quân thẳng đến cửa thành khiêu chiến. Quân sĩ chạy vào phi báo, Trương Tuấn buồn bực chẳng yên, liền nhóm hết chư tướng thương nghị. Trương Tuấn nói: - Chúng ta không phải hạng đối thủ của Hắc Man Long, nếu cưỡng ra quân ắt mang hại. Chi bằng lập kế hoãn binh, nghĩa là chúng ta sẽ cho hắn biết rằng, hiện nay thánh thể bất an, chờ cho Thiên tử khỏe mạnh, lâm triều được, sẽ bắt gian thần nạp cho hắn và muốn cho hắn vui lòng chờ đợi, bây giờ cần phải đem lương thảo ra dâng nạp cho hắn nuôi quân. Ta tin chắc rồi đây sẽ có thư vợ Nhạc Phi gửi đến khuyên hắn lui binh ngay. Chừng ấy ta phát văn thư cho binh mã các nơi đến cứu giá là yên việc. Nói về Nhạc phu nhân, ở tại Vân Nam, ngày kia tiếp được thánh chỉ, mới hay Hắc Man Long xâm phạm Lâm An liền viết một phong thư, sai Trương Anh đi suốt ngày đêm đem về Lâm An trao cho Hắc Man Long. Hắc Man Long tiếp thư đọc: "Tôi, Nhạc phu nhân Lý thị, kính gửi đôi lời cho Hắc tướng quân được rõ: Chồng tôi rủi vương phép nước về thần, tôi chịu tội ra chốn Vân Nam. Thiết nghĩ mưu kế gian thần sẽ có ngày bại lộ, con cháu tôi chắc được minh oan. Nay tướng quân tuy là nghĩa khí gan dạ, vì chút thù riêng mà hưng binh xâm phạm, làm cho triều đình khiếp đảm, kinh hồn. Tướng quân quyết báo thù cho họ Nhạc, nhưng vô tình đã làm cho hoại danh trung nghĩa của chồng con tôi. Vì vậy, tôi phải sai Trương Anh tức tốc đem bức thư này đến trao cho tướng quân, mong tướng quân vị tình lập tức thu quân về nước, chớ để lụy cho tôi và làm phiền lòng chồng tôi nơi chín suối.Tôi cảm đội ơn chẳng cùng". Đọc xong bức thư Hắc Man Long vô cùng xức động, hai hàng nước mắt chảy ròng rong, liền nói với Trương Anh: - Tôi kéo quân từ Tam quân đến đây, đi đến đâu cũng thấy dân chúng thương tiếc lão bá chẳng cùng, nay Nhạc bá mẫu lại bền lòng trung nghĩa, khiến tiểu đệ phải lui binh. Nếu vậy thì dung dưỡng cho gian thần nó muốn làm chi thì làm hay sao? Thật tình tôi lấy làm uất hận. Trương Anh nói: - Xưa kia Ngưu lão gia cùng chư vị anh hùng đã hưng binh về triều để báo thù cho Nhạc Đại lão gia, nhưng khi đến sông Trường Giang Nhạc Đại lão gia hiện hồn cản trở không cho tiến quân, vì thế ta đủ thấy con người trung nghĩa dù chết cũng không muốn hủy hoại danh tiết; vả lại, bọn gian thần ấy tội lỗi đã đầy rẫy thế nào cũng có ngày báo ứng, ta hãy chờ xem kết cục ra sao cho biết. Hắc Man Long không biết tính sao, đành phải sắm đồ tế lễ mộ Nhạc Nguyên soái cúng tế khóc than một hồi, rồi truyền quân nhổ trại kéo về Hóa ngoại. Trong thành, Trương Tuấn đang lo lắng mong đợi, bỗng có quân vào báo: - Miêu binh đã rút hết rồi. Trương Tuấn lòng mừng khắp khởi vội vào triều tâu dối với vua: Thần đã ra quân đánh dẹp Miêu binh. Chúng sợ hãi bỏ chạy thất sá hồn kinh, thần xua quân rượt theo mấy mươi dặm nhưng không kịp nên phải trở về đây tâu Thánh thượng rõ. Cao Tông bước xuống Kim giai đỡ Trương Tuấn dậy và nói: - Khanh quả là một đại trung thần có công lớn với triều đình không ai sánh kịp. Nói rồi hạ chỉ gia phong cho Trương Tuấn làm chức Trấn Viễn Đại Đô Đốc và ban cho vàng bạc, gấm vóc rất nhiều. Những tướng tá bộ hạ của y cũng đều được thăng thưởng trọng hậu. Trương Tuấn tạ ơn lui ra, đi thẳng đến tướng phủ thăm Tần Cối. Tần Hy vội rước vào thư phòng. Trương Tuấn bước đến bên giường thấy thần sắc Tần Cối xanh như tàu lá hai hàm răng cắn chặt, bệnh tình trầm trọng, liền hỏi Tần Hy: - Bệnh tình Thái sư hôm nay thế nào? Mấy ngày qua người có uống thuốc men gì không? Tần Hy thở dài, đáp: - Thái y chẩn mạch bốc thuốc thường xuyên, nhưng không hiệu nghiệm chi cả, bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng, ngày đêm cứ rên la hoài, lắm lúc hôn mê bất tỉnh, chắc không xong rồi! Trương Tuấn bước tới sát bên giường ghé vào tai Tần Cối nói nhỏ: - Thái sư hãy trọng lấy thân, nay Hắc Man Long đã bị tôi đánh đuổi lui về nước rồi, nên tôi đến bẩm cho Thái sư hay. Tần Cối nhướng mắt lên, vừa trông thấy Trương Tuấn đã la lên: - Nhạc gia ôi! Xin dung mạng, xin dung mạng? Trương Tuấn thấy vậy trong lòng lo ngại liền từ biệt về ngay. Tần Hy tiễn Trương Tuấn ra khỏi cửa mới trở vào thư phòng. Vừa đi đến cửa phòng bỗng nghe bên trong có tiếng xiềng xích chạm nhau khua lẻng xẻng, Tần Hy vào bên giường thấy Tần Cối tâm thần hoảng loạn, đôi mắt thất thần như muốn van xin, cầu cứu, thấy Tần Hy, Tần Cối muốn nói gì đó, nhưng không nói được, chỉ lắc đầu mấy cái rồi lè lưỡi ra thật dài cắn phập một cái nát cả lưỡi, máu tuôn lai láng rồi tắt thở!
Nhạc Phi Diễn Nghĩa Tác giả: Mộng Bình Sơn Chương 73: Hồi Thứ Bảy Mươi Ba Dịch giả + Biên dịch: Kiều Mai Nguồn: NXB Văn Học Mời đọc Triều đình tạm giấu chuyện thừa tướng Tần Cối vừa qua đời sợ lòng dân sinh biến. Lúc bấy giờ trong thành Lâm An có một vị tú tài tên Hồ Địch biệt danh là Mộng Điệp từ ngày thấy cha con Nhạc Phi bị hại, trong lòng vô cùng uất ức nên lúc nào cũng nói: "Trời đất có riêng, quỉ thần chẳng công ". Rồi mỗi khi cầm đến cây bút là viết lên hai câu ấy. Hôm ấy hay tin Hắc Man Long đem quân đánh thấu đến Lâm An quyết báo thù cho Nhạc Phi, Miêu tướng buộc triều định phải đem nộp gian thần Tần Cối mới chịu lui binh, nếu không nhất định đánh thốc vào thành: Hồ Địch lòng mừng vô hạn liền reo lên: - Thế thì sung sướng cho ta biết bao nhiêu! Hồ Địch sai gia nhân đi thám thính từng giờ từng phút để kịp thời chứng kiến cái cảnh hành hình bọn gian thần cho hả giận. Qua bữa sau, gia tướng trở về phi báo: - Vương Võ đã bị Hắc Man Long giết chết rồi, bây giờ Miêu binh đã đến đóng tại Thê Hà Lãnh, Trương Tuấn phải đích thân ra thành nghênh chiến. Hồ Địch hay được tin ấy lại càng sung sướng hơn nữa, mong sao Trương Tuấn chết luôn về tay Miêu binh để bớt lũ gian thần, nên sai gia nhân đi thám thính tiếp. Sau đó lại nghe triều đình khiếp đảm đem lương thảo và bạc tiền dâng nạp cho Hắc Man Long, hứa mười hôm nữa sẽ bắt gian thần hiến nạp. Hồ Địch nhảy nhót reo mừng lấy làm toại chí, cả ngày uống rượu ăn uống vui chơi một mình để chờ tin mừng. Chiều hôm ấy Hồ Địch đã say mèm, bỗng thấy gia đinh chạy về phi báo: - Nay Hắc Man Long đã bị Trương Tuấn đánh chạy về Hóa ngoại rồi, triều đình gia phong thêm quan tước và thưởng cho Trương Tuấn vàng bạc châu báu rất nhiều. Hồ Địch nghe nói, đang cầm chai rượu trong tay, tức mình đập vỡ nát lúc nào không hay, rồi đang say nghiêng ngửa vẫn lấy bút viết ra một bài thơ; nguyên văn: “Trướng khước gian thần trường thiệt thệ, Luyến thương trung hiếu khổ mưu di, Thiên tào mặc mặc duyên vô báo, Địa phủ minh minh định hữu ti. Huỳnh các chú hòa thiện tải hận, Thanh y hành tửu lượng quân bi, Ngu sinh nhược đắc Diêm la tố, Định bắt gian thần vạn kiếp bì” Lời thư của Hồ Địch đầy oán, ý nói đứa gian thần hãm hại người trung lương mà thiên tào không báo ứng, địa phủ cũng làm ngơ, chắc thiên địa thiên vị lũ gian này rồi' Phải chi Hồ Địch này làm chức Diêm Vương nhất định sẽ cắt da xẻ thịt lũ gian cho biết mặt. Viết rồi đọc lởn một hồi cho hả hơi, mới đưa vào đèn đốt cháy. Sau đó Hồ Địch lại rót rượu uống cho đến say mèm không còn biết trời đất gì nữa, miệng thì cứ than trời trách đất hoài không ngớt. Uống riết một hồi, Hồ Địch dựa ngang thành ghế, nhắm nghiền đôi mắt, rồi mơ màng trông thấy dưới bàn có hai con quỉ vùng nhảy xổ ra, quát lớn: - Diêm Vương ra lệnh đòi ngươi, phải theo ta lập tức. Hồ Địch hỏi: - Diêm Vương ra lệnh đòi ta có việc gì? - Đừng hỏi nhiều lời hãy theo ta đến đó sẽ biết. Vừa nói, hai con quỷ kéo lôi Hồ Địch đi. Hồ Địch biết không thể cưỡng nổi đành phải ngoan ngoãn bước theo. Khi gia nhân bưng cơm lên thấy chủ mình nằm ngả trên thành ghế, bước lại rờ xem thì thấy Hồ Địch đã tắt thở, trên ngực chỉ còn chút ấm ấm thôi. Gia nhân thất kinh chạy xuống phi báo. Bà tú kinh hoàng chạy vào đỡ chồng lên giường kêu khóc thảm thiết, nhưng vẫn không thấy tỉnh lại. Cả nhà đều lăn ra khóc than, lo sắm quan quách nhưng thấy ngực ông tú Hồ Địch còn nóng nên chưa dám liệm, chỉ đứng xung quanh cái thây xem chừng mà thôi. Nói về Hồ Địch theo hai con quỉ ra khỏi cửa, mỗi con quỉ kèm một bên kẹp Hồ Địch phi nhanh, vượt qua một dãy đồng không mông quạnh gió thổi lạnh lùng. ước độ dặm đường đến một nơi thành quách nguy nga, có dân chúng qua lại buôn bán đông đúc. Hai con quỉ dắt Hồ Địch đi thẳng vào thành, nơi đây chợ búa, phố phường nhộn nhịp. Đi một đoạn nữa, đến trước một cái đền cao lớn, sơn phết rực rỡ, phía trên có bốn tấm bảng đề bốn chữ rất to: "Linh Diệu Chi Phủ" trước cửa đền đứng vô số bọn đầu trâu mặt ngựa, đứa cầm cang xa, đứa cầm thiết chùy. Hồ Địch trong lòng khiếp sợ, dừng chân lại. Một con quỉ đứng giữ Hồ Địch, còn con kia đi trước bẩm báo. Giây phút sau hắn trở ra bảo Hồ Địch: - Diêm Vương đòi ngươi vào. Hồ Địch nghe nói tay chân bủn rủn, nhưng cũng liều nhắm mắt đưa chân, theo hai con quỉ đi ngay vào chốn điện hình. Đến nơi, Hồ Địch ngước mắt nhìn thấy trên cao một vị Đại Vương áo mão rỡ ràng, hai bên có sáu vị thần áo xanh, đai xám, giày rộng mũ cao đứng hầu, mỗi người đều cầm một quyển sổ trên tay. Phía dưới, đứng hầu có trên năm trăm người, ai nấy đều có nanh vuốt dữ dằn, mắt lộ răng lồi càng thấy càng ghê sợ. Hồ Địch vừa bước tới quỳ trước thềm, Diêm Vương đã lên tiếng quát hỏi: Mi là học trò lẽ ra phải tôn kính trời đất mới phải, sao lại oán trách trời đất, chê bai quỉ thần? Hồ Địch dõng dạc đáp: - Tôi đây vốn dòng Hầu Tấn song cũng có học đạo thánh hiền, lẽ đâu lại dám oán hận trời đất, chê bai thần thánh? Diêm Vương nói: - Mi thường bảo trời đất có riêng, quỉ thần chẳng công, lại làm thơ có câu: "Thiên Tào mặc mặc duyên vô báo, Địa phủ minh minh định hữu ti'' sao mi bảo mi không oán trời, trách đất? Hồ Địch nghe hỏi mới nhớ lại bài thơ trong lúc mình uống rượu say làm ra, nên vội vàng sụp lạy mà nói: - Chỉ vì tôi thấy Nhạc Phi đã hết lòng vì dân vì nước, lại bị gian thần hãm hại, thế mà lũ gian thần chẳng những không bị trừng phạt mà còn ngang nhiên hưởng phú quí vinh hoa cho nên khi uống rượu say, nóng giận mới ca thán như vậy, xin Đại Vương dung thứ. Diêm Vương nói: - Được rồi, bây giờ hãy làm cho ta một tờ cung trạng, nếu ngươi luận phải lý, ta sẽ cho ngươi trở về dương thế sum họp với vợ con, bằng từ lý không thông thì đừng mong thoát khỏi chốn địa ngục này. Nói rồi, sai quỉ đem giấy mực đến. Hồ Địch cúi đầu vâng dạ rồi múa bút thảo một hồi xong ngay. Bọn quỉ tiếp lấy đem dâng cho Diêm Vương. Diêm Vương bảo tả hữu đọc lớn lên cho mọi người đều nghe. Một viên đội mũ thẻ ngang đứng một bên tiếp lấy tờ cung trạng hắng giọng đọc: "Phụng dĩ hỗn độn vị phân, diệt võ sinh nhi vô tử, âm dương ký phán, phương hữu quỉ dĩ hậu thần vị Tang môn truyền nhân quả chi kinh, tri địa ngục thiết luân hồi chi báo, thiện giả phước, ác giả họa, lý sở đương nhiên, trực chi thăng khuất chỉ trầm, diệc phi mầu hĩ. Cái ngu hiên chi dị loại, nhược u hiển chi thù đồi thị đĩ bất đắc kỳ binh tắc minh, phi điểm danh nhi điều tự, cam vọng phi pháp bất đạo chi giới, cố la tội dĩ chiến khiên, xuất ư tự nhiên bổn hồ thiên tính. Thiệt niệm mà âu độc phụ thơ, tảo hiệu công danh chi chi, trưởng thừa sư huấn, tạm vô kinh vĩ chi tài, phi duy rộng đồng quản chi hào, nghĩ giục giáp thiên môn chi dục, mỗi túc hưng dạ mị thường cùng lý dĩ tu thân; đọc Khổng thánh chi vi ngôn, tư cử trực chi thố uổng;' quan Vương Khuê xác mận, tưởng khích trước dĩ vương thanh; lập trung trinh dục hiệu tòng quân, khăn suy lão cam đồng bồ liễu; thiên cao địa hạo tri bán thế chi hành tàng, nhựt cư nguyệt chư kiến nhất tâm chi diệu dụng, duy tôn hiền nhi tợ bửu; đệ kiến ác nhi như cừu, văn Nhạc Phi phụ tử chi oan, dục truy cầu nhi tử tránh, đỗ Tần Cối phu thê chi ác, cánh nguyện đắc nhi sinh thân; nhân Đông San tán túng hổ chi ngôn, trí bất thú thất hồi loan chi vọng; thương trung thần thần nhi bị hại hận tặc tử dĩ toàn chung, thiên đạo vô tri, quỉ thần an tại, tỷ gian nịnh sinh ư hiếu hạnh, lệnh liền triết tử ư vô cô, bán quỉ võ thần ty trượt kề chi sỉ, háo hiền ố nhịn thiết phi hu trượt chi nho, thị giai chí chánh chi tâm yên hậu thiên tư chi ý, ẩn tam bôi chi cuồng được phủ bát cú chi bĩ ngâm, tuy mao đại thông, thiệt vị công thần, duy thần giám chi". Xin tạm dịch: Lúc sơ khai còn hỗn độn thì đâu có sự sống chết? Về sau âm dương phân biệt mới có quỉ thần; cửa Phật có truyền nhân quả, mới biết rõ địa ngục, thiên đàng là chỗ luân hồi báo ứng. Làm lành hưởng phúc, làm dữ gặp họa là lẽ thường. Ngay thì được tự đo cất lên, gian thì phải nhận xuống không thể sai lệch. Nhưng vì trên đời ngu hiền cách biệt, sáng tối cách xa nên mới sinh ra nhiều nỗi bất bình buộc lòng phải nói, chớ không phải nói đề chuộng danh, cầu khen. Cũng không phải sợ phép mà câm miệng; ấy là lẽ tự nhiên vốn tại tính trời vậy. Từ lúc nhỏ tôi đã đọc sách của cha tôi để lại, sẵn có chí công danh, lởn lên theo thầy học tập, nhưng hổ vì không tài kinh vĩ. Chẳng phải lộng bút khoe khoang, chứ thật tình ý muốn chắp cánh bay lên trời, đêm nằm suy gẫm quyết chí trau dồi, học lời Khổng thánh hiền theo ngay bỏ gian. Xem lời luận của Vương Khuê thường gạn đục khỏi trong, lập tiết trung trinh muốn bắt chước cây "tông" cây "trước". Giá tấm lòng son cam chịu như cây "liễu'' cây "bồ". Trời cao đất dày có biết hành động của tôi chăng? Nhật nguyệt hai vầng có thấu nỗi lòng này diệu dụng: Chỉ vì xem người hiền như châu báu, xem việc dữ như cừu thù nên oan tình của cha con Nhạc Phi tôi động lòng muốn chết theo, thấy vợ chồng Tần Cối độc ác muốn ăn tươi nuốt sống. Chúng luận câu ''thả cọp" tại chốn Đông Song, làm cho Nhị Đế hết trông về Nam Đại. Thương người ngay bị hại, giận đứa nịnh hiển vinh. Thiên địa không hay, quỉ thần chẳng biết; để đứa gian sống yên vô sự, người hiền chết ức chết oan. Tôi chê thần, nhạo quỉ chẳng phải như kẻ sĩ trớ trêu, ghét nịnh ưa hiền không sánh với bọn nho gia giễu cợt.Quả là lòng ngay thẳng chẳng chút cong queo. Uống ba chén rượu vịnh vài vận đau buồn, tuy làm tội lớn, song với lẽ công bằng. Đến đây lời nói đã cùng, xin thần linh phán xét! Diêm Vương nghe nói cười ha hả: - Loài hủ nho giỏi tài hùng biện thật. Tuy lòng ngươi ưa lành ghét dữ cũng khá khen, song trong bài thư ngươi có câu: Nhược đắc Diêm la tố, nghĩa là nếu ngươiđược làm vua Diêm Vương. quả thật ngươi hủy ta đến thậm tệ. Ta thử hỏi, ngươi mà được làm Diêm Vương thì ngươi bỏ ta ra chỗ nào? Hồ Địch đáp: - Xưa ông Hàm Cầm Hổ có nói rằng: Sống làm Thượng Trụ Quốc, chết làm Diêm La Vương và ông Khấu Lại Công, Giang thừa tướng cũng thường nói lời ấy, sách sử hãy còn rành rành hơn nữa vua Diêm Vương là người thánh nhân quân tử trên cõi dương gian xuống, chấp nhặt làm chi việc ấy? Tôi đây tuy chẳng dám sánh với ba ông ấy, song về phương diện lòng ngay, dạ thẳng cũng dám bì theo chút đỉnh. Diêm Vương lại hỏi: - Nếu Diêm Vương thay đổi thì người cũ đi đâu? Hồ Địch đáp không nghĩ: - Nếu có thay đổi tất nhiên người cũ phải đầu sinh lên dương thế làm vương công đại nhân. Diêm Vương nghe đến đây cười xòa nói: - Tên này nói rất chí lý, song những hạng cuồng sinh này nếu không cho hắn thấy tất nhiên không tin lẽ báo ứng của trời đất, rồi suốt đời hắn không biết kiêng dè. Nói rồi Cho gọi Lục Y đem tấm Bạch Giản đến. Hồ Địch thấy trên tấm bạch giản có đề tám chữ: "Hữu ngưỡng phổ lược địa ngục minh quan". Diêm Vương dặn tên Lục Y: - Mi hãy dắt Hồ Địch đi xem việc báo ứng khắp hết các cửa ngục nhé! Lục Y lĩnh mệnh dẫn Hồ Địch bước xuống Tây Lang thẳng ra phía sau điện chừng ba dặm. Nơi đây vách tường cao hằng mấy trượng, xây bằng đá trắng, lấy sắt làm cửa, phía trên có đề bốn chữ: "Phổ lược chi ngục". Lục Y bước tới gõ cửa, thình lình bên trong có mấy tên quỉ Dạ Xoa nhảy bổ ra chộp bắt Hồ Địch, Lục Y trợn mắt hét: - Hãy buông ra lập tức, người nho sinh này không có tội, ta vâng lệnh đem người này đến đây để xem cho tường tận việc báo ứng đó thôi? Vừa nói vừa đưa tấm Bạch Giản cho quỉ Dạ Xoa xem. Quỉ Dạ Xoa trông thấy Bạch Giản vội buông Hồ Địch ngay và nói: - Tôi tưởng là tội nhân, ai ngờ là nho sinh, xin người chớ chấp. Sau đó bọn quỉ đứng nép sang một bên, Lục Y dắt Hồ Địch đi thẳng vào trong. Đây là nơi rộng rãi ước chừng hơn năm mươi dặm vuông, mặt trời soi bóng lờ mờ, hơi lạnh thấu xương. Phía Đông là ngục Phong Lôi, phía Nam là ngục Hỏa Xa, phía Tây là ngục Kim Cang, phía Bắc là ngục Minh Lãnh. Không biết bao nhiêu là đàn ông, đàn bà, kẻ mang gông, người mang xiềng đi tới, đi lui chật ních. Lục Y dẫn Hồ Địch đến trước một cái cửa, vừa nhìn vào đã thấy hơn hai mươi người trần truồng bỏ tóc xõa, tay chân đều bị đóng đinh dính cứng trên giường sắt, cổ bị mang gông sắt, toàn thân bị dấu roi tra khảo nứt nẻ, máu mủ xông ra tanh hôi ghê gớm chẳng ai dám lại gần. Lục Y chỉ một người phía dưới nói với Hồ Địch: - Tần Cối kia kìa, hắn đã bị bắt xuống đây rồi, còn bọn Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập và Trương Tuấn chẳng bao lâu cũng bị quả báo tại đương gian rồi sẽ bị bắt xuống đây hành tội như vậy. Rồi Lục Y giơ tay chỉ mấy người còn lại những bộ xương trắng hếu, nói: - Ngươi có biết bọn này là ai không? Bọn này không ai xa lạ chính là bọn Chương Đôn; cha con Thái Kinh, Vương Phố, Châu Nại, Cảnh Nam, Ngô Trọng Thắng, Mạc Trù, Phạm Quỳ toàn là lũ gian ác thảy đều bị tội tại đây Diêm Vương có dạy phải dùng âm hình khảo chúng cho ngươi xem, vậy hãy xem đây. Nói rồi Lục Y gọi hơn ba mươi tên quỉ dẫn bọn Tần Cối đến ngục Phong Lôi trói vào cây cột đồng; rồi một tên quỉ tốt lấy roi đánh vào chiếc vòng một cái, đột nhiên đao thương bay đến đâm Chém chúng túi bụi. Bọn Tần Cối mình mẩy nát như trái mồng tơi, trong giây phút, nghe sét đánh xuống ầm ầm, bọn Tần Cối nát bấy ra như tương, máu chảy tràn trề. Rồi bỗng một luồng ác phong thổi tới, quyện chung quanh mấy cái thây một hồi. Lạ thay, mấy cái thây nát được hoàn y lại như cũ. Lục Y nói với Hồ Địch: - Sét đánh tức là âm lôi, còn gió thổi là Nghiệt phong đấy. Nói rồi lại sai quỉ ít dẫn bọn Tần Cối qua phía ngục Kim Cang, trói vào nơi giường sắt, Quỉ đầu trâu tu miệng thổi một cái, nổi lên một luồng Hắc phong thổi tới cuồn cuộn, đao kiếm bay tới chém xả vào mình máu tuôn lai láng. Sau khi quỉ đầu trâu hô lên một tiếng, gió đao ngừng lại hắn liền dẫn tội nhân sang ngục Hỏa Xa. Ở đây, bọn quỉ Dạ Xoa cầm đinh ba chực sẵn vứt bọn Tần Cối bỏ lên xe rồi lấy quạt lớn phất qua một cái, tức thì hỏa xa chạy như bay, lửa cháy rần rần, trong giây phút cả bọn đều bị cháy thành tro Quỉ tốt lấy một thứ nước gì thối lắm đem tưới vào, mấy cái thây lại hoàn nguyên như cũ. Sau đó chúng lại dẫn qua ngục Minh Lãnh, bọn quỉ xách bọn Tần Cối ném xuống nước,nước lạnh thấu xương rồi lấy dao dần xương thịt nát bấy, đoạn lấy câu móc, móc lên đem vào chỗ cũ, lấy đinh đóng hai tay chân vào cây trụ đồng, rồi lấy đầu sôi xối vào khắp thân mình, đói thì cho ăn đao sắt, khát cho uống nước đồng. Lục Y nói với Hồ Địch: Cứ ba ngày bọn gian thần này phải chịu hình phạt trong các ngục ấy một lần, sau ba năm chúng phải đầu thai lên dương thế làm trâu dê, heo chó cho người ta phanh thây xẻ thịt ăn. Còn vợ Tần Cối nay mai đây cũng bắt xuống hành tội ba năm rồi mới đầu thai lên dương gian làm lợn nái, để đẻ heo con cho thiên hạ dùng, cuối cùng hắn cũng không khỏi bị phân thây xẻ thịt, còn bọn Tần Cối kia phải làm loài súc vật trên năm mươi kiếp. Hồ Địch nói: - Tội ấy bao giờ mới hết? Lục Y đáp: - Tội ấy bị hành hạ đời đời kiếp kiếp, chẳng biết bao giờ hết! Vừa nói vừa dắt Hồ Địch qua phía Tây Viên. ở đấy có một cái cửa nhỏ đề bốn chữ: "Gian hồi chi ngục", người ta thấy hơn trăm người mang gông xiềng, hình thù gần giống như thú, gươm đao bị găm đầy mình. Hồ Địch nói: - Bọn ấy bị tội gì vậy? Lục Y đáp: - ấy là bọn gian tướng lừa vua dối bề trên, phá nước hại dân, cứ ba ngày chịu hình phạt một lần rồi cũng đúng ba năm đầu thai làm súc vật như bọn Tần Cối vậy. Nói rồi, lại dắt Hồ Địch qua phía Nam Viên đến trước khung cửa nhỏ, ở đây cũng có đề chữ: "Bất trung nội thần chi ngục". Trong ấy hơn mấy ngàn con trâu, con nào con nấy đều có dây sắt xỏ mũi, buộc vào cây trụ sắt, bốn phía đều nhóm lửa để nướng. Hồ Địch lấy làm lạ, hỏi: - Trâu mà có tội gì, lại hành phạt đến thế? Lục Y đáp: - Chớ nên hỏi vội, hãy bình tĩnh xem thì biết. Nói rồi khiến ngục tốt lấy quạt lớn quạt lửa lên, chỉ trong giây phút lửa cháy phừng phừng, bầy trâu nóng quá kêu rống lên, da thịt chảy nứt ra, bỗng nghe trong lửa nổ lên một tiếng, da trâu vàng mất hết để lộ ra hình người trần truồng trông rất thảm hại. Lục Y lại sai quỉ Dạ Xoa quăng vào vạc dầu, da thịt tiêu hết chỉ còn những bộ xương trắng, trông dễ sợ làm sao! Giây phút sau, quỉ tốt lấy nước phun vào, tự nhiên hình người trở lại như cũ. Lục Y nói với Hồ Địch: - Bọn này trước kia cũng là những hoạn quan, trải qua mấy đời vua như bọn Thập Thường Thị đời Hán, bọn Lý Phụ Quốc, Cừu Si Lương, Vương Thủ Trùng, Điền Lệnh Tư đời Đường; bọn Diêm Văn ưng, Đông Quán đời Tống, chúng được nuôi dưỡng ở trong cung cấm, ăn đồ ngọc thực, mặc áo cẩm y đã không lo đều ơn chúa lại học thói khi quân giết hại trung thần, hiếp người lương thiện, làm khổ sở muôn dân nay phải báo ứng đời đời kiếp kiếp. Nói rồi, dắt Hồ Địch qua nơi Đông Bích thấy đàn ông, đàn bà mấy ngàn, không tấm chăn manh áo che thân, kẻ bị nấu dầu, người bị mổ ruột, kẻ ngồi bàn chông người bị cắt lưỡi kêu khóc inh tai nhức óc. Lục Y đưa tay chỉ và nói: - Những bọn này phần đông là bọn tham quan Ô lại, nhiễu quốc hại dân, không biết thảo ngay, nghịch cha dối chúa, lại gian dâm, ăn hối lộ, hoặc ăm trộm, ăn cướp của người ta nên phải tội như vậy. Hồ Địch xem đến đây điểm một nụ cười khoái trá nói: - ừ có như vậy mới hả giận ta chứ! Lục Y dắt Hồ Địch trở lại Linh Diêu điện, Diêm Vương hỏi: - Tên cuồng sinh kia, ngươi đã thấy rõ quả báo chưa? Hồ Địch cúi đầu đáp: - Vâng, tôi đã trông thấy tường tận. Thế mới gọi là thiên địa vô tư, quỉ thần minh sát chứ! Diêm Vương lại nói: - Nay ngươi trông thấy đã rõ ràng, vậy ngươi hãy làm một bài phê phán vợ chồng Tần Cối ta xem nào. Hồ Địch vâng mệnh múa bút viết ngay một bài luận tội vợ chồng Tần Cối rồi dâng lên. Diêm Vương xem xong vỗ tay cười ha hả, lớn tiếng khen: - Tên học trò này quả là kẻ cuồng trực. Hồ Địch lại bẩm: - Đứa gian thần đền tội chính mắt tôi trông thấy rõ ràng, song còn Nhạc Hầu trung nghĩa lại bị hãm hại, chẳng biết lúc này người ở tại đâu? Diêm Vương nói: - Ngươi khỏi cần phải đòi hỏi việc ấy, ta đã cho ngươi thấy rõ địa ngục để thấy Tần Cối bị hình phạt như thế nào tất nhiên ta phải cho ngươi thấy Nhạc Phi để ngươi khỏi thắc mắc nữa chứ. Ta tin cho ngươi biết rằng, ta đã cho người đi thỉnh hồn Nhạc Phi và Ngột Truật xuống đây đặng đối án Tam Tào để ngươi hiểu rõ. Nguyên vì lúc trước vua Đạo quân Hoàng Đế nhân tiết Nguyên đán tế trời, người viết tờ biểu lại chấm chữ ngọc lộn lên chữ đại thành thử chữ "Ngọc hoàng Đại để' hóa ra chữ "Vương Hoàng khuyển đế". Vì vậy Ngọc Hoàng nổi giận sai con Xích Tu Long xuống đầu thai làm Ngột Truật để nhiễu loạn giang sơn nhà Tống. Còn Nhạc Phi nguyên là Đại Bàng điểu chỉ vì mổ chết con nữ Thổ Bức nên đức Phật Như Lai phạt xuống phàm trần, oan hồn nữ Thổ Bức lại đầu thai xuống làm vợ Tần Cối tại Đông Song để báo cái thù ấy. Tần Cối chính là con Cù Long cũng bị Đại Bàng điểu mổ trúng tại Cửu khúc Hoàng Hà, hắn dâng nước làm hại huyện Thang âm phạm thiên triều nên bị đày xuống đầu thai để bao thù. Việc oan oan tương báo như vậy, nhưng Vương thị tham dâm tư thông với Ngột Truật, còn Tần Cối tàn hại trung lương nên phải bị địa ngục hành hình. Còn Nhạc Nguyên soái đang ở nơi thiên tước phủ, nay mai đây sẽ đặng dương gian phong tặng muôn thuở thơm danh. Diêm Vương giải thích cho Hồ Địch nghe một hồi rồi sai tả hữu đi mời Nhạc Nguyên soái và Ngột Truật đến. Mấy phút sau đã thấy Nhạc Nguyên soái cùng Nhạc Vân, Trương Hiến đến, tiếp theo sau là tứ hoàng tử Phiên bang Ngột Truật, Diêm Vương bước xuống nghênh tiếp lên điện, phân ngôi chủ khách mời ngồi. Diêm Vương nói: - Nay chỉ vì gã cuồng si kia chẳng biết việc chi quả báo, thường oán trách trời đất tư vị, quỉ thần chẳng công, vả chính Nhạc công và Hoàng tử đây cũng chưa rõ thấu được cội nguồn của mình nên ta mới mời hai người xuống đây để đối án Tam Tào cho rõ, để tỏ rằng thiên địa quỉ thản chí công vô tư, duy việc báo ứng chỉ sớm muộn mà thôi. Ngừng một lát, Diêm Vương đem việc nhân quả đầu đuôi thuật hết một hồi, rồi nói: - Nhạc công tử, Trương tướng quân đây đều là Lôi Phủ Linh quan hạ giới, chẳng bao lâu đây cũng sẽ có ngọc chỉ gia phong quý vị. Dứt lời Diêm Vương sai quỉ tốt xuống chốn Phong Đô dẫn Tần Cối đến. Tần Cối bị xiềng xích đầy mình, quì gục đầu trước điện. Diêm Vương quát bọn đầu trâu mặt ngựa đè Tần Cối xuống đánh hai mươi roi đồng, máu tuôn lai láng rồi sai dẫn vào địa ngục. Mọi việc xong xuôi, Diêm Vương trầm giọng bảo: - Nay việc nhân quả đã rõ ràng, vậy xin Nguyên soái hãy trở về Thiên Tước phủ nghỉ ngơi, còn Hoàng tử trở lại dương trần làm xong công việc của mình. Riêng tên Hồ Địch này vì không biết mà mắc lỗi lầm, hơn nữa là người chính trực đáng khen nên ta cho trở về dương thế và cho ngươi được hưởng thọ thêm một kỷ nữa. Lúc bấy giờ cha con Nhạc Phi và Ngột Truật mới hay việc trước của mình, liền từ biệt Diêm Vương ra đi. Diêm Vương cũng bước xuống điện đưa ra khỏi cửa rồi mới trở lại ngồi trên điện. Bỗng thấy quan Công tào bước đến tâu: - Hồ Địch xuống đây đã lâu, nếu trễ chừng ba khắc nữa thì cái thây phải rã, khó mà cứu sống lại được. Diêm chúa nói: - Thế thì mau mau bắt con Cấp khước cho hắn cưỡi về Quỉ tốt vâng lệnh dắt đến một con ngựa, rồi nhanh như chớp bế xốc Hồ Địch để trên lưng ngựa, đoạn quất con ngựa một roi con ngựa vụt chạy nhanh như bão. Hồ Địch kinh hồn hoảng vía nằm mọp trên lưng ngựa ghì chặt đây cương hai mặt nhắm nghiền không dám cựa quậy. Chỉ trong nháy mắt con ngựa bay đến một hòn núi cao, Hồ Địch len lén hé mắt nhìn thấy hai bên đều vực sâu thăm thẳm, chính giữa có một con đường đi rất hẹp, lòng đầy kinh hãi, tay chân bủn rủn ngồi không vững, thình lình trật yên té nhào xuống vực, giựt mình thức dậy mồ hôi ướt dầm, mở mắt ra thấy mình nằm ngủ trên giường, còn cả nhà thì lăn ra khóc lóc thảm thiết. Hồ Địch nói: - Ta sống lại rồi, khóc lóc làm chi. Cả nhà vui mừng khôn xiết, lập tức bỏ hết các đồ tang chế, xúm lại hỏi thăm. Hồ Địch chết ba ngày mới sống dậy, ai nấy đều lấy làm lạ. Sau khi Hồ Địch húp vài muỗng cháo, kể hết mọi chuyện mình thấy dưới âm ty cho mọi người nghe, ai nấy đều sợ hãi nói với Hồ Địch: - Tần Cối mới chết hôm qua thế mà hắn đã bị hành tội dưới địa ngục rồi thật là đáng sợ!
Nhạc Phi Diễn Nghĩa Tác giả: Mộng Bình Sơn Chương 74: Hồi Thứ Bảy Mươi Bốn Dịch giả + Biên dịch: Kiều Mai Nguồn: NXB Văn Học Mời đọc Ngột Truật cho triệu tập các vị Vương tử như: Hoàn Nhan Càn Tự, đại Nguyên soái Chiêm Đắc Lực, Trương Báo Mã Đề Quốc, Nguyên soái Mạo Lợi, Yên Chi Quốc, Nguyên soái Hoàn Hắc Bửu, Hắc Thủy Quốc, Nguyên soái Hàm Lý Đóa; quân sự Hấp Mê Xi, mưu sĩ Hốt Mê Nhĩ đốc xuất năm chục vạn quân, rầm rộ kéo thẳng qua Trung nguyên. Vừa thấy quân Phiên kéo sang, các quan địa phương đều dâng bổn chương về triều cấp báo, một ngày không biết mấy chục tờ bổn chương mà kể. Nói về Vương thị, từ ngày Tần Cối chết rồi, ngày đêm tâm thần hoảng hốt, ngồi đứng chẳng yên. Ngày kia mụ ta ngồi dựa mình trên thành ghế, một mình tay chống cằm suy tính, bỗng thấy a hoàn chạy vào bẩm: - Nghe nói nay Kim Bang Hoàng tử Ngột Truật dấy đại binh hơn năm mươi vạn đánh qua Trung Nguyên thế mạnh như chẻ tre, binh mã kéo đến gần tới Châu Tiên trấn rồi! Vương Thị nghe nói nghĩ thầm: - "Nay Nhạc Phi chết rồi không ai ngăn chống, thế nào giang sơn nhà Tống cũng sẽ về tay Kim Bang Ngột Truật. Vậy ta chuẩn bị dắt gia quyến nghênh tiếp người, thế nào người cũng nghĩ đến tình cũ, nghĩa xưa sẽ phong tước cho ta". Còn đang suy nghĩ bỗng có ngọn gió âm phong không biết từ đâu thổi tới sởn cả tóc gáy. Vương thị vừa ngước mắt lên bỗng thấy một tên đầu trâu, mặt ngựa dắt theo mấy tên quỷ mặt mày hung ác, đứa cầm chùy sắt, đứa vác đinh ba lại có cả Tần Cối bị mang xiềng xích xưng xẻng. Tần Cối bước tới trước mặt Vương thị thì thào, nói: - Khổ sở lắm phu nhân ôi! Vương thị kinh hồn hoảng vía, mồ hôi toát ra ướt cả áo. Tần Cối lại nói: - Việc trước kia đã lộ ra hết rồi! Nói chưa dứt lời, quỷ tốt đã vung chùy đập lên lưng Vương thị một cái. Vương thị rú lên một tiếng thất thanh té xỉu xuống đất, vừa khóc vừa kêu: - Xin tha mạng, xin tha mạng! Bọn a hoàn vội vã chạy vào phòng thấy Vương thị nằm ngay dưới đất, chúng khiêng để lên giường rồi chạy ra ngoài báo cho Tần Hy hay. Tần Hy lật đật chạy vào thấy Vương thị lè lưỡi dài hơn ba tấc, hai con mắt lòi tròng ra, chết một cách thảm hại. Tần Hy khóc than một hồi rồi lo sắm sửa việc tang chế. Sáng hôm sau, vào Triều dâng biểu tâu vua hay, nhằm lúc vua Cao Tông thăng điện, văn võ bá quan triều bái xong rồi phân đứng hai bên. Bỗng thấy quan huỳnh môn bước đến Kim giai, cúi đầu quỳ xuống tâu: - Này có rất nhiều bổn chương của các ải gửi về cáo cấp xin dâng cho bệ hạ ngự tường. Quan cận vệ tiếp lấy bổn chương đem trải lên long án, Cao Tông xem qua mặt mày biến sắc, phán hỏi: - Có ai dám lãnh binh đi trừ Ngột Truật không? Lúc ấy linh hồn Nhạc Phi nhập vào La Võ Tập khiến hắn bước ra quỳ tâu: - Muôn tâu Thánh thượng, Nhạc Phi này xin đi vậy. Cao Tông nghe hai tiếng Nhạc Phi hồn bất phụ thể, hoảng sợ ngã nhào xuống long sàng, các quan đại thần xúm lại đỡ dậy đưa thẳng vào cung. Rồi sau đó mình rồng mê sảng, cả ngày cứ giật mình nói lảm nhảm, lắm lúc lại rú lên thất thanh, thuốc men gì cũng không hiệu quả. Chỉ vài hôm sau Cao Tông băng hà. Các quan đại thần họp lại tôn Thái tử lên ngôi (Thái tử này là cháu vua Cao Tông). Thái tử lên ngôi xưng hiệu là Hiếu Tông, phát chiếu đi rao truyền khắp thiên hạ và gia thăng quan chức cho các quan viên trong Triều. Lúc ấy Nguyên soái Trương Tín nghe Cao Tông mất, tân vương lên kế ngôi, liền về Lâm An triều hạ. Vua Hiếu Tông truyền mời Trương Tín vào cung, Trương Tín vào làm lễ và tâu: - Bệ hạ mới lên ngôi mà quân Kim đã xâm lấn bờ cõi Trung Nguyên, chẳng hay bệ hạ đã dự tính cách nào để đối phó? Hiếu Tông đáp: - Trẫm tuổi còn nhỏ chưa biết được việc chi, chẳng hay lão khanh có chước chi dẹp được quân Kim chăng? Trương Tín nói: - Muốn dẹp được quân Kim, thần xin dâng lên Thánh thượng năm điều. "Điều thứ nhất, phải bắt hết lũ gian thần hạ ngục, trị tội rửa hờn cho dân. Điều thứ hai, sai quan xây mồ đắp mả cho Nhạc Nguyên soái và lập trung từ, quý tế cho rạng danh trung nghĩa. Điều thứ ba, phải hạ chỉ sai quan ra Vân Nam tha cho nhà họ Nhạc về và phong cho con là Nhạc Lôi nối lấy chức cha và sai đi dẹp quân Kim. Điều thứ tư phải chiêu an bọn Ngưu Cao ở trên Thái Hành sơn về để cùng với chúng tướng trừ Ngột Truật. Điều thứ năm là phải phục chức lại cho mấy vị cựu thần. Nếu bệ hạ làm theo năm điều ấy thì có lo chi Kim binh chẳng phá, xã tắc chẳng an? Hiếu Tông nghe tâu mừng rỡ, phán: - Hay lắm, thế thì trẫm phiền lão Quốc trụ, bắt cho hết gia quyến lũ gian thần hạ ngục. Sau đó vua Hiếu Tông hạ chỉ truyền cho Lại Bộ sai quan ra Vân Nam tha hết cả nhà họ Nhạc và triệu thỉnh về sắc phong cho con là Nhạc Lôi nối lấy chức cha, đồng thời sai quan Đại học sĩ Lý Văn Thắng lên Thái Hành sơn chiêu an bọn Ngưu Cao, một mặt sai Trương Cửu Tư lo xây đắp Nhạc mộ phần, lại ban chiếu ra khắp thiên hạ cho những quan cựu thần bị Tần Cối truất phế lúc trước đều về triều phục chức cũ. Trương Tín tạ ơn, lãnh chỉ lui ra khỏi cung, lập tức dẫn quân Hiệu úy đi bắt hết bọn La Võ Tập, Vạn Sĩ Hoa, Trương Tuấn và gia quyến lớn nhỏ thảy đều hạ ngục, còn Trương Cửu Tư thì lãnh thánh chỉ dẫn quân ra nơi Thê Hà lãnh lo xây đắp phần mộ cho Nhạc Phi, lại lập miếu, đúc tượng thờ Nhạc Phi và các vị trung thần. Cùng lúc ấy Trần Nghĩa Tông cũng lãnh thánh chỉ tuốt ra Vân Nam tha cả nhà họ Nhạc, lại phát chiếu thư truyền rao cho khắp thiên hạ đều hay biết. Tất cả những người bị liên lụy với họ Nhạc phải đi trốn tránh, nay đều được trở về Triều nhận chức. Khi Châu Tam Húy hay được tin ấy liền làm một tờ biểu kể rõ việc Nhạc Phi bị Tần Cối hãm hại và ép mình tra tấn cùng các việc oan uổng về Triều dâng lên kêu oan cho Nhạc Phi. Vua Hiếu Tông phê chuẩn ngay rồi phục chức lại, cho Châu Tam Húy và sai tra khảo bọn gian thần. Châu Tam Húy tạ ơn lui ra. Nói về Lý Văn Thắng phụng chỉ lên núi Thái Hành sơn chiêu an bọn Ngưu Cao, kéo binh đi tròn một tháng mới đến nơi, nhờ lâu la lên núi báo tin. Lâu la chạy đi báo cho Ngưu Cao hay, Ngưu Cao bảo: - Hãy gọi hắn lên đây! Lâu la chạy xuống thưa: - Đại Vương dạy gọi ngài lên núi cho người bảo. Lý Văn Thắng hơi bất bình, song không biết làm sao đành phải theo lâu la lên núi ra mắt Ngưu Cao nói: - Xin Ngưu tướng quân hãy đặt bàn hương án để tiếp chỉ. Ngưu Cao lắc đầu trề môi, đáp: - Lão hôn quân ấy đối với ta có nghĩa gì nữa mà bảo tiếp chỉ, ngươi thử nghĩ lúc lão ta bị ngộ nạn tại Ngưu Đầu sơn nhờ có bọn ta hiệp lực với Nhạc đại ca ra tay bảo vệ lập không biết bao nhiêu công lao thế mà lão không biết ơn, lại nghe lời đứa gian thần giết chết Nhạc đại ca ta còn bắt cả nhà đày ra Vân Nam, nay lão còn muốn sai người đến đây lừa để hại ta nữa phải không? Lý Văn Thắng nói: - Thế ra tướng quân không biết chi hết sao? Nay vua Cao Tông đã băng hà rồi. Ngưu Cao ngắt lời, nói: - Lão hôn quân ấy chết thật rồi ư? Nhưng lão đã chết rồi ngươi lại đến đây bảo ta tiếp chỉ của ai? Lý Văn Thắng đáp: - Nay Thái tử lên ngôi xưng hiệu là Hiếu Tông hoàng đế truyền bắt hết lũ gian thần trong Triều hạ ngục, sai quan ra Vân Nam tha hết cả nhà họ Nhạc về, phong cho con là Nhạc Lôi nối lấy chức cha, lại sai Trương Cửu Tư xây lập mộ phần cho Nhạc Phi, còn hạ quan lãnh nhiệm vụ chiêu an tướng quân về kinh trọng dụng. Ngưu Cao suy nghĩ hồi lâu rồi thở dài hằn học: - Ta tưởng các chú Hoàng đế đều là những hạng người vô tình bạc nghĩa, ta đã bị lừa nhiều rồi, bây giờ nhất định không bị lầm nữa đâu, đừng hòng chiêu an vô ích. Lý Văn Thắng nói khích: - Hay là tướng quân nghe nói Ngột Truật qua xâm phạm Trung Nguyên lần nữa nên sợ hãi không dám xuống chăng? Ngưu Cao trợn mắt nhìn thẳng vào mặt Lý Văn Thắng, nói: - ồ, Ngưu Cao này đời nào biết sợ Ngột Truật? Thôi, nếu ngươi nói vậy thì để ta xuống dẹp an Ngột Truật rồi trở về đây chứ nhất thiết, không chịu khuất phục ai nữa hết. Kiết Thanh bước tới nói: - Ngưu huynh chớ nên nóng nảy, muốn biết việc này giả thật ra sao, Ngưu huynh hãy xuống Vân Nam thăm tẩu tẩu nếu quả được tha thật, thì bọn ta kéo về kinh một lượt. Ngưu Cao nói: - Kiết đệ nói chí lý. Sau đó Ngưu Cao tiễn Lý Văn Thắng về kinh phục chỉ rồi một mình dẫn binh ra thằng Vân Nam: Nói về Nhạc phu nhân bữa nọ đang ngồi đàm luận với Sàn nương nương, bỗng thấy quân sĩ chạy vào bẩm: - Có thánh chỉ đến. Nhạc phu nhân vội vàng dẫn hết gia quyến ra rước thánh chỉ vào trung đường, quỳ xuống nghe khâm sai Trần Nghĩa Đông đọc. Đọc xong, Nhạc phu nhân cùng các vị công tử đều cúi đầu tạ ơn rồi hối thúc gia nhân dọn yến tiệc, thết đãi khâm sai. Hôm sau, khâm sai từ biệt trở về kinh phục chỉ. Lý Thuật Phủ hay tin ấy liền dắt con rể mình đến chúc mừng, Nhạc phu nhân làm lễ ra mắt xong, Lý Thuật Phủ nói: - Tôi được nghe tin phu nhân phụng chỉ về Triều nên phải đưa hai đứa trẻ qua đây, để chúng nó về theo. Nhạc phu nhân cảm tạ chẳng cùng, liền hối gia nhân dọn tiệc thết đãi ăn uống vui chơi cho tới chiều mới mãn tiệc. Sáng hôm sau, Nhạc phu nhân sắm sửa lên đường, Lý Thuật Phủ tiễn đưa trên một dặm đường mới giã biệt rể con trở lại, lệ giọt ngắn giọt dài trông rất thảm thiết. Còn mẹ con Sài nương nương cũng sắm sửa theo đưa, nhắm Nam Quan tiến tới. Đi chẳng mấy ngày đã đến Bình Nam quan Nhạc phu nhân bèn chọn ngày cho Nhạc Lôi, Hàn Khởi Long, Hàn Khởi Phụng, Ngưu Thông bốn người làm lễ hoa chúc, đoạn nghỉ tại đó ba hôm mới dắt nhau về Lâm An. Khi đi đến quận Nam Ninh, Sài Lão nương nương, Sài Vương cùng Lộ Huê Vương trở về Vương phủ. Khi Nhạc phu nhân qua khỏi Thiết Lư quan, bỗng gặp binh mã của Ngưu Cao vừa đến đó. Ngưu Cao hỏi: - Binh mã phía trước đó là của ai vậy? Quân sĩ bảo: - Đó là Nhạc phu nhân phụng chỉ hồi Triều. Ngưu Cao bảo: - Thế thì ngươi hãy đến bẩm báo cho Nhạc phu nhân biết có ta là Ngưu Cao muốn ra mắt phu nhân. Quân sĩ vội đến báo cho phu nhân hay. Phu nhân sai quân sĩ an dinh hạ trại tại đó và gọi các vị công tử vào bảo: - - Các con hãy đi mời Ngưu thúc thúc của các con đến đây cho mẹ nói chuyện. Các công tử vâng lời ra đón Ngưu Cao vào dinh. Ngưu Cao làm lễ ra mắt Nhạc phu nhân xong, Nhạc phu nhân nói: - Nay triều định đã tha tội cho chị rồi, chị phụng chỉ trở về kinh, thúc thúc cũng nên bỏ sơn trại đi, về một lượt với chị để triều kiến tân Vương, rồi ra sức giúp triều đình cho toàn trung, toàn nghĩa. Ngưu Cao vâng dạ và nói: - Lời tẩu tẩu nói thật là chí lý, vậy để Ngưu đệ này dẫn binh về Thái Hành sơn trước để thu góp sơn trại rồi dắt hết mấy anh em đến đón tẩu tẩu. Nói rồi từ biệt Nhạc phu nhân cùng các vị, đi suốt đêm ngày về Thái Hành sơn, còn Nhạc phu nhân cứ thủng thẳng mà đi. Sau đó mấy hôm, Ngưu Cao dắt hết bọn Triệu Vân, Lương Hưng, Kiết Thanh và Châu Thanh cùng lâu la chực sẵn bên đường chờ đợi. Hai người gặp nhau mừng rỡ rồi cùng nhau kéo đến Lâm An. Nhạc phu nhân dẫn hết bọn Ngưu Cao và các vị Công tử đến trước ngọ môn hầu chỉ. Quan huỳnh môn vào tâu, Hiếu Tông hạ chỉ mời hết vào điện. Bọn Nhạc phu nhân quỳ trước Kim giai. Hiếu Tông phán: - Chỉ vì tiên đế nghe đứa gian thần, làm cho tôi trung thác oan, nay trẫm sắc phong cho Lý thị làm Nhất phẩm Quận Quốc phu nhân, bốn người con thì phong tước Hầu. Bọn Ngưu Cao, Kiết Thanh thì phong làm Địệt Lỗ Đại Tướng Quân. Bọn Hàn Khởi Long, Tông Lương, mấy vị tiểu anh hùng đều phong làm Ngự Tiền Đô Thống. Nhạc Lôi thì phong thụ chức của Nhạc Nguyên soái khi xưa, cấp cho phủ trạch mà ở. Còn những tướng khác, ngày mai trẫm sẽ ngư tế sắc phong luôn thể. Ai nấy đều tạ ơn lui ra khỏi triều. Sáng hôm sau, vua Hiếu Tông đắt hết văn võ bá quan ngự giá ra mộ Nhạc Phi bày hương hoa, lễ vật để tế điện, sai quan Đại Học sĩ Lý Văn Thắng đọc một bài văn tế. Đọc xong, Hiếu Tông truyền chỉ sắc phong cho Nhạc Phi làm Ngọc Quốc Công, Nhạc Vân làm Trung Liệt Hầu, Ngân Bình làm Hiếu Hòa phu nhân, Trương Hiến làm Thành nghĩa Tướng quân, Thi Toàn làm Chúng An Kiều Thổ Địa, Vương Hoành làm Bình Giang Dịch Thô Địa, Trương Bảo làm Nghĩa Dũng úy, Thanh Hoài làm Trung Nghĩa Tướng Quân, Dương Tái Hưng làm Trung Dũng Tướng Quân, bọn Đổng Tiên năm người đều phong làm Tụy Trung úy, còn các tướng tử trận tất thảy đều phong tặng. Hiếu Tông còn lập chùa miếu để xuân thu tế tự, lại sai Châu Tam Húy cùng với Ngưu Cao thẩm vấn bọn Tần Hy, Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập, Trương Tuấn cùng hết thảy gia quyến của bọn gian thần, cứ theo luật hình mà trị tội. Nhạc phu nhân và chư tướng cúi đầu tạ ơn; vua Hiếu Tông lên giá hồi cung. Chư tướng quỳ đưa thánh giá đi rồi trở lại cùng nhau tế điện trước mộ phần Nhạc Phi. Trong khi mọi người đang lạy, bỗng có hai người ở đâu chạy tới cũng quỳ xuống trước mộ lạy và khóc rống lên rồi lột đồ tang bỏ đi. Các vị công tử bận lo tế lễ không biết là ai, chỉ có Nhạc Lôi bước tới hỏi: - Chẳng hay nhị vị là ai, có quen biết chi với cha tôi hay sao mà tế điện? Một người nói: - Tôi là Vương Năng, còn vị này là Lý Trực, lâu nay chúng tôi ngưỡng mộ Nhạc gia trung nghĩa, lúc người bị gian thần cầm giữ tại ngục trung, anh em tôi không biết làm sao cứu được, Chỉ có cách là lấy tiền đem lo lót với ngục tốt để chúng săn sóc cho người tử tế mà thôi, khi người thác rồi, tôi đem tiền mua quan mộc để liệm người, đoạn giấu trong đấng la sư xác. Từ đó anh em tôi chịu tang báo hiếu, đến nay trời đã mở mắt báo ứng cho người, nên anh em tôi dắt nhau đến đây trừ phục. Nói đến đây, hai người vùng chạy mất. Nhạc Lôi liền sai gia tướng chạy theo mời lại, nhưng gia tướng chạy theo ra khỏi mộ, hai người đã biến đâu mất dạng. Nhạc phu nhân cùng mấy vị công tử vô cùng cảm kích than thở chẳng cùng. Hôm sau Nhạc phu nhân sai người đi tìm kiếm, nghe ngóng trong thiên hạ, nhiều người bảo rằng: - Hai người ấy ngày trước đều ở tại phía trước cầu, nhưng không biết lý do gì cách đây vài năm lại bán hết sản nghiệp, nay ở chỗ này mai ở chỗ kia, sống phiêu lưu không nơi nhất định. Gia nhân tìm mãi vẫn không ra tung tích. Về sau, khi Nhạc Lôi đi tảo Bắc yên rồi về, có nghe hai người này tu hành tại núi Vân Thê. Nhạc Lôi bản thân đến đó lạy tạ đáp cái ơn ngày trước, lại đem vàng bạc lụa là tặng rất hậu, nhưng hai người nằng nặc quyết không chịu nhận, Nhạc Lôi không biết làm sao nên để của ấy lại cúng cho nhà chùa. Sau này nghe đâu hai người này sống trên chín mươi tuổi và thành Phật cả. Đó là việc về sau, bây giờ xin nhắc lại việc Ngưu Cao, hôm ấy đi đến đại lý nha môn. Châu Tam Húy ra đón thẳng vào đại đường để thánh chỉ ngay chính giữa, còn hai người ngồi hai bên, truyền dẫn hết bọn Tần Hy, Trương Tuấn ra quỳ trước đại đường. Châu Tam Húy gọi Tần Hy, nói: - Cha ngươi đã làm quan nhất phẩm, còn ngươi được đứng hàng truyền thọ, hưởng lộc của triều đình, sao chẳng lo đền nợ nước lại tư thông với Ngột Truật, giả truyền thánh chỉ mưu hại trung lương? Quả là tội khi quân hại nước, ngươi còn nói gì nữa chăng? Tần Hy chẳng dám nói chi cứ gục mặt làm thinh. Ngưu Cao nói: - Lại phải hỏi làm chí cho mệt, cứ vả cho hắn bốn chục vả rồi mới định tội. Kẻ tả hữu liền xáp tới vả Tần Hy đủ bốn chục vả. Thương hại cho Tần Hy, từ nhỏ đến lớn đã quen sung sướng, chưa từng bị đòn nay bị đánh vả, mặt sưng vù khóc mếu trông thảm hại. Châu Tam Húy lại gọi Trương Tuấn, hỏi: - Tội của ngươi tưởng không hơi đâu kể cho hết, ta chỉ hỏi ngươi một điều này thôi: Ngươi đã làm một Đại tướng sao lại nương cậy theo gian thần, sát hại người ngay, vậy ngươi đáng tội gì? Trương Tuấn cũng không biết nói sao, cứ cúi gục đầu làm thinh. Ngưu Cao nói: - Hơi đâu hỏi cho lâu, cứ việc vả cho đủ bốn chục vả rồi sẽ định tội. Kẻ tả hữu vâng lời đánh Trương Tuấn đủ bốn chục vả, mặt mày sưng như mặt lợn luộc, Châu Tam Húy lại hỏi Vạn Sĩ Hoa: - Còn mi có lời chi đối nại không? Vạn Sĩ Hoa nói: - Tôi đây bất quá nghe lời Tần Thái sư sai khiến thôi, chớ việc ấy có can chi đến tôi. Châu Tam Húy lại hỏi La Võ Tập: - Ngươi đã làm Pháp Ty đại thần sao lại cố hại cha con Nhạc gia? La Võ Tập nói: - Tần Cối và Vạn Sĩ Hoa sai sao tôi làm vậy, việc ấy do hai người chuyên trách chứ tôi có can chi đâu? Ngưu Cao nổi giận, nạt lớn: - Loài súc sinh, lại phải hỏi lôi thôi làm gì thêm xung gan, kẻ tả hữu đâu, hãy vật chúng ra đánh cho đủ bốn mươi côn rồi sẽ định tội. Tả hữu vâng lệnh áp tới vung côn đánh mỗi đứa đủ bốn mươi cái máu chảy đầm đìa, chết đi sống lại mấy lần. Châu Tam Húy lấy bút phê: - "Vợ chồng Tần Cối tư thông với Ngột Truật, bán nước dối vua lại hãm hại trung lương, tội đáng đem đi chém đầu, còn Tần Hy làm chức biên tạ, chép dối chiếu chỉ, điên đảo thị phi. Trương Tuấn được làm Đại tướng đã chẳng lo đền nợ nước, lại chuyên quyền, loạn chính tàn hại trung lương, dối nước hại dân. Còn Vạn Sĩ Hoa và La Võ Tập xu phụ quyền gian, trộm thăng chức lớn, tàn hại trung lương, tham tàn hại nước, cả thảy đều đáng tội chết. Tất cả vợ con, gia quyến chúng phải đày ra Lãnh Nam sung quân". Châu Tam Húy phê án định tội xong xuôi, liền sai ngục tốt dẫn hết đem nhốt để chờ lệnh chỉ thi hành. Sáng hôm sau, Châu Tam Húy vào triều tâu lại cho Hiếu Tông nghe, vua Hiếu Tông chuẩn tấu rồi hạ chỉ sai Ngưu Cao làm quan Giám trảm đem hết những tội phạm ra Thê Hà lãnh xử chém trước mộ Nhạc Phi, lại ban cho Nhạc phu nhân năm trăm cân sắt để đúc tượng Tần Cối, Vương Thị, Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập và Trương Tuấn năm tên này phải quỳ trước mồ Nhạc Phi để cho dân chúng rửa hờn. Thánh chỉ vừa mới ban ra, nhân dân vùng Lâm An vui mừng khôn xiết. Hôm ấy Nhạc phu nhân sắm sửa đồ tế lễ rồi dắt hết mấy vị công tử đến trước Nhạc mộ phần chờ đợi. Chẳng bao lâu, Châu Tam Húy truyền ngục tốt dẫn hết các phạm nhân ra Đại lý tự đường rồi truyền trói chặt dẫn đi. Quân Hiệu úy gìn giữ trước sau rất cẩn mật, phía trước phất cờ, phía sau đánh trống ra khỏi tiền đường, hai bên dân chúng từ đàn ông chí đàn bà theo coi đông đảo và vỗ tay khen: - Thật là trời cao báo ứng rất mau! Đi đến mộ Nhạc Phi, thấy Ngưu Cao mình mặc đại hồng kiết phục ngồi trên công án lớn truyền cậy quan tài vợ chồng Tần Cối ra, chém lấy hai cái thủ cấp để trên bàn mà tế. Lại sai dẫn Tần Hy, Trương Tuấn, Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập ra chém. Quân đao phủ vừa dẫn chúng đến trước mộ, bỗng nghe bên ngoài lao xao, nhiều tiếng la hét om sòm. Ngưu Cao giựt mình, bảo tả hữu đưa binh khí đến cho mình cầm sẵn đề phòng bất trắc, rồi nói: - Kẻ nào muốn đến pháp trường cướp tội nhân phải không? Chư tướng đâu? Hãy ra xem xét, nếu có quân cường đạo đến thì hãy giết cho bằng sạch không còn một mống.
Nhạc Phi Diễn Nghĩa Tác giả: Mộng Bình Sơn Chương 75: Hồi Thứ Bảy Mươi Lăm Dịch giả + Biên dịch: Kiều Mai Nguồn: NXB Văn Học Mời đọc Thì ra tiếng la hét om sòm ở ngoài chỉ là sự phẫn nộ của dân chúng muốn được tự tay trừng trị Trương Tuấn. Lát sau chư tướng vào bẩm: - Trương Tuấn ở tại Lâm An thường hay gian dâm vợ con người, lại còn ỷ quyền thế chiếm đoạt tài sản của dân lành, nên nay những người ấy đến coi hành hình Trương Tuấn, quyết ý báo thù, họ giành nhau chen vào mắng chửi Trương Tuấn không ngớt, họ lại còn muốn được ăn gan uống máu Trương Tuấn họ mới hả dạ! Nhạc phu nhân nói: - Người thù của hắn thì nhiều mà chém có một đao, trả sao cho đủ, vậy thì bắt Trương Tuấn giao cho dân chúng, muốn làm sao cho hả giận thì làm. Gia tướng vâng lệnh đem lời ấy truyền rao cho dân chúng hay, ai nấy đều quỳ xuống tạ ơn Nhạc phu nhân rồi xúm nhau khiêng Trương Tuấn đem ra để gần mé hồ, kẻ ném đá người đánh, hùa nhau đấm đá tơi bời. Bỗng có người lớn tuổi trong bọn đứng ra nói: - Liệt vị, xin dừng tay lại cho tôi phân tỏ một điều: nay chúng ta mong ơn Nhạc phu nhân giao đứa gian này để chúng ta báo thù cho thỏa mãn, nhưng trong chúng ta quá đông nếu làm như vậy sẽ có kẻ báo được, người không. Thật không công bằng, chi bằng đem nó để ngoài chỗ rộng chúng ta đứng qua một phía, mồi người chạy đến đem việc báo thù kể ra ba điều rồi mắng vào mặt hắn rồi cắn một miếng thôi. ý của tôi liệt vị nghĩ sao? Dân chúng đều khen ý kiến hay lắm; liền đem Trương Tuấn ra chỗ đất trống trói vào cây liễu, rồi một người chạy đến trước mặt mắng lớn: - Loài gian tặc, sao mi dám chiếm đoạt vợ ta? Vừa nói vừa cắn, rứt ra một miếng thịt rồi đứng dẹp ra, người khác lại chạy vào vả vào mặt Trương Tuấn mắng: - Gian tặc, sao mi chiếm đoạt ruộng đất của ta? Nói rồi cũng cản một miếng thịt chạy ra. Đoạn một người khác nữa vào mắng: - Trương Tuấn, sao mi giết cha ta? Rồi sau đó cứ tiếp tục người nào cũng mắng nhiếc và cắn rứt Trương Tuấn một miếng thịt, ai nấy đều căm giận Trương Tuấn đến cực độ. Cắn riết một hồi, Trương Tuấn không còn lấy một chút thịt, ban đầu còn rên la, rốt cuộc hết thở. Chỉ vì Trương Tuấn lúc làm Giám Khảo tại võ trường có thề rằng: "Nếu hắn có lòng khi quân thì về sau phải chết nơi miệng muôn người". Lời thề ấy, ngờ đâu hôm nay lại vô cùng ứng nghiệm, quả là trời đất quỉ thần rất linh thiêng. Khi Trương Tuấn chết rồi, Ngưu Cao truyền chém lấy thủ cấp cùng với thủ cấp Tần Hy, Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập cộng là bốn cái đem để trên bàn trước mộ Nhạc Phi cúng tế. Mọi việc xong xuôi, Nhạc phu nhân và Ngưu Cao dắt nhau vào Triều tạ ơn Thiên tử rồi trở về phủ an nghỉ. Hôm sau Châu Tam Húy sai quân dẫn gia quyến bọn gian thần về Lãnh Nam. Cách vài ba ngày sau lại có bổn chương về cáo cấp: - Đai binh của Ngột Truật đã lấy cầu Châu Tiên trấn, xin phát binh cứu viện cho mau. Trương Tín mang bổn chương vào triều dâng lên, Hiếu Tông lập tức ra chỉ triệu Nhạc Lôi vào triều phong làm Tảo Bắc Đại Nguyên soái còn Ngưu Cao làm giám quân Đô đốc, Gia Cát Cẩm làm Quân sư. Các vị anh hùng đều theo ra trận chừng nào lập được công lao sẽ phong thưởng. Nhạc Lôi tạ ơn, lãnh ấn lui ra. Hôm sau, Trương Nguyên soái điều phát binh mã, Nhạc Lôi từ giã mẹ và vợ thẳng ra đấu trường kiểm điểm tướng sĩ dẫn hai mươi vạn quân sĩ, nổ súng kéo cờ rầm rộ ra đi, ra khỏi Lâm An nhắm Châu Tiên trấn thẳng tiến. Việc này xin gác lại, bây giờ nhắc qua việc Đổng Tiên, khi còn ở tại Cửu Cung sơn làm tướng cướp, lúc gặp Trương Hiến thì đến đầu thuận Nhạc Phi để vợ con ở tại gần chân núi Cửu Cung, người con tên Đổng Diệu Tông tuổi còn nhỏ, sau Đổng Tiên bị trận Liên Hoàn giáp mã chết tại dinh Kim thì Nhạc Nguyên soái thường sai người đem vàng bạc chu cấp cho vợ con Đổng Tiên luôn luôn. Khi Đổng Diệu Tông lớn lên tướng mạo to khỏe, mặt như nhọ chảo, sức mạnh muôn người khó địch, hay dùng cây Cửu Cổ thác thiên xoa nặng ngàn cân. Cả làng Cửu Cung đều kiêng sợ, nên thường gọi Diệu Tông bằng Quyện Địa Hổ. Một hôm Đổng Diệu Tông đang ngồi chơi với chúng bạn kể chuyện này tích kia, cùng nhắc đến cha con Nhạc Phi bị gian thần hãm hại, trong lòng cảm thấy bứt rứt không yên, liền trở về nhà sắm đồ hành lý từ biệt mẹ ra đi, quyết xuống Lâm An báo thù cho họ Nhạc. Đi được vài ngày vừa đến Liệt Phong sơn trời đã gần tối nên phải tìm chỗ nghỉ chân. Chàng chạy đến phía trước chợt thấy trong đám rừng xông ra một người mình cao hơn trượng, tuổi không đầy hai mươi, mặt vàng như củ nghệ, đầu đội bao cân, mình mặc áo màu xanh, tay cầm đông côn, vừa trông thấy Đổng Diệu Tông đi tới, người ấy trợn mắt, quát: - Hãy nộp tiền mãi lộ đây cho mau. Diệu Tông vùng cười ngất, nói: - Ông bạn muốn gì? Người ấy gằn giọng: - Hãy nộp tiền mãi lộ cho ta, đừng đánh trống lảng mà thiệt mạng đấy. Diệu Tông lại cười gằn, nói: - Ngươi chiếm dụng con đường này lúc nào mà ta không biết, tại sao hôm nay ngươi lại đòi tiền mãi lộ? Người ấy trầm giọng: - Hừ, khắp hết mọi nẻo đường trong thiên hạ chứ chẳng gì là con đường này, hễ gặp ông là phải nạp tiền ngay, nếu không thì chớ hòng đi qua. Diệu Tông nói: - Ngươi nhè ta mà hỏi tiền mãi lộ, chẳng khác nào đi gãi đầu cọp. Thôi để ta cho ngươi 'nếm mùi cây xoa này cho biết. Vừa nói vừa vung xoa đâm tới, người ấy nổi giận cũng vung cây thục đồng côn đón đánh, hai người đánh nhau hơn năm mươi hiệp có dư, chưa phân hơn thua. Diệu Tông nghĩ thầm: "Tên này võ nghệ cũng cao cường, chi bằng ta dụ hắn theo ta cho có bạn có khi hay hơn". Nghĩ đoạn, Diệu Tông lấy cây xoa gài cứng cây côn của đối phương lại, nói: - Ông bạn ơi, ta đánh với ngươi hơn nửa ngày mà ta quên hỏi tên họ ngươi, vậy xin hãy cho biết quí danh rồi sẽ đánh tiếp Người ấy đáp: - Ta đường đường đấng trượng phu đời nào biết giấu tên họ làm gì? Chính Vương Bưu là ta, lại có, biệt danh là Diêu San Hổ. Diệu Tông cau mày nói: - Ta xem ngươi có tài, sao không đi lập công danh lại ở đây làm nghề thảo khấu? Vương Bưu nạt lớn: - Đừng nói bậy, cha ta là tướng của Nhạc Nguyên soái há ta lại đi ăn cướp sao? Chỉ vì ta đi xuống Lâm An rủi thiếu tiền lộ phí nên mới hỏi ngươi mượn đỡ, sao ngươi dám bảo ta là ăn cướp? Diệu Tông lại hỏi: - Cha ngươi là tướng quan của Nhạc Nguyên soái, chẳng hay danh tự là gì? Vương Bưu cười gằn: - Cha ta là Vương Hoành, đâu đâu lại chẳng nghe danh. Diệu Tông nghe nói mừng rỡ bảo: - Thế thì chúng ta đều là người nhà cả rồi, tôi đây cũng chẳng phải nào ai lạ, chính là con của Thiết Diện Đổng Tiên tên Đổng Diệu Tông đây. Vương Bưu nghe nói vội quăng cây thục đồng côn, vòng tay nói: Té ra là Đổng công tử mà tôi không biết, xin miễn chấp, chẳng hay công tử đi đâu đây? Diệu Tông bèn đem ý định mình muốn xuống Lâm An để báo thù cho Nhạc Phi bày tỏ cho Vương Bưu nghe, Vương Bưu nói: - Tôi cũng không giấu chi công tử, xưa cha tôi phò Nhạc Nguyên soái trở về Lâm An, nhưng khi đi đến Bình Giang Dịch lại bị quân Hiệu úy đón bắt đại lão gia, cha tôi toan ra tay, lão gia lại không cho, đành phải để cho chúng giết chết, tôi ở nhà nghe tin ấy không biết được thật giả, vội từ biệt mẹ tôi xuống Bình Giang thám thính. Khi đi được nửa đường lại gặp quân sĩ của cha tôi đem giao cây thục đồng côn cho tôi, chừng ấy mới tin chắc chắn, lại nghe nói lão gia bị bắt về kinh, nên tôi phải trở về. Năm nay mẹ tôi mất, cậu tôi qua đời chỉ còn mình tôi trơ trọi, tôi quyết xuống Lâm An giết cho hết lũ gian thần để báo thù cho đại lão gia và cha tôi, ngặt vì tiền lộ phí có ít quá đi không tiện, nên phải ở đây làm càn kiếm thêm ít nhiều chi dụng. Nói xong, hai người nhìn nhau cười xòa sau đó kết làm anh em, dắt nhau vào xóm tìm chỗ nghỉ ngơi qua đêm, sáng hôm sau nhắm Lâm An lên đường. Hôm ấy, hai người đi đến Cửu Long sơn, bỗng nghe trong rừng có tiếng thanh la gióng vang dậy, rồi một bọn lâu la chạy ra bao vây hai người, kêu lớn: Muốn bảo toàn tính mạng hãy nạp tiền mãi lộ ra đây cho mau! Đổng Diệu Tông vỗ vai Vương Bưu nói: - Kìa con cháu của Vương đệ nói năng gì mà lộn xộn thế? Vương Bưu cả cười rồi chỉ bọn lâu la nói: - Bớ các cháu, ông đang thiếu tiền lộ phí, các cháu có ít nhiều gì góp đem đây cho ông dùng đỡ nhé! Bọn lâu la trố mắt nhìn nhau, nói: - Ôi chao! Mấy hôm nay không có một mối hàng nào đáng giá, nay lại gặp loài quỉ đói này thiệt rủi ro! Một tên trong bọn nói: - Nếu không có thì để cái gói kia lại rồi hãy đi? Vừa nói vừa xáp lại toan giật gói, Vương Bưu nổi giận vung cây đồng côn quét ngang một cái, bảy tám đứa ngã lăn, Diệu Tông cũng múa cây cửu cổ xoa, đưa ra một đường, năm sáu tên ngã sấp. Bọn lâu la thất kinh dắt nhau chạy lên núi. Diệu Tông nói với Vương Bưu: Bọn lâu la chạy lên núi, thế nào giây lát đây cũng có tên đầu đảng của chúng chạy xuống, anh em ta hãy chờ hắn xuống kiếm ít tiền lộ phí rồi hãy đi. Vương Bưu gật đầu đáp: - Anh nói phải lắm. Còn đang chuyện vãn đã thấy trên núi một người cưỡi ngựa phi như bay xuống. Người này tướng mạo oai phong, mình cao da trắng, mặt vuông trán rộng, hai tai hắn thòng xuống chấm vai, đầu đội lăng ngân khôi, mình mặc đoàn hòa tú bạch bào, tay cầm song thiết kích, lướt tới nạt lớn: - Loài mao tặc ở đâu dám đến đây đánh lâu la ta. Hãy nộp mạng mau! Diệu Tông nổi giận xung thiên không thèm nói năng chi hết cứ việc vung xoa đâm liền. Hai bên đánh nhau độ hai mươi hiệp. Vương Bưu trông thấy Đổng Diệu Tông lúng túng đánh không lại, liền múa côn nhảy vào đánh giúp. Người ấy một mình cự với hai người, nhưng càng đánh sức mạnh càng tăng thêm. Hai người liệu bề đánh không lại nên quay ngựa chạy dài. Tướng ấy giục ngựa rượt theo, hai người liền quay lại, trợn mắt hét: - Tên kia, ngươi đừng làm phách, chỉ vì anh em ta gấp rút đi báo thù lớn nên mới nhịn ngươi chứ không phải anh em ta chịu thua ngươi đâu. Người ấy cười ha hả nói: - Các ngươi đã nói vậy thì ta cũng không bức hiếp các ngươi làm gì, song phải nói rõ ngươi có oán thù gì với ai, nếu quả là thù lớn thì ta sẵn lòng cho các ngươi đi, bằng nói không mình bạch thì đừng hòng thoát khỏi tay ta. Đổng Diệu Tông nói: - Ta đây là con Đổng Tiên, tướng thủ hạ của Nhạc Nguyên soái, còn người này là Vương Bưu con Vương Hoành. Chỉ vì Nhạc gia bị bọn gian thần Tần Cối, Vạn Sĩ Hoa và La Võ Tập hãm hại nên nay hai anh em ta muốn xuống Lâm An giết cho hết bọn gian thần để báo thù. Vì vậy ta đi gấp, ngươi nghe rõ chưa? Người ấy nghe nói vùng ngửa mặt lên trời cười ngất, rồi thâu kích nhảy xuống ngựa nói: - Tôi gặp hai anh mà không biết thật đáng tội. Tôi đây chẳng phải ai xa lại mà chính là con của Dương Tái Hưng tên Dương Kế Châu. Từ khi cha tôi qui thuận Nhạc Nguyên soái, tôi hãy còn nhỏ ở nhà với mẹ, ngờ đâu cha tôi bị quân Kim giết hại tại Tiểu Thương hà, mẹ tôi đêm ngày thương khóc đến nỗi mang bệnh mà chết. Tôi có ý định xuống đầu Nhạc lão gia để giết chết Ngột Truật trả mối thù cha, chẳng dè Nhạc lão gia lại bị gian thần hãm hại. Vì vậy tôi chiêu tập binh mã của cha tôi lúc trước, đồng thời sửa sang sơn trại để khởi đánh Kim Phiên, nay may gặp hai anh đây nếu muốn báo thù, hãy theo tôi lên núi ta cũng nghĩ kế. Hai người nghe nói mừng rỡ, đáp: - Thì ra Dương công tử đây mà chúng mình không biết. Hèn chi võ nghệ cao cường. Dương Kế Châu dắt hai người lên núi vào sơn trại rồi đem hết tâm sự tỏ bày cho nhau biết. Dương Kế Châu nói: - Lâm An là chỗ đế đô, chắc binh mã nhiều lắm, ba anh em ta không nên nông nổi mà hỏng việc, chi bằng hai anh ở lại đây với tôi, chiêu tập anh hùng, đồn lương tích thảo cho đầy đủ, khi nào thấy đủ lực lượng sẽ kéo xuống Lâm An báo thù mới chắc chắn giành được thắng lợi. Hai người khen phải, vui lòng ở lại đây chờ thời. Ngày nào cũng sai lâu la đi khắp các nơi thám thính. Ba người ăn ở với nhau rất ý hợp tâm đầu, họ kết làm anh em cùng sống chết có nhau xem nhau như anh em ruột thịt. Ngày kia, ba người đang chuyện vãn trong sơn trại, bỗng thấy lâu la hớt hải chạy về báo: - Dưới núi hiện có một đám quan quân giải tội phạm đi ngang qua đây, tôi coi mồi trong túi chúng cũng khá. Vương Bưu đứng dậy nói: - Để tôi đi bắt chúng nó cho. Nói rồi dẫn một số lâu la chạy bay xuống núi, bỗng thấy bấn vị giải quan cùng năm sáu tên giải sai áp giải đến ba bốn mươi tội phạm, đàn ông, đàn bà và có cả con nít nữa. Vương Bưu đón lại, nạt: - Bọn kia, hãy nạp tiền mãi lộ đây cho mau. Quan quân xem thấy kinh hồn hoảng vía, vội đáp: - Chúng tôi đây không phải khách buôn, mà là lính giải tù, nay vâng lệnh giải những tội phạm này qua Lãnh Nam, xin Đại vương rộng lòng cho chúng tôi qua. Vương Bưu nói: - Ta không biết quan quân nào hết, hãy theo chúng ta lên núi sẽ hay. Vừa nói vừa hối lâu la bắt hết, dẫn lên núi, đoạn vào trại nói với Dương Kế Châu: - Tôi đã bắt được một bọn giải quan và tội phạm đem lên đây, vậy chúng ta hãy tra hỏi xem bọn phạm nhân này có oan uổng chi không, nếu triều đình nghe lũ gian thần hãm hại họ thì chúng ta giết quách bọn giải quan này để cứu họ kẻo tội nghiệp. Dương Kế Châu chưa kịp đáp, bọn tội phạm nghe nói . đã kêu oan ầm ĩ. Bốn tên giải quan liền quỳ xuống bẩm: - Xin Đại vương chớ nên nghe lời lũ ấy, vì chúng nó toàn là gia quyến của bọn gian thần chứ không có việc chi oan uổng. Đổng Diệu Tông nói: - Gia quyến của bọn gian thần nào hãy nói thật ra thử nào? Giải quan giơ tay chỉ từng bọn, nói: - Đây là dâu con của Tần Cối, kia là gia quyến của bọn Vạn Sĩ Hoa, La Võ Tập và Trương Tuấn danh sách chúng trong tờ văn thư đây này các đại vương hãy xem. Dương Kế Châu hỏi: - Chúng phạm tội gì, nói mau. Giải quan liền đem việc vua Cao Tông băng hà, Hiếu Tông lên nối ngôi, Ngột Truật dấy binh, Trương Tín tâu vua xin tha hết cả nhà họ Nhạc, Công tử Nhạc Lôi thế chức của cha, Hiếu Tông ngự giá đến mộ Nhạc Nguyên soái tế điện, lại sai quan lên Thái Hành san chiêu an Ngưu Cao lão gia và chư tướng, đã bắt hết lũ gian thần xử trảm, còn con cháu và gia quyến thì đày lên Lãnh Nam. Giải quan kể lại đầu đuôi không sót mảy may, ba vị đại vương nghe xong, cùng cười ngất: - Không dè lũ gian thần ấy ngày nay ra thân như vậy. Nói rồi khiến lâu la bắt hết gia quyến bọn gian thần. Bọn lâu la vâng lệnh dẫn hết giai quyến lũ gian thần đem đến Bát Y đình trói lại chém lấy thủ cấp để dầy bàn rồi đem bài vị của Nhạc Phi, Nhạc Vân, Trương Hiến ra tế. Vương Bưu lại đem bài vị của cha mình là Vương Hoành ra tế một hồi, bốn tên giải quan thấy vậy kinh hồn hoảng vía cứ việc cúi đầu năn nhỉ xin tha. Dương Kế Châu nói: - Các ngươi đừng sợ, hãy đứng dậy cho ta hỏi một điều Chẳng hay Nhạc công tử hiện đang ở tại Triều làm quan hay ở đâu? Giải quan đáp: - Nay triều đình đã phong cho Nhạc công tử là Tảo Bắc Đại Nguyên soái, Ngưu lão Tướng quân làm Giám quan, các vị anh hùng lớn nhỏ thảy đều theo ra trận, khởi binh hai mươi vạn đi tiễu trừ Ngột Truật để đón Nhị Đế hồi triều. Hiện giờ đại binh đã kéo đi Châu Tiên trấn rồi. Dương Kế Châu liền sai bọn lâu la lấy tài vật của bọn gian thần thưởng cho giải quan rồi thả đi. Bọn giải quan mừng rỡ cúi đầu tạ ơn rồi xuống núi trở về Lâm An phục chỉ. Sau đó Dương Kế Châu nói với Đồng Diệu Tông: - Nếu Nhạc Lôi công tử đã kéo binh đi Tảo Bắc thì anh em ta cũng nên bỏ cái sơn trại này, dẫn hết binh mã ra đó giúp người, không biết ý kiến ấy có được chăng? Đổng Diệu Tông nói: - Lời đại ca nói hợp ý tôi lắm. Dương Kế Châu lại nói: - Ta chỉ ngại một điều là Nhạc nhị công tử không biết mặt ta, nên dẫn binh theo e người nghi hoặc, chư đệ hãy chịu phiền ra trước Châu Tiên trấn báo trước với Nhạc công tử, để ta ở lại đây thâu góp binh mã và lương thảo rồi sẽ đi sau. Vương Bưu và Đổng Diệu Tông khen phải rồi từ biệt Dương Kế Châu dắt theo vài tên lâu la suốt ngày đêm nhắm Châu Tiên trấn tiến tới. Nói qua Nhạc Lôi, khi lãnh ấn Đại Nguyên soái, lập tức dẫn hai mươi vạn binh kéo ra Châu Tiên trấn. Khi đi đến Thiên Trường quan, quan Tổng binh Trịnh Tài mở cửa ải nghênh tiếp. Nhạc Lôi chào đáp lễ rồi kéo quân lên Châu Tiên trấn, truyền an dinh hạ trại. Quân thám tử của Kim Phiên trông thấy lập tức chạy về phi báo với Ngột Truật. - Nay Tống triều sai con của Nhạc Nam man là Nhạc Lôi thống lãnh hai mươi vạn binh mã ra đến Châu Tiên trấn hạ dinh rồi. Ngột Truật cười ha hả, nói: - Tống Triều đã hết người rồi mới sai bọn con nít đến đây, thế thì cơ nghiệp nhà Tống sắp tuyệt rồi. Hôm sau, Nhạc Lôi thăng trướng, chư tướng triều kiến xong xuôi, Nhạc Lôi hỏi: - Hôm nay có vị tướng quân nào dám ra trận đầu tiên không? Nói chưa dứt lời đã có một tướng xông ra bẩm: - Tôi xin đi. Nhạc Lôi xem lại người ấy là âu Dương Tùng Thiện, liền phát ba ngàn quân, bảo kéo đến dinh Kim khiêu chiến. Tùng Thiện lĩnh mệnh lên ngựa vung song phủ, kéo binh thẳng đến trước dinh Kim kêu lớn: - Trong dinh Phiên có tướng nào giỏi ra đây nếm thử mùi búa của ta chơi! Tiểu Phiên chạy vào báo, Ngột Truật hỏi chư tướng: - Có Nam man đến khiêu chiến, ai dám ra binh bắt hắn? Dưới trướng có một Phiên tướng ứng đáp ngay: - Tôi là Thổ Đức Long xin đi bắt hắn cho. Ngột Truật liền điểm ba ngàn binh mã cho Thổ Đức Long ra ngựa. Thổ Đức Long lên ngựa múa thương ra trận. Âu Dương Tùng Thiện trông thấy tướng ấy mật xanh như chàm, mắt đỏ như tôm luộc, đầu đội kim khôi, mình mang kim giáp, cưỡi ngựa huỳnh bưu, tay cầm Ô du côn, bên phải mang cung, bên trái đeo tên. Âu Dương Tùng Thiện nghĩ thầm: - "Ta ở tại bến sông đưa đò đã lâu từng gặp rất nhiều tay kỳ khôi, nhưng chưa hề thấy ai hình dung cổ quái như vậy Nay ra trận đầu mà gặp gã dị tướng như vậy chẳng lẽ ta chịu thua hắn thì coi sao được?" Nghĩ đoạn, lớn tiếng quát: - Mi tên họ là chi? Hãy nói ra cho mau. Thổ Đức Long nói: - Ta là thủ hạ của Đại Kim Quốc Xương Bình Vương Bình Nam Đại Nguyên soái Hoàn Nhan Ngột Truật; Tiên phong Bình Chương Thổ Đức Long là ta đây, còn ngươi là ai dám đến đây ngăn trở đại binh? Tùng Thiện nói: - Ông đây là trướng hạ của Đại Tống Thiên Tử Giá Tiền Đô Đốc Tảo Bắc Nhạc Lôi Nguyên soái, đô thống Âu Dương Tùng Thiện, Ngũ Phương Thái Tuế ông đây, sao mi chưa xuống ngựa chịu trói cho rồi để ông khỏi nhọc sức. Thổ Đức Long nổi giận xung thiên múa côn đánh liền, Tùng Thiện cũng vung búa ngàn đỡ rồi đón đánh quyết liệt Hai người đao kề, búa côn choảng nhau nghe choang choang một qua một lại ước chừng mươi hiệp, Thổ Đức Long đã đuổi sức ráng đánh thêm chừng vài ba hiệp nữa, mệt chẳng ra hơi bị Tùng Thiện giáng cho một búa bể óc té nhào xuống ngựa chết tươi. Tùng Thiện nhảy xuống cắt lấy thủ cấp, đánh trống đắc thắng kẻo binh về dinh chờ lệnh, Nhạc Lôi sai quan Chánh Ti ghi công thứ nhất cho âu Dương Tùng Thiện. Quân Phiên chạy về phi báo, ba anh em Thổ Đức Hổ, Thổ Đức Bưu và Thổ Đức Báo liền bước ra bẩm: - Anh tôi bị chết về tay tướng Nam man, vậy xin chúa công hãy cho ba anh em tôi xuất quân bắt bọn chúng để báo thù cho anh tôi. Ngột Truật y lời, phát ba ngàn binh mã cho ba người ra trận. Ba anh em vâng lệnh dẫn binh đến trước dinh Tống kêu mắng, quân tiểu hiệu chạy vào phi báo, Nhạc Lôi truyền lệnh mời lão tướng Kiết Thanh hiệp với Tông Lương và Dư Lôi dẫn ba ngàn quân kéo ra nghênh chiến. Ba người vâng lệnh dẫn binh ra dinh, ngó thấy bên kia ba tướng Phiên thảy đều hình dùng cổ quái, tướng mạo dữ dằn. Kiết Thanh lướt tới, nạt lớn: - Loài man di kia, hãy nói tên họ ra cho mau để rồi ta còn cắt cổ. Bên kia, Thổ Đức Hổ cũng lướt tới quát: - Loài Nam man, mi chẳng nghe danh ta lợi hại thế nào sao dám đến đây khua môi múa mỏ? Ta là Tiền Phong Bình chương trướng hạ của Tứ Hoàng tử tên Thổ Đức Hổ đây, tam đệ của ta là Thổ Đức Bưu, Tứ đệ của ta là Thổ Đức Báo, chúng bay giết chết đại ca ta, nay chúng ta đến đây quyết lấy gan chúng bây để tế điện. Kiết Thanh nghe nói ngửa mặt lên trời cười ngất, nói: - Chúng bay là lũ chuột nhắt lại đòi moi gan của ông sao? Hãy xem cây roi của ông đây! Vừa nói vừa vung lang nha bổng nhắm đầu Thổ Đức Hổ đánh tới. Thổ Dục Hổ cũng vung cây thiết thích lang nha côn đón đánh, hai tướng đánh với nhau hơn ba mươi hiệp, Thổ Đức Hổ đuối sức coi bộ ngăn đỡ không nổi nữa. Thổ Đức Bưu lập tức vung đao xông vào trợ chiến; bên này Tông Lương cũng vung côn nhảy ra đón đánh. Thổ Đức Báo thấy thế cũng vung cây trượng nhị xà mâu xông ra. Dư Lôi cũng vung song chùy nhảy vào tiếp chiến. Sáu tướng đánh với nhau tối trời mịt đất; Thổ Đức Bưu bị chậm tay một chút bị Tông Lương đánh một con té nhào xuống ngựa. Ba quan ồ lên đánh trống khua chiêng trợ lực. Thổ Đức Hổ giựt mình trở tay không kịp, bị Kiết Thanh quất một roi hồn lìa khói xác. Thổ Đức Báo thấy hai anh vong mạng không dám đánh nữa liền quày ngựa chạy dài. Ba viên Tống tướng không thèm truy kích liền đem hai cái thủ cấp trở về báo công. Thổ Đức Báo chạy thẳng về dinh ra mắt Ngột Truật bẩm: - Tướng Nam man quá lợi hại, chúng giết chết hai anh tôi rồi, tôi nhắm đánh không nổi nên trở về đây chịu tội. Ngột Truật bị thất bại hai trận, lòng nóng như lửa đốt lên tiếng hỏi: - Có ai dám đánh với bọn Nam man nữa không? Lúc ấy Đại Nguyên soái Chiêm Đắc Lực đỏ hoe hai mắt, bước ra nói lớn: - Để tôi ra trận trừ khử chúng nó cho. Ngột Truật gật đầu nói: - Tướng công mà ra quân thì chắc chắc thành công. Nói rồi, điểm ba ngàn quân cho Chiêm Đắc Lực đi báo thù. Chiêm Đắc Lực lãnh binh xách song chùy nặng ngàn cân tung mình nhảy lên con lạc đà, kéo binh đến trước dinh Tống khiêu chiếu. Quân vào phi báo, Nhạc Lôi liền sai La Hồng và Ngưu Thông dẫn ba ngàn binh mã ra cự chiến. Hai tướng vâng lệnh dẫn binh ra trận trông thấy Phiên tướng đầu đội kim quang có giặt đôi lông trĩ, mình mang kim giáp nịt dây da tượng, lưng đeo thanh phong kiếm, lưng giắt nhạn linh đao, mặt đỏ như huyết dụ, râu vàng như râu ngô. Ngưu Thông lướt tới quát lớn: - Mi tên họ chi hãy nói mau rồi chịu chết! Chiêm Đắc Lực đáp: - Ta là Kim Bang đại nguyên soái Chiêm Đắc Lực đây Còn mi tên họ chi dám ra đây chống cự với ta? Ngưu Thông đáp gọn: - Kim Mao Thái Tuế chính là ông đây. Kẻ nào vô phúc gặp ông tức là Diêm Vương đã gọi rồi, hãy nếm thử cây đao của ông đây này! Vừa nói vừa vung đao chém sả xuống, Chiêm Đắc Lực đưa chùy đỡ vọt ra rồi giáng xuống một chùy, Ngưu Thông vung đao ra đỡ, chẳng dè chùy của đối phương nặng quá, hai tay của Ngưu Thông cảm thấy bủn rủn, Ngưu Thông còn ngơ ngác, Chiêm Đắc Lực bồi thêm một chùy nữa. Ngưu Thông không dám đỡ, liền né sang một bên, rủi trật nên ngã nhào xuống ngựa. La Hồng thấy vậy liền giục ngựa bay ra đón đánh. Quân Tống nhờ vậy cứu được Ngưu Thông đem về. La Hồng đánh với Chiêm Đắc Lực chừng năm sáu hiệp nhắm cự không lại liền quay ngựa chạy dài; Chiêm Đắc Lực giục ngựa rượt theo bén gót. Quân chạy vào phi báo, Nhạc Lôi vội sai Tông Lương, Dư Lôi, Âu Dương Tùng Thiện và Trịnh Thế Bửu lập tức ra tiếp ứng. Bốn tướng vừa phi ngựa chạy ra, gặp La Hồng chạy về, phía sau tướng Phiên theo sát gót, Tông Lương huy động thiết côn, Tùng Thiện vung song phủ, Dư Lôi sử dụng song chùy, Trịnh Thế Bửu vung thiết phương sóc, áp ra một lượt bao vây Chiêm Đắc Lực, nhưng Chiêm Đắc Lực không chút sợ sệt, hắn múa cặp tử kim chùy, tả xông hữu đột, đánh với bấn tướng dư bốn mươi hiệp, nhưng càng đánh sức càng mạnh thêm. Bốn tướng liệu đánh không lại quay ngựa chạy về. Chiêm Đắc Lực thấy trời tối liền gióng chiêng thu binh về dinh ra mặt Ngột Truật báo công thắng trận. Ngột Truật mừng rỡ, nói: - Hôm nay Nguyên soái khó nhọc, hãy về dinh nghỉ ngơi rồi ngày mai đi đánh nữa. Chiêm Đắc Lực từ tạ về dinh rồi sáng hôm sau lại đến khiêu chiến. Nhạc Lôi liền truyền lệnh sai Vương An, Kiết Thành Lượng, Thi Phụng, Thang Anh, Ngũ Liên, Dư Lôi, Hàn Khởi Long, Hàn Khởi Phụng và Nhạc Đình cộng hết là mười viên tiểu tướng ra trận một lượt. Chư tướng vâng lệnh ào ra, không nói năng gì cả, cứ việc bao vây Chiêm Đắc Lực đâm chém lia lịa. Chiêm Đắc Lực nạt lớn: - Chúng bay có hết thảy bao nhiêu hãy tập trung hết ra đây chịu chết luôn thể. Vừa nói vừa múa chùy tả xông hữu đột không hề biết sợ sệt là gì. Tiểu Phiên chạy về phi báo, Ngột Truật sai Táng Y Hãn, Không Ngạn Câu, Bột Đổng, Hấp Lý và Ô Nhãn Lang Quân bốn viên dũng tướng ra trợ lực. Lúc ấy Chiêm Đắc Lực đang tung hoành giữa trận như hùm dữ lìa non, như giao long xuất hải, lại thêm bốn tướng xông vào trợ lực nữa, khí thế lại càng uy mãnh thêm, mười viên tiểu tướng kia làm sao đánh cho lại? Vì vậy mười viên tiểu tướng quay ngựa chạy thẳng về dinh. Chiêm Đắc Lực giục ngựa đuổi riết theo, khi đến cửa dinh, binh Tống dùng cung tên bắn vãi ra như mưa nên Chiêm Đắc Lực không dám theo nữa vội đánh chiêng thu binh trở về đợi lệnh. Nhạc Lôi lấy làm lo lắng, sáng hôm sau triệu tập chư tướng vào thương nghị, Gia Cát Cẩm nói: - Nguyên soái đừng lo, đêm hôm qua tôi có đánh quẻ xem biết có cứu tinh gần đến. Chắc là có Đại tướng đến đây giúp ta Tảo Bắc thành công đấy. Còn đang thương nghị, bỗng nghe quân sĩ chạy vào báo: - Hôm nay Chiêm Đắc Lực lại đến trước dinh ta khiêu chiến nữa, hắn còn đòi xông vào dinh đạp thành ra bình địa và nói nhiều lời rất hỗn xược, tôi chẳng dám nói ra. Nhạc Lôi nghe qua cau mày, nói: - Tên Phiên ấy vô cùng lợi hại, chúng ta làm sao chống cự nổi? Chi bằng hãy treo miễn chiến bài để nghĩ kế rồi sẽ ra binh. Ngưu Cao đứng một bên nghe vậy, vùng nói lớn: - Hãy khoan, xưa cha cháu hễ cờ phất thì địch chạy cong đuôi, chứ chưa hề biết thất bại trận nào cả. Nay cháu làm Nguyên soái mới ra binh gặp một tên tướng Phiên quèn đã treo miễn chiến bài thì nhục lắm, để chú ra bắt nó cho. Nói rồi cầm giản lên ngựa xông ra hét như sấm nổ: - Chiêm Đắc Lực là thằng nào đâu? Chiêm Đắc Lực lướt tới xoe tròn đôi mắt như than lửa đỏ, quát hỏi: - Ngươi là ai, đã biết danh ta sao không trốn đi còn ra đây chịu chết? Ngươi đã tới số phải không? Ngưu Cao cười gằn: - Thế thì ngươi quả là tên vô danh tiểu tốt mới không biết danh của Ngưu lão gia, thôi đừng nói chi nhiều lời, hãy ráng mà chịu đựng cây giản của ta đây này. Vừa nói vừa vung giản đánh tới. Chiêm Đắc Lực cũng múa chùy đỡ hất giản ra khỏi rồi trả lại một chùy. Ngưu Cao vận hết công lực đỡ vẹt ra, chẳng dè chùy giáng xuống nặng quá làm rách toác cả hổ khẩu tay, Ngưu Cao thất kinh liền quay ngựa bỏ chạy, nhưng lúc nãy đã chót khoác lác với đứa cháu Nhạc Lôi và chư tướng giờ quay chạy về dinh thì còn mặt 'mũi nào, nên cứ nhắm rừng hoang chạy tuốt may ra tướng địch bỏ không truy đuổi, chẳng dè Chiêm Đắc Lực giục ngựa đuổi theo bén gót. Bỗng có tiếng: - Ngưu lão tướng, xin dừng ngựa lại.
Nhạc Phi Diễn Nghĩa Tác giả: Mộng Bình Sơn Chương 76: Hồi Thứ Bảy Mươi Sáu Dịch giả + Biên dịch: Kiều Mai Nguồn: NXB Văn Học Mời đọc Ngưu Cao nghe tiếng quen quen, nhưng không rõ là ai cứ cắm đầu chạy và nói với lại: - Hiện giờ ta không thể nói chuyện với ai được cả, Phiên tướng dữ dằn lắm, hắn theo kịp kia kìa? Lại có tiếng gọi: - Ngưu lão tướng quân có cháu là Quan Linh đây! Tiểu tướng ấy chính là Quan Linh. Từ ngày ở lại Châu Tiên trấn, anh em phải phân tán về nhà Quan Linh trong lòng vô cùng uất ức, muốn báo thù cho Nhạc Nguyên soái, ngặt vì thân cô thế cô nên phải ẩn dật chờ thời, nay nghe tin Cao Tông băng hà, tân vương lên kế vị, gia quyến họ Nhạc được phục hồi lại phong cho Nhạc Lôi làm Nguyên soái cầm quân đi tảo Bắc, đánh Phiên. Quan Linh bỏ nhà tuốt xuống Trương sa phủ, lộ An Châu, rủ Lục Văn Long, Phan Thành Nghiêm Thành Phương và Địch Lôi bấn người, dắt nhau ra Châu Tiên trấn để giúp Nhạc Lôi. Hôm ấy, còn trên một dặm đường nữa mới đến trấn, năm người khi vượt qua một đám rừng bỗng thấy một tướng Phiên rượt một tướng Tống mặt đen chạy đến; Quan Linh xem kỹ chính là Ngưu Cao, nên mới gọi lớn. Ngưu Cao gò cương lại thấy rõ ràng là bọn Quan Linh, Lục Văn Long tất cả năm người mới tỉnh hồn nói với Lục Văn Long. - Các cháu phải chuẩn bị sẵn sàng, tên Phiên kia lợi hại lắm, chú đánh không lại, kìa, nó đã theo kịp kia! Nói chưa dứt lời, Chiêm Đắc Lực đã rượt đến, hắn nhìn Ngưu Cao cười ngắt nói: - Kìa, Ngưu Nam man. Sao chưa xuống ngựa chịu trói cho rồi còn chạy đi đâu? Không đợi Ngưu Cao đáp, Quan Linh vung đao lướt tới nạt: - Tên Phiên tặc kia sao dám xấc xược đến thế? Đã có ông đến đây, hãy coi chừng! Chiêm Đắc Lực tròn xoe đôi mắt, hỏi: - Mi là ai dám cả gan đón đường ta? Quan Linh nói: - Chớ có khinh thường, ta cho mi biết ta đây là Quan Linh, dòng dõi Võ An Vương đời Hán, hôm nay mi đã gặp ta đây tức mi đã tới số rồi! Chiêm Đắc Lực cả giận vung chùy bổ tới, Quan Linh đưa đao đón đánh. Hai người sức lực tương đương, quần nhau trên ba mươi hiệp, Địch Lôi đứng ngoài thấy Quan Linh có phần sút hơn, liền vỗ ngựa vung chùy xông vào trợ chiến, nhưng Chiêm Đắc Lực cũng không hề nao núng, hắn nghiến răng hét lên một tiếng như sấm nổ sức lực tăng thêm đánh vùi thêm mười hiệp nữa, Phàn Thành thấy thế muốn xông vào, nhưng Lục Văn Long lại hô lớn: - Thôi chư đệ hãy nghỉ hết đi, để anh trị hắn cho. Hai người vừa lui ra, Lục Văn Long vận sức đâm tới một thương nhanh như chớp xẹt lưng trời, Chiêm Đắc Lực nhắm thế đỡ không kịp bèn né sang bên, không ngờ mũi thương lao tới nhanh quá nhằm trúng mắt con lạc đà làm nó đau quá, gục đầu xuống, Nghiêm Thành Phương thừa dịp giáng lên đầu con lạc đà một búa vỡ sọ ngã quy, ném Chiêm Đắc Lực xuống đất, Phan Thành nhanh tay lao mình tới đâm trúng giữa ngực Chiêm Đắc Lực một thương chết tươi. Quan Linh liền nhảy xuống ngựa cắt lấy thủ cấp Chiêm Đắc Lực. Quân Phiên thấy vậy vỡ tan chạy hết. Ngưu Cao mừng rỡ dắt cả năm người trở về dinh ra mắt Nhạc Lôi, thuật lại việc tình cờ gặp bọn Quan Linh và giết Chiêm Đắc Lực cho Nhạc Lôi nghe. Nhạc Lôi mừng rỡ bước xuống dưới trướng làm lễ ra mắt thúc phụ cùng mấy anh em rồi ngồi lại chuyện vãn với nhau. Sau đó Nhạc Lôi viết bổn chương gửi về triều tâu xin phong chức cho năm người, đồng thời đem thủ cấp Chiêm Đắc Lực bêu trước dinh làm hiệu lệnh. Hôm sau, bỗng có quân thám tử về báo với Nhạc Lôi: - Bẩm Nguyên soái, hiện có quan thủ bị Hà Giang Phủ giải ba ngàn hộc lương đến đây, nhưng bị tướng Phiên là Vưu Khả Vinh đón dường giật cướp, xin Nguyên soái hãy sai đại tướng đi cứu ứng cho mau. Nhạc Lôi nghe báo, hỏi chư tướng: - Chư vị tưởng quân, ai dám đi tiếp cứu quân lương được thì công ấy không nhỏ. Ngưu Cao mỉm cười nói: - Việc quan trọng như vậy tưởng không thể để cho ai đi được, chú cần phải đảm nhiệm việc này mới xong. Nhạc Lôi nói: - Lương thảo là việc hệ trọng, nếu thúc phụ sẵn lòng ra sức thì cháu mới an lòng. Ngưu Cao nói: - Được rồi, chú sẽ đi giết tướng Phiên đem lương thảo về ngay lập tức. Nói rồi vội điểm ba ngàn binh mã hỏa tốc đi ngay. Khi đến Hà Giang phủ trông thấy quan thủ bị là Tông Lang đang đánh với tướng Phiên Vưu Khả Vinh đã gần đuối sức, thế rất nguy, Ngưu Cao xông tới quát lớn: - Phiên tặc, dám cả gan đoạt lương thảo của ta sao? Hãy nếm thử mùi vị này! Vừa nói, vừa vung giản giáng xuống, Vưu Khả Vinh cũng vung đao đón đánh, song đánh chỉ được vài ba hiệp nhắm thế đánh không lại Ngưu Cao, liền quay ngựa chạy dài. Ngưu Cao hét như sấm nổ: - Ngươi chạy lên trời cũng không khỏi tay ta. Tuy lương thảo ngươi trả lại rồi, song còn cái đầu của ngươi cũng phải để nốt lại đây mới được. Vừa nói, vừa giục ngựa đuổi theo, còn Tông Lang thì hối quân đẩy xe lương trở về dinh. Ngưu Cao một mình một ngựa đuổi theo tướng Phiên trên hai mươi dặm. Khi vượt qua một eo núi, bỗng thấy một đạo nhân đứng trên đỉnh núi lớn tiếng kêu Ngưu Cao. Ngưu Cao ngoảnh đầu lên thấy người ấy chính là thầy mình, liền nhảy xuống ngựa quỳ bên mé núi, thưa: - Chẳng hay sư phụ đến đây có việc chi? Bảo Phương lão tổ nói: - Tên Phiên ấy chưa tới số, đừng theo hắn mất công vô ích, hiện giờ Ngưu Thông đang bị nạn, con hãy cầm lấy hoàn đơn được này đem về gấp, bẻ ra một nửa cho nó uống, một nửa thoa vào cổ thì lành mạnh như xưa, còn viên thuốc này con cũng nhận luôn đem về cứu Hà Phụng. Từ nay về sau nếu con ra trận gặp yêu nhân dùng tà thuật con cứ việc lấy "xuyên vân tiễn'' bắn lên thì phá được ngay. Nói đến đây Bảo Phương lão tổ biến mất. Ngưu Cao ngước mắt nhìn lên không trung lạy tạ rồi lên ngựa trở về. Khi Chiêm Đắc Lực chết rồi, quân sĩ hoảng kinh chạy về phi báo với Ngột Truật, Ngột Truật vừa tiếc thương vừa giận dữ nói: - Bọn tiểu Nam man này so sánh với lão Nam man lúc nọ còn lợi hại hơn nhiều, thế thì biết bao giờ ta mới thôn tính được Trung Nguyên? Còn đang than thở, bỗng có tiểu Phiên vào báo: - Nay có Quốc sư Phổ Phong đến. Đang buồn bực, Ngột Truật bỗng vui lên, vội sai quân mời Phổ Phong vào. Giây phút sau Phổ Phong vào đến trưởng, Ngột Truật vội vã bước xuống nghênh tiếp. Hai bên làm lễ ra mắt nhau xong rồi, Phổ Phong nói: - Chẳng hay Chúa công giao phong với bọn Nam man thắng bại thế nào? Ngột Truật thở dài đáp: - Thật tôi chẳng giấu gì Quốc sư, bọn tiểu Nam man này mười phần lợi hại, sánh với lão Nam man lúc trước còn dũng mãnh hơn nhiều, nên vừa ra quân mấy phen đều bị thất bại, chết mất mười viên danh tướng, không biết tính sao? Phổ Phong cười ha hả nói: - Chúa công chớ lo, để ngày mai bần đạo ra trận đem chút tài mọn bắt bọn Nam man đem về đây cho. Ngột Truật đáp: - Vâng, tôi đặt hy vọng ở nơi Quốc sư đấy? Nói rồi sai quân dọn yến tiệc thết đãi, Phổ Phong ăn uống no say đến canh khuya mới đi nghỉ. Sáng hôm sau, Phổ Phong chẳng thèm đem binh mã, chỉ một mình một ngựa, cầm cây thiết trượng đến trước dinh quân Tống khiêu chiến. Quân Tống chạy vào phi báo: - Nay có một lão đạo nhân đến trước dinh khiêu chiến. Nhạc Lôi hỏi chư tướng: - Có ai dám ra trận không? - Hỏi vừa dứt lời đã thấy Ngưu Thông và Hà Phụng bước ra xin đi, Nhạc Lôi căn dặn: - Thường thường đạo nhân và đàn bà con gái ra trận hay dùng yêu thuật, nhị vị tướng quân phải cẩn thận lắm mới được. Nói rồi sai Thang Anh, Kiết Thành Lượng và Dư Lôi, ba người theo yểm trợ. Năm tướng vâng lệnh lên ngựa kéo quân ra trước dinh, thấy một lão đạo nhân mình mặc áo đạo sĩ, tay cầm thiết trượng, cưỡi ngựa ô, đôi mắt sâu hoắm nhưng phóng ra hai luồng nhãn quang trông dễ khiếp. Ngưu Thông giục ngựa lướt tới hét lớn: - Bình sinh ta không hề giết kẻ vô danh. Lão trọc kia, tên họ là chi hãy nói cho ta biết để rồi ta siêu độ cho. Phổ Phong cười nham hiểm, đáp: - Phật gia là Quốc sư, Đại Kim Quốc tên Phổ Phong đây Ngưu Thông lắc đầu. Ta không cần biết Quốc sư hay gia sư gì hết, chỉ biết ngươi là lão trọc, đủ rồi, thôi hãy ngửa cổ ra cho dài để ta chém! Phổ Phong lửa giận phừng gan, thét to như sấm: - Loài Nam man dám vô lễ với ta đến thế ư? Hãy lãnh giáo cây gậy của ta đây này. Vừa nói vừa vung thiết trượng nhắm ngay đầu Ngưu Thông bổ tới, Ngưu Thông lập tức đỡ vọt ra rồi đánh với hắn hơn ba mươi hiệp, Phổ Phong đuối sức cự không lại Ngưu Thông, nghĩ thầm: - "Thằng Nam man này lợi hại lắm, ta phải tính trước đi mới được". Nghĩ đoạn, giả vờ nói với Ngưu Thông: - Ngươi mạnh quá ta đánh không lại, thôi ta nhịn người đó. Nói rồi, lão quay ngựa chạy, Ngưu Thông giục ngựa rượt theo hét lớn: - Mi chạy lên trời cũng không khỏi tay ta. Mi muốn chạy hãy để cái đầu trọc lại đây cho ta mới được. Phổ Phong thấy Ngưu Thông rượt theo gần sát liền thò tay vào túi láy ra một hạt "hỗn nguyên châu'' to bằng nắm tay giơ cao lên nói: - Tiểu Nam man, đừng theo ta nữa vô ích, hãy nếm thử thứ bảo bối này. Vừa nói vừa ném "hỗn nguyên châu'' lên không trung, Ngưu Thông ngước mắt lên thấy một cục tròn tròn từ trên rớt xuống, cười khúc khích nói: - Lão trọc kia, ta đùa với mi sao? Nói chưa dứt lời, viên "hỗn nguyên châu” rớt ngay giữa đỉnh đầu, Ngưu Thông thất kinh vội né sang bên, nhưng không kịp bị rớt trúng bả vai bên phải khiến Ngưu Thông ngã nhào xuống ngựa. Phổ Phong thu bảo bối lại, vung thiết trượng lướt tới đánh Ngưu Thông. May thay lúc ấy Hà Phụng múa roi xốc tới chặn Phổ Phong lại, chư tướng áp tới cứu Ngưu Thông đem về. Phổ Phong đánh với Hà Phụng được mười hiệp lại lấy "hỗn nguyên châu'' quăng ra. Hà Phụng biết không phải tầm thường quay ngựa bỏ chạy, chẳng dè "hỗn nguyên châu"' rơi giữa lưng, Hà Phụng nhào xuống ngựa bất động. Phổ Phong toan nhảy xuống ngựa cắt lấy thủ cấp, may có Thang Anh, Dư Lôi và Kiết Thành Lượng áp ra một lượt vây lấy Phổ Phong. Quân sĩ có cơ hội khiêng Hà Phụng về dinh. Phổ Phong thấy tướng Tống quá đông liệu đánh không lại liền lấy hỗn nguyên châu liệng lên. Ba người vừa trông thấy bảo bối thoát khỏi tay đã hô rập lên một tiếng giục ngựa chạy dài. Vì quá hấp tấp, con ngựa Kiết Thành Lượng bị vấp chân ngã quị quăng Kiết Thanh Lượng xuống đất, may nhờ có quân sĩ dùng cung tên bắn vãi ra như mưa, cản trở bước tiến của Phổ Phong nên Kiết Thành Lượng có đủ thì giờ lồm cồm ngồi dậy chạy bộ vào dinh. Phổ Phong đắc thắng đánh chiêng thu quân trở về ra mắt Ngột Truật, Ngột Truật hết lời khen ngợi: - Tài năng của Quốc sư quả là vô địch. Chuyến này bọn Nam man phải kinh hồn lạc phách. Hôm nay Quốc sư nhọc sức ra trận chắc mỏi mệt lắm, cần phải nghỉ ngơi bồi dưỡng Bức khỏe, ngày mai giết chúng cho nhiều hơn nữa. Nói rồi, sai quân dọn yến tiệc đãi Phổ Phong. Phổ Phong ngồi uống rượu đắc chí rung đùi nói: - Chẳng phải tôi dám khoe miệng chứ thật ra lũ Nam man ấy tôi coi cũng như cá nhốt trong rọ rồi, tôi muốn bắt, muốn giết lúc nào chẳng được. Để tôi làm cho chúng nó táng đởm kinh hồn, bó tay chịu hàng cho Điện hạ xem. Ngột Truật mừng rỡ vô cùng, đêm đó ăn uống say vùi với Phổ Phong cho đến quá nửa đêm mới mãn tiệc. Nói về bên dinh Tống, chư tướng bại trận chạy về, Hà Phụng nằm trên giường bất động, còn Ngưu Thông rên la inh ỏi. Nhạc Lôi lo lắng không yên. Bỗng thấy quân sĩ chạy vào bẩm báo: - Ngưu lão tướng quân đã về tới rồi. Nhạc Lôi bước ra đón vào, nói: - Cháu mừng cho chú hôm nay đã lập dược công lớn, song bữa nay Ngưu Thông ra trận bị Phiên tăng nó dùng yêu pháp đả thương bệnh tình rất nguy cấp, chú hãy đi thẳng ra phía sau dinh thăm luôn thể. Ngưu Cao nghe nói vội bước theo Nhạc Lôi đi thẳng ra sau dinh, thấy Ngưu 'Thông đang rên xiết, còn Hà Phụng nằm trên giường bất tỉnh. Ngưu Cao thúc quân đem nước đến rồi cứ theo lời của Bảo Phương lão tổ cho hai người uống thuốc. Chỉ trong khoảnh khắc, cả hai đều bình phục như xưa. Hà Phụng mở mắt ra thấy Ngưu Cao cứu mình, bèn sụp lạy tạ ơn. Nhạc Lôi đến hỏi Ngưu Cao: - Tại sao chú lai có thuốc tiên hay đến thế? Ngưu Cao đem hết việc gặp Bảo Phương lão tổ cho thuốc thuật lại một hồi. Nhạc Lôi mừng rỡ tạ ơn trời đất phù hộ. Còn Ngưu Thông và Hà Phụng cùng nghiến răng nói: - Mang ơn Bảo Phương lão tổ cho thuốc tiên chúng ta mới sống lại được. Ngày mai quyết đi bắt cho được lão trọc đầu ấy về ăn gan mới hả giận. Nhạc Lôi nói: - Hôm nay nhị vị tướng quân đã mệt nhọc hãy tạm nghỉ vài ngày, vì tên Phiên tăng ấy quá lợi hại, không nên khinh thường, hãy treo miễn chiến bài vài hôm để lo kế rồi sẽ xuất quân mới được. Ngưu Cao cười gằn, nói: - Trước kia chú theo cha cháu hễ quân Phiên gặp mặt là vỡ vật kinh hồn, hôm nay chúng bay ra làm tướng, hễ rục rịch một chút là treo miễn chiến bài, thiệt xấu hổ quá! Thôi, để mai Ngưu Thông với mấy anh em ra trận, chú sẽ theo sau yểm trận cho. Chú sẽ bắt thằng trọc ấy về đây cho cháu xem. Nhạc Lôi không dám cãi Ngưu Cao nhưng trong lòng rất lo ngại, chàng nói: - Thôi để ngày mai thương nghị lại đã. Sáng hôm sau Nhạc Lôi thăng trướng sớm lắm, chư tướng vừa tề tựu đủ mặt, bỗng có quân chạy vào báo: - Hôm nay Phiên tăng lại đến khiêu chiến nữa. Ngưu Thông và Hà Phụng lửa giận sôi lên sùng sục, sắc mặt hầm hầm xin phép ra binh lập tức, Nhạc Lôi ý muốn khuyên can, Gia Cát Cẩm bước ra nói: - Nguyên soái cứ để cho họ xuất trận, nhưng phải có Ngưu lão Tướng quân theo yểm trận thì chắc là nắm phần thắng trong tay. Nhạc Lôi y lời nhưng căn dặn: - Vậy thì năm vị tướng quân hãy hết lòng cẩn thận, còn Ngưu thúc phụ chịu phiền theo yểm trận một phen. Năm tướng vâng lệnh giục ngựa xông ra, Ngưu Cao dẫn binh theo sau. Ngưu Thông vừa trông thấy Phổ Phong chẳng nói rằng chi cả, cứ việc vung đao chém bổ tới Hà Phụng cũng hét lên một tiếng rung trời chuyển đất chỉ vào mặt Phổ Phong mắng lớn: - Thằng trọc này dám có gan dùng yêu pháp hại ta, hôm nay ta đố mi chạy đi đâu cho khỏi? Vừa nói, vừa múa song tiễn sáp tới đánh túi bụi, Thang Anh, Dư Lôi và Kiết Thành Lượng cũng vung binh khí xông vào đánh tới tấp. Phổ Phong biết thế không xong liền nhanh tay rút viên "hỗn nguyên châu" ra giơ lên cao, nạt: - Loài Nam man hãy coi chừng bửu bối của ta đây. Vừa nói, vừa liệng lên không trung, năm người còn ngơ ngác chưa biết đối phó bằng cách nào, Ngưu Cao đứng sau trận trông thấy hạt châu ấy tỏa ra một luồng hắc khí bay quyện lên không trung, nghĩ thầm: "Thôi để ta sử dụng "xuyên vân tiễn" xem sao." Ngưu Cao lấy mũi tên phóng tôi, tức thì luồng hắc khí tiêu tan mất hết, viên "hỗn nguyên châu" rớt bịch xuống đất như một hòn sỏi rơi. Ngưu Cao trông thấy nhảy xuống ngựa nhặt trái bửu bối ấy nhảy lên ngựa kêu Phổ Phong nói: - Thằng trọc kia, hãy đỡ bửu bối đây này. Nói rồi, Ngưu Cao bắt chước ném hỗn nguyên châu lên không trung chằng dè hỗn nguyên châu ấy đã bị xuyên vân tiễn của mình bắn thủng rồi không còn linh nghiệm nữa. Phổ Phong giơ tay tiếp lấy vừa muốn quăng lên nữa, ngờ đâu Dư Lôi lẹ tay nhảy tới đâm một thương nhằm trúng vai, lão ta nhào lăn xuống đất. Ngưu Thông nhảy tới toan bồi thêm một đao đế kết liễu mạng sống song Phổ Phong đã hóa ra đạo Kim phong biến mất. Bọn Ngưu Thông đắc thắng đánh trống trở về dinh báo công. Nói về Phổ Phong thoát chạy về dinh, lấy linh đơn ra xức chỗ bị thương, trong giây phút bình phục như xưa, vào trướng ra mắt Ngột Truật nói: - Hôm nay tôi ra trận rủi bị Nam man nó phá phép bửu châu nên mới thất bại về đây. Ngột Truật thở dài nói: - Quốc sư mà không cự lại được chúng thì biết bao giờ mới thôn tính được Trung Nguyên? Phổ Phong cười đáp: - Tuy vậy, Chúa công chớ quá lo nội trong đêm nay tôi sẽ giết sạch lũ Nam man mới hả giận. Ngột Truật làm lạ hỏi: - Bọn Nam man hung dữ như vậy, Quốc sư làm cách nào giết chúng được? Phổ Phong giải thích. - Lúc tôi đi tu, thầy tôi có cho một món pháp bửu gồm năm ngàn lẻ tám con Đà Long, muốn lớn cũng được muốn nhỏ cũng được, tôi thu hết trong hồ lô này. Hễ thả ra là chúng bay đến ăn thịt uống máu địch quân không còn một đứa. Đối với mấy mươi vạn binh Tống tôi chỉ cần thả ra trong thời gian vài tiếng đồng hồ là nó ăn không còn một tên nào. Ngột Truật nghe nói, lòng vô cùng mừng rỡ, liền bảo tiểu Phiên dọn yến, hai người ăn uống với nhau đến chiều tối. Phổ Phong từ giã Ngột Truật trở về dinh mình, đặt hương án để hồ lô lên bàn, miệng đọc thần chú, rồi giở nút hồ lô ra truyền lệnh: - Bưu bối! Hãy bay lên. Dứt tiếng, trong hồ lô vù vù bay ra vô số Đà Long thẳng cánh bay lên không trung, mỗi con biến dài ra hơn mấy trượng mắt sáng ngời, miệng đỏ như chậu huyết, răng nhọn sắc như dao, hùng hổ bay qua dinh Tống. Tống quân xem thấy trên lừng trời hào quang tỏa ra muôn đạo sáng chói cả một vùng liền la ó bàn tán với nhau: - Không biết có phải quân Phiên lập kế cướp dinh chăng? Rồi đứa khác lại cãi. - Không phải đâu, quân Phiên sao lại biết bay lên trời? Thôi cứ việc phi báo rồi sẽ hay. Vừa nói vừa chạy vào trướng thưa: - Trên nửa lừng trời có vô số đèn lửa đang bay đến dinh ta, không biết là vật chi nên phải vào bẩm để Nguyên soái biết. Gia Cát Cẩm nghe báo hoảng hốt chạy ra xem, thoạt trông thấy đã thất kinh: - Cha chả! Không xong rồi, phải truyền cho đại tiểu tướng quân, lập tức đội trước làm sau đội sau làm trước lui lại cho mau, sẽ tránh tai nạn. Ba quân nghe lệnh, sợ hãi nhổ trại chạy ngay. Nhưng ngay lúc đó đạo binh sau đã thét vang dậy vì Đà Long đã bay đến bắt quân sĩ vừa hút máu vừa ăn thịt. Quân Tống hoảng hốt không còn có trật tự nữa, cùng xô nhau chạy thục mạng hơn sáu mươi dặm đường, mới dám dừng chân lại. Lúc bấy giờ đã đến canh năm. Bên kia Phổ Phong niệm chú thu hết Đà Long về. Đà Long rút lui, trời vừa sáng, Nhạc Lôi tra điểm binh mã, mới hay Tống quân bị mất hết một vạn tám ngàn. Ngưu Cao nói: - Vật chi mà lợi hại lắm vậy? Gia Cát Cẩm đáp: - Đó chính là Đà Long trận, chỉ vì tôi không dự liệu trước nên mới bị thất bại như thế này, tôi sẽ trả đũa lại bằng một kế mọn khác cho chúng biết tay. Nói rồi, sai quân sắm máu lợn, máu chó, củi khô, cỏ và đồ dẫn lửa cho nhiều, quân sĩ đều mặc áo xám, đeo cung tên cho sẵn sàng chờ lệnh rồi lại sai năm ngàn quân mã trở lại chỗ cũ đào một cái hầm rộng một trượng năm thước, bề sâu đến một trượng hai, dài hai mươi lăm trượng, suốt đêm phải làm cho xong. Quân Tống vâng lệnh xúm nhau làm, chẳng bao lâu công việc hoàn tất. Gia Cát Cẩm bèn sai quân đem hỏa pháo bố trí dưới hầm rồi đặt những hỏa lôi phục xung quanh, phía trên thì đặt nhiều củi và tưới máu lợn, máu chó lên trên, đoạn sai ba quân trở về chỗ cũ đóng dinh trại nguyên vẹn như trước. Ngoài ra, Gia Cát Cẩm còn bố trí một đội quân mai phục hai bên và trước dinh chờ cho Đà 'Long sa xuống hầm thì phát pháo lên làm hiệu, bốn phía hỏa tiễn bắn ra một lượt. Phân công và bố trí đâu đó xong xuôi, trời đã tối. Bên dinh Phiên, Quốc sư Phổ Phong dùng Đà Long trận giết chết một số lớn quân Tống lấy làm đắc chí, chờ cho trời tối cũng áp dụng thủ đoạn như đêm trước.' Phổ Phong cũng đặt bàn hương án lên niệm thần chú, giở nắp hồ lô ra, Đà Long bay ra vô số như ong bầy, kiến lũ thẳng đến dinh Tống để ăn thịt, uống máu, còn Phổ Phong thì cưỡi ngựa đi sau mà xem. Khi bầy Đà Long bay đến dinh Tống gần bên cái hầm ngửi mùi huyết tanh tanh liền nhào xuống hầm để uống huyết. Gia Cát Cẩm trông thấy rõ ràng, chờ cho Đà Long chui trọn xuống hầm rồi, cho nổ lên một pháo hiệu, tức thì ba ngàn binh phục đều dậy, hỏa tiễn cùng thuốc cháy bắn vãi ra, trong giây phút lửa dậy hừng trời, những hỏa lôi phục gặp lửa phát lên những tiếng nổ kinh thiên động.địa. Ngọn lửa mỗi lúc một bốc cháy cao, khói tỏa mịt trời. Phổ Phong thấy vậy vội đọc thần chú thu Đà Long về chẳng dè Đà Long bị máu lợn máu chó ô uế bay lên không nổi, trọn năm ngàn lẻ tám con Đà Long đều bị chết, Phổ Phong thoát chạy về dinh nhổ mấy mũi tên ra lấy thuốc thoa vào và nghĩ thầm: - "Đại bại như thế này, Đà hồi thứ bảy mươi sáu Dùng "Bửu châu", đả thương Tống tướng Bắn hỏa tiễn, Cát Cẩm phá Đà Long Ngưu Cao nghe tiếng quen quen, nhưng không rõ là ai cứ cắm đầu chạy và nói với lại: - Hiện giờ ta không thể nói chuyện với ai được cả, Phiên tướng dữ dằn lắm, hắn theo kịp kia kìa? Lại có tiếng gọi: - Ngưu lão tướng quân có cháu là Quan Linh đây! Tiểu tướng ấy chính là Quan Linh. Từ ngày ở lại Châu Tiên trấn, anh em phải phân tán về nhà Quan Linh trong lòng vô cùng uất ức, muốn báo thù cho Nhạc Nguyên soái, ngặt vì thân cô thế cô nên phải ẩn dật chờ thời, nay nghe tin Cao Tông băng hà, tân vương lên kế vị, gia quyến họ Nhạc được phục hồi lại phong cho Nhạc Lôi làm Nguyên soái cầm quân đi tảo Bắc, đánh Phiên. Quan Linh bỏ nhà tuốt xuống Trương sa phủ, lộ An Châu, rủ Lục Văn Long, Phan Thành Nghiêm Thành Phương và Địch Lôi bấn người, dắt nhau ra Châu Tiên trấn để giúp Nhạc Lôi. Hôm ấy, còn trên một dặm đường nữa mới đến trấn, năm người khi vượt qua một đám rừng bỗng thấy một tướng Phiên rượt một tướng Tống mặt đen chạy đến; Quan Linh xem kỹ chính là Ngưu Cao, nên mới gọi lớn. Ngưu Cao gò cương lại thấy rõ ràng là bọn Quan Linh, Lục Văn Long tất cả năm người mới tỉnh hồn nói với Lục Văn Long. - Các cháu phải chuẩn bị sẵn sàng, tên Phiên kia lợi hại lắm, chú đánh không lại, kìa, nó đã theo kịp kia! Nói chưa dứt lời, Chiêm Đắc Lực đã rượt đến, hắn nhìn Ngưu Cao cười ngắt nói: - Kìa, Ngưu Nam man. Sao chưa xuống ngựa chịu trói cho rồi còn chạy đi đâu? Không đợi Ngưu Cao đáp, Quan Linh vung đao lướt tới nạt: - Tên Phiên tặc kia sao dám xấc xược đến thế? Đã có ông đến đây, hãy coi chừng! Chiêm Đắc Lực tròn xoe đôi mắt, hỏi: - Mi là ai dám cả gan đón đường ta? Quan Linh nói: - Chớ có khinh thường, ta cho mi biết ta đây là Quan Linh, dòng dõi Võ An Vương đời Hán, hôm nay mi đã gặp ta đây tức mi đã tới số rồi! Chiêm Đắc Lực cả giận vung chùy bổ tới, Quan Linh đưa đao đón đánh. Hai người sức lực tương đương, quần nhau trên ba mươi hiệp, Địch Lôi đứng ngoài thấy Quan Linh có phần sút hơn, liền vỗ ngựa vung chùy xông vào trợ chiến, nhưng Chiêm Đắc Lực cũng không hề nao núng, hắn nghiến răng hét lên một tiếng như sấm nổ sức lực tăng thêm đánh vùi thêm mười hiệp nữa, Phàn Thành thấy thế muốn xông vào, nhưng Lục Văn Long lại hô lớn: - Thôi chư đệ hãy nghỉ hết đi, để anh trị hắn cho. Hai người vừa lui ra, Lục Văn Long vận sức đâm tới một thương nhanh như chớp xẹt lưng trời, Chiêm Đắc Lực nhắm thế đỡ không kịp bèn né sang bên, không ngờ mũi thương lao tới nhanh quá nhằm trúng mắt con lạc đà làm nó đau quá, gục đầu xuống, Nghiêm Thành Phương thừa dịp giáng lên đầu con lạc đà một búa vỡ sọ ngã quy, ném Chiêm Đắc Lực xuống đất, Phan Thành nhanh tay lao mình tới đâm trúng giữa ngực Chiêm Đắc Lực một thương chết tươi. Quan Linh liền nhảy xuống ngựa cắt lấy thủ cấp Chiêm Đắc Lực. Quân Phiên thấy vậy vỡ tan chạy hết. Ngưu Cao mừng rỡ dắt cả năm người trở về dinh ra mắt Nhạc Lôi, thuật lại việc tình cờ gặp bọn Quan Linh và giết Chiêm Đắc Lực cho Nhạc Lôi nghe. Nhạc Lôi mừng rỡ bước xuống dưới trướng làm lễ ra mắt thúc phụ cùng mấy anh em rồi ngồi lại chuyện vãn với nhau. Sau đó Nhạc Lôi viết bổn chương gửi về triều tâu xin phong chức cho năm người, đồng thời đem thủ cấp Chiêm Đắc Lực bêu trước dinh làm hiệu lệnh. Hôm sau, bỗng có quân thám tử về báo với Nhạc Lôi: - Bẩm Nguyên soái, hiện có quan thủ bị Hà Giang Phủ giải ba ngàn hộc lương đến đây, nhưng bị tướng Phiên là Vưu Khả Vinh đón dường giật cướp, xin Nguyên soái hãy sai đại tướng đi cứu ứng cho mau. Nhạc Lôi nghe báo, hỏi chư tướng: - Chư vị tưởng quân, ai dám đi tiếp cứu quân lương được thì công ấy không nhỏ. Ngưu Cao mỉm cười nói: - Việc quan trọng như vậy tưởng không thể để cho ai đi được, chú cần phải đảm nhiệm việc này mới xong. Nhạc Lôi nói: - Lương thảo là việc hệ trọng, nếu thúc phụ sẵn lòng ra sức thì cháu mới an lòng. Ngưu Cao nói: - Được rồi, chú sẽ đi giết tướng Phiên đem lương thảo về ngay lập tức. Nói rồi vội điểm ba ngàn binh mã hỏa tốc đi ngay. Khi đến Hà Giang phủ trông thấy quan thủ bị là Tông Lang đang đánh với tướng Phiên Vưu Khả Vinh đã gần đuối sức, thế rất nguy, Ngưu Cao xông tới quát lớn: - Phiên tặc, dám cả gan đoạt lương thảo của ta sao? Hãy nếm thử mùi vị này! Vừa nói, vừa vung giản giáng xuống, Vưu Khả Vinh cũng vung đao đón đánh, song đánh chỉ được vài ba hiệp nhắm thế đánh không lại Ngưu Cao, liền quay ngựa chạy dài. Ngưu Cao hét như sấm nổ: - Ngươi chạy lên trời cũng không khỏi tay ta. Tuy lương thảo ngươi trả lại rồi, song còn cái đầu của ngươi cũng phải để nốt lại đây mới được. Vừa nói, vừa giục ngựa đuổi theo, còn Tông Lang thì hối quân đẩy xe lương trở về dinh. Ngưu Cao một mình một ngựa đuổi theo tướng Phiên trên hai mươi dặm. Khi vượt qua một eo núi, bỗng thấy một đạo nhân đứng trên đỉnh núi lớn tiếng kêu Ngưu Cao. Ngưu Cao ngoảnh đầu lên thấy người ấy chính là thầy mình, liền nhảy xuống ngựa quỳ bên mé núi, thưa: - Chẳng hay sư phụ đến đây có việc chi? Bảo Phương lão tổ nói: - Tên Phiên ấy chưa tới số, đừng theo hắn mất công vô ích, hiện giờ Ngưu Thông đang bị nạn, con hãy cầm lấy hoàn đơn được này đem về gấp, bẻ ra một nửa cho nó uống, một nửa thoa vào cổ thì lành mạnh như xưa, còn viên thuốc này con cũng nhận luôn đem về cứu Hà Phụng. Từ nay về sau nếu con ra trận gặp yêu nhân dùng tà thuật con cứ việc lấy "xuyên vân tiễn'' bắn lên thì phá được ngay. Nói đến đây Bảo Phương lão tổ biến mất. Ngưu Cao ngước mắt nhìn lên không trung lạy tạ rồi lên ngựa trở về. Khi Chiêm Đắc Lực chết rồi, quân sĩ hoảng kinh chạy về phi báo với Ngột Truật, Ngột Truật vừa tiếc thương vừa giận dữ nói: - Bọn tiểu Nam man này so sánh với lão Nam man lúc nọ còn lợi hại hơn nhiều, thế thì biết bao giờ ta mới thôn tính được Trung Nguyên? Còn đang than thở, bỗng có tiểu Phiên vào báo: - Nay có Quốc sư Phổ Phong đến. Đang buồn bực, Ngột Truật bỗng vui lên, vội sai quân mời Phổ Phong vào. Giây phút sau Phổ Phong vào đến trưởng, Ngột Truật vội vã bước xuống nghênh tiếp. Hai bên làm lễ ra mắt nhau xong rồi, Phổ Phong nói: - Chẳng hay Chúa công giao phong với bọn Nam man thắng bại thế nào? Ngột Truật thở dài đáp: - Thật tôi chẳng giấu gì Quốc sư, bọn tiểu Nam man này mười phần lợi hại, sánh với lão Nam man lúc trước còn dũng mãnh hơn nhiều, nên vừa ra quân mấy phen đều bị thất bại, chết mất mười viên danh tướng, không biết tính sao? Phổ Phong cười ha hả nói: - Chúa công chớ lo, để ngày mai bần đạo ra trận đem chút tài mọn bắt bọn Nam man đem về đây cho. Ngột Truật đáp: - Vâng, tôi đặt hy vọng ở nơi Quốc sư đấy? Nói rồi sai quân dọn yến tiệc thết đãi, Phổ Phong ăn uống no say đến canh khuya mới đi nghỉ. Sáng hôm sau, Phổ Phong chẳng thèm đem binh mã, chỉ một mình một ngựa, cầm cây thiết trượng đến trước dinh quân Tống khiêu chiến. Quân Tống chạy vào phi báo: - Nay có một lão đạo nhân đến trước dinh khiêu chiến. Nhạc Lôi hỏi chư tướng: - Có ai dám ra trận không? - Hỏi vừa dứt lời đã thấy Ngưu Thông và Hà Phụng bước ra xin đi, Nhạc Lôi căn dặn: - Thường thường đạo nhân và đàn bà con gái ra trận hay dùng yêu thuật, nhị vị tướng quân phải cẩn thận lắm mới được. Nói rồi sai Thang Anh, Kiết Thành Lượng và Dư Lôi, ba người theo yểm trợ. Năm tướng vâng lệnh lên ngựa kéo quân ra trước dinh, thấy một lão đạo nhân mình mặc áo đạo sĩ, tay cầm thiết trượng, cưỡi ngựa ô, đôi mắt sâu hoắm nhưng phóng ra hai luồng nhãn quang trông dễ khiếp. Ngưu Thông giục ngựa lướt tới hét lớn: - Bình sinh ta không hề giết kẻ vô danh. Lão trọc kia, tên họ là chi hãy nói cho ta biết để rồi ta siêu độ cho. Phổ Phong cười nham hiểm, đáp: - Phật gia là Quốc sư, Đại Kim Quốc tên Phổ Phong đây Ngưu Thông lắc đầu. Ta không cần biết Quốc sư hay gia sư gì hết, chỉ biết ngươi là lão trọc, đủ rồi, thôi hãy ngửa cổ ra cho dài để ta chém! Phổ Phong lửa giận phừng gan, thét to như sấm: - Loài Nam man dám vô lễ với ta đến thế ư? Hãy lãnh giáo cây gậy của ta đây này. Vừa nói vừa vung thiết trượng nhắm ngay đầu Ngưu Thông bổ tới, Ngưu Thông lập tức đỡ vọt ra rồi đánh với hắn hơn ba mươi hiệp, Phổ Phong đuối sức cự không lại Ngưu Thông, nghĩ thầm: - "Thằng Nam man này lợi hại lắm, ta phải tính trước đi mới được". Nghĩ đoạn, giả vờ nói với Ngưu Thông: - Ngươi mạnh quá ta đánh không lại, thôi ta nhịn người đó. Nói rồi, lão quay ngựa chạy, Ngưu Thông giục ngựa rượt theo hét lớn: - Mi chạy lên trời cũng không khỏi tay ta. Mi muốn chạy hãy để cái đầu trọc lại đây cho ta mới được. Phổ Phong thấy Ngưu Thông rượt theo gần sát liền thò tay vào túi láy ra một hạt "hỗn nguyên châu'' to bằng nắm tay giơ cao lên nói: - Tiểu Nam man, đừng theo ta nữa vô ích, hãy nếm thử thứ bảo bối này. Vừa nói vừa ném "hỗn nguyên châu'' lên không trung, Ngưu Thông ngước mắt lên thấy một cục tròn tròn từ trên rớt xuống, cười khúc khích nói: - Lão trọc kia, ta đùa với mi sao? Nói chưa dứt lời, viên "hỗn nguyên châu” rớt ngay giữa đỉnh đầu, Ngưu Thông thất kinh vội né sang bên, nhưng không kịp bị rớt trúng bả vai bên phải khiến Ngưu Thông ngã nhào xuống ngựa. Phổ Phong thu bảo bối lại, vung thiết trượng lướt tới đánh Ngưu Thông. May thay lúc ấy Hà Phụng múa roi xốc tới chặn Phổ Phong lại, chư tướng áp tới cứu Ngưu Thông đem về. Phổ Phong đánh với Hà Phụng được mười hiệp lại lấy "hỗn nguyên châu'' quăng ra. Hà Phụng biết không phải tầm thường quay ngựa bỏ chạy, chẳng dè "hỗn nguyên châu"' rơi giữa lưng, Hà Phụng nhào xuống ngựa bất động. Phổ Phong toan nhảy xuống ngựa cắt lấy thủ cấp, may có Thang Anh, Dư Lôi và Kiết Thành Lượng áp ra một lượt vây lấy Phổ Phong. Quân sĩ có cơ hội khiêng Hà Phụng về dinh. Phổ Phong thấy tướng Tống quá đông liệu đánh không lại liền lấy hỗn nguyên châu liệng lên. Ba người vừa trông thấy bảo bối thoát khỏi tay đã hô rập lên một tiếng giục ngựa chạy dài. Vì quá hấp tấp, con ngựa Kiết Thành Lượng bị vấp chân ngã quị quăng Kiết Thanh Lượng xuống đất, may nhờ có quân sĩ dùng cung tên bắn vãi ra như mưa, cản trở bước tiến của Phổ Phong nên Kiết Thành Lượng có đủ thì giờ lồm cồm ngồi dậy chạy bộ vào dinh. Phổ Phong đắc thắng đánh chiêng thu quân trở về ra mắt Ngột Truật, Ngột Truật hết lời khen ngợi: - Tài năng của Quốc sư quả là vô địch. Chuyến này bọn Nam man phải kinh hồn lạc phách. Hôm nay Quốc sư nhọc sức ra trận chắc mỏi mệt lắm, cần phải nghỉ ngơi bồi dưỡng Bức khỏe, ngày mai giết chúng cho nhiều hơn nữa. Nói rồi, sai quân dọn yến tiệc đãi Phổ Phong. Phổ Phong ngồi uống rượu đắc chí rung đùi nói: - Chẳng phải tôi dám khoe miệng chứ thật ra lũ Nam man ấy tôi coi cũng như cá nhốt trong rọ rồi, tôi muốn bắt, muốn giết lúc nào chẳng được. Để tôi làm cho chúng nó táng đởm kinh hồn, bó tay chịu hàng cho Điện hạ xem. Ngột Truật mừng rỡ vô cùng, đêm đó ăn uống say vùi với Phổ Phong cho đến quá nửa đêm mới mãn tiệc. Nói về bên dinh Tống, chư tướng bại trận chạy về, Hà Phụng nằm trên giường bất động, còn Ngưu Thông rên la inh ỏi. Nhạc Lôi lo lắng không yên. Bỗng thấy quân sĩ chạy vào bẩm báo: - Ngưu lão tướng quân đã về tới rồi. Nhạc Lôi bước ra đón vào, nói: - Cháu mừng cho chú hôm nay đã lập dược công lớn, song bữa nay Ngưu Thông ra trận bị Phiên tăng nó dùng yêu pháp đả thương bệnh tình rất nguy cấp, chú hãy đi thẳng ra phía sau dinh thăm luôn thể. Ngưu Cao nghe nói vội bước theo Nhạc Lôi đi thẳng ra sau dinh, thấy Ngưu 'Thông đang rên xiết, còn Hà Phụng nằm trên giường bất tỉnh. Ngưu Cao thúc quân đem nước đến rồi cứ theo lời của Bảo Phương lão tổ cho hai người uống thuốc. Chỉ trong khoảnh khắc, cả hai đều bình phục như xưa. Hà Phụng mở mắt ra thấy Ngưu Cao cứu mình, bèn sụp lạy tạ ơn. Nhạc Lôi đến hỏi Ngưu Cao: - Tại sao chú lai có thuốc tiên hay đến thế? Ngưu Cao đem hết việc gặp Bảo Phương lão tổ cho thuốc thuật lại một hồi. Nhạc Lôi mừng rỡ tạ ơn trời đất phù hộ. Còn Ngưu Thông và Hà Phụng cùng nghiến răng nói: - Mang ơn Bảo Phương lão tổ cho thuốc tiên chúng ta mới sống lại được. Ngày mai quyết đi bắt cho được lão trọc đầu ấy về ăn gan mới hả giận. Nhạc Lôi nói: - Hôm nay nhị vị tướng quân đã mệt nhọc hãy tạm nghỉ vài ngày, vì tên Phiên tăng ấy quá lợi hại, không nên khinh thường, hãy treo miễn chiến bài vài hôm để lo kế rồi sẽ xuất quân mới được. Ngưu Cao cười gằn, nói: - Trước kia chú theo cha cháu hễ quân Phiên gặp mặt là vỡ vật kinh hồn, hôm nay chúng bay ra làm tướng, hễ rục rịch một chút là treo miễn chiến bài, thiệt xấu hổ quá! Thôi, để mai Ngưu Thông với mấy anh em ra trận, chú sẽ theo sau yểm trận cho. Chú sẽ bắt thằng trọc ấy về đây cho cháu xem. Nhạc Lôi không dám cãi Ngưu Cao nhưng trong lòng rất lo ngại, chàng nói: - Thôi để ngày mai thương nghị lại đã. Sáng hôm sau Nhạc Lôi thăng trướng sớm lắm, chư tướng vừa tề tựu đủ mặt, bỗng có quân chạy vào báo: - Hôm nay Phiên tăng lại đến khiêu chiến nữa. Ngưu Thông và Hà Phụng lửa giận sôi lên sùng sục, sắc mặt hầm hầm xin phép ra binh lập tức, Nhạc Lôi ý muốn khuyên can, Gia Cát Cẩm bước ra nói: - Nguyên soái cứ để cho họ xuất trận, nhưng phải có Ngưu lão Tướng quân theo yểm trận thì chắc là nắm phần thắng trong tay. Nhạc Lôi y lời nhưng căn dặn: - Vậy thì năm vị tướng quân hãy hết lòng cẩn thận, còn Ngưu thúc phụ chịu phiền theo yểm trận một phen. Năm tướng vâng lệnh giục ngựa xông ra, Ngưu Cao dẫn binh theo sau. Ngưu Thông vừa trông thấy Phổ Phong chẳng nói rằng chi cả, cứ việc vung đao chém bổ tới Hà Phụng cũng hét lên một tiếng rung trời chuyển đất chỉ vào mặt Phổ Phong mắng lớn: - Thằng trọc này dám có gan dùng yêu pháp hại ta, hôm nay ta đố mi chạy đi đâu cho khỏi? Vừa nói, vừa múa song tiễn sáp tới đánh túi bụi, Thang Anh, Dư Lôi và Kiết Thành Lượng cũng vung binh khí xông vào đánh tới tấp. Phổ Phong biết thế không xong liền nhanh tay rút viên "hỗn nguyên châu" ra giơ lên cao, nạt: - Loài Nam man hãy coi chừng bửu bối của ta đây. Vừa nói, vừa liệng lên không trung, năm người còn ngơ ngác chưa biết đối phó bằng cách nào, Ngưu Cao đứng sau trận trông thấy hạt châu ấy tỏa ra một luồng hắc khí bay quyện lên không trung, nghĩ thầm: "Thôi để ta sử dụng "xuyên vân tiễn" xem sao." Ngưu Cao lấy mũi tên phóng tôi, tức thì luồng hắc khí tiêu tan mất hết, viên "hỗn nguyên châu" rớt bịch xuống đất như một hòn sỏi rơi. Ngưu Cao trông thấy nhảy xuống ngựa nhặt trái bửu bối ấy nhảy lên ngựa kêu Phổ Phong nói: - Thằng trọc kia, hãy đỡ bửu bối đây này. Nói rồi, Ngưu Cao bắt chước ném hỗn nguyên châu lên không trung chằng dè hỗn nguyên châu ấy đã bị xuyên vân tiễn của mình bắn thủng rồi không còn linh nghiệm nữa. Phổ Phong giơ tay tiếp lấy vừa muốn quăng lên nữa, ngờ đâu Dư Lôi lẹ tay nhảy tới đâm một thương nhằm trúng vai, lão ta nhào lăn xuống đất. Ngưu Thông nhảy tới toan bồi thêm một đao đế kết liễu mạng sống song Phổ Phong đã hóa ra đạo Kim phong biến mất. Bọn Ngưu Thông đắc thắng đánh trống trở về dinh báo công. Nói về Phổ Phong thoát chạy về dinh, lấy linh đơn ra xức chỗ bị thương, trong giây phút bình phục như xưa, vào trướng ra mắt Ngột Truật nói: - Hôm nay tôi ra trận rủi bị Nam man nó phá phép bửu châu nên mới thất bại về đây. Ngột Truật thở dài nói: - Quốc sư mà không cự lại được chúng thì biết bao giờ mới thôn tính được Trung Nguyên? Phổ Phong cười đáp: - Tuy vậy, Chúa công chớ quá lo nội trong đêm nay tôi sẽ giết sạch lũ Nam man mới hả giận. Ngột Truật làm lạ hỏi: - Bọn Nam man hung dữ như vậy, Quốc sư làm cách nào giết chúng được? Phổ Phong giải thích. - Lúc tôi đi tu, thầy tôi có cho một món pháp bửu gồm năm ngàn lẻ tám con Đà Long, muốn lớn cũng được muốn nhỏ cũng được, tôi thu hết trong hồ lô này. Hễ thả ra là chúng bay đến ăn thịt uống máu địch quân không còn một đứa. Đối với mấy mươi vạn binh Tống tôi chỉ cần thả ra trong thời gian vài tiếng đồng hồ là nó ăn không còn một tên nào. Ngột Truật nghe nói, lòng vô cùng mừng rỡ, liền bảo tiểu Phiên dọn yến, hai người ăn uống với nhau đến chiều tối. Phổ Phong từ giã Ngột Truật trở về dinh mình, đặt hương án để hồ lô lên bàn, miệng đọc thần chú, rồi giở nút hồ lô ra truyền lệnh: - Bưu bối! Hãy bay lên. Dứt tiếng, trong hồ lô vù vù bay ra vô số Đà Long thẳng cánh bay lên không trung, mỗi con biến dài ra hơn mấy trượng mắt sáng ngời, miệng đỏ như chậu huyết, răng nhọn sắc như dao, hùng hổ bay qua dinh Tống. Tống quân xem thấy trên lừng trời hào quang tỏa ra muôn đạo sáng chói cả một vùng liền la ó bàn tán với nhau: - Không biết có phải quân Phiên lập kế cướp dinh chăng? Rồi đứa khác lại cãi. - Không phải đâu, quân Phiên sao lại biết bay lên trời? Thôi cứ việc phi báo rồi sẽ hay. Vừa nói vừa chạy vào trướng thưa: - Trên nửa lừng trời có vô số đèn lửa đang bay đến dinh ta, không biết là vật chi nên phải vào bẩm để Nguyên soái biết. Gia Cát Cẩm nghe báo hoảng hốt chạy ra xem, thoạt trông thấy đã thất kinh: - Cha chả! Không xong rồi, phải truyền cho đại tiểu tướng quân, lập tức đội trước làm sau đội sau làm trước lui lại cho mau, sẽ tránh tai nạn. Ba quân nghe lệnh, sợ hãi nhổ trại chạy ngay. Nhưng ngay lúc đó đạo binh sau đã thét vang dậy vì Đà Long đã bay đến bắt quân sĩ vừa hút máu vừa ăn thịt. Quân Tống hoảng hốt không còn có trật tự nữa, cùng xô nhau chạy thục mạng hơn sáu mươi dặm đường, mới dám dừng chân lại. Lúc bấy giờ đã đến canh năm. Bên kia Phổ Phong niệm chú thu hết Đà Long về. Đà Long rút lui, trời vừa sáng, Nhạc Lôi tra điểm binh mã, mới hay Tống quân bị mất hết một vạn tám ngàn. Ngưu Cao nói: - Vật chi mà lợi hại lắm vậy? Gia Cát Cẩm đáp: - Đó chính là Đà Long trận, chỉ vì tôi không dự liệu trước nên mới bị thất bại như thế này, tôi sẽ trả đũa lại bằng một kế mọn khác cho chúng biết tay. Nói rồi, sai quân sắm máu lợn, máu chó, củi khô, cỏ và đồ dẫn lửa cho nhiều, quân sĩ đều mặc áo xám, đeo cung tên cho sẵn sàng chờ lệnh rồi lại sai năm ngàn quân mã trở lại chỗ cũ đào một cái hầm rộng một trượng năm thước, bề sâu đến một trượng hai, dài hai mươi lăm trượng, suốt đêm phải làm cho xong. Quân Tống vâng lệnh xúm nhau làm, chẳng bao lâu công việc hoàn tất. Gia Cát Cẩm bèn sai quân đem hỏa pháo bố trí dưới hầm rồi đặt những hỏa lôi phục xung quanh, phía trên thì đặt nhiều củi và tưới máu lợn, máu chó lên trên, đoạn sai ba quân trở về chỗ cũ đóng dinh trại nguyên vẹn như trước. Ngoài ra, Gia Cát Cẩm còn bố trí một đội quân mai phục hai bên và trước dinh chờ cho Đà 'Long sa xuống hầm thì phát pháo lên làm hiệu, bốn phía hỏa tiễn bắn ra một lượt. Phân công và bố trí đâu đó xong xuôi, trời đã tối. Bên dinh Phiên, Quốc sư Phổ Phong dùng Đà Long trận giết chết một số lớn quân Tống lấy làm đắc chí, chờ cho trời tối cũng áp dụng thủ đoạn như đêm trước.' Phổ Phong cũng đặt bàn hương án lên niệm thần chú, giở nắp hồ lô ra, Đà Long bay ra vô số như ong bầy, kiến lũ thẳng đến dinh Tống để ăn thịt, uống máu, còn Phổ Phong thì cưỡi ngựa đi sau mà xem. Khi bầy Đà Long bay đến dinh Tống gần bên cái hầm ngửi mùi huyết tanh tanh liền nhào xuống hầm để uống huyết. Gia Cát Cẩm trông thấy rõ ràng, chờ cho Đà Long chui trọn xuống hầm rồi, cho nổ lên một pháo hiệu, tức thì ba ngàn binh phục đều dậy, hỏa tiễn cùng thuốc cháy bắn vãi ra, trong giây phút lửa dậy hừng trời, những hỏa lôi phục gặp lửa phát lên những tiếng nổ kinh thiên động.địa. Ngọn lửa mỗi lúc một bốc cháy cao, khói tỏa mịt trời. Phổ Phong thấy vậy vội đọc thần chú thu Đà Long về chẳng dè Đà Long bị máu lợn máu chó ô uế bay lên không nổi, trọn năm ngàn lẻ tám con Đà Long đều bị chết, Phổ Phong thoát chạy về dinh nhổ mấy mũi tên ra lấy thuốc thoa vào và nghĩ thầm: - "Đại bại như thế này, Đà Long cũng bị chết hết còn mặt mũi nào trông thấy Ngột Truật? Chi bằng về núi luyện phép lại rồi sẽ trở xuống báo thù’'. Đêm ấy Phổ Phong âm thầm trở về núi, không cho Ngột Truật biết.