Linh Dị Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư - Thiên Hạ Bá Xướng

  1. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,686
    Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư
    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng
    Chương 6: Hắc Sơn Đầu cổ mộ

    Dịch: Đặng Nam
    Nguồn: facebook.com/ma-thoi-den





    Xác sói lẫn chó hoang bỏ mạng chất thành từng đống, mùi máu tanh từ đấy phảng phất trong không khí khắp nông trường số 17 này, chính nó đã kích thích một bầy sói đói khác còn đông hơn cả bầy đầu tiên, đồng thời những con nhanh chân bỏ chạy lúc trước giờ cũng tập trung quay trở lại. Cũng may bọn chúng giờ vẫn loạn cào cào thành một đám, chưa có con nào đi ra cầm đầu cả, tranh nhau cướp đoạt từng cái xác không kể là sói hay chó hoang moi ra từ trong tuyết, nhân lúc thịt còn tươi, máu vẫn còn nóng chưa đông lại thành băng mà điên cuồng cắn xé, còn bất chấp muốn nhào tới ăn thịt nốt đám người sống chúng tôi. Con hồ ly già mới chạy trốn chưa được bao lâu, liền bị bầy sói mới tập hợp lại kia ngăn cản đường đi, không còn cách nào khác đành cong đuôi quay trở lại nông trường. Bốn người chúng tôi mỗi người trong tay cầm theo một bó củi khô, thấy cảnh tượng này bất giác liền vung tay vứt bỏ hết, quay người co giò bỏ chạy, chỉ còn mỗi Tuyền béo vẫn ôm khư khư bó củi, khẩu súng trường hết đạn thì đeo trên lưng, mà kể cả có còn đạn đi nữa thì cũng chịu chết, vì cò súng đã sớm đông cứng rồi! Bầy sói một khi nhào lên, làm sao có thể ngăn cản được chứ?

    Lại nói đến con hồ ly già kia, trên cổ nó một vệt máu đỏ thắm đang chảy dài, có khả năng là trên đường bỏ trốn đã bị con sói nào đó cắn một phát, đến khi chạy tới được trước mặt chúng tôi, nhìn thấy bên này cũng toàn sói là sói, nó liền lập tức quay đầu lại chui tọt vào một cái địa câu. Rời khỏi địa oa tử của nông trường số 17, đi về phía trước không xa lắm, ở giữa hoang nguyên có một cái địa câu do anh em trong binh đoàn nông khẩn và trấn thủ chúng tôi hồi trước đào ra, bề rộng chừng một mét, sâu tầm hai hay ba mét gì đấy tôi cũng không nhớ rõ lắm, dùng để thoát nước mỗi mùa lũ. Nếu như có thể chui xuống địa câu, có lẽ sẽ tránh được bão tuyết điên cuồng ngoài kia, bất quá không thể nào mà ngăn cản được bầy sói hung dữ đến từ vùng Siberia giá lạnh này. Nhưng chúng tôi cũng không có thời gian để suy nghĩ nhiều như vậy, vừa thấy con hồ ly kia chui xuống, mấy người cũng liền lăn một vòng vào địa câu, mở đèn pin lên soi đường, lao đảo bám theo phía sau nó, thất tha thất thểu cứ thế đi về phía trước không dám dừng một bước nào. Con hồ ly già tựa hồ như đang đợi chúng tôi vậy, thỉnh thoảng lại xoay đầu lại nhìn như kiểu xem xem chúng tôi có đi lạc hay không. Trong lòng tôi khẽ động: “Dẫu sao từ trước đến giờ nó đều coi mấy người trong nông trường là tử địch, lẽ nào giờ lại tốt bụng dẫn theo mọi người tìm đường thoát thân?”

    Binh đoàn chúng tôi chỉ đào có duy nhất một cái địa câu để thoát nước, nhưng hai bên lại có rất nhiều hạn câu, nông sâu không hề giống nhau, thế đi cũng không theo quy tắc nào cả. Con hồ ly đi đằng trước, ba bước lại chuyển một phát, hai vòng lại lượn một cái, chạy vào một cái hạn câu, lại chui đầu tiếp vào một cái hang đất. Tôi quả thực không đoán ra được ý đồ của nó, trong lòng do dự một hồi, không dám tùy tiện theo vào, nhưng liền phát hiện từng cặp mắt xanh lét thoắt ẩn thoắt hiện trong bão tuyết ngày một nhiều lên, bầy sói Siberia đã vây lại gần.

    Tuyền béo ném bó củi khô vẫn ôm trong tay nãy giờ quăng xuống đất, tháo bỏ khẩu súng trường bán tự động đeo trên lưng, mở cái lưỡi lê lá lúa sáng lấp lánh ở đầu họng súng ra. Cậu ta bảo Tiêm Quả và Lục Quân cầm đèn pin cỡ lớn chiếu lên phía trên đỉnh địa câu, chỉ cần có con sói nào thò đầu ra, hắn sẽ đâm mạnh lưỡi lê lên, xiên chết từng con một, chết một con là bớt đi một mối nguy hiểm.

    Hai người Tiêm Quả và Lục Quân nghe theo lời Tuyền béo sắp xếp, chia nhau bật đèn pin công suất lớn, loại mà phải xài đến những 8 pin mới hoạt động được, hướng lên phía trên mà soi, chùm ánh sáng vừa vọt ra khỏi bóng đèn, liều chiếu thẳng vào một đầu ác lang, một đôi mắt sói hung tợn dưới ánh sáng của đèn pin, loé lên lục quang loá mắt. Sói xám Siberia cũng rất sợ ánh sáng mạnh, nó vừa bị luồng ánh sáng đèn pin chiếu đến, không đợi Tuyền béo dùng lưỡi lê đâm lên, đã lập tức rụt đầu lại lui ra xa. Bão tuyết đã nối liền mọi thứ lại với nhau thành một mảnh hỗn độn, rất khó phân biệt đâu là bầu trời và đâu là mặt đất, chúng tôi núp tạm ở trong địa câu, dù không bị lạnh chết thì thể nào cũng sẽ bị tuyết chôn kín mà thôi, lại thấy bầy sói vẫn không ngừng tiến tới gần, không còn cách nào khác chỉ đành cắn răng, hạ quyết tâm, đi theo con hồ ly già, chui thẳng vào hang đất. Không gian bên trong vô cùng chật hẹp, nhưng lại sâu hun hút, một nhóm bốn người chúng tôi xếp thành một hàng dọc, bò lổm ngổm về phía trước như mấy con sâu đo. Tôi lãnh trách nhiệm bọc hậu, đi ở sau cùng, mới bò được vài mét liền quay đầu lại kiểm tra thử, hình như có chó sói đi theo vào thì phải. Loài sói một khi đã đói đến cực hạn thì rất liều, có thể chui hang chui hốc chẳng khác gì mấy con chó bình thường cả. Tôi rất sợ sẽ bị con sói nào đấy bất ngờ đớp phựt lấy hai chân sau, ở nơi chật hẹp như này, rất khó quay người lại để đối phó với bọn chúng được. Bất quá ngay khi chúng tôi đã đi được chừng hai, ba trăm mét gì đấy, tầng đất phía sau liền sụp xuống, ngăn chặn con đường trở về của chúng tôi, đồng thời ngăn được cả bầy sói bám theo. Tôi âm thầm vui mừng, cố gắng kìm chế sự bất an do không gian chật chội này gây ra, tiếp tục bò về phía trước, sau đó tiến vào một cái khe nứt cỡ người chui vừa ở trên tường.

    Đường lui đã tuyệt, bốn người chúng tôi buộc phải mò mẫm trong bóng tối, cảm giác đã đi được khá xa rồi, khe thạch nham này thẳng tuột, vừa dài lại vừa hẹp, dường như không có điểm cuối vậy, đại khái theo hướng vào ban đầu của chúng tôi mà phán đoán, cái khe nứt này khả năng cao là thông đến Hắc Sơn Đầu ở dãy Đại Hưng An Lĩnh, tại sao con hồ ly kia lại dẫn chúng tôi đến chỗ đấy? Cả bốn người toàn thân xước xát, da dẻ nứt toác, đèn pin cầm tay cũng yếu dần, cường độ sáng không còn được như ban đầu, Lục Quân quả thực không nhúc nhích nổi nữa rồi, nằm im trên đất như một con chó chết, chúng tôi muốn mở miệng nói mấy lời khích lệ hắn tiếp tục bước tiếp, nhưng mà có nói thế nào đi nữa hắn cũng đều không chịu nhổm dậy, không còn cách nào khác, tôi cùng Tuyền béo đành phải xốc nách lôi hắn theo, để cho Tiêm Quả đi đầu tiên cầm đèn soi đường, mọi người cố lết từng bước, từng bước một. Thật vất vả lắm mới bò đến một nơi rộng rãi hơn rất nhiều, chỉ thấy từng khối loạn thạch bày la liệt, rêu xanh bám đầy, chỗ sâu bên trong còn có mây mù lượn lờ, nếu nói đây là một cái động hồ ly, thì con mẹ nó chứ, rộng quá đi mất thôi!

    Bốn người vừa chạy thoát thân đến đây, đều mệt đến rã rời chân tay, thở không ra hơi, nói cũng không nên lời, không hẹn mà cùng ngồi bệt xuống đất. Tôi đầu óc thần trí mơ mơ màng màng, tứ chi vô lực, cố chà chà hai bàn tay đang run cầm cập lạnh cóng và đôi chân tê dại cứng như gỗ, thuận thế dựa lưng vào một khối loạn thạch mà ngồi, cảm thấy trên người toàn thân phát lạnh, các vết rách trên mặt lẫn hai tay phát ra từng cơn đau vừa buốt vừa nhức, chỉ muốn chết quách cho xong, miệng khô môi nẻ, đèn pin ném ở một bên, khắp nơi chìm vào bóng tối, có mở hay nhắm mắt cũng như nhau mà thôi.

    Tôi thở hổn hển mất một hồi mới dần bình tĩnh lại, đưa tay sang bên cạnh định tìm cái đèn pin, nhưng thế quái nào lại sờ trúng một ai đó, từ bàn tay truyền đến một loạt cảm giác kì lạ, không những người này toàn thân lạnh như băng mà còn cứng ngắc nữa, không phải Tuyền béo, không phải Tiêm Quả, cũng đếch phải Lục Quân nốt, không hiểu rốt cuộc lại thò đâu ra thêm một người nữa? Tôi lập tức cả kinh, cơn buồn ngủ theo đó cũng chợt biến mất, chân tay cuống hết cả lên, vội vàng móc trong người ra hộp diêm, quẹt lấy một que. Dưới ánh sáng yếu ớt do que diêm tạo ra, liền phát hiện người tôi vừa sờ trúng hóa ra là một xác chết, bị che phủ bởi một tầng bụi đất rất dày, y phục mặc trên người màu xanh, đầu đội một chiếc mũ nhỏ, bên người mang theo một cây dù đen, khoác một chiếc túi da, da thịt đã thâm đen hết, khuôn mặt khô khốc, chẳng thể nhìn rõ mặt mũi ra sao nữa rồi. Bên cạnh cái thây khô có một chiếc xẻng cắm ở phập vào đất, lưỡi xẻng giống như một cái mỏ vịt, phần chuôi thì tạo hình long trảo, ước chừng rất vừa tay, được chế tạo từ ô kim, hình dáng rất là hiếm thấy. Tôi ngắm đến độ nhập thần, bất giác que diêm đã cháy gần hết, khiến tôi phải co rụt tay lại vì bỏng, không gian trước mắt lại chìm vào một mảnh đen nhánh.

    Ở khu vực Đại Hưng An Lĩnh này đám thợ săn thường truyền tai nhau mấy câu, nói là “Tuyết rơi chớ chui hang, mưa xuống đừng dẫm cỏ”. Ý là sau khi có tuyết rơi, chớ có dại mà chui vào hang vào hốc linh tinh, bởi vì nói không chừng sẽ đụng phải mấy con gấu đang ngủ đông trong đấy, để nó tợp cho một cái thì thôi xác định ngày này năm sau chính là ngày giỗ. Còn khi nào trời vừa trải qua mấy ngày nóng bức, bỗng đổ xuống một trận mưa to, đừng có đi vào chỗ nào có bụi cỏ rậm rạp, một khi bị rắn đất cắn vào da, chưa đi được quá năm bước là đã gục ngay tại chỗ. Cái vị đang “nằm” ở đây, hơn phân nửa là bị rắn cắn, da thịt đều biến thành màu đen, kể cả có ném ở giữa rừng thì cũng không loài dã thú nào dám động đến cả, liền biến thành thây khô.

    Tôi vô cùng kinh hãi, vội vàng mò tìm cây đèn pin, lấy pin mới thay vào, rồi lập tức bật lên. Tuyền béo và Lục Quân thấy cảnh tượng hiện lên trước mắt, cả hai đều kinh ngạc và sợ hãi giống y như tôi vậy. Tiêm Quả thì trốn ra sau lưng tôi, nhắm tịt mắt không dám nhìn cỗ xác chết kia. Tuyền béo gan lớn, liền đã bình tĩnh trở lại, không thèm đếm xỉa gì cả, đi lên nhặt lấy cây xẻng, nhìn tới nhìn lui, tấm tắc khen ngợi, hắn lớn đến chừng này tuổi rồi mà vẫn chưa từng thấy qua cây xẻng nào như thế này cả, kích cỡ tương tự với xẻng công binh bọn tôi hay dùng, nhưng lại không giống với đồ vật thời cận đại, lưỡi xẻng vô cùng sắc bén, vứt ở trong hang động có lẽ cũng đã được nhiều năm mà sao không có lấy một vết rỉ sét, đầu xẻng lại chế tạo hình mỏ vịt, như vậy thì dùng kiểu gì nhỉ? Tôi nghe ông nội từng nói qua, cái này gọi là xẻng mỏ vịt, thời đấy, chỉ có chuột đất chuyên trộm mộ mới sử dụng loại xẻng hình dạng như này, chiếc dù đặt bên cạnh có lẽ nào là “Âm Dương Ô”? Vậy vị tiền bối bỏ mạng nơi này…. là một tên chuột đất sao????

    Lúc mới chui vào đây, bốn người chúng tôi ai nấy đều là vừa đói vừa mệt, đèn pin cầm tay lại gần hết pin, chỉ phát ra được luồng ánh sáng yếu ớt, nên chưa có kịp nhìn rõ, còn bây giờ nhìn kĩ lại một lượt, vách động bốn phía đều bị bùn đất che kín, nhưng rất chỉnh tề chứ không phải kiểu tuỳ tiện, tựa hồ như đang ở trong một cái hang đá, đưa tay lau đi vết bùn đất trên tường, quả nhiên thấy từng tấm bích hoạt rực rỡ hiện lên. Mọi người lúc này mới nhận ra, con hồ ly già đã dẫn chúng ta tiến vào một ngôi cổ mộ! Tay chuột đất định đào hang chui xuống trộm bảo đã bỏ mạng ở đây, nhưng không thấy tung tích con hồ ly kia đâu. Tôi nhặt cái túi da trên người thây khô, mở ra xem thử, bên trong có mấy cây đuốc, hai cây nến, một cái chén chu sa, một cây dùi, cùng một đoạn dây thừng. Tuyền béo móc trong ngực thây khô ra được một vòng ngọc câu trong suốt như thuỷ tinh, lại giống y đúc với vòng ngọc mà tổ phụ trước kia để lại cho tôi, ngoài ra còn có một cái đinh cũ rích màu đen thường dùng để đóng quan tài, vài đồng tiền xu. Tuyền béo bèn lấy một cây nến ra đốt, đặt dưới ánh nến soi thử, có thể thấy trên mặt đồng xu có khắc hai chữ “Khang Đức” cùng số năm. Hẳn là tiền của Nguỵ Mãn Châu Quốc trước kia, suy ra lão chuột đất này đã chết ở đây không dưới mấy chục năm, không ngờ nơi hồ ly dẫn chúng tôi tới lại là một ngôi cổ mộ, bên trong còn có thi thể của một tên trộm.

    Tôi để cho Tuyền béo cầm lấy mấy thứ này, Âm Dương Ô cùng xẻng mỏ vịt cũng mang theo, sau này có lẽ sẽ còn phải dùng tới chúng. Tuyền béo nói với tôi: “Anh em mình đến khu nông trường này cũng được gần 1 năm rồi, nhưng chưa từng thấy xung quanh có ngôi mộ cổ nào nhỉ?”

    Tôi đáp: “Chỗ này là nơi tiếp giáp của hoang nguyên và dãy Đại Hưng An Lĩnh, người xưa gọi là Hắc Sơn Đầu, hổ phục rồng lượn, hình thế nơi này này không hề tầm thường, không có cổ mộ mới là chuyện lạ đấy, chỉ bất quá táng người — cũng chính là giấu người, người chết chôn sâu dưới đất, mục đích là để cho kẻ khác không tìm thấy được, cậu ở bên trên tất nhiên phát hiện thế chó nào được!”

    Tuy nói như thế, nhưng cũng chẳng có ai rảnh mà đi săm soi cặn kẽ bên trong ngôi cổ mộ này ra sao, vẫn là xử lí mấy cái vết thương quan trọng hơn. Mặt mũi chân tay cả bốn người chi chít toàn là vết thương, nặn ra be bét nước vàng, nước vàng chảy ra hết lại đến nước trong, phải nặn đến khi nào ra được máu tươi thì mới được.

    Bất quá chúng tôi ở binh đoàn nông khẩn và trấn thủ Bắc Đại Hoang, lúc đi tham gia sản xuất, trên người cũng chẳng thiếu vết thương nhưng tuyệt không ai mở miệng kêu khổ cả, trong binh đoàn có một câu như này “Một năm phân bốn mùa, có mùa nào không khổ”, tại sao lại nói như thế? Bởi vì thế này, khi xuân vừa mới đến, băng hãy còn chưa kịp tan hết, tầng đất dưới chân toàn là băng vụn, một cuốc bổ xuống, chả khác gì bổ vào sắt cứng, đào bới nguyên một ngày trời có thể khiến người ta mệt đến chết luôn, lại nhìn đôi tay này, cổ tay rạn nứt, xoè bàn tay ra chỉ thấy vết phồng rộp với vết máu bầm; rồi đến thời tháng phục thiên, tháng nóng nhất trong cả mùa hè, mưa đổ như trút nước suốt mấy ngày, nước ngập đến đầu gối vẫn còng lưng mà đào từng khối đất, đến tối về cởi giày ra xem, thật có thể nói là da thịt nát bét; mùa thu thì lại là mùa của thảo trùng, nhất là đám muỗi vằn sống trong cỏ rất thích hút máu người, toàn cắn vào những chỗ hiểm, từng bầy muỗi bay kín trời bay vọt tới, có muốn trốn cũng chẳng có chỗ nào mà chui vào được, mọi người đều sợ bị muỗi vằn cắn, càng sợ sẽ bị nhiễm bệnh sốt rét, số người đã chết vì bệnh này không ít, chỉ có mỗi cách cầm hương vòng hun muỗi. Muỗi vằn rất kị hương vòng, bị hun liên tục mấy ngày liền bỏ đi, người trong binh đoàn thế nhưng cũng bị hun đến cay xè cả hai mắt. Đợi đến khi hàn phong bắt đầu thổi tới, phải trốn trong địa oa tử chịu đói chịu rét qua ngày sớm đã quen như cơm bữa, kể cả mấy chuyện kiểu bị nhiễm lạnh, chân tay hoại tử, chỉ còn nước cắt cụt thành người khuyết tật cũng không phải là không có.

    Chúng tôi mấy người sống ở Bắc Đại Hoang đã được gần một năm, nếm qua không ít khổ cực, thế nhưng chưa lần nào gặp phải một trận lang tai (Trans: Tai họa do sói gây ra) quy mô lớn như này, kinh nghiệm đối phó tất nhiên là không có mấy, chẳng biết đến bao giờ bầy sói mới rút đi nữa; lại lo lắng chuyện kho rơm bị thiêu rụi, xác sói lẫn chó hoang chết cũng đều đã bị bầy sói khác đến ăn sạch sành sanh. Đến khi bầy sói rút đi rồi, sau này thể nào cũng sẽ bị cấp trên gọi lên tra hỏi, ngươi nói là vừa xảy ra một trận lang tai, sợ rằng chẳng có ai tin cả! Hơn nữa địa oa tử lẫn nhà kho đều mất rồi, không còn nơi trú ẩn nữa, chỉ sợ sẽ chết trước vì giá rét!

    Tuyền béo giờ cái gì cũng mặc kệ, nói: “Sao mấy người các cậu đứa nào cũng như bị mưa đá rơi cho ung hết cả đầu thế? Đừng có cúi đầu ủ rũ mãi như thế, chẳng phải có một câu nói rất hay như này sao — đại nạn không chết ắt sau này sẽ có đại phúc. Tôi dám cá luôn chắc chắn trong ngôi cổ mộ này có bảo vật, anh em ta sắp đổi đời được rồi!”

    Lục Quân nghe Tuyền béo nói vậy, cũng vô cùng hưng phấn: “Cậu không nói thì tôi cũng quên mất không nghĩ tới, trước tôi có một thằng bạn đồng môn đi tham gia sản xuất ở trên núi, vô tình nhặt được một hóa thạch trứng khủng long, nộp lên cấp trên liền lập được đại công, còn được cho nghỉ phép về nhà thăm người thân tận nhưng hai mươi mấy ngày. Nếu như anh em mình lần này nhặt được vài món kim khí tùy táng, đợi đến lúc thoát ra được khỏi đây, đem lên cho sư bộ, không chỉ không bị truy cứu trách nhiệm vụ việc kia mà ngược lại còn trở thành người có công ý chứ, khéo được thăng lên làm bộ đội chính quy cũng nên, hí hí, thật không uổng công lăn lộn đến rách hết cả da như này!” Hắn mặc dù lá gan không lớn, nhưng không hề sợ xác chết này nọ trong mộ, thần là do người phong, quỷ là do người nói, thế gian nào ai đã thấy qua quỷ thần thực sự đâu? Người chết vì bị sói cắn từng thấy qua không ít, chết do bão tuyết giá lạnh cũng thấy nốt rồi, còn mỗi chết vì bị quỷ thần dọa là chưa thấy bao giờ thôi.

    Vừa nói đến lập công phong thưởng, lại còn có cơ hội được đứng vào hàng ngũ quân chính quy, ngay cả Tiêm Quả cũng không thấy sợ nữa. Bốn người liền quyết định chủ ý, cởi bỏ tấm ác khoác da vừa dầy vừa nặng trên người xuống, cuộn lại thành bó đeo tạm sau lưng. Dù sao cũng là bước đi trong cổ mộ, miệng thì nói chẳng sợ gì cả, nhưng thực ra trong lòng ai cũng đều lo lắng, súng trường của Tuyền béo thì sớm đã hết đạn, vừa vào trong này liền vứt bỏ luôn cho đỡ vướng tay, giờ đành cầm cái xẻng kia làm vũ khí. Tôi có một thanh đoản đao, còn Lục Quân thì có một cái bồ cào cầm theo từ lúc chạy khỏi nhà kho đến tận bây giờ, mọi người đều có vật phòng thân trong tay, dũng khí tăng lên không ít. Tiêm Quả bật cây đèn pin công suất lớn lên, phụ trách việc chiếu sáng cho chúng tôi. Cây đèn pin công suất lớn được binh đoàn trang bị cho này mặc dù nghe thì hết sức dọa người, nhưng thực ra tầm chiếu sáng chẳng xa hơn mấy loại thường là bao nhiêu, nhất là ở trong cái hang tối mịt như này, hơn nữa lượng điện tiêu hao rất lớn, sử dụng được chừng hơn mười phút là sẽ tối dần, thời khắc mấu chốt căn bản không thể trông cậy vào nó được. Nghĩ đến đây tôi đành lôi một cây đuốc vừa lấy được lúc trước ra đốt lên, lần mò bước đi trong không gian âm u nơi cổ mộ.

    Mọi người cẩn thận phân biệt, nơi mà chúng tôi đang đứng, tựa hồ là một đoạn nứt gãy khiến tầng đất phía trên cổ mộ sụp xuống, trên Đại Hưng An Lĩnh có nhiều chỗ đứt gãy như thế này, thường xuyên xảy ra chuyện một phần thân núi bị sạt xuống. Chúng tôi cùng con hồ ly già kia một trước một sau, từ trên đỉnh mộ thất đi vòng xuống, trước sau lẫn hai bên trái phải, mỗi hướng có một tòa môn động hình vòng cung, tất cả đều dùng đá tảng xây nên, gạch âm phía trên khắc hoa văn bảo tương hoa, hình dáng cơ hồ đồng nhất với nhau. Mỗi cánh cửa đều bị đất đá rơi xuống chôn vùi hơn một nửa động khẩu, phải bò sát sàn sạt như dính cả người xuống đất mới có thể chui vừa. Tuyền béo nhận lấy cây đuốc tôi đưa cho, lần lượt đi đến ngó thử vào bên trong nhìn qua một lần, tất cả đều tối như hũ nút, sâu không thấy điểm cuối. Hắn hỏi chúng tôi giờ muốn chui vào cái nào đây, tôi liền chỉ tay vào cái cổng vòng bằng đá ngay chính giữa, nói: “Hẳn là nên đi bên này!”

    Tuyền béo lại hỏi: “Tại sao không đi bên này? Người xưa chẳng phải là rất mê tín cho rằng người chết rồi sẽ bay đến miền Tây Thiên cực lạc sao? Chủ nhân ngôi mộ này chắc chắn đang nằm ngáy khò khò ở phía Tây rồi!”

    Lục Quân vội vàng xua tay nói: “Không đúng! Nghe nói người cổ đại rất coi trọng âm dương trạch, dương trạch là dạng gì, âm trạch cũng là dạng gì? Các cậu chưa từng nghe câu ngồi phía Bắc mà ngoảnh mặt về phía Nam à? Cửa Bắc chính là đại diện cho thượng thủ, cho nên hơn phân nửa là ở phía Bắc rồi!”

    Tôi quay qua hỏi hai bọn hắn: “Các cậu bây giờ vẫn phân biệt được Đông Tây Nam Bắc nằm ở đâu à?”

    Tuyền béo lắc đầu một cái, nhưng lại nêu ra một phương pháp của hắn: “Có cái quái gì ghê gớm đâu, bây giờ cứ lần lượt đi vào từng cái một, xem xem bên trong có đồ vật gì hay ho không là xong.”

    Lục Quân nói: “Không thể tùy tiện đi loạn được, tương truyền trong cổ mộ thường bố trí cơ quan ám tiễn lẫn hỏa phục, cát chảy các thứ, tất cả đều là thứ có thể lấy được mạng người như chơi đấy!”
    Tôi nói: “Đây là một tòa cổ mộ thời Liêu, đã tồn tại không dưới ngàn năm đâu, lại bị đào ra một cái đạo động, khả năng lớn là không cần lo lắng vấn đề hỏa phục.”

    Tuyền béo không tin, hắn nói: “Từ lúc chui vào có thấy chữ Liêu mẹ nào đâu, làm sao có thể vừa thấy phát liền nói đây là tòa cổ mộ thời Liêu được chứ?”

    Tôi lấy tay chỉ một cái, nói: “Cậu không thấy gạch âm khắc hoa văn bảo tương hoa trên kia à? Đó là một loại đồ án hoa cảnh vẽ về một loài hoa có nhiều tầng cánh, nhìn tổng thể sẽ thấy rất giống với một đóa hoa sen cánh chụm, hoa tâm được phác ra tựa như những đám mây bay. Nghe nói trên đời không hề có loài hoa này, mà là được sinh ra từ trong kinh phật, đứng đầu trong hai mươi tư loại phật hoa, quang minh tỏa ra khắp vạn trượng, chiếu rọi thập phương thế giới, sách cổ gọi là bảo tương hoa. Đến triều đại nhà Liêu, đồ án bảo tương hoa mới được dùng để khắc lên trên gạch mộ. Đấy là điểm thứ nhất, còn về điểm thứ hai, mộ cổ thời Liêu đa phần là được xây dựng trong các khe núi hình móng ngựa, cách cục ngồi Bắc ngoảnh Nam, mộ thất chủ đạo thường nằm ở chính giữa, hai bên làm thành hai phòng chứa đồ bồi táng gọi là nhĩ thất, tuy nhiên những điều này đều không quan trọng, cho dù không phân rõ được Đông Tây Nam Bắc, chúng ta vẫn nên đi bên này là hơn, vì sao? Các cậu mở to mắt ra mà nhìn kĩ xem, bên này có vết máu hồ ly lưu lại!”

    Mọi người liền giơ đèn pin và đuốc lên soi gần hơn, vết máu kia hãy còn chưa khô hẳn, loang loang lổ lổ, kéo dài nguyên một đường thẳng đến toà môn động kia. Con hồ ly trong lúc chạy trốn gặp phải bầy sói Siberia, liền bị cắn một phát vào cổ, lại dẫn chúng tôi trốn vào tít trong này, xem ra mất không ít máu, không biết nó còn sống được không? Chúng tôi đều rất lo lắng cho nó, nói thế nào đi nữa thì cũng là đã từng đồng sinh cộng tử với nhau một trận, nếu như không có nó dẫn đường, chúng tôi sớm đã thành bữa tối cho bầy sói hung ác. Lập tức cúi thấp người xuống, đẩy ngọn đuốc lên đằng trước để mở đường, lần lượt nối đuôi nhau chui vào động môn hình vòng cung, bên trong là một toà cổ mộ thật sự là rất lớn, hai bên nhĩ thất đặt đầy những loại đồ vật hết sức lạ mắt, bốn ngọn nến mỡ người được bày ở bốn góc mộ. Chính giữa mộ không hề có cái quan quách nào cả, cũng chẳng có thi sàng. Tôi nhớ hình như trong cuốn bí thuật “Lượng Kim Xích” có ghi chép vài thông tin liên quan đến thứ này, mộ táng của quý tộc nhà Liêu thường bắt chước kiểu cách nhà Đường, bất quá có một bộ phận không có quan quách, chỉ dùng quan sàng để đặt thi thể lên, cái gọi là “quan sàng”, còn có tên khác là “thi sàng”, chẳng qua chỉ là một cái thạch đài được khắc rồng vẽ phượng, tuy nhiên yêu cầu về thạch đài này cũng khá là cao. Tử thi được đổ đầy thủy ngân, trải qua mấy trăm nghìn năm cũng sẽ không bị hủ bại quá mức, lại lấy vàng lá dát lên mặt, đồng thời quấn trong y phục chế tác bằng vàng xanh, đặt lên trên giường, một là ngửa mặt hướng lên trên, hai là ngả đầu sang một bên tựa như đang thư giãn nằm ngủ. Ngôi mộ thời Liêu này, không biết dùng để chôn cất người nào, không thấy quan quách cũng chẳng thấy thi sàng. Trong mộ thất có một bộ bạch cốt trông rất cô tịch, nhưng không phải xương người, mà là hài cốt hồ ly, đối diện với nó có mộ bức hoạ bích khổng lồ, trên đấy vẽ một con cửu vỹ hồ ly đang cưỡi mây đạp gió!

    Tầng dưới cùng của bức bích hoạ được quét bằng một lớp bùn bạch cao, niên đại mặc dù xem chừng đã khá lâu đời, nhưng vẫn nhìn ra được bức vẽ vô cùng to lớn kia, ánh sáng bập bùng của ngọn đuốc cũng không thể nào chiếu hết được. Chúng tôi liền bị nó thu hút, truyền thuyết về hồ tiên hồ quái thì đã sớm được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, tới tận thể kỉ 20 này, chúng tôi cũng từng được nghe kể không ít lần. Hồ ly nếu như đằng sau mọc ra chín cái đuôi, gọi là “cửu vỹ yêu hồ”. Theo như truyền thuyết mê tín trong liêu trai chí dị thì có năm thông thần, dân gian xếp thành ngũ đại tính là: “Hồ, Kim, Bạch, Liễu Khôi”, đứng đầu là Cổ Nguyệt Hồ, cũng chính là hồ ly. Tương truyền hồ ly thông linh, có thể thôn vào thổ ra thiên địa linh khí, thu nạp tinh hoa của nhật nguyệt, cứ sống qua được một trăm năm là hồ ly sẽ mọc ra thêm một chiếc đuôi nữa, phải sống đến hơn chín trăm năm, mới mọc đủ chín chiếc, bắt đầu từ đây có thể biến hình thành loài người. Trong đầu tôi không ngừng tuôn ra một ý niệm mạnh mẽ không kìm lại được, mộ chủ phải chăng là Tô Đát Kỷ (Trans: Vợ của Trụ Vương, thời nhà Thương bên Trung Quốc) sao? Bởi vì trong “Phong thần diễn nghĩa” có viết một đoạn như này “Trụ Vương vô đạo sủng Đát Kỷ”, giang sơn xã tắc vì ả mà lâm vào cảnh loạn lạc liên miên, có người nói Đát Kỷ chính là do một con cửu vỹ yêu hồ trong mộ Hiên Viên biến thành. Nhưng mà nghĩ kĩ lại một chút, đây là một ngôi cổ mộ thời nhà Liêu, làm sao lại có thể là nơi chôn cất Tô Đát Kỷ được chứ? Không biết vị chủ nhân được chôn trong ngôi cổ mộ này có lai lịch như thế nào, tại sao bên trong lại có bức bích hoạ hồ ly chín đuôi khổng lồ như vậy?

    Con hồ ly già vừa là kẻ địch vừa là đồng minh kia bị bầy sói cắn trọng thương, toàn thân trên dưới loang lổ vết máu, nằm im không nhúc nhích trước bức bích hoạ, mãi cho đến khi chúng tôi đi vào, nó mới uể oải mở mắt ra nhìn. Dưới ánh lửa khi sáng khi tối của ngọn đuốc, chỉ thấy nó đang phun ra từng đoàn khí tức, giống như một làn khói nhạt còn sót lại sau khi ngọn nến vừa bị dập tắt vậy, từ từ bay qua trước mặt chúng tôi, rất chân thật.

    Tôi đang quan sát vô cùng xuất thần, chợt nghe Tuyền béo nói: “Này, các cậu mau nhìn xem đây là thứ gì?” Nói xong hắn giơ cây đuốc soi lên phía trước, tôi lờ mờ nhận thấy ở sát bên bờ tường mọc ra từng cụm từng cụm nấm linh chi to tròn, màu sắc có hơi nhợt nhạt. Chúng tôi hồi trước khi đi vào khu rừng rậm Đại Hưng An Lĩnh đã từng thấy qua loại thực vật từa tựa như cây nấm linh chi này, bình thường chúng hay mọc lên kín cả một mảng rừng sau mỗi cơn mưa rào, thế nên mới hay có câu mọc nhiều như nấm sau mưa, có thể trực tiếp dùng dao cắt xuống ăn sống, giá trị dinh dưỡng còn nhiều hơn tùng ma gấp mười lần, không nghĩ tới nấm linh chi cũng có thể sinh trưởng được trong huyệt động này, hay là thứ này chỉ có bề ngoài trông giống nấm linh chi thôi, còn thực ra nó là một loại “thạch y, nham nhĩ”, hoặc thậm chí nó là một loại “địa nhĩ” mà chúng tôi chưa từng thấy qua. Bên trong mộ bốn phía có rất nhiều tấm gỗ mục, nấm linh chi đều mọc lên từ trên đấy.

    Tuyền béo lên tiếng hỏi: “Thứ đồ chơi này liệu có ăn được không nhỉ?”

    Lục Quân cũng thắc mắc: “Nấm linh chi làm sao có thế sinh trưởng được ở trong cổ mộ chứ, thứ này có thể ăn được không?”

    Tuyền béo nuốt nước miếng một cái, nói: “Đằng nào chẳng chết. Để đấy tôi nếm thử trước cho!” Hắn liền cắm cây đuốc lên tường, rồi tiến lên phía trước đưa hai tay ra sờ mó một hồi, cảm giác vừa dày vừa mềm, khá là lắm “thịt”, bèn cầm xẻng gảy ra được một khối, ném tọt vào miệng nhai nhai, tuy nói chả có mùi vị đếch gì, nhưng lại chứa rất nhiều nước, xem ra nuốt xuống bụng cũng chẳng sao.

    Tôi cùng Lục Quân, Tiêm Quả, bụng cả ba người đều đang sôi ùng ục vì đói, thấy vật này có thể ăn được, không ngừng vặt lấy vặt để bỏ vào trong miệng ăn nhồm nhoàm. Từ sáng tới giờ, chúng tôi mới chỉ được ăn vài củ khoai tây luộc với nước trắng, chờ nửa buổi hấp mãi nồi sủi cảo mới chín thì vẫn chưa kịp gắp lấy một miếng, bị bầy sói cùng bão tuyết vây khốn ở kho rơm đến tận nửa đêm, thẳng đến khi chạy tới địa câu rồi chui vào ngôi mộ thời Liêu này, thời gian trôi qua ước chừng đã được gần một ngày đêm rồi, một giọt nước còn chẳng có mà uống, đói khát đến phát rồ, phát dại, cơn đói một khi đã ngấm vào tận xương liền có thể khiến người ta bất chấp tất cả. Tôi thấy khóm nấm linh chi mọc trên đám gỗ mục là thứ ăn được, trong đầu hiện tại chỉ hiện lên duy nhất một chữ, chính là “đói”, không thèm để ý nhiều làm gì, hái xuống một cây liền bỏ nhét luôn vào trong miệng, đếch có mùi vị quái gì thật, không đắng cũng chẳng chua, kể cả một chút vị ngọt hay chát đều không có, không thể nói là ăn ngon được, nhưng tuyệt cũng không khó ăn lắm. Sau khi ăn xong, liền cảm thấy hết đói bụng, thậm chí mấy vết thương trên người cũng chẳng thấy đau nữa, lại hỏi xin Tuyền béo một điếu thuốc, rít hai hơi khói căng lồng ngực, lúc này mới cảm thấy mạng sống quay lại rồi!

    Tiêm Quả hái mấy khóm linh chi bên cạnh, dè dặt bước lên phía trước, muốn đưa cho con hồ ly hãy còn đang nằm nghỉ ở trước bức bích hoạ ăn một miếng lấy sức, cũng có thể nhìn một chút xem nó bị thương ra làm sao. Không biết tại sao con hồ ly trông đã khá yếu, hơi thở thoi thóp mà vẫn phát giác được Tiêm Quả đang lại gần, ánh mắt lập tức trở nên hung ác, trong cổ họng phát ra tiếng gầm gừ âm trầm, có vẻ như chỉ cần Tiêm Quả bước lại gần một bước nữa thôi là nó sẽ nhảy vồ lên cắn vậy. Ba người còn lại chúng tôi thấy thái độ của nó bỗng chốc bất thường, vội vàng kéo Tiêm Quả quay lại, ngẩng đầu lên mới phát hiện, phía trên bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly có một gốc hoàng kim linh chi sinh trưởng ở đấy, cỡ chừng một chiếc bát loa to, bị ngọn đuốc chiếu lên liền toả ra kim quang lấp lánh! Thì ra bất cứ con hồ ly nào sinh sống ở vùng Hắc Sơn Đầu này, một khi biết được mạng mình chẳng còn sống được bao lâu nữa, đều sẽ vào bên trong ngôi cổ mộ thời Liêu này mà nằm chờ chết! Chúng tôi không thể nào tưởng tượng nổi, vì sao lại có rất nhiều con hồ ly chọn nơi này làm táng địa của mình, là tập tính tự nhiên của loài hồ ly ư? Hay là bởi vì bên trong ngôi mộ này có hoàng kim linh chi vô cùng hiếm thấy? Hoặc rất có thể bọn chúng cho rằng con hồ ly chín đuôi được vẽ trên bức bích hoạ kia chính là tổ tiên của chúng?

    Tôi nói khẽ với ba người kia: “Trước tiên chúng ta cứ từ từ, đừng tiến lại gần, hình như nó không muốn chúng ta tới gần gốc hoàng kim linh chi kia thì phải.”

    Tuyền béo nói: “Ngay từ đầu nhìn phát đã biết ngay mày là loại keo kiệt bủn xỉn, hay so đo tính toán mà. Con mẹ nó chứ cái thứ này đối với ông đây chẳng có gì là hiếm lạ cả!” Con hồ ly già xác định rằng chúng tôi không muốn tiếp tục bước tới nữa, lúc này mới chịu thổ ra tia sinh khí cuối cùng, nằm chết ngay dưới bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly.

    Chúng tôi thấy nó đã chết, không khỏi cảm thấy luyến tiếc lẫn u ám trong lòng. Tuyền béo và Lục Quân thì thở dài, còn Tiêm Quả vốn là người mềm lòng, không cầm được nước mắt. Tôi cũng chẳng khá hơn là bao, cảm giác như vừa đánh mất một thứ gì đó. Tại sao con hồ ly nào dù sắp chết rồi đều vẫn không nỡ ăn gốc hoàng kim linh chi kia? Ăn vào nói không chừng còn có cơ hội cải tử hoàn sinh, cứ để mãi ở kia làm gì? Lại nghĩ đến lão chuột đất bỏ mạng ở ngoài cửa động, trên người lão có vài đồng xu khắc hai chữ “Khang Đức”, từ đó có thể đoán rằng sau khi nước Ngụy Mãn Châu được thành lập thì lão mới đào đạo động tiến vào trong này, trong khi đó ngôi mộ này đã sụp xuống từ rất lâu trước kia, xong lại bị bầy hồ ly chọn làm táng địa, ít nhất cũng phải mấy trăm năm rồi. Có lẽ lão chuột đất này sau khi đào được đạo động chui vào, thấy gốc hoàng kim linh chi kia thì nổi lòng tham định hái xuống, không nghĩ rằng lại bị hồ ly mê hoặc, cho nên phải phơi thây bỏ mạng tại nơi này. May mà khi con hồ ly dẫn chúng tôi tới cổ mộ thì địch ý đối với mọi người đã không còn, nếu không… Đứng suy nghĩ linh tinh một lúc, điếu thuốc hút dở trên tay đã cháy được gần nửa, tàn thuốc rơi xuống chân cũng không hề biết.

    Binh đoàn cắm rễ ở nơi biên cương này, chuyện vật tư phải nói là vô cùng thiếu thốn, đối với mấy thằng đực rựa mà nói, thuốc lá là thứ quý báu nhất, có tiền cũng chẳng mua nổi bởi vì lấy quái đâu ra chỗ để mà đi mua! Xung quanh bốn phía đều là hoang nguyên không một dấu chân người qua lại, đừng nói đến mấy bao thuốc lá giấy loại bét nhất, mà ngay cả thuốc lá sợi cũng chẳng thấy mấy, thỉnh thoảng nhẫu nhiên lắm mới đổi được một hai bao thuốc cuốn, rút lõi ra trộn với ít lá cây cũng phải hút thêm được ít nhất nửa tháng nữa. Bình thường tôi sẽ không bao giờ dám để điếu thuốc cháy phí mất một nửa như này. Nhưng ngay lúc này đây, tôi thậm chí còn không ý thức được có tàn thuốc đang rơi xuống chân. Không gian trong mộ tối om om, cây đuốc mới vừa nãy Tuyền béo cắm trên tường vẫn đang toả ra thứ ánh sáng leo lét, chúng tôi cứ thế đứng ngẩn ngơ bức trước bức bích hoạ khổng lồ cuối mộ, trên bức bích hoạ hiện ra từng cái bóng mờ mờ ảo ảo, vừa khéo chính là bóng của 4 người tôi, Tuyền béo, Lục Quân và Tiêm Quả. Bỗng tôi đột nhiên phát giác số bóng người in trên bích hoạ có gì đó không đúng, không phải chỉ có mỗi 4 cái, mà là tận 5, bên cạnh chúng tôi còn có một người nữa! So với người bình thường lùn hơn phân nửa, trông như là ai đó đang cúi lưng ngồi xổm ở đó vậy. Toàn thân lông tóc dựng đứng, da gà nổi hết cả lên, rõ ràng chỉ có bốn người sống chúng tôi cùng một con hồ ly chạy trốn tới đây, không hiểu sao lại xuất hiện thêm một người nữa? Ánh sáng duy nhất trong mộ là từ cây đuốc kia, không thể nhìn rõ đường nét của cái bóng đấy, tôi không khỏi nghĩ tới trước kia tổ phụ từng nói qua về những truyền thuyết mê tín mà đám trộm mộ vẫn thường hay gặp. Trong lòng tôi lúc này chợt hiện lên một suy nghĩ, có lẽ thứ kia không phải người, mà là hồ ly! Nhưng rõ ràng chính mắt tôi đã trông thấy con hồ ly già trút hơi thở cuối cùng rồi nằm chết ngay phía dưới bức bích họa, không ngờ nó vẫn còn sống ư?

    Tôi vội cúi đầu xuống nhìn, xác nó vẫn còn nằm ở đây, ngay trước mắt, không phải là người cũng chẳng phải là hồ ly, vậy rốt cuộc thứ quái quỷ gì đang ở phía sau chúng tôi vậy? Mà ba người kia vẫn chưa phát giác ra sự tình có gì khác lạ, trong lòng tôi chợt nảy sinh một quyết định mạo hiểm: “Cái thứ đầu buồi chết tiết kia, bố mày đây đếch sợ đâu con mẹ nhà mày!” Ngay lập tức tôi nắm chặt đoản đao trong tay, bất ngờ xoay người lại, quay ra phía sau nhìn một cái, tình hình trước mặt khiến cho tôi phải thất kinh, hai tay run rẩy, đoản đao cũng cầm không nổi nữa, chỉ trực rơi xuống đất.

    Trước khi quay người lại, tôi sớm đã có chuẩn bị sẵn tinh thần, kể cả gặp ác quỷ trong cổ mộ thì tôi cũng sẽ không khiếp sợ như vậy. Chủ nhân của cái bóng thứ 5, rốt cuộc là quân sư của bầy sói xám Siberia lúc trước đã vây khốn chúng tôi ở kho rơm, cũng chính là con bái cụt đuôi kia. Lúc ấy hồ ly dẫn chúng tôi chui vào địa câu, có mười mấy con ác lang truy đuổi theo sát ngay phía sau, trong đó có con bái này. Sau đó hầm đất sụp xuống, cứ tưởng rằng bọn chúng đã bị chôn sống rồi, không nghĩ tới nó vẫn chưa có chết, bới đất móc động tiếp tục truy đuổi, lặng yên không một tiếng động tiến vào tận trong ngôi cổ mộ này. Trên thảo nguyên tôi đã từng thấy qua không ít con sói vì đói quá mà phải đào đất bới động để bắt thỏ.

    Bất quá nghe nói sói xám Siberia thường không dám tuỳ tiện chui vào hầm động, bởi vì một khi chui vào là khỏi ra được luôn, bọn chúng chỉ có thế một mực đi về phía trước, không đi lùi lại được. Trong dân gian trước kia có truyền tai nhau thế này, bái là kết quả của sự giao phối giữa sói và hồ ly, mang trong mình một nửa dòng máu hồ ly, một nửa còn lại là sói, đầu so với sói thì nhỏ hơn, nhưng lại lớn hơn đầu hồ ly. Cho nên một con bái sẽ có bản tính tham lam hung tàn của sói, đồng thời có cả sự gian xảo nhạy bén như hồ ly, chỉ là con nào con nấy sinh ra đã bị thọt chân bẩm sinh, lúc bầy sói hành động, đặc biệt cử ra một con cự lang nhận nhiệm vụ cõng nó trên lưng. Điều khiến bái trở nên đáng sợ nhất chính là khả năng bày mưu tính kế của nó, nhưng đây chẳng qua là những lời tôi nghe kể lại thôi, đến nay vẫn chưa có ai chứng thực được những điều trên là đúng cả, chúng tôi không dám chắc đây có phải là một con bái thật sự hay là không. Mà bất luận là chó sói hay là bái, chỉ có mỗi mình nó thì chẳng có gì đáng sợ cả. Nó sở dĩ khiến tôi bị thất kinh đến ngây người, bởi vì bộ dạng nó bây giờ không khác gì so với người cả, đứng ở phía sau lưng mấy người chúng tôi, nhặt lấy phân nửa điếu thuốc mà tôi đánh rơi, hút lấy hút để!

    Ba người kia thấy sắc mặt tôi trông rất khó coi, cũng đồng loạt quay đầu lại, chứng kiến tình hình sau lưng, tất cả đều cảm thấy hết sức khó tin, chợt nhớ tới câu chuyện mà trước kia lão trung đội trưởng từng kể, thì ra trong núi quả thật có một con chó sói biết hút thuốc lá như người, không phải do hắn mơ ngủ hay nhìn lầm! Nhưng mà nói đi thì cũng phải nói lại, móng vuốt của nó vừa dài vừa nhọn như thế làm sao có thể cầm được điếu thuốc lá chứ? Bốn người đều sợ hãi đứng im bất động tại chỗ, nhất thời, không khí trong cổ mộ trở nên âm u, yên lặng như tờ, cây đuốc cắm trên tường vẫn bập bùng, hai bên đứng cách nhau chỉ có mấy bước chân, so với lúc trước ở kho rơm có thể thấy rõ hơn nhiều, con quái vật này dáng dấp rất giống chó sói, từng sợi lông màu xám trắng vừa dài vừa cứng, trên lưng có rất nhiều vết bớt không mọc được lông. Trong truyền thuyết dân gian, loài này một nửa là sói một nửa là hồ ly, có tồn tại thật hay không giống loài như vậy thì rất khó nói rõ, thực ra nhìn kĩ thế nào đi nữa thì vẫn chỉ thấy giống một con sói già mà thôi. Tôi thấy móng vuốt của nó có thể cầm được nửa điếu thuốc dở, từng hơi một hút rất điệu nghệ và có nghề, tranh tối tranh sáng, chỉ thấy trong mắt nó bắn ra ánh nhìn hết sức tham lam về phía điếu thuốc, còn làm sao nó lại cầm được để mà đưa lên miệng hút, tôi hoàn toàn không nhìn rõ. Thật sự không thể lí giải nổi, con quái vật này lại có thể hút thuốc lá y hệt như con người! Chúng tôi cũng đã từng làm qua hồng vệ binh, càn quét hết thảy ngưu quỷ xà thần lúc bấy giờ, thế nhưng chút ngưu quỷ xà thần ấy, nói cho cùng thì vẫn là do con người đóng giả, còn bây giờ thực sự gặp phải yêu quái trong rừng sâu núi thẳm, không thể không sợ, bởi vì hết thảy niềm tin của chúng tôi trước kia, giờ đã hoàn toàn bị sụp đổ trong toà cổ mộ thời Liêu này.

    Lục Quân sợ đến nổi đứng cũng không vững, bồ cào trong tay rơi “bịch” xuống đất. Chính âm thanh ấy đã phá vỡ không gian tĩnh lặng bên trong cổ mộ, con bái đứng đối diện với chúng tôi chợt ngẩng đầu lên, gốc hoàng kim linh chi mọc trên tường cao kia lập tức lọt vào trong tầm mắt nó. Hình như nó nhận ra lai lịch của thứ này, hai mắt đỏ rực nhìn chằm chặp, nước dãi chảy đầy ra đất, điếu thuốc còn chưa hút hết cũng liền vứt bỏ luôn, có ý muốn cướp lấy gốc hoàng kim linh chi kia, lại bị Tuyền béo cản đường. Hung quang trong mắt bắn thẳng lên người Tuyền béo, lập tức nhào tới. Tôi vội vàng kêu lên với hắn: “Cẩn thận!”

    Tuyền béo vốn là kẻ lớn gan lớn mật, thấy đối phương nhào tới, không thèm né cũng chẳng thèm tránh, cái xẻng trong tay liền quơ lên, đập thẳng lên đầu con bái. Nó tuy chân sau bị què, nhưng hai móng vuốt đằng trước thì lại vô cùng khoẻ, một cái trực tiếp gạt phăng lưỡi xẻng, cái còn lại thì chụp thẳng vào mặt Tuyền béo. Tuyền béo không nghĩ tới con bái có thể sử ra được một chiêu này, có muốn tránh cũng không kịp nữa rồi, tay chân luống cuống vội lùi về phía sau để né, hắn mặc dù không bị móng vuốt bái cào trúng, nhưng hai chân lại vô tình vướng phải bộ hài cốt hồ ly trong mộ, lập tức ngã ngửa ra đất. Tôi cùng Lục Quân, Tiêm Quả sợ rằng con bái kia sẽ thừa dịp này mà vồ lên trên người Tuyền béo, đều quên cả sợ, đồng loạt từ hai bên xông lên, hai tay cùng tóm lấy bộ lông xám dài trên người nó. Đối phương đang dùng toàn lực lao về phía trước, nhưng bất ngờ lại bị ba người chúng tôi kéo mạnh về phía sau một cái, chỉ nghe một tiếng “xoạt”, đếch có ngờ tới, vậy mà lại xé toạc được cả một miếng da còn dính lẫn thêm chút thịt khá to trên người nó, càng khiến chúng tôi bất ngờ hơn nữa là miếng da phía chân trước cũng bị xé rách, máu chảy dầm dề, lộ ra hẳn bàn tay người, năm ngón mọc dài, giống như quỷ thủ dưới địa phủ bị tróc hết da vậy.

    Dưới ánh lửa leo lét nửa sáng nửa tối của ngọn đuốc đã cháy gần hết, bốn người chúng tôi trông thấy bàn tay này, trong lòng liền không khỏi dâng lên một cảm giác kinh hãi, chẳng trách nó lại có thể nhặt được điếu thuốc lên mà hút như người vậy, thì ra phía dưới bộ móng vuốt này của nó là một bàn tay chẳng khác gì tay người vậy! Trong lúc chúng tôi hãy còn đang sững sờ, con bái bị xé mất một mảng da thịt lớn, đột nhiệ phát ra tiếng kêu gào hết sức thê lương thảm thiết, không phải tiếng sói tru, cũng chẳng phải tiếng người réo, nó dường như nổi điên, cứ thế đâm đầu xông vào động môn mộ thất. Ngôi mộ này đã trải qua biết bao nhiêu năm tháng, sớm đã sập mất một nửa, đất đá bùn lầy cơ hồ đã bịt kín và chôn vùi hết mọi động môn, phía dưới động mộn hình vòm cung chỉ có duy nhất một khe hở chật hẹp. Nó từ trong chui vào không hề nhìn thấy đường, cúi đầu bò loạn, đâm sâm vào chỗ này rồi lại húc vào chỗ nọ khiến cho không ít đất đá văng tung toé, gạch mộ sụp xuống không ít, khiến cho toàn bộ môn động sập xuống, đem nó chôn sống phía dưới. Mọi người đứng ngẩn ngơ chứng kiến hết thảy sự tình, rồi mượn ánh sáng từ ngọn đuốc giơ tấm da vừa lột được trên người bái ra xem thử, máu tươi đầm đìa hãy còn bốc hơi nóng hôi hổi, cả nửa ngày sau tinh thần mấy người mới bình thường trở lại.

    Sau này hồi tưởng lại, ở Đông Bắc dãy Đại Hưng An Lĩnh, từng có một câu chuyện truyền miệng hết sức sởn tóc gáy như này: Năm đó thổ phỉ chiếm núi xưng vương, câu bè kết phái, đốt nhà cướp của hãm hiếp con gái nhà lành. Nhưng càng là đám người ô hợp thì càng phải có quy củ sâm nghiêm để dễ bề quản lý, hơn nữa toàn là những kẻ dùng thủ đoạn giết người uống máu tàn nhẫn để hành động, cho nên ghét nhất việc có người thay lòng đổi dạ, lén lút đâm một dao sau lưng bán đứng anh em đồng bọn, một khi kẻ nào có suy nghĩ như vậy bị bắt được, có lột da hay đem đi đốt thành thiên đăng cũng chưa hả giận. Như nào thì gọi là “đốt thiên đăng”? Nghe nói là một hình thức tra tấn do thổ phỉ ở vùng Tương Tây phát minh ra, khoan lấy một lỗ nhỏ trên đỉnh đầu tên phản bội, rót dầu thắp vào bên trong xương sọ rồi đốt lên, cái loại tư vị ấy liệu có dễ chịu được không? Còn có một loại điểm pháp khác gọi là “đáo điểm nhân du lạp” (Trans: Đốt đèn cầy mỡ người), lột hết sạch quần áo trên người xuống, dùng vải bố bọc kín lại như xác ướp, lại bỏ vào trong thùng dầu mà ngâm, đến khi nào da thịt ngấm no dầu cứng đanh lại gốc cây thì bỏ ra rồi dựng đứng lên, châm một mồi lửa từ dưới chân đốt lên, từng chút từng chút một đem người sống đốt đến chết. Bất quá đến như vậy rồi mà còn không hết hận, thì làm thế nào? Bọn thổ phỉ lại phát minh ra một hình phạt còn tàn khốc hơn rất nhiều so với hai cách kia, đem tên nghịch tặc lên Tụ nghĩa đường rồi lột sạch da trên người, lại lấy lưỡi dao sắc bén khoét ra trên người mấy chục vết rạch, mỗi chỗ rạch đều hãy còn bốc ra hơi nóng, chuẩn bị xong thì đem tấm da thú cũng vừa mới lột đến, nhân lúc còn nóng bọc chùm lên cơ thể toàn là vết rách của hắn, buộc chặt lại suốt ba ngày ba đêm, như vậy thì có muốn bóc ra cũng không được, trừ khi phải dùng một lực rất mạnh, lúc ấy cả da thú lẫn thịt người đều sẽ bị xé xuống. Lại bắt người này nuốt vào bụng một viên á dược (Trans: Thuốc làm người ta mất giọng, trở thành người câm), hơn nữa còn cắt cụt hai chân, khiến cho hắn sống dở chết dở, muốn chết không được mà muốn sống cũng chẳng xong, vứt vào cũi chó làm gương cho kẻ khác sau này. Có lẽ con bái mà chúng tôi đụng phải ở trong ngôi mộ thời Liêu ấy, chính là một tên phản tặc rồi bị trừng phạt theo cách đấy, mấy chục năm trước có đám thổ phỉ nào đó đã trùm lên người hắn bộ da sói, được cái hắn mạng lớn số lớn không có chết, bỏ trốn được vào trong rừng thiêng nước độc nhập bọn với bầy sói, lâu ngày mất hết nhân tính, dường như đã quên mất mình là người, lúc nhìn thấy điếu thuốc của tôi rơi xuống đất, theo bản năng mà nhặt lên rít lấy vài hơi, xem ra trước kia hắn là một tên nghiện thuốc nặng, ngấm sâu vào trong máu rồi. Dĩ nhiên đấy chỉ là suy đoán của chúng tôi, trước kia ở vùng quan ngoại liên quân dân chủ dẹp trừ phiến loạn thổ phỉ, quả thật có người thấy qua sự tình như vậy, bất quá cũng không có cách nào chứng thực được.

    Quay trở lại lúc ấy, bốn người chúng tôi bị con hồ ly già dẫn vào trong toà cổ mộ thời Liêu, phải ăn đám nấm mọc trên gỗ mục để nối dài sự sống, trốn ở trong mộ mất mấy ngày liền, cũng tránh được đại nạn bão tuyết trăm năm mới gặp một lần cùng bầy sói Siberia hung dữ. Cảm niệm đối với ơn cứu mạng của hồ ly, không ai muốn động tới gốc hoàng kim linh chi mọc phía trên bức bích hoạ nữa. Suy nghĩ của chúng tôi lúc ấy tương đối đơn giản, nếu hồ ly đã chết ở nơi này, thì để gốc hoàng kim linh chi kia chôn theo nó cũng tốt. Sau đó chúng tôi theo đạo động bên nhĩ thất phía Tây mà bò được ra ngoài, quả nhiên nơi đây chính là Hắc Sơn Đầu thuộc dãy Đại Hưng An Lĩnh. Khu vực này núi cao rừng rậm, người đi dưới biển cây mênh mông, ngẩng đầu lên cũng không thể thấy được ánh sáng mặt trời đâu cả, cho nên trong miệng đám thợ săn người Ngạc Luân Xuân mới gọi nơi này là “Hắc Sơn Đầu”. Bốn người đi từ trên núi xuống, liền gặp phải đội kỵ binh tiên phong của mục khu tới tiếp viện, nhờ thế mới có thể an toàn trở về. Chúng tôi cùng thề sẽ không ai được phép nói ra bí mật về ngôi mộ cổ trong núi này, để tránh rước lấy tai hoạ không đáng có!

     
    thanhviet170906 thích bài này.
  2. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,686
    Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư
    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng
    Chương 7: Cửu Vĩ Yêu Hồ

    Dịch: Đặng Nam
    Nguồn: facebook.com/ma-thoi-den





    Biết nhiều chưa hẳn đã hay, nói ít đi vài lời chưa chắc đã là dở, bởi vì nói ra nghe thì đơn giản, nhưng liệu được mấy người sẽ tin đây? Dưới tình hình chính trị xã hội thời bấy giờ, không phải chuyện gì cũng có thể bô bô mà kể cho người khác nghe được, vạn nhất bị người ta chụp một cái mũ to lên đầu, vậy thì xin chúc mừng, cuộc đời bạn sắp đi tong, cho nên chớ có tự mình rước lấy phiền phức vào người. Đến thời điểm những năm 1968, binh đoàn cắt giảm biên chế, dẹp bỏ sư đoàn Ba vốn đang quản lý nông trường sản xuất và trấn thủ số 17, chúng tôi cũng được lệnh rời khỏi nơi đây, rồi điều đến tham gia đội sản xuất ở thượng nguồn và hạ nguồn Hắc Thuỷ Giang tít mãi trong Đại Hưng An Lĩnh. Bốn người được phân về hai thôn khác nhau, cũng may là không cách xa nhau lắm. Tôi và Tuyền béo ở thượng nguồn Hắc Thuỷ Giang, còn hai người kia thì ở phía hạ nguồn. Chỗ bọn họ có tới tận hai mươi mấy thanh niên tri thức về sản xuất, mà trên thượng nguồn này thì độc chỉ có hai thằng đực rựa bọn tôi. Bởi vì thôn chúng tôi ở không lớn lắm, gọi là “Liệp Thôn” (Trans: Thôn chuyên về săn bắn), tổng cộng ước chừng có mười hộ dân sinh sống, rất ít nhà làm ruộng, từ xưa lấy nghề săn bắn hươu nai làm nghiệp mưu sinh, bên trong thôn hơn phân nửa là cánh thợ săn Ngạc Luân Xuân. Trước kia có rất nhiều phương thức săn thú, có thể dùng chim ưng để săn, hoặc thả chó truy đuổi, cũng có một cách săn đặc biệt nữa là dùng thòng lọng chôn dưới đất để làm thành cái bẫy kẹp nhưng sẽ không tổn hại đến bộ da của thú, gọi là “kẹp da”, ngoài ra còn có chính là toàn bộ thợ săn trong thôn đồng loạt kéo nhau lên núi tạo thành lưới người, những khi tập hợp nhiều quân số như vậy chủ yếu là để săn mấy con thú lớn như heo rừng, hổ báo, gấu chó,..

    Sau cuộc giải phóng toàn quốc năm 1949, Hắc Thuỷ Giang mới bắt đầu có người đến làm ruộng. Trên núi đất đai các thứ lung tung, phía Đông một mảnh phía Tây một mảnh, nhưng được cái vùng này chất đất khá phì nhiêu màu mỡ, chỉ cần gieo xuống vài hạt giống, chẳng cần tốn công chăm sóc gì nhiều, tự nó vẫn có thể nảy mầm và sinh trưởng, việc duy nhất phải làm là nửa đêm ra chòi để trông chừng hoa màu, ngăn ngừa dã thú trên núi xuống gặm phá. Những con khác thì dễ nói, chồn, nhím, sóc, mấy loài này gặm phá cũng chẳng được bao nhiêu, không gây tổn hại mấy, huống hồ thỉnh thoảng gặp may lại tóm được một, hai con, lột da chồn, lấy đuôi sóc đổi lấy chút tiền, so với làm ruộng còn sướng hơn. Phải đề phòng cảnh giác nhất chính là đám heo rừng, nó ủi đất từ đầu này đến đầu kia, chỉ một chuyến viếng thăm thôi là toàn bộ hoa màu đang đẹp đẽ đều hỏng hết, đất đai bị xới tung bung bét. Tôi cùng Tuyền béo đi đến thượng nguồn Hắc Thuỷ Giang, trú lại ở một nhà thợ săn, chủ nhà này thường được mọi người trong thôn gọi là cha Trăn Tử, ngoài lão ra trong nhà còn có hai người con gái nữa. Cha Trăn Tử mặc dù ở trong thôn cũng có một mảnh đất dùng để trồng ngô, nhưng vẫn duy trì truyền thống săn bắn lâu đời của dân tộc Ngạc Luân Xuân, bình thường hay dẫn theo con gái cùng chó săn, tiến vào rừng sâu núi thẳm săn gà tìm hồ ly, tôi và Tuyền béo nhờ thế cũng được hưởng sái không ít thịt rừng rau rừng dân dã, thật đúng phải gọi là mỹ vị trần gian. Nhất gia tử đối với hai thằng thanh niên tri thức chúng tôi chiếu cố có thừa, việc trong thôn cũng không muốn chúng tôi phải nhúng tay vào làm gì cho vất vả cả, mảnh đất trồng ngô chỉ to bằng cái bàn tay, thu hoạch được nhiều hay ít đều phải hoàn toàn trông chờ vào sắc mặt của lão thiên trên cao, không phải cứ có người trông coi cẩn thận là nó sẽ mọc dài thêm một đoạn, nhiều hơn một hạt. May cái là khẩu phần lương thực của thanh niên tri thức không phải từ trong thôn mà ra, hai người chúng tôi chỉ có một nhiệm vụ duy nhất, chính là thay phiên nhau ngồi trong chòi ngó ra trông chừng đám hoa màu ở bên ngoài, trừ việc này ra, không bắt chúng tôi làm gì hết, chỉ cần chúng tôi ở trong thôn không quậy phá, gây tai hoạ, đừng làm náo loạn đến nỗi gà bay chó sủa, là cha Trăn Tử đã cảm tạ trời đất lắm rồi.

    Thoáng một cái trời đã chuyển xuân qua năm mới, cha Trăn Tử dẫn theo cô con gái lớn vào núi tham gia đội vây núi săn thú đầu năm, vây núi săn thú đầu năm chú trọng một số nguyên tắc như săn con đực chứ không săn con cái, còn phải tranh thủ trước mùa nước lên, để tránh gặp phải cơn lũ nào đó bất ngờ từ trên núi đổ xuống. Đại đa số thợ săn trong thôn đều đi, chỉ để lại nhị cô nương tên là “Trăn Tử” ở lại để nấu cơm cho chúng tôi. Tầm này đang là lúc giáp hạt (Trans: Thời điểm trái cây hay hạt lúa đều hãy còn xanh, chưa chín vàng, rất dễ xảy ra nạn đói), có mời heo rừng tới chơi cho vui nó cũng đếch thèm tới, có cái mẹ gì đâu, hai thằng cả ngày thẳng từ sáng sớm tới tận đêm khuya cũng chẳng có việc quái gì để làm, rảnh rỗi đến mụ mị cả người, ở trong núi lớn như này, thật là muốn tìm một nơi để quậy phá cho vui cũng chẳng bới đâu ra, nhưng không thể không làm việc được, thực ra cái gọi là làm việc kia, bất quá cũng chỉ là ngồi trong chòi mà giương mắt nhìn, mà nhìn gì thì cũng không biết nữa, chán quá rồi!

    Rồi đến một ngày nọ, chúng tôi mỗi thằng cầm theo một chùm quả phỉ mang đến “Mao Hạp Nhi”, cùng nhau ngồi tán phét, khoác loác hết chuyện trên trời rồi lại dưới biển chán chê mê mải suốt cả buổi. Tiện thể nói qua một chút, cái gì gọi là mao hạp nhi? Đây là một phương ngôn thổ ngữ của vùng Đông Bắc, chính là quả dưa mà chúng ta thường hay nói, tên khoa học là quy hoa tử hoặc chuyển liên tử. Bởi vì ngày xưa có người giải thích như thế này, hạt dưa là do Liên Xô Lão đại ca truyền tới (Trans: Ngày xưa, Liên Xô là anh cả của các nước trong khối xã hội chủ nghĩa, thời kì này quan hệ Xô - Trung đang căng thẳng, nên tác giả gọi là lão đại ca với ý châm biếm), thổ ngữ vùng Đông Bắc gọi người Nga lúc bấy giờ là “lão mao tử”, lão mao tử thường bổ đôi thứ đồ chơi này rồi ăn cái ruột ở trong, cho nên mới kêu thành “mao hạp nhi”! (Trans: Lão mao tử là chỉ dân Nga lắm lông, lại cắn gặm thứ quả kì lạ không biết tên kia nên gọi là mao hạp nhi, hạp là chỉ hành động cắn, gặm, ý toàn bộ là — thứ quả mà bọn lắm lông hay gặm!)

    Chúng tôi đến Hắc Thủy Giang này sinh sống và tham gia sản xuất, cũng đành nhập gia tùy tục gọi theo như vậy. Hai thằng vừa chia nhau mỗi đứa một nửa quả dưa cứ thế ngồi gặm, vừa to mồm khoác lác nói chuyện, than phiền việc cha của Trăn Tử không cho chúng tôi đi vây rừng đầu xuân cùng hắn, chỉ đổ thừa tại tài thiện xạ của hai anh em ta quá là tốt, một khi để hai thằng vào trong núi, phát cho mỗi đứa một cây súng, trên núi này liền không còn con thú nào có thể chạy thoát được, dù sao cũng phải lưu lại cho đám thợ săn một hai con thỏ, chứ săn hết thì tuyệt chủng mất, sau này họ lấy đâu ra thỏ hoang gà rừng để săn mà kiếm sống nữa? Hai thằng đương ngồi ba hoa chích chòe, khua tay múa chân, nước miếng văng liểng xiểng, thì thấy Trăn Tử tới đưa cơm cho chúng tôi, vẫn là một ngày hai bữa cơm, một niêu sành đựng cháo ngô, ngoài ra còn mang thêm mấy cái bánh nướng nữa, đấy chính là bữa trưa của chúng tôi. Trăn Tử cùng chị nàng rất giống nhau, đều là những thợ săn xuất sắc trong thôn, tính cách sảng khoái thoải mái, nói chuyện không câu nệ kiêng dè gì cả, bất quá cả hai từ nhỏ đã lớn lên trong núi, là cô nương sơn thôn chính hiệu, thành ra chưa từng thấy qua thế giới bên ngoài, rất thích ngồi nghe chúng tôi kể chuyện.

    Tôi và Tuyền béo suốt cả ngày chỉ có mỗi việc ngồi bốc phét với nhau, hai thằng sớm đã thuộc mẹ hết mấy cái truyện dùng để tán gái của nhau, thậm chí còn chưa kịp há miệng đã biết thằng kia định nói gì rồi, ấy thế mà Trăn Tử lại rất chăm chú lắng nghe. Điểm mấu chốt của việc ba hoa bốc phét là phải có người nghe, dù chỉ có một người thôi cũng được, như vật mới khiến cho tài nghệ của người kể được phát huy, chứ tự kể một mình thì chẳng hóa thằng dở hơi? Huống chi những người này đều tin những lời được kể là thật, nguyện ý nghe chúng ta khoác lác không sót một chữ nào. Hai thằng phồng mồm trợn má húp lấy húp để niêu cháo ngô, rút ra mấy điếu thuốc lá phơi khô đặc sản của nơi này, rít một hơi thuốc lại nhả một hơi khói sặc sụa, chuẩn bị tiếp tục đại hội bốc phét cho Trăn Tử nghe. Loại thuốc lá được phơi khô này gọi là hoàng yên, lá thuốc màu vàng kim, toàn bộ đều to cỡ lòng bàn tay, vừa dày vừa thô, chỉ cần vê một chút lá, cuốn lại là thành ngay một điếu thuốc lá thơm, châm lửa đưa lên miệng hút, để cho khói thuốc xộc vào phổi rồi quẩn quanh trong cổ họng một hồi, sau đó chậm rãi đẩy khói qua hai lỗ mũi nhả ra ngoài, mùi thuốc vô cùng đặc biệt, thơm một cách nhẹ nhàng thuần khiết, thật không hổ được xưng là đặc sản vùng này. Trăn Tử thấy chúng tôi lấy thuốc lá cuốn ra hút, nàng liền hỏi: “Các ngươi sao lại lấy trộm thuốc lá của cha ta?”

    Tuyền béo đáp: “Nhị muội tử, nàng nói vậy nghĩa là sao? Sao lại coi chúng tôi như bọn trộm gà trộm chó thế? Mấy điếu thuốc lá này là do hai ngày trước cậu Tư đưa cho chúng tôi về hút thử!”

    Tôi đứng ở bên cạnh lên tiến giảng hòa: “Hai ngày trước chúng tôi học theo tinh thần của đồng chí Lôi Phong vĩ đại, giúp cậu Tư dựng chuồng để nuôi mấy con heo, cậu Tư thấy hai đứa làm việc khổ cực quá cho nên mới đưa cho mấy điếu thuốc lá coi như lời cảm ơn.”

    Tuyền béo gật đầu lia lịa, nói thêm vào: “Đúng đúng đúng! Cậu Tư còn khen chúng tôi là những đứa cháu ngoan của Mao chủ tịch, là mầm non tương lai của đất nước đấy!”

    Trăn Tử quả nhiên là người thông minh, không dễ dàng bị lừa như vậy: “Các người giúp cậu Tư dựng lại cái chuồng heo? Sao ta chưa nghe nói đến chuyện ý vậy? À đúng rồi, ta mới chỉ nghe được mỗi chuyện là hai ngày trước cậu Tư bị mất một con heo nhỏ vừa mới nuôi được vài bữa thôi!”

    Tuyền béo cố làm ra vẻ bất ngờ, giật mình đánh thót: “Thật quá đáng! Tôi đã từng thấy qua con heo nhỏ đó của cậu Tư, tròn tròn xinh xinh, ủn ỉn ủn ỉn uống nước, lúc ăn cám thì lại kêu eng éc, ôi thật là đáng yêu làm sao! Nhưng sao lại bị trộm mất rồi? Kẻ nào đã làm chuyện này chứ? Hừ!”

    Tôi gãi đầu một cái, nói: “Đúng vậy đó, con heo nhỏ đó đâu có trêu ai chọc ai đâu, sao lại bị người ta bắt đi mất? Có lẽ là bị chó sói tha đi mất ý chứ!”

    Trăn Tử liếc mắt: “Vậy chứ không phải là do hai con sói đội lốt người nào đó bắt đi sao?”

    Tôi và Tuyền béo vội vàng kêu lên hai tiếng oan uổng, chỉ tay lên trời, hướng Mao chủ tịch mà thề — chúng tôi tuyệt đối chưa ăn con heo đó!

    Mong rằng lời này ngài có thể nghe hiểu, chúng tôi chỉ hướng lên ngài bảo đảm rằng chưa ăn con heo đó thôi, chứ chưa có nói là trộm hay không trộm nó. Bởi vì đám thợ săn đi vây thú đầu xuân hãy còn chưa về, trong thôn cũng chẳng nhà nào có tí dầu tí mắm cả, suốt ngày chỉ có húp cháo ngô với gặm bánh bột đậu đến phát ngán không nuốt nổi nữa rồi. Nhất thời hai thằng chúng tôi không nhịn được, tiện tay bắt lấy con heo nhỏ mà cậu Tư nuôi, chẳng ai ăn thịt heo sống được cả, cho nên hai thằng mới tiếp tục rủ nhau chạy ra chỗ nung gạch của lò gạch phía đằng sau núi, mở cửa lò ra, ném thẳng con heo nhỏ vào. Cứ tưởng rằng sẽ có một bữa thịt heo sữa nướng vàng ươm ngon lành, không nghĩ tới lửa bên trong lò quá lớn, cháy phừng phừng, đến khi mở cửa lò lần nữa để lôi con heo ra chén thì nó đã cháy đen thui thành than từ lúc mẹ nào rồi, cho nên mới nói là nào có ăn nó đâu! Tôi sợ Trăn Tử sẽ tiếp tục truy hỏi, vội vàng nghĩ cách đánh trống lảng: “Nhà hay chòi trong thôn này đều dùng đất bùn trộn với rơm khô rồi đắp lên, tại sao cậu Tư lại chú trọng cái chuồng heo thế nhỉ, dùng toàn gạch xanh rất xịn, bên trên còn khắc hoa văn, ở thượng nguồn lẫn hạ nguồn Hắc Thuỷ Giang này kiếm đâu ra loại gạch như vậy?”

    Trăn Tử đáp: “Gạch xây chuồng heo? Hahaa không phải đâu, lò gạch của chúng ta ở đây không thể sản xuất ra được loại gạch tốt như thế, chỗ gạch kia đều là gạch lấy trong cổ mộ đấy!”

    Nghe cô nàng nói vậy, tôi mới bừng tình hiểu ra, mấy năm trước từng có phong trào loại bỏ Tứ hủ tục, trong đó có hoạt động đập bỏ mộ phần của giai cấp phong kiến trước kia, trong núi đào ra không ít cổ mộ, nhiều đồ vật chôn theo trong mộ bị phá huỷ, chẳng qua có mỗi gạch mộ là không bị đập, bởi do lò gạch địa phương không thể nào nung được số gạch khổng lồ lại bền chắc như đống gạch mộ kia. Cổ mộ trong núi này, lớn có nhỏ có, có cái từ thời nhà Liêu, có cái lại thời nhà Kim, mà còn có cái được xây dựng từ sớm hơn nữa. Gạch mộ bên trong có loại vuông vắn gọn gàng chừng một mét, tuy rằng đã chôn dưới đất gần trăm nghìn năm mà khi lấy ra vẫn còn sáng bóng như mới, bên trên khắc hoa văn; cũng có một số loại nhỏ hơn, trên gạch có vẽ hoa vẽ lá, gọi là gạch bích hoạ, mang ra khỏi lòng đất rồi mà sắc thái vẫn cứ rực rỡ như lúc ban đầu, ngày nay cũng không thể nào tạo ra được loại gạch chất lượng cực phẩm như thế. Bất quá gạch trong cổ mộ là dùng cho người chết, người sống vĩnh viễn sao có khả năng dùng được, mang xây nhà sợ rằng chẳng có ai dám ở, chỉ có thể đem đi làm chuồng heo mà thôi, cho nên ở đây chuồng heo còn có giá trị hơn cả một cái nhà. Dần dà mãi rồi thành quen, mọi người đối với chuyện này đều nhắm mắt làm ngơ, không có người hỏi tới thì cũng chẳng ai rảnh đi nói làm gì. Nói đi nói lại mãi đến đây, tôi chợt nhớ đến toà cổ mộ thời Liêu ở Hắc Sơn Đầu, lúc chúng tôi còn ở trong mộ không hề thấy thi thể chủ nhân lẫn đồ bồi táng đâu cả, có thể thấy trước kia đã có tên chuột đất nào đó vào khoắng sạch đi rồi cũng nên, bất quá bức bích hoạ cửu vỹ yêu hồ khổng lồ trên tường mộ khiến tôi mãi mãi không thể nào quên được. Chung quy tới giờ vẫn không hề biết thân phận thực sự của chủ nhân ngôi mộ đó là gì, chỉ thấy kích thước to lớn của bức bích hạ, xem ra lai lịch của vị kia chắc cũng không hề nhỏ.

    Tôi nhờ câu chuyện này mà quay qua hỏi Trăn Tử xem đã từng thấy qua ngôi mộ nào mà trên mặt gạch có vẽ cửu vỹ yêu hồ chưa? Trăn Quả đáp từ bé tới giờ chưa hề thấy loại gạch nào như vậy, nhưng ở trong rừng sâu núi thẳm của vùng Đại Hưng An Lĩnh này lại truyền tai nhau không ít truyền thuyết về cửu vỹ hồ ly, nàng hồi bé đã được nghe kể không ít. Người miền núi có một tập tục, nửa đêm tắt lửa tối đèn, già trẻ lớn bé chui hết vào trong chăn ấm, rồi kể từ cố sự để răn dạy bọn nhỏ cho đến truyện ma doạ người, càng kể càng thấy mơ hồ.

    Hai thằng rảnh rỗi quá sớm đã phát bực, chỉ mong có câu chuyện gì đó để hóng hớt cho đỡ buồn, liền năn nỉ Trăn Tử kể một chút cho chúng tôi nghe. Cuối cùng Trăn Tử cũng đành mở lời, theo lời cô nàng kể, từ rất lâu rồi đã có một truyền thuyết như thế này: cuối thời kì nhà Mãn Thanh dân quốc, trong núi lớn có một con sông tên là “Hắc Thuỷ Giang” chảy qua, bên bờ Hắc Thuỷ Giang có một túp lều làm từ da thú, bên trên có ba người anh em, đều bị chết yểu, không thể lớn lên nổi. Những năm tháng ấy, chết một đứa trẻ chẳng có gì lạ thường cả, nhưng đằng này lại chết liền thằng thứ hai rồi đến thằng thứ ba, đến khi người con thứ tư được sinh ra, người trong nhà thương đứa con đứa cháu duy nhất này vô cùng, chiều chuộng hết mức, miếu Đông vừa mới thắp nhang, miếu Tây hương hãy còn chưa tắt. Theo như tập quán từ xưa, mặc dù phía trên chẳng còn ai nữa, nhưng vẫn phải dựa theo thứ tự cấp bậc trong nhà mà đứng a, cho nên đứa nhỏ này sinh ra liền đứng hàng cuối cùng, vai vế bé nhất nhà, theo như thổ ngữ địa phương gọi là “lão mụn”. Đến khi lão mụn chừng ba mươi tuổi, hắn đã là một người tại kỳ. Như thế nào gọi là tại kỳ? Các vị chắc đều biết thời nhà Thanh có Mãn, Mông, Hán bát kỳ a. Đây là một loại hình thức tổ chức xã hội của người Mãn Châu. Tổ tiên của lão mụn này, ban đầu là một trong tám kỳ binh, sau gia nhập kim giáp sỹ, trước kia cùng Thanh Thái tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích thẳng một đường Nam chinh Bắc chiến, Đông thủ Tây sát, lại quăng lão đuôi rồng Hàn Vương ra quan ải, đánh chiếm thiên hạ, cũng gọi là có tí công phò trợ Thiên tử. Bởi vì Sấm vương Lý Tự Thành vượt sông Sa Hà, xuyên thủng được thành Bắc Kinh, Sùng Trinh hoàng đế phải bỏ chạy lên núi Môi Sơn mà tự vẫn. Ngô Tam Quế quay về cứu viện, nghe tin vua Minh đã chết, định đầu hàng Lý Tự Thành. Nhưng khi hay ái thiếp của mình bị Tự Thành chiếm đoạt, cha thì bị giết, liền tức giận đổi ý, dẫn quân quy thuận Mãn Thanh. Đại Thanh khi đó dựa vào mười ba cánh quân được trang bị khôi giáp dũng mãnh mà khởi binh, trước khi xuất quân bố cáo hịch văn Thất Đại Hận Phạt Minh, một đường đánh thẳng đến Long Đình ở Bắc Kinh, giang sơn từ ấy đổi chủ, toàn bộ Trung Nguyên quy về một mối. Ở nơi này, ấy thế anhmà tổ tiên nhà lão mụn cũng có một chút công lao, gọi là “tòng long chi công”. Sau khi cuộc chiến đã kết thúc, giang sơn Đại Thanh dần dần ổn định vững chắc, tổ tiên của lão mụn không muốn ở lại kinh thành làm quan, lúc này mới trở lại quan ngoại, nguyện cho con cháu đời đời bảo vệ long mạch chi địa Đại Thanh ngàn năm hưng thịnh. Dĩ nhiên, ngươi dốc sức vì quân vương mà chinh chiến gian khổ, lập được đại công, không thể để người tay không mà rời đi a! Cho dù không phong được cho ngươi một chức Vương chức tướng, ít nhất vẫn có thể để cho hậu nhân của ngươi được hưởng lộc vua mấy đời, phải nói là ăn sung mặc sướng không cần lo nghĩ. Hàng tháng đều đặn được hoàng gia cấp tiền cho, muốn ăn gì thì ăn, thích chơi gì thì chơi, cho nên đám hậu nhân bọn họ, cuộc sống mỗi ngày trôi qua đều rất thoải mái. Cả ngày trừ việc cưỡi ngựa bắn tên, không phải động tay động chân làm gì cả, cũng chẳng cần bận tâm thứ gì hết.

    Nói tóm lại, mười mấy đời hậu nhân của vị khai quốc công thần kia, suốt hơn hai trăm năm mỗi ngày sống rất tiêu diêu tự tại, thoải mái. Đến đời của lão mụn sau này, thì dần lụi bại. Tại sao ư? Triều đình sụp đổ, Hoàng thượng không còn, đám con cháu bát kỳ năm xưa đều sống nhờ vào lúa gạo lụa là của hoàng gia ban cho, giờ thì chẳng khác nào mất đi chỗ dựa. Ngày trước ăn bao nhiêu bộc lộ của triều đình, tiêu xài hoang phí chẳng chịu tích cóp, thì đến đời của lão mụn đã sớm chẳng còn lại cái gì nữa cả. Các bạn thử suy nghĩ một chút mà xem: Hắn từ nhỏ sống trong áo gấm nhung lụa, ăn sung mặc sướng, cả ngày chỉ uống rượu rồi lại đi chơi gái, cũng gọi là biết hưởng phúc, nào có biết đến cái gì gọi là gian khổ cơ chứ? Chẳng chịu kiếm lấy một nghề mà sinh sống, tổ tiên trước kia một thân bản lĩnh anh hùng, thiện chiến dũng mãnh, cưỡi ngựa bắn cung tài giỏi thế nhưng hắn cũng không thừa kế được một chút nào cái phẩm chất ấy, ngay cả bắn thỏ còn chẳng biết. Cha mẹ tuổi đã cao, liền lần lượt nối gót nhau mà qua đời, lão mụn chỉ còn cách bán đồ trong nhà mà lấy tiền mua thức ăn, lúc đấy còn đỡ, sau dần dà đồ đạc trong nhà cũng hết, chẳng còn thứ gì đáng tiền để bán, hắn một thân một mình, trên đầu không một mảnh ngói che thân, dưới đất không một miếng đất cắm dùi, bằng hữu thân thích trước giờ cũng không thèm qua lại nữa. Có một câu nói như này: “Người nghèo dù ở Thập Tự Nhai chẳng ai dám nhận là người thân thích, ruột thịt. Kẻ giàu nơi hoang sơn dã lĩnh bạn bè khắp nơi có đuổi đi cũng không hết!”

    Nghèo thì vẫn phải ăn cơm thì mới sống được qua ngày a! Phải làm gì đây? Hắn không còn cách nào khác đành dựa vào bộ bẫy kẹp da mà kiếm miếng ăn nuôi sống mấy người trong gia đình. Người vùng quan ngoại vẫn hay nói cái bẫy kẹp da này chính là chi hạ sáo nhi, thiết giáp tử, chuyên dùng để bắt hồ ly, chồn vàng,... Ở quan ngoại, những loài động vật này đều được gọi chung là bì thú, bởi vì thịt của chúng vừa dai vừa hôi không hề dễ ăn, được cái bộ lông thì lại vô cùng đáng tiền. Hơn nữa lại nói, khi đi săn bì thú không thể dùng cung tên, súng bắn chim hay là chó săn được, bởi vì một khi bộ lông bị tổn hại, coi như vứt đi, không đáng giá lấy một đồng nữa, hoàn toàn là vật vô giá trị, cho nên yêu cầu quan trọng nhất là phải bắt sống được chúng. Lão mụn kia lúc này rơi vào tuyệt lộ, đành dùng bộ bẫy kẹp da để săn thú kiếm chút tiền mà mua cái ăn sống tạm qua ngày. Làm cái nghề này, nếu thật sự có bản lĩnh lớn, lại cộng thêm vận khí tốt, không chỉ đủ sống mà còn có khả năng phát tài nữa kìa. Hắn thấy người ta bắt chồn, bẫy hồ ly mà phát tài lớn, nên cũng học theo mà mò tới nơi này. Nhưng săn thú nào phải chuyện chơi, đây cũng là một môn thủ nghệ đấy! Kiến thức học vấn chứa đựng bên trong chẳng phải là ít, quan trọng nhất chính là tìm kiếm tung tích dấu vết, từ đó phân biệt được loại thú gì, hành tung ra sao, ngoài ra còn phải quan sát vết cỏ, lần theo động tĩnh, ở đâu hạ kẹp, nơi nào đặt bẫy, lúc nào thì hạ, khí trời như nào thì đặt, tất cả đều phải dựa vào kinh nghiệm tích luỹ qua nhiều năm, hơn nữa còn phải ăn sương uống nắng, hết sức khổ cực. Đám bì thú càng đến mùa đông, trời lạnh lẽo giá rét, đất đá đóng băng, thì da lông chúng càng mọc dày để giữ ấm, lúc ấy mới là lúc mà bộ lông của chúng đạt giá trị cao nhất, có thể bán được rất nhiều tiền, thậm chí đến ngày tam cửu cực hàn chí thượng, phải ở lại trong núi mấy ngày liền cũng là chuyện quá bình thường (Trans: Tam cửu, như đã giải thích ở chương trước, là ngày lạnh nhất trong năm theo quan niệm của người Trung Quốc). Vấn đề là hắn vốn đã ham ăn lại thêm biếng làm, phàm là kẻ lông bông cầu bơ cầu bất thì nào nguyện ý chui rừng sâu vào núi thẳm cơ chứ, quá nhiều khổ cực, quá nhiều mệt mỏi a thân này sao chịu nổi! Cuối cùng lão mụn trở nên nghèo rớt mồng tơi, quần cũng sắp không có mà mặc rồi!

    Cho đến một ngày nọ, lão mụn lại lâm vào cảnh trong nhà chẳng còn gì để ăn nữa, gạo trong chum không có lấy một hột, đến chuột cũng chê nghèo quá đếch thèm mò đến trộm cho nhọc công. Đành vác mặt sang hàng xóm vay nhờ tí lương thực, nói sau sẽ trả, ai trong thôn mà chẳng biết rõ cái tính du thủ du thực, ăn không ngồi rồi của hắn, có cho mượn cũng không trả nổi. Có một câu nói rất hay, đó là “cứu cấp chứ không cứu nghèo”, thử xem cái dạng người như lão, nhà ai suốt ngày mà quản được chuyện ăn chuyện uống cho lão, lại cũng chẳng phải là họ hàng thân thích quái gì cả, cho nên mọi người cũng không thèm quan tâm đến hắn nhiều. Rốt cuộc hắn cũng đã bắt đầu cảm thấy bế tắc, đành xách theo cái bẫy kẹp da kia lên núi. Phải nói là hắn quá là xui xẻo, liên tiếp mấy ngày trời chẳng bẫy chẳng bắt được bất cứ cái gì hết, đến một con thú cũng chưa thấy qua, cứ như đang cố tình rủ nhau tránh mặt hắn vậy. Hắn trên người lại không mang theo lương khô, thực ra không phải là chủ quan không muốn mang, mà là trong nhà còn cái mẹ gì nữa đâu, lấy gì làm lương khô để mang đi chứ, đến lúc đói quá đành bắt tôm càng đất ăn tạm. Tôm càng đất là một loài côn trùng nhỏ sống trong đất, tên khoa học là dế nhũi, cũng có nơi gọi nó là “chó đất”. Lão bách tính vẫn thường hay nói: “Nghe tiếng tôm đất kêu, còn không mau mau dậy làm ruộng?” Cái thứ đồ chơi này liệu được mấy phần thịt cơ chứ? Bụng đói cồn cào, hai mắt long sòng sọc vằn vện tơ máu, hai chân run rẩy lập bập, luôn miệng than thở rên rỉ, tự trách mình mạng khổ!

    Đi mãi đi mãi, vừa hay đi đến một thung lũng. Bên trong thung lũng này lão mụn chợt phát hiện ra một lều ngô nhỏ, cái gì gọi là ngô lều chứ? Chính là một loại chỗ ở đơn sơ tạm thời mà đám thợ săn thường dùng mỗi khi đi săn, học theo túp lều của những người nghèo ở Đông Bắc địa khu, trông như thế nào? Chặt lấy mấy cây gỗ, vót bỏ cành thừa, rồi dựng lên thành một cái khung hình tam giác, dùng cỏ khô với vài mảnh vải rách, vài miếng nỉ thừa linh tinh đem phủ lên hai bên cạnh lều. Liền thành một chỗ có thể chui ra rúc vào, cũng gọi là có chút tác dụng che nắng che mưa. Dĩ nhiên, gặp hôm nào trở trời, mưa hơi to một tí, nắng hơi to một chút thì thôi xác định đỡ không nổi, nhưng mà dù sao thì có còn hơn không. Bởi vì hình dáng giống như cái bánh ngô hấp (Trans: Các bạn có thể xem qua hình ảnh bánh ngô hấp ở đây để dễ hình dung: https://en.m.wikipedia.org/wiki/Wotou), cho nên mọi người liền thuận mồm gọi luôn là “lều ngô”. Giữa rừng sâu núi thẳm vùng Đông Bắc này, tự nhiên bắt gặp một, hai cái lều ngô cũng chẳng điều gì kỳ quái cả, cũng không phải sở hữu của mỗi mình ai, toàn là do những tay thợ săn thường xuyên phải lên núi đặt bẫy bắt thú, nên tiện tay dựng lên cái lều để có chỗ nghỉ chân, rất đơn sơ. Đến lúc rời đi vẫn để nguyên đấy không dỡ bỏ, bởi vì bên trong đồ đạc cái gì cũng không có, thành ra đếch cần phải nhọc công phí sức phá đi làm gì, cứ để đấy coi như tạo phúc cho những người đi rừng bị lỡ buổi chẳng hạn. Một khi trời tối, nghỉ chân tạm ở trong lều ngô, không dám nói là thoải mái hay không thoải mái, chỉ biết so với nửa đêm nằm ngoài trời để cho chó sói tha đi còn tốt hơn nhiều lần.

    Lão mụn nhìn thấy trong thung lũng có một cái lều ngô, liền nghĩ trong đầu: Hay là mình cứ vào đấy dừng chân nghỉ ngơi tạm vậy, nằm một chút cho nó lại sức tí còn đi tiếp! Vừa nghĩ xong, lão mụn đang định nhấc chân bước vào trong lều, bất ngờ từ bên trong có một người đi ra, vừa vặn hai người mặt đối mặt với nhau, đem lão mụn doạ cho hết cả hồn — hắn nào có nghĩ tới trong lều này lại có người ở từ trước rồi, đến khi bình tĩnh nhìn lại, mới thấy rõ người này thì ra là một lão thái thái, trên người mặc một chiếc áo choàng đỏ thẫm, màu sắc đặc biệt gai mắt. Vóc dáng nhỏ bé không cao, nhưng xem ra ý tứ này thì chắc tuổi tác cũng không hề nhỏ, da thịt tứ chi đều nhăn nhúm, co rúm lại chỉ còn da bọc xương. Khuôn mặt của lão thái thái này thì quá là doạ người, ba phần không giống người, bảy phần tựa như quỷ, da trên mặt xệ xuống, sô lại với nhau thành những vết nhăn dài, tuổi tác quả thật đã quá cao rồi, khắp mặt loang loang lổ lổ vết ban vết bớt do bị nấm da, nhưng đôi mắt lại loé ra tinh quang rất sáng. Đối với người bình thường mà nói, một khi tuổi cao sức yếu, nhãn cầu sẽ trở nên mờ đục thiếu sức sống, nhưng lão thái thái này hai mắt lại tựa như phóng ra một luồng quang mang rực rỡ, khiến cho người ta nhìn vào không khỏi giật mình kinh hãi. Tóc trên đầu nói hoa không hoa, nói trắng không trắng, cũng đã sớm rụng mất không ít, chỉ thấy bà ta đem chỗ tóc còn lại túm chung một chỗ, dùng lược quấn lại thành búi, bên trên còn cắm thêm một bông hoa, đã khô quắt khô queo từ bao giờ, trông rất xấu xí khó coi. Lão thái thái trong tay chống một cây gậy đen nhẻm bằng gỗ mun, đi lò dò từng bước từng bước một, đang từ trong lều đi ra ngoài. Lão mụn nghĩ thầm trong đầu: Lão thái thái này là ai vậy nhỉ? Nhìn cách ăn mặc này, trông không giống như một lão thái thái thật sự, bà ta tại sao lại một mình ở trong rừng sâu núi thẳm như này chứ?

    Các bạn phải biết rằng, thời điểm lúc ấy rơi vào những năm cuối cùng của nhà Thanh, bắt đầu bước vào thời kì dân chủ hậu phong kiến, các lão thái thái bấy giờ chân ai cũng bị bó từ nhỏ, bé quặp lại, đi bộ trên đất bằng còn rất tốn sức, run run rẩy rẩy bước đi vô cùng chậm chạp, thường phải có một, hai đứa a hoàn đi theo đỡ, nói gì đến đường rừng đường núi như này, hơn nữa trang phục mà lão thái thái kia mặc trên người trông cũng quá là kì dị đi, lối ăn mặc này từa tựa như một sư bà vậy. Ở thời kì ấy mà nói, phụ nữ trong xã hội thường được gọi là tam cô lục bà. Đàn bà con gái lúc bấy giờ, rất chú trọng việc danh tiết, không hề bước ra khỏi đại môn nửa bước, ngách nhỏ cũng không đi, một khi cô nương chưa xuất giá, liền không thể tuỳ tiện xuất đầu lộ diện, để người khác thấy mặt. Gả cho người, quan trọng nhất là giúp chồng, dạy con, tam tòng tứ đức, cơ hồ sẽ không mấy khi ra khỏi cửa làm việc. Cho nên nói tam bà lục cô này, không phải để chỉ những người phụ nữ như vậy, mà là để gọi những người đàn bà chuyên làm mấy loại nghề nghiệp đặc thù (Trans: Chỉ những người phụ nữ làm nghề bất chính, lừa đảo. Ba cô trong đó có đạo cô, cô đồng. Sáu bà gồm bà mối, bà lang, mẹ mìn, chủ nhà chứa…).

    Ví dụ như khi nói đến tam cô, không phải muốn nói tới đại cô, nhị cô hay tam cô của một nhà nào đó, mà để chỉ ba loại cô: “ni cô”, “đạo cô”, còn có cả “quẻ cô”. Ni cô cùng đạo cô thì dễ hiểu rồi, tăng đạo của hai môn phái Phật giáo và Đạo giáo trước giờ có không ít phụ nhân xuất gia. Còn mỗi quẻ cô thì nghe hơi lạ tai một chút. Nói trắng ra thì là mấy con mụ hầu đồng hầu cốt, bói chân gà, xem quẻ thăm, đây thực chất cũng là một loại hình kinh doanh, hành tẩu giang hồ hoàn toàn dựa vào cái miệng ăn nói, nói hay nói tốt thì có cơm ăn, không thì nhịn. Lục bà chia ra thành: “bà mai”, “bà lang”, “bà mụ”, “mẹ mìn”, “tú bà” và “sư bà”. Trong đó sư bà là loại người đáng sợ nhất, có ngón nghề vẽ bùa nguyền thi, thỉnh thần hỏi vận mạng vô cùng tà dị, nghe đâu còn có thể câu thông với thần tiên trên trời cao, ác quỷ dưới địa phủ.

    Lão mụn vừa nhìn thấy người bước từ trong lều ra liền nhận ra ngay đấy là một sư bà, hắn thế nhưng không dám sơ suất thất lễ. Nói rõ hơn một chút cho các bạn hiểu, thời kì này con người ta rất chú trọng đến phép tắc lễ nghĩa, cho dù ngươi nghèo đến rớt mồng tơi, là loại khố rách áo ôm mạt hạng, nhưng chút lễ nghi này không thể nào thiếu được! Lão mụn vội vàng bước tới thỉnh an sư bà, nói: “Con là thợ săn lên núi đặt bẫy kiếm chút cơm ăn, đi tới thung lũng này chợt thấy có cái lều nhỏ, chân tay đã sớm mệt mỏi rã rời nên mới định bước vào nằm một chút, vốn tưởng rằng trong lều không có người, không nghĩ tới thì ra lão nhân gia ngài đang ở đây nghỉ ngơi, thật là làm phiền ngài rồi, con người trần mắt thịt, không thấy núi Thái Sơn, xin ngài chớ quở trách!” Nói xong hắn định bụng hỏi xin sư bà một miếng nước, nếu có thể liền xin thêm chút lương khô nữa, như vậy thì còn gì bằng. Sư bà hướng ánh mắt lên người lão mụn, quan sát một lượt từ trên xuống dưới, rồi lại nhìn trái nhìn phải, cứ như hoả nhãn kim tinh của Tôn Ngộ Không đang soi yêu quái vậy. Một lúc lâu sau, sư bà vẫn im bặt không nói một lời, chỉ ngoắc tay với hắn, rồi xoay người bước trở lại lều. Lão mụn trong lòng tự nhủ: Lão thái thái đây phải chăng ý bảo mình đi theo? Haha thật không uổng công nãy giờ tốn bao nước bọt nói lời hay ý đẹp, không chừng lại được một bữa ăn no! Hắn không thèm nghĩ nhiều nữa, lập tức nhấc chân đi theo vào bên trong lều.

    Vừa mới bước vào lều, lão mụn liền chau mày, không gian bên trong vừa bẩn lại vừa tồi tàn, thật không còn gì để nói, đâu đây thoảng thoảng một mùi hương hết sức ghê người nữa, chợt thấy vị lão thái thái không biết từ đâu bưng ra theo một chén cháo loãng đưa cho lão mụn uống. Lão mụn đã rất lâu rồi không có cái gì bỏ vào bụng, nhìn cái chén mà lão thái thái đưa tới tuy chỉ toàn là cháo loãng, lõng bõng một vài hạt gạo, nhưng có còn hơn không a! Lập tức lang thôn hổ yết, đem chén cháo này uống một hơi hết sạch, còn tiếc nuối liếm liếm chút cháo thừa dính ở đáy bát. Sư bà nãy giờ vẫn một mực ở bên cạnh hắn, lúc này mới thở dài, nói: “Nhìn ngươi hãy còn trẻ, lại cũng có chút hiểu biết lễ phép, không giống như đám nông dân bần hàn, tại sao lại để bị đói thành ra như vậy?”

    Lão mụn vội vàng buông bỏ chén cháo xuống, đặt sang một bên, lấy tay áo lau qua miệng, rồi một mực cung kính thưa: “Lão nhân gia à, chén cháo này của ngài đã cứu lấy mạng nhỏ này của con! Ngài hỏi con thì con xin thành thật trả lời, không dám dối ngài….” Hắn vừa húp xong một chén cháo, cũng gọi là hồi được chút sức, liền đem hết nỗi khổ tâm, ấm ức cất giấu trong lòng bấy lâu nay ra hồi tưởng lại, trước tiên là màn sụt sùi kể khổ, hắn kể cho lão thái thái chuyện tổ tiên hắn hồi trước là khai quốc công thần, con cháu nhiều đời được hưởng lộc vua, mỗi tội đến đời hắn thì không còn được nữa, cha mẹ song thân thì vừa qua đời, bằng hữu thân thích đều bỏ hắn mà đi, hàng xóm xa lánh ghẻ lạnh, rồi đến chuyện hắn phải chịu nhiều khổ cực như nào, đã thế vận số còn đen đủi ra sao, phải dựa vào cái bẫy kẹp da tổ tiên để lại này mà lên núi sâu xuống nước độc kiếm sống, nhưng cũng chỉ được bữa nay lo bữa mai mà thôi. Ngài nói xem, người ta đều là do cha mẹ sinh ra phụ mẫu nuôi dưỡng, đều cao thấp dài ngắn giống nhau, chẳng ai hơn ai cái gì cả, vậy cớ sao có người sinh ra đã được hưởng lạc vui thú, chẳng phải lo chuyện ăn chuyện uống, sống an nhàn cả đời? Trong khi đó có người thì lại phải cả ngày phải bôn ba vất vả, có khi còn chết đường chết chợ vì đói, vì rét? Lão mụn càng nói càng ủy khuất, mắt còn rưng rưng như thật, nhưng tuyệt không đả động gì đến việc hắn vốn là kẻ ham ăn lười làm.

    Đợi hắn đem mấy cái văn ôn nghèo kể khổ đã cũ rích ấy nói xong một lượt, sư bà mới kỳ kỳ quái quái mở lời: “Ngươi nha, cũng không cần phải oán trách như thế làm gì, sinh tử có số, phú quý do trời, một người hoặc giàu hoặc nghèo, đều đã sớm được quyết định từ khi còn là bào thai. Nếu mệnh ngươi định trước đã là mệnh nghèo hèn bất phú, thì cho dù có gặp cơ duyên xảo hợp để ngươi thoát nghèo trở nên giàu sang, cũng sẽ phải hao tốn không ít tuổi thọ, ngươi nói xem, liệu có đáng không?”

    Đừng nhìn lão mụn tuy giờ đã rơi xuống tầng lớp nghèo mạt hạng đáy cùng của xã hội, hắn thực ra không hề ngốc, cũng đã nghe ra ít nhiều hàm ý chứa trong lời nói của sư bà kia, vội nói: “Sư bà có chỗ không biết, giống như con đây vốn sinh ra số mạng đã định sẵn trở thành một người khổ cực, bữa nay còn chưa lo được nói gì đến bữa mai, hôm nay suýt nữa thì chết đói, tự nhiên gặp được ngài ban cho một chén cháo, tức là lão thiên đã mở một mắt tha cho cái mạng này chưa phải xuống địa phủ trình tên. Bây giờ rời khỏi đây, con cũng không biết đi đâu mà kiếm bữa tiếp? Nói không chừng ngày mai cái thân này đã nằm gọn trong bụng thú hoang sói dữ, vậy còn phải nghĩ nhiều làm chi cho nhọc thân. Ngài đừng nói muốn phát tài phải chịu hao tuổi thọ, con xin nói thực lòng một câu, giờ chỉ cần ngài cho con được ăn một miếng sủi cảo nhân thịt lợn cải trắng, rồi muốn làm gì cái mạng nhỏ này con cũng xin nguyện ý!” Nói xong những lời này, hắn e dè liếc mắt quan sát sư bà. Chỉ thấy khóe miệng sư bà khẽ khẽ động, thật giống như muốn nói gì đó, nhưng lại thở dài một hơi rồi khoát khoát tay: “Ngươi tuổi còn trẻ tuổi nông nổi bồng bột, không biết sự đời nông sâu ra sao, ngẩng đầu ba tấc có thần linh soi xét, chớ có đem mạng sống ra nói linh tinh!”

    Lão mụn càng nghe càng thấy trong lời sư bà này có ẩn ý gì đó, nói thế khác quái gì đang câu dẫn thằng này? Cho nên lại cố nói: “Sư bà ngài có phải là không tin lời con nói phải không? Con nói thật với ngài lần nữa, đừng xem con nghèo hèn như này, thế nhưng lời nói ra lại rất có trách nhiệm, lão mụn này xin chỉ thiên hướng địa mà lập lời thề! Trời xanh trên cao, hoàng thổ dưới đất, trước sau hai vị Thần tài Phú quý, trái phải hai vị Hộ pháp Long Vương, nếu như có một ngày, ờ gì ý nhỉ, à đúng rồi, có một ngày để cho lão mụn tôi được hưởng cảm giác vinh hoa phú quý, tiền bạc đầy túi thì có muốn lấy đi bao nhiêu tuổi thọ, tôi cũng xin cam tâm tình nguyện!”

    Sư bà nhìn chằm chằm lão mụn một hồi lâu, rồi mới chậm rãi mở miệng nói: “Xem ra thiên ý sớm đã sắp xếp như thế rồi, để ngươi hôm nay gặp được ta ở đây, đã như vậy thì, lão thân này đành nghe theo ý trời mà thành toàn cho ngươi, mau lại đây xem thứ này!” Nói xong bà ta liền thò tay ra phía sau lưng, lấy ra một cái túi nhỏ rồi đưa lên trước mặt để xuống.

    Thứ mà lão bà vừa lấy ra từ sau lưng, nhìn qua chỉ thấy giống một cái túi vải thông thường, lão mụn đưa lên trước mắt ngắm nghĩa mãi cũng chẳng nhận ra cái thứ đồ chơi này có điểm gì đặc biệt hay hiếm lạ cả, liền đặt lại xuống bàn, chợt nghe bên trong túi vang lên tiếng “rào”, cảm giác nặng trĩu như chứa rất nhiều thứ gì đó. Lão mụn lại cẩn thận cầm lên nhìn thêm một lần nữa, oái! Cái túi không còn trống rỗng như lúc đầu nữa, mà bắt đầu căng phồng lên, bên trong không biết là đựng đồ vật gì nữa!

    Sư bà thấy lão mụn ngạc nhiên, liền giải thích cho hắn nghe: “Ta có một cái túi này, bên trong chứa chút tiền lẻ, thấy người đáng thương như thế, thì đành mủi lòng thành toàn cho người. Nói là chút tiền lẻ nhưng cũng không hề ít đâu, ngươi muốn lấy bao nhiêu thì lấy, đừng ngại!”

    Lão mụn không dám tin vào tai mình, không ngờ tới thì ra lão thái thái này lại là một vị thần tài gia a! Mà không đúng, không phải là thần tài gia, mà là thần tài nương nương! Thì ra ngài là thần tiên hạ phàm xuống dựng lấy một căn lều giữa rừng, chờ người hữu duyên tới để tặng tiền giúp họ đổi đời, thật là tốt quá đi? Đang suy nghĩ linh tinh, chợt lão mụn lại nghe sư bà kia nhắc nhở: “Bất quá, ta phải nói trước cho ngươi biết, tiền cũng không phải là lá đa, chớ có tham lam lấy hết sạch, ngươi nên nhớ rằng, càng lấy ra nhiều thì tuổi thọ phải đánh đổi càng nhiều, hãy suy nghĩ cho cẩn thận đi đã!” Nửa câu sau này, liệu lão mụn có nghe thấy không? Nghe, tất nhiên là nghe thấy rồi, mỗi tội chỉ ngấm có ba từ: lấy tiền, không lấy hết, giảm tuổi thọ! Hừ, có thể giảm được bao nhiêu cơ chứ? Chủ yếu lấy được bao nhiêu ý chứ, quan tâm đếch gì dăm ba tuổi mất đi a? Hắn không thèm để ý nhiều nữa, lúc này hai mắt đã mở căng ra nhìn chằm chặp vào cái túi tiền như một con thú đói đang nhìn miếng mồi ngon lành trước mặt vậy, trong lòng vẩn vơ suy nghĩ trong cái túi căng phồng kia có thật là chứa tiền không nhỉ? Là bạch ngân, hay ngân phiếu, hay thậm chí vàng thỏi? Thật trên đời lại có chuyện tốt từ trên trời rơi xuống như vậy sao?

    Hắn nhìn nhìn sư ba một chút, trong đầu nghĩ dù sao thì cũng nghèo bỏ mẹ rồi, bảo ta lấy thì ta cứ lấy sợ quái gì! Hắn liền thò bàn tay vào trong cái túi sờ soạng, con mẹ nó chứ, tiền, đích thị là tiền rồi! Cuống quýt lôi ra xem, trời ạ, là một khối bạch ngân, bạch ngân thượng hạng a! Hàng thật giá thật luôn, đi đến địa phương nào moi ra vài cục như này cũng sẽ khiến người ta phải há hốc mồm. Mà bên trong cái túi kia lại đầy ắp từng khối từng khối một. Hắn lấy ra thêm một khối bạch ngân nữa, mân mê trong tay, như nhớ ra điều gì đó, liền đưa lên miệng cắn thử một cái, bốn dấu răng hiện lên mờ mờ, hắn lại thổi thổi vài cái, rồi thả xuống bàn kiểm tra độ vang, không sai, đây tuyệt đối chính là bạch ngân nguyên chất! Lão mụn quay sang hỏi sư bà: “Liệu con có thể lấy thêm vài khối nữa được không?” Sư bà nói: “Ta vừa nói rồi đấy, lấy bao nhiêu tuỳ ngươi, sau nay tiêu hết, lại có thể tới đây tìm ta!”

    Lão mụn vỗ đùi cái đét, hí hửng: “Được luôn! Con cũng không khách khí với ngài nữa, trước xin phép lấy một ít đã!” Ngay sau đó liền vơ lấy một vốc đầy, nhét chật hai ống tay áo, rồi nắm chặt lại kẻo rơi thì uổng lắm, lúc này chỉ thấy hai tay áo hắn căng phồng. Xong xuôi, lão mụn bèn quỳ xuống trước mặt sư bà, ầm ầm ầm ầm, dập liền mười mấy cái váng cả đầu.

    Sư bà nhìn hắn, nói: “Không cần dập đầu làm gì cả, vẫn là câu nói cũ, hai chúng ta, coi như hữu duyên với nhau, túi tiền kia là của ngươi, khi nào cần, cứ tự nhiên tới lấy!”

    Lão mụn đáp lại một tiếng, rồi vội vàng bước ra khỏi lều, ngẩng đầu lên nhìn thấy sắc trời hãy còn chưa tối, bây giờ vẫn là ban ngày, chắc không phải là mơ đây à nha, nếu đã không phải là mơ, vậy quả là ông trời quả thật có mắt xót thương chúng dân nghèo?
    Lão mụn ôm đống tiền vừa lấy được, lò dò bước xuống núi. Hành trình trở về phải nói là rất khó khăn, té lên té xuống mấy lần, chân tay mặt mũi sứt sẹo hết cả, thế nhưng hắn lại chẳng cảm thấy đau đớn gì hết. Vất vả lắm mới lết đến được chân núi, hắn tìm một tảng đá ngồi nghỉ chân, như chưa tin vào những gì vừa xảy ra, bèn tự mình véo thật mạnh vào má, ái ui đau quá a! Đau đến nỗi nhe cả răng, một bên xuýt xoa mặt, còn một bên hí hửng mãi không thôi. Thật không phải là nằm mơ gì hết! Vừa nghĩ đến đây, trong bụng hắn lại sôi sùng sục vì đói, bao lâu nay chưa được một bữa no nào tử tế ra hồn, một chén cháo loãng còn chẳng đủ để lót dạ, phải tìm xem có quán ăn nào gần đây không vào đánh chén một bữa đã, bằng không để lão bụng lão ý mà đói lên lão ý làm phản thì chết! Lập tức nắm cẩn thận lại tay áo, sải bước đi nhanh tìm quán ăn.

    Các quán ăn ở vùng quan ngoại này đều dùng cờ xí để thay cho biển hiệu. Nếu thấy chỉ treo một cái cờ thì đó là quán ăn nhỏ, bán đủ loại nào là bánh bao, sủi cảo, mì sợ các thứ, nhưng chung quy chỉ toàn là đồ ăn bán cho tầng lớp dân chúng thấp hèn trong xã hội, thứ nhất là để giải quyết khâu đói, thứ hai là phải vừa nhanh vừa tiện, chỉ cần một hai miếng liền có thể chén xong luôn, lão bách tính ăn xong rồi còn phải đi làm nữa thời gian đâu mà ngồi rềnh ngồi rang. Quán ăn bên ngoài treo hai lá cờ, vậy bên trong liền thực đơn có rau có canh, có thức ăn nóng nguội tùy ý, còn có cả rượu gạo đun trên bếp lửa nữa chứ. Treo bốn lá cờ, thì thôi, gọi luôn là đại tửu lâu đi, cái gì mà thú vật trong núi, yến nhạn trên trời, đầu khỉ tổ yến vây cá mập, tay gấu sò khô sừng hươu tươi, con mẹ nó chứ, sơn hào mỹ vị, không gì là không có, chỉ sợ ngươi nghĩ không ra thôi! Ngày trước, có thể bước vào quán cơm nhỏ mà gọi một tô mì không người lái (Trans: Tức tô mì không chẳng có gì ngoài sợi mì với nước lã), đối với lão mụn mà nói, chẳng khác gì là ăn tết cả. Còn quán cơm treo hai lá cờ hiệu ngoài cửa, ngay cả nhìn thôi mà hắn cũng không dám. Hôm nay thì mọi chuyện đã khác rồi, trong tay hắn giờ cầm thật nhiều là bạch ngân a, hai cái thứ quán cơm rẻ tiền kia, hắn đếch thèm quan tâm nữa luôn, trực tiếp khệnh khạng bước vào một đại tửu lâu, quả thật là đúng với câu: người là anh hùng, tiền là ruột gan! Lão mụn cũng thừa biết bọn hầu bàn tiểu nhị ở mấy đại tửu lâu đều là mấy thằng ôn con chuyên nịnh hót xun xoe, nhìn người mà tiếp đón, thấy người khố rách áo ôm chẳng có tư thái đại gia gì mà đi vào trong tửu lâu, còn chưa đợi ngươi ngồi ấm mông, bọn chúng liền một cước đạp bay ngươi ra khỏi cửa. Cho nên lão mụn vừa mới ngồi xuống, việc đầu tiên là lấy ra vài khối bạch ngân đập xuống bàn để ra hiệu đã. Tiểu nhị chợt phát hiện có kẻ ăn mày to gan dám bước chân vào đây, vội chạy tới định đuổi đi, bỗng thấy vị “đại gia ăn mày” kia móc từ trong ống tay áo ra mấy khối bạch ngân vỗ vỗ, hai từ “Cút ngay” còn chưa kịp bay ra khỏi miệng liền bị nuốt lại, tí thì nghẹn, vẻ mặt ngay tức khắc thay đổi, cười toe toét trông rất đáng yêu: “Ai u, lão tổ tông của tôi ơi, ngài mới tới a!”

    Lão mụn lúc này mới nói muốn uống rượu với chút thức nhắm, lâu ngày trong bụng hắn đã chẳng có tí dầu tí muối nào rồi, toàn phải nhặt quả rừng rau dại nhai tạm. Trước hãy cứ đưa tới nửa cân rượu trắng, một đĩa đậu phộng rang muối đã, xong lại gọi thêm bốn món nóng: chân giò sốt mật ong, súp cá hầm bào ngư, tôm hấp chanh xả, canh gà tần thuốc bắc. Các bạn chớ quên, tổ tiên hắn trước kia đã từng ăn không ít lộc của vua, thưởng thức qua không ít mỹ vị, cho nên lão mụn cũng gọi là biết món nào ngon, món nào dở a! Lại nhìn cái dáng ăn của hắn, hai tay liên tục gắp, miệng nhai nhồm nhoàm, răng dính đầy thịt đầy mỡ, trông cứ như thuồng luồng hà bá vậy, đến nỗi mà cúc áo trước cúc quần sau cứ lần lượt tung ra từng cái một, ăn xong hãy còn liếm sạch cả đĩa, vét bóng cả bát. Tiểu nhị đứng ở một bên phục vụ, nhìn thấy cảnh này, chỉ biết lắc đầu ngao ngán, vị tổ tông này kiếp trước liệu có phải là quỷ đói vừa mới được đầu thai hay không, cái bộ dạng này là kiểu cả nghìn năm chưa được ăn cái gì rồi a!

    Sau khi đánh chén một bữa no say xong, lão mụn thoả mãn lau lau cái miệng đầy mỡ rồi nghênh ngang đi ra ngoài. Tiếp theo hắn sẽ đi tìm một cái nhà tắm a, lâu ngày lăn lộn núi rừng, chân tay mặt mũi đều dính đầy đất cát bẩn thỉu, phải kì cọ một hồi cho thật thống khoái mới được! Tắm rửa sạch sẽ xong xuôi, tiện thể cạo luôn đống râu ria lởm chởm, hắn tiếp tục đi vào trong thành, đến một cửa hàng bán y phục khá nổi tiếng, trực tiếp mua lấy một thân trang phục lộng lẫy, từ đầu đến đít thay đổi hoàn toàn khiến cho không một ai có thể nhận ra lão mụn nghèo đói ngày xưa nữa, thật đúng là người đẹp vì lụa ngựa đẹp vì dây cương, vốn nhẽ lão mụn chính là xuất thân từ một trong những gia tộc tại kì, nhưng do hoàn cảnh xã hội mà xuống dốc không phanh, mãi tới tận bây giờ mới lại được mặc gấm mặc lụa lên người, khiến cho luồng thần khí tinh quang của tổ tiên dường như đã trở lại trên người hắn một lần nữa. Đám hồ bằng cẩu hữu năm nào còn xa lánh hắn, thế mà giờ thấy lão mụn phất lên, ra tay lần nào là hào phóng rộng rãi lần ấy, đều lục tục tới tìm hắn ôn lại chuyện xưa nối lại giao tình, thật là một lũ cơ hội, giả tạo! Liền mấy ngày trời khắp các tửu lâu vang lên tiếng cụng ly nâng đũa của bọn chúng, không cần biết có mấy người ăn, cứ đến là gọi ra một bàn yến tiệc với đủ món trên trời dưới đất, ăn uống no đủ rồi thì kéo nhau tới sòng bài đốt tiền tiếp, hoặc chui vào kỹ viện thưởng hoa ngắm nguyệt, ngày nào cũng thế từ sáng tới tối, tiền trong túi cũng đã sắp cạn sạch.

    Lão mụn bắt đầu cảm thấy hối hận, tự trách mình tại sao ngày ấy không lấy nhiều thêm vài khối bạch ngân nữa chứ, số tiền lần này mang về ăn vài bữa thì còn tạm được chứ để ăn cả đời chắc chắn là không đủ, hôm qua ăn thì hôm nay cũng phải ăn sao có thể nhịn được bữa nào. Hắn nghĩ mãi, giờ chỉ còn mỗi cách là phải lần nữa vác xác lên núi, tìm lại được căn lều ngô dựng giữa thung lung nọ, rồi vào trong dập đầu với sư bà thì mới mong có tiền tiêu xài tiếp. Nhưng trong đầu hắn chợt hiện ra một đống câu hỏi, nếu giờ lại tới lấy tiền trong cái túi vải thần kỳ kia thì liệu có thể xảy ra hậu hoạ như nào nhỉ? Nói là sẽ hao tổn tuổi thọ, nhưng không biết hao tổn kiểu quái gì nhỉ? Lần này cầm tiền trong tay, tuy rằng mới vài ngày đã tiêu sạch bách, nhưng được cái cuộc sống so với thần tiên liền tiêu diêu tự tại, sung sướng thoải mái hơn là cái chắc rồi, thường nói cầm tiền đổi mạng, thì ra ý tứ chính là như này, cho dù phải sống ít đi một hai ngày, ta đây cũng không tính là chịu thiệt gì cả. Thà nói ăn bữa nay kệ mẹ bữa sau còn hơn bữa nay có, bữa sau cũng có, nhưng có toàn cơm hẩm cháo hiu, việc quái gì phải khổ sở như thế cho nhọc thân, cứ sống ung dung thoải mái được nhiêu năm thì hay bấy nhiêu. Hãy nhìn ta xem, sau khi có tiền cuộc sống liền quá là thoải mái, vinh hoa phú quý giờ nắm gọn trong lòng bàn tay, không nói đến mỗi ngày đều được ăn ngon mặc đẹp, mà quan trọng nhất là ánh mắt của bọn người kia nhìn ta bây giờ so với lúc trước đã không còn giống nhau nữa, cả mấy em gái trong hương phiêu kỹ viện, thấy ta là liền xúm vào nịnh nọt xoắn xít, oanh oanh yên yến vây quanh, phục vụ còn chu đáo hơn cả đối với tân nương sắp về nhà chồng vậy, cuộc sống như thế mới đáng gọi là sống, đáng để trải qua chứ!

    Lão mụn lúc ở nhà thì quyết khi đến nơi phải hỏi sư bà cho rõ, nhưng vừa mới lên đường liền quên sạch luôn, trong đầu giờ chỉ toàn nghĩ xem sau khi có tiền rồi thì sẽ ăn cái gì, chơi đùa với cô nương nào mà thôi! Vất vả mấy ngày cuối cùng cũng tới được căn lều kia, vừa bước vào trong, trông thấy túi tiền thần kỳ của sư bà vẫn đặt trên bàn như lần trước, hai mắt hắn lập tức sáng rực, chẳng thèm nghĩ ngợi gì nữa, trực tiếp thò tay vào lấy bạch ngân. Sau khi tiền đã nhét đầy cả người, lão mụn vội vàng rời núi để còn đi tiêu tiền ngay cho nóng, vã quá rồi. Thật phải nó là tiền kiếm càng dễ thì càng tiêu nhanh, chẳng mấy chốc đã lại hết sạch tựa như nước chảy mây trôi, có bao nhiêu bạch ngân đi chăng nữa cũng chẳng đủ cho hắn phung phí hoang xài, bất đắc dĩ lại phải mò tới căn lều ngô kia để bổ sung thêm tiền vậy. Thịt thà ăn suốt ngày, rượu chè tu suốt tháng, quán ăn nào hắn cũng đã từng thử qua, cao lương mỹ vị nhai nhiều đến phát ngán thì chuyển qua ăn màn thầu, sủi cảo, mì sợi cho nó thanh đạm. Bước chân ra khỏi cửa là một thân y phục lộng lẫy, chỉnh tề, cứ hai ngày ba bữa lại đổi bộ khác đắt tiền hơn. Nếu chỉ tiêu vào ăn vào mặc thì còn đỡ, đằng này hắn còn bao nguyên cả kỹ viện, chơi gái đánh đĩ suốt ngày, chán chán thì đi đánh bài cửu, hút thuốc phiện, thậm chí còn muốn mua nhà tậu đất nữa kìa! Đừng nhìn vị đại gia này mặc dù bản lĩnh tự mình kiếm tiền không có, nhưng thủ đoạn tiêu tiền thì cứ phải gọi là rất cao minh, cho dù có đặt trước mặt hắn cả một núi vàng lớn thì chắc chắn chẳng mấy cũng sẽ không còn một tí nào!

    Lão mụn từ ngày ấy vào núi như đi chợ, hết lần này đến lần khác, có tháng hắn còn vào núi năm sáu lần lận, chỉ với một mục đích duy nhất là moi tiền trong túi của sư bà về để tiếp tục công cuộc ăn chơi nhảy múa. Không hiểu sao tiền trong túi cứ như tự sinh ra vậy, lấy bao nhiêu đi chăng nữa cũng không hết được. Lão mụn mới đầu còn để ý đến chút lễ phép, lần nào lấy xong cũng dập đầu chắp tay trước sư bà tỏ ý cảm ơn, sau này thì cứ lấy đủ tiền xong là té thẳng luôn, chẳng thèm dập đầu chi nữa, ngay cả mở miệng thưa gửi một câu cũng không, chắc hẳn còn đang vội về với em nào trong kỹ viện rồi. Sư bà thấy thế nhưng cũng không ý kiến gì, chỉ đứng một bên nhìn hắn mà cười nhạt.

    Rồi mãi cho đến một ngày nọ, lão mụn sau khi đã cơm no rượu say chán chê rồi liền quen chân mò tới sòng bạc đốt tiền như mọi ngày, thường hay nói: “Cờ bạc lừa đảo nuôi ta lớn, bờ đê vẫy gọi đón ta về!”, sòng bạc là nơi như thế nào chứ? Kỳ thực bên dưới tay mỗi người đứng cái đều có lắp một cơ quan bí mật, khi ngươi lần đầu tới chơi hắn sẽ để ngươi thắng thông mấy ván, khiến ngươi cảm thấy kiếm tiền thật dễ dàng, càng chơi càng nghiện, mạnh dạn đặt nhiều tiền hơn, chỉ cần như thế, nhà cái liền lật mặt, khiến người thua dúi dụi, chính gọi là “nhất bảo nhị bảo, tam tứ bảo, thập tự loa ti chuyển tâm bảo”, mặc ngươi có bao nhiêu vàng bạc châu báu đi chăng nữa, chỉ với một cái bảo hộp với ba con xúc xắc xinh xinh, cũng đủ làm cho ngươi phải táng gia bại sản. Lão mụn ở trong sòng bạc thua lên thua xuống, đến cái quần duy nhất để mặc cũng cầm cố hết cả rồi, hắn trong đầu lại nghĩ đến việc vào núi tìm lều ngô để lấy tiền về gỡ gạc lại số đã mất. Sắc trời cũng không còn sớm nữa, lão mụn vội vàng cắm đầu cắm cổ mà đi, không hiểu sao hắn cứ cảm thấy đoạn đường núi vốn đã đi quen nhiều lần mà sao hôm nay lại khó đi như vậy, mới đi có được một lúc mà đã thấy đầu óc choáng váng, mặt mày xây xẩm, hai mắt lờ đờ, trong miệng khô khốc, mồ hôi vã ra như tắm, hít vào thở ra rất khó nhọc, không thông, lão mụn tự trấn an bản thân: Hầy dà, chắc là do đợt này đi đánh bạc nhiều quá, mấy hôm rồi chưa được ngủ lấy một giấc, đâm ra cơ thể trở nên suy nhược a. Mới đi chưa được bao xa mà sao giờ đã không thể nổi ra hơi rồi nè. Lần này lấy được tiền, phải về ăn uống tẩm bổ thêm mới được, nghe nói nhân sâm ướp đường đỏ đang là thứ thần dược bán chạy nhất hiện nay, nhờ người tìm mua lấy chục cân về để uống dần mới được. Lão mụn vừa đi vừa suy nghĩ linh tinh nhiều thứ, không để ý đến phía trước đang có người đi tới gần, liền trực tiếp đụng phải một cái thật mạnh. Hắn lập tức nổi đoá, tức giận đi lên túm lấy vai người kia, cậy mình là người có tiền nên liền lớn tiếng: “Ai? Đi đứng kiểu mẹ gì thế? Mù à hay mắt mọc đằng đít rồi? Đường rộng như vậy mà còn cố tình đi va phải ông mày! Ngươi có ý gì hả?”

    Lão mụn vốn chỉ định nói thế rồi đi tiếp, không ngờ người kia cũng dừng bước, nhìn chằm chằm vào hắn, hỏi ngược lại: “Ngươi đang định đi đâu đấy?”

    Lão mụn đang vội đi lấy tiền, bị hỏi vậy thì nổi nóng: “Ngươi đụng phải bổn đại gia đây, không thèm xin lỗi lấy một câu, lại còn dám hỏi đại gia đi nơi nào ư? Con mẹ nó chứ, ta đi đâu thì liên quan đếch gì tới nhà ngươi?” Nói xong, hắn giơ tay lên gạt người kia sang một bên, định tiếp tục đi tiếp kẻo muộn.

    Vị kia liền lấy trong tay ra một món đồ, rồi đột nhiên vung tay một cái, gõ lên đỉnh đầu lão mụn mấy tiếng kêu “ba ba”. Còn chưa gõ xong bỗng hô to: “Chớ có đi! Ta thấy ấn đường của ngươi đang dần chuyển thành đen, cái chết đang ở ngay trước mắt!”

    Lão mụn vốn là kẻ sợ thần sợ quỷ, mê tín dị đoan cực độ, không biết người đối diện có ý gì với mình, chỉ thấy bất thình lình bị vật gì đó gõ lên đỉnh đầu mấy phát, lại nghe hắn nói như vậy, toàn thân bất giác đổ mồ hôi lạnh, cảm giác hoa mắt chóng mặt lúc trước liền biến mất, hai mắt đã tinh tường trở lại, hít thở cũng được dễ dàng, thoải mái hơn trước rất nhiều! Lão mụn bèn ngẩng đầu lên để nhìn cho rõ người đang đứng đối diện, liền bị doạ cho sợ nhảy dựng cả lên, người kia trên dưới năm mươi tuổi, trên người mặc xiêm y loè loẹt nhức mắt, nói tím không phải tím, mà đen cũng không phải đen, bộ áo rộng hắn mặc rộng thùng thà thùng thình, được thêu lên bằng rất nhiều hình thú vật. Lão mụn dụi mắt liên hồi, cẩn thận nhìn kĩ lại, hình thêu trên đấy toàn là hình nhím, hình chuột, còn có cả hình của loài chồn nữa! Lại nhìn xuống phía dưới, quần chẳng ra quần mà váy chẳng ra váy, trong tay cầm theo một cây cán ngô, mới vừa rồi chính cây cán ngô này đã gõ gõ vào đầu lão mụn. Mặc dù bị gõ thẳng lên đỉnh đầu, tiếng gõ cũng không nhỏ, ấy thế mà ngược lại chẳng thấy đau một chút nào cả. Lão mụn lập tức nhận ra, người hắn đụng phải làm một vị Ban Can Tử. Ở vùng Đông Bắc có một loại người được gọi là như vậy, hoặc là lập đàn làm phép, hoặc là dựng đài đón tiên, thường xưng là Thần Côn Hoạt, bởi vì những người làm cái nghề này đa số đều sử dụng khí cụ là một cây cán ngô, cho nên cũng được gọi bằng tên khác là Ban Can Tử. Vị Ban Can Tử này sau khi bất ngờ gõ cán ngô lên đầu lão mụn, liền hỏi tiếp: “Ngươi đi vào núi làm gì? Ta nhìn ấn đường của ngươi đang dần đen lại, ánh mắt vô thần, môi nẻ răng khô, nguyên thần tan rã, nhất định là đã trêu chọc phải thứ không nên trêu rồi. Chỉ sợ là không sống qua được mấy ngày nữa đâu!”

    Lão mụn vừa nghe thấy đối phương nói như vậy, lúc này hai chân đã mềm oặt, không dám giấu diếm gì hết, đem chuyện hắn lên núi để đặt bẫy kẹp da như nào, tại sao lại gặp được sư bà ở trong một căn lều ngô giữa thung lũng hoang vắng, ngay cả việc hắn cứ hai ba ngày lại tới lấy tiền một lần cũng kể ra, không nói dối nửa lời, kể rõ đầu đuôi ngọn ngành mọi chuyện cho vị Ban Can Tử kia nghe.

    Ban Can Tử nghe xong sắc mặt trầm xuống: “Không tốt rồi! Ngươi đây chính là bị cửu vỹ hồ ly làm cho mê hoặc mà thành ra như này!”

    Lão mụn nghe thấy bốn chữ “cữu vỹ hồ ly”, xém tí nữa sợ đái cả ra quần. Trước kia luôn mồm nói cần tiền chứ không cần mạng, kỳ thực đều là do lúc ấy ta nghèo quá, chẳng còn quái gì để mất nữa, thành ra mới dám mạnh miệng to mồm nói những lời như vậy, lão thiên kia, ngươi lại tưởng là thật nên định để ta chết sao, ta hãy còn luyến tiếc trần gian lắm aaaa! Tục ngữ nói như nào ý nhỉ? Chết tử tế còn không bằng sống lay lắt! Hắn bỗng “phịch” một tiếng, quỳ xuống trước mặt Ban Can Tử, cầu cứu: “Vị Đại tiên này, tôi van xin ngài, cái này không thể trách tôi được, đều do tôi bị con mụ kia che mắt nên mới tin vào chuyện hoang đường do nó dựng lên! Tôi vừa nhìn đã thấy, ngài là một người rất có bản lĩnh a! Ngài cũng không thể thấy chết mà không cứu chứ huhu.” Vừa nói hắn vừa ôm chặt lấy hai chân vị “đại tiên” kia, khóc lóc mếu máo trông rất đáng thương.

    Ban Can Tử nhận thấy lão mụn là bị hồ ly mê hoặc, đồng thời hắn trong lòng cũng biết, thứ mà lão mụn gặp phải có đạo hạnh không nhỏ, đã có thể hoá được thành hình người, vậy chính là cửu vỹ hồ ly rồi! Lúc trước chúng ta đã cùng nói qua, hồ ly mỗi khi tu luyện được một trăm năm, liền sẽ mọc ra thêm một cái đuôi nữa, tu được đến tận chín cái, coi như đã gần thành chính quả, mà chín cái đuôi này được gọi là cửu cung chi linh. Cửu cung là gì? Chính là chín phương vị trong phong thuỷ, một cung Khảm, hai cung Khôn, ba cung Chấn, bốn cung Tốn, năm cung Trung, sáu cung Càn, bảy cung Đoài, tám cung Cấn, chín cung Ly, linh khí tu luyện được hội tụ thành chín phương vị trong thiên địa, mỗi phương vị phải mất một trăm năm tu hành, xem ra cũng không hề dễ dàng chút nào. Hơn nữa sau khi đạo hạnh tích luỹ đã khá đủ rồi, nó cũng không thể nói biến là liền có thể biến ra được luôn, mà còn phải trải qua một công đoạn khác nữa, nếu như nói muốn thành phụ nhân, vậy phải đi tìm một bộ hài cốt phụ nhân đã chết rồi gỡ lấy cái đầu lâu, đợi đến đêm trăng rằm, đem cái đầu lâu đó đội lên trên đầu mình, hướng về phía ánh trăng mà quỳ lạy hạ bái. Nếu đạo hạnh không đủ, vậy sẽ không thể nào biến hoá được, đầu lâu đội trên đầu sẽ rơi xuống ngay, còn nếu như chân chính lạy được bảy bảy bốn mươi chín lần mà đầu lâu vẫn không rơi, thì lập tức biến ra được thành hình người. Bắt đầu từ đấy, gặp tăng thì giả làm phật, gặp đạo thì tự xưng là tiên, lừa người ta quỳ bái cung phụng nó. Bất quá cửu vỹ hồ ly, còn phải trải qua một đại kiếp tai ương, đại kiếp là gì? Thiên địa vạn vật số mệnh đều đã được định đoạt sẵn từ trước, nên được sinh ra thì sẽ sinh ra, nên bị chết đi thì sẽ chết đi, nếu như cố tình muốn thoát khỏi số mệnh định trước, lúc phải chết lại không chịu chết, vậy sẽ thành yêu ma tác quái, khiến cho thiên địa bất dung, cho nên mấy loại quỷ hồ này, thường thường đều không tránh khỏi lôi phạt thiên kiếp, tan thành mây khói. Con cửu vỹ hồ ly này tìm cách mê hoặc lão mụn, để cho lão đổi tuổi thọ lấy tiền trong túi, coi như là bắt người đổi mạng tiêu tai trừ kiếp cho nó. Vì đạo hạnh của nó quá lớn, Ban Can Tử mặc dù có thể nhìn thấu, nhưng cũng không dám trực tiếp ra mặt. Hắn nói cho lão mụn một chủ ý, ngươi nha, cứ làm theo như này, nói theo như vậy, may ra mới mong cứu lấy được cái mạng trở về.

    Lão mụn hết thảy đều không biết phải làm sao, không thể làm gì khác hơn là nghe theo lời của Ban Can Tử đã dặn. Vẫn như mọi lần, vào núi tìm được căn lều ngô kia đầy quái quỷ kia. Sư bà vừa thấy hắn tới, liền cầm cái túi ra rồi chỉ tay vào nói: “Ngươi muốn lấy bao nhiêu, cứ thoải mái mà lấy đi!” Lão mụn hôm nay vừa mới bước vào lều, lập tức cảm thấy “vụt” một cái, toàn thân từ xương cụt cho đến đỉnh đầu đột nhiên tê dại đi, hèn chi trước giờ cứ ngửi thấy trong lều này có mùi gì đó rất kì quái, thì ra chính là mùi khai thối của con hồ ly này gây ra! Hắn lần này không dám thò tay vào lấy tiền như mọi lần nữa, trong lòng lúc này rất rõ ràng, mạng sống còn quan trọng hơn tiền, quỳ sụp xuống đất đánh “ầm”, dập đầu liên tục cứ như giã tỏi: “Sư bà tha mạng, sư bà tha mạng a!”

    Sư bà hừ lạnh một tiếng, nói: “Ngươi đã biết rồi sao? Nhưng ngay từ đầu lão thân đã nói rõ với ngươi rồi, ngươi lấy đi bao nhiêu tiền, thì phải để lại bấy nhiêu tuổi thọ. Mọi lần ngươi đều tới lấy tiền thoăn thoắt chẳng thèm suy nghĩ, tại sao hôm nay lại nói không muốn chết nữa?”

    Lão mụn nước mắt ngắn nước mắt dài, sụt sịt van lơn: “Bẩm sư bà, có một câu này người ta thường hay nói a! Đến con kiến hôi còn muốn sống, huống chi là con người? Con biết cái mạng nhỏ này của con đối với ngài chẳng đáng gì cả, xin ngài nương tay a!”

    Sư bà hắc hắc cười: “Này chàng trai trẻ, thứ nhất là ta không có ép cậu, thứ hai là cũng không đánh ngươi, lúc trước ta đã sớm nói xong hết cả rồi, lúc này nhà ngươi rượu cũng đã uống, thịt cũng đã ăn, kỹ viện cũng được dạo qua nốt rồi, tiêu xài của ta chán chê giờ lại muốn đổi ý, sợ rằng là còn khó hơn lên trời đấy!”

    Lão mụn vội làm theo lời Ban Can Tử đã dặn hắn lúc trước, nói với sư bà: “Xin ngài hãy để cho con một con đường sống, con cũng sẽ không dám ăn không của ngài. Ngày hôm trước, con có mua lấy một đứa về làm vợ, năm nay vừa tròn mười tám tuổi, chỉ cần ngài tha cho con tội chết, cái mạng này của vợ con xin dâng cho ngài, tuỳ ngài định đoạt. Chúng ta một mạng già đổi một mạng trẻ, ngài thấy thế nào a?”

    Sư bà suy nghĩ một chút, số tiền mà hắn lấy vẫn còn chưa đủ, ít nhất hôm nay vẫn chưa thể lấy mạng của hắn được, mà tiểu tử này giờ đã biết hết mọi chuyện rồi, có bảo hắn lấy nữa hắn cũng không dám. Nếu như lời hắn nói là thật, vậy cũng không phải là không thể đổi mạng cho hắn, liền hỏi: “Vợ ngươi đang ở đâu?”

    Lão mụn vội đáp lời: “Đang ở trong nhà con, nếu ngài không tin để con dẫn ngài tới xem nàng.”

    Sư bà tin là thật, bảo lão mụn đi trước dẫn đường về nhà hắn, một trước một sau dắt nhau ra khỏi núi, đi tới dưới chân núi, liền thấy một căn nhà bằng gỗ nho nhỏ. Lão mụn giơ tay lên chỉ, nói: “Thưa sư bà, đây chính là nhà của con. Vợ con nàng đang ở ngay trong gian đầu ngồi may vá.”

    Sư bà nói: “Vậy ngươi vào gọi nàng ra cho ta xem mặt một chút coi.”

    Lão mụn vội xua tay: “Úi cô dâu vừa về nhà chồng, để cho nàng bước ra ngoài có vẻ không tiện lắm, hay là ngài cứ tự mình vào trong nhà gặp rồi nói chuyện qua với nàng xem!” Dứt lời liền đi tới đẩy cánh cửa gỗ, xoay người lại nói: “Sư bà, con xin đem nàng dâng cho ngài!”

    Sư bà tin lời của lão mụn, nhấc chân bước vào trong nhà, chân trước chân sau vừa mới đặt xuống, lão mụn từ bên ngoài lập tức đóng sập cửa lại. “Xoạc xoạch rắc”, một cái khoá đồng to oạch khoá chặt cánh cửa lại, không để một sợi tóc lọt qua. Lúc này, Ban Can Tử nãy giờ vẫn nấp ở trong rừng liền chạy vội tới, rút cây cán ngô kia ra, chặn lại trước cửa nhà. Tiếp theo hai người bọn hắn đem từng bó từng bó cỏ khô đã chuẩn bị sẵn từ trước đến, rải khắp xung quanh bên ngoài ngôi nhà. Hai người sớm cũng đã bố bên trong, trên tường dưới đất thoa đầy máu chó mực. Sư bà vừa bước vào trong nhà liền biết ngay đã mắc bẫy, cả phòng tràn ngập máu chó mực như này, mặc cho nó đạo hạnh có cao thâm hơn đi chăng nữa nhất thời cũng không thể thi triển ra được thuật pháp gì cả, cửa phòng thì lại bị khoá chặt, còn có thêm cây cán ngô chặn ngang, kết quả là bị giam cầm trong lửa, thiêu sống luôn cùng ngôi nhà, thịt cháy bốc mùi hôi thối vô cùng, truyền đi xa khắp mười dặm tám phương! Lão mụn nhặt được cái mạng rách trở về, thế nhưng từ đấy về sau nghèo lại hoàn nghèo, chừng ba mươi tuổi thì bị một trận bệnh nặng rồi bỏ mạng, giấc mộng hoàng kim một đời này của hắn cuối cùng cũng không thành được sự thực!

    Ở vùng Đại Hưng An Lĩnh này, truyền thuyết tương tự như thế có nhiều vô cùng, kể liền ba ngày ba đêm chắc cũng không hết, câu chuyện của Trăn Tử chỉ là một trong số đó. Tôi sớm đã đọc qua “Cánh đồng tuyết bao la”, ma nay nghe kể đến một đoạn thần quỷ yêu hồ trong truyền thuyết dân gian, thật cảm thấy vẫn chưa đủ sáng tỏ, còn muốn bảo Trăn Tử kể tiếp đoạn nữa xem sao. Không nghĩ tới Trăn Tử bỗng đột nhiên hỏi chúng tôi một câu như này: “Bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly mà hai người các anh thấy ở trong cổ mộ Hắc Sơn Đầu, rốt cuộc trông như thế nào?” Tôi và Tuyền béo nghe những lời Trăn Tử vừa thốt ra, đồng loạt ngây người, bốn mắt nhìn nhau, anh lườm tôi, tôi lười anh, từ lúc chúng tôi thoát được ra khỏi cổ mộ ở Hắc Sơn Đầu, chưa hề hé ra nửa câu nói với người ngoài, Trăn Tử sao lại biết chứ? Không cần phải hỏi, giữa tôi và Tuyền béo, nhất định có một thằng là phản đồ!

    Tôi tức lắm, hai lỗ mũi thở phì phò, bao nhiêu thế hệ chiến sĩ cách mạng đi trước đã hy sinh đều là do bị bọn phản đồ bán đứng, mật báo thông tin cho địch nhân! Ở trong cái thôn thượng nguồn Hắc Thuỷ Giang này chỉ có mỗi hai thằng chúng tôi, tôi dĩ nhiên sẽ không bao giờ đem chuyện trước kia vì tránh bão tránh sói mà rơi vào một toà cổ mộ thời Liêu ở Hắc Sơn Đầu kể cho ai nghe cả, nghĩ tới nghĩ lui không phải tôi thì chỉ còn một người, con mẹ nó, chính là thằng Tuyền béo kia! Đã giao ước với nhau là sẽ bảo vệ bí mật này, từng câu từng chữ ngày ấy vẫn còn vang vọng bên tai, cớ sao nghiêng đầu phát liền quên? Tính kỷ luật tính tổ chức biến mẹ đâu mất rồi? Có mỗi cái việc giữ bí mật đơn giản như vậy mà còn không tuân thủ, một khi trong tương lai phát sinh Đại chiến Thế giới lần thứ 3, ta làm sao có thể tin tưởng để cho ngươi đi theo xông pha chiến trận diệt Liên Xô, trả thù Đế quốc Mỹ đực cơ chứ? Việc chúng tôi quyết định sẽ không nói chuyện này ra bởi vì có hai điều khiến mọi người lo lắng, thứ nhất là sợ có người đem vấn đề hết sức đơn giản này phức tạp hoá lên, vào những năm tháng ấy, người có thể làm việc này có rất nhiều, tuỳ tiện đội cho chúng tôi một cái mũ lên đầu cũng sẽ khiến cả lũ khó mà sống nổi; thứ hai là con hồ ly kia đối với chúng tôi có ân, ít nhất cho đến lúc cuối, nhờ có nó dẫn theo chúng tôi chạy vào trong cổ mộ, chúng tôi mới tránh được không bị bão tuyết vùi lấp hay sói hoang ăn thịt. Trước khi chết, nơi mà nó chọn làm nơi chôn thây vùi xác chính là trong ngôi cổ mộ thời Liêu đó ở Hắc Sơn Đầu, tuy rằng ngôi mộ ấy đã sớm bị sụp lở không ít, minh khí bồi táng bên trong cũng đã bị khoắng sạch, nhưng một khi để lộ thông tin ra, nói không chừng sẽ có rất nhiều kẻ chạy tới để tìm kiếm hoàng kim linh chi, như vậy há chẳng phải là quá có lỗi với nó? Tuyền béo trước giờ không biết giữ mồm giữ miệng, suốt ngày ba hoa khoác lác, chuyện nên nói hay không nên nói đều bô bô kể hết.

    Tôi đang muốn phê bình hắn, mà Tuyền béo cũng là thằng chuyên dựa vào mồm to mà doạ người, nhất định sẽ cho là tôi đã nói ra, nhưng miệng nói mà lại không có bằng chứng, giờ có lẽ tốt nhất không nên đổ bừa cho ai cả. Tôi cho rằng thà cứ hỏi thẳng Trăn Tử còn hơn là nghi nghi ngờ ngờ lẫn nhau, liền hỏi nàng: “Nhị muội tử, ngươi nghe ai nói hai chúng ta gặp được một bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly trong cổ mộ vậy?”

    Trăn Tử đáp: “Đây còn không phải do hai người các anh tự nói ra sao?”

    Tôi và Tuyền béo đều nghệt cái mặt ra: “Cái quái gì vậy? Thế tại sao hai thằng này lại không nhớ là đã từng qua với ngươi? Chúng ta nói lúc nào hả?”

    Trăn Từ nói: “Lúc trước hai người không phải là đã đánh chết được một con cáo chuyên trộm trứng gà sao? Khiến cho cậu Tư hết sức cao hứng, nhớ chứ? Xong chẳng phải có bao nhiêu rượu ngô trong nhà cậu đều mang ra mời hai người uống? Hai người các anh bú lấy bú để còn gì nữa, toàn chê chén nhỏ, trực tiếp dùng hẳn bát lớn uống cho thống khoái. Không phải lúc đó liền nói ra hết à?”

    Hai người chúng tôi nghe thấy thế, lập tức cảm thấy choáng váng, thật đúng là rượu vào thì lời ra — ai cũng đừng nghĩ nói ai nữa. Lại cẩn thận hỏi qua Trăn Tử một chút, thì ra chuyện chúng tôi lúc trước được hồ ly dẫn vào trong cổ mộ, tránh được trận bão tuyết kinh khủng cùng bầy sói hung dữ, còn phát hiện ra một gốc hoàng kim linh chi, ở Hắc Thuỷ Giang này không ai là không biết, không ai là không rõ, có mỗi chúng tôi là không biết gì hết cả, bí mật này sớm đã không còn là bí mật nữa rồi.

    Bất quá người dân sống ở vùng Hắc Thuỷ Giang này, đời đời kiếp kiếp ở trong rừng sâu núi thẳm săn cáo bắt hươu để sống, linh chi, vân chi thấy qua không hề ít, nhưng chưa từng nghe thấy trên đời này lại có loại nào gọi là hoàng kim linh chi, dân bản xứ lại vô cùng mê tín, cảm thấy đó là đồ vật sinh trưởng ở trong mộ huyệt, người sống không thể nào ăn được, vì vậy không ai dám đi hái cả. Nhưng tai vách mạch rừng, người trong nhà nói còn chưa thông thì người ngoài vách đã nghe tỏ, trên đại lộ chuyện này đã sớm trở thành câu chuyện bàn trà mỗi sáng, người nói thì vô tâm, người nghe lại hữu ý, thành ra cứ thế truyền đi rộng rãi.

    Mấy ngày sau, trong thôn bỗng nhiên xuất hiện hai người thợ săn lạ mặt. Họ nói rằng mình là hai anh em ruột, lão đại tên là Đại Hổ, còn lão nhị tên là Nhị Hổ, không phải người ở vùng Hắc Thuỷ Giang này, nghe nói là từ Trường Bạch Sơn xa xôi lặn lội đi tới, còn đặc biệt tới tìm tôi và Tuyền béo nói chuyện. Tôi đầu óc mơ hồ, không biết vì sao hai người thợ săn này lại tìm tới làm chi, trước mời bọn họ vào trong chòi ngồi nghỉ, rồi bảo Trăn Tử pha hộ một ấm trà nóng.

    Tôi âm thầm đánh giá hai người này, từ đầu đến chân một thân trang phục thợ săn, sau lưng mỗi người đeo một khẩu súng chim. Đại Hổ tuổi tầm trên dưới ba mươi, khí lực khôi ngô, trên mặt râu quai nón mọc dày, hai con mắt đặc biệt tinh anh, phải gọi là hổ cứ lang cố. Hổ cứ là để chỉ thân hình tư thế của người này, dáng vẻ khi đứng lên ngồi xuống tựa như loài hổ. Còn lang cố thì giờ không thấy nhiều, đó là dạng người mắt la mày lét, luôn nhìn trái ngó phải rình mò, rất giống với bọn sói gian xảo. Người này lúc nhìn ngang nhìn dọc, cần cổ không hề xoay một chút nào, bả vai cũng không nhúc nhích. Tôi đã từng nghe tổ phụ tôi nói qua về tướng người hổ cứ lang cố này, nhưng trước đây chưa được thấy qua bao giờ.

    Lại nhìn người huynh đệ tên là Nhị Hổ của hắn, tên này giống như người mắc bệnh hủi vậy, trên đầu quấn một tấm khăn kín mít thành một bó to, hai bên mặt dán mấy miếng cao thuốc da chó (Trans: Thuốc cao vốn để dán lên da chó, nhưng giờ lại dán lên người, cho thấy sự hủ bại và mê muội lúc bấy giờ), cơ hồ không nhìn rõ dáng dấp hắn ra sao, “chi chi ô ô” rất ít khi mở miệng lên tiếng, người khác nói với hắn mười câu, chưa chắc hắn đã đáp lại được nửa lời. Ngược lại với hắn, Đại Hổ thế nhưng lại rất biết ăn nói, hắn rút trong áo choàng ra một cái túi da, một bên vừa nói vừa cười cười nhìn chúng tôi bảo là có thứ đồ này hay lắm tặng cho hai vị tiểu ca đây nhai chơi, một bên thì bảo Nhị Hổ lấy từ trong cái túi đấy ra một bọc đường lớn. Hai người chúng tôi lẫn Trăn Tử đều trố mắt ra nhìn, ở trong vùng rừng sâu núi thẳm này, có được một bọc đường to như này thật là quá khó đi, như này là có ý gì đây? Vô công bất thụ lộc, đời nào lại cho không chúng tôi chứ? Chưa dừng lại ở đó, Nhị Hổ sau khi lấy ra bóc đường, lại thò tay vào túi lôi ra một bó lớn gì đấy màu đỏ, trời ạ, ngoài ra có thêm bốn bao thuốc lá hiệu “Chiến đấu” loại đặc biệt, bày ra trước mặt chúng tôi, còn cố ý đẩy sát lại. Tổng cộng là bốn bao thuốc là, cùng một bọc đường và mấy bó gì đấy chúng tôi không biết gọi tên là gì. Đại Hổ bụng dạ vô cùng thẳng thắn, hắn nói: “Hai người các cậu không cần phải lo lắng hay khó hiểu gì cả, hai anh đây chuyến này đi tới, cũng là vô sự không lên điện tam bảo, có việc cần nhờ nên mới mạo muội mò đến. Có chuyện cầu cạnh người mà lại đi tay không tới thì xem ra không được hay ho cho lắm. Khổ nỗi giờ mới là đầu xuân, chẳng kiếm được bộ da nào tốt tốt cả, chỉ săn được vài con thú nhỏ, đều mang lên trấn đổi hết lấy mấy thứ đồ này, toàn bộ coi như là quà gặp mặt, ngàn vạn lần xin chớ chê cười.”

    Sau đó liền nói rõ ý đồ của mình cho chúng tôi biết, thì ra Đại Hổ và Nhị Hổ hai người bọn hắn có tổ tiên là làm Đả Quan Vi ở Trường Bạch Sơn, như nào gọi là Đả Quan Vi? Nói trắng ra chính là những người chuyên săn bắt thú cho Hoàng thượng, đến đời anh em hắn hôm nay vẫn còn ăn bát cơm này, bất quá giờ là làm thợ săn cho thủ trưởng chứ không phải Hoàng thượng, không chỉ đơn thuần là săn bắt thú, trong rừng sâu núi thẳm có thứ đồ vật gì hiếm lạ, bọn bắn đều đi lấy. Mấy năm trước trong một lần lên núi bẫy chồn, lúc ấy tuy trời nổi bão tuyết giá rét, nhưng lại là thời điểm da lông thú vật phát triển tốt nhất cho nên họ vẫn cắn răng mà đi, ai ngờ Nhị Hổ không để ý bước hụt chân rơi vào một cái hang động, làm kinh động đến một con gấu đen đang vùi mình trong động ngủ đông, cũng may mạng lớn nên thoát chết, nhưng vẫn không tránh khỏi bị móng vuốt gấu đen phạt mất nửa khuôn mặt, từ đấy phải đội theo một cái khăn to, dán kín mấy miếng cao da chó thì mới dám bước chân ra ngoài, nếu không sẽ doạ chết người ta mất. Bọn họ nghe nói ở nông trường số 17 có mấy thanh niên tri thức về sản xuất, rồi bị bầy số cùng bão tuyết vây công, lại được một con hồ ly dẫn theo vào trong một ngôi mộ cổ, tránh được cả hai kiếp nạn một lúc, mà ở trong ngôi mộ kia còn sinh trưởng ra một gốc hoàng kim linh chi! Tổ tiên hai người làm Đả Quan Vi cho triều đình, kinh nghiệm cùng lịch duyệt không hề tầm thường, theo như truyền thuyết tổ tiên truyền lại cho con cháu đời sau, hoàng kim linh chi chỉ có thể sinh ra ở trên long mạch, đặc biệt hiếm có khó tìm, vô cùng trân quý, chính là “Tiên Chi”, hơn nữa có thể giải được trăm độc, có tác dụng cải tử hồi sinh rất vi diệu. Năm đó Hoàng đế Lão gia tử toạ ủng tứ hải, thứ gì tốt mà chưa từng thấy qua chứ, nhưng cả đời chưa chắc đã được thưởng qua hoàng kim linh chi bao giờ. Đại Hổ cùng Nhị Hổ không quản đường xa từ Trường Bạch Sơn tìm tới Hắc Thuỷ Giang này, chính là muốn chúng tôi làm người dẫn đường cho hai huynh đệ hắn tới ngôi cổ mộ thời Liêu kia ở Hắc Sơn Đầu để hái hoàng kim linh chi. Nhưng bên đấy toàn bộ đều bị rừng già nguyên thuỷ rậm rạp cùng núi non trùng điệp che phủ, nếu như không có người quen thuộc đường đi lối lại chỉ đường, bất luận làm thế nào cũng sẽ không tìm được cửa vào cổ mộ.

    Đại Hổ hứa hẹn chỉ cần chúng tôi dẫn theo bọn họ tìm được cổ mộ, thuốc lá muốn bao nhiêu liền có bấy nhiêu, còn có thể lập công trọng thưởng, bởi vì đây là một “nhiệm vụ”. Lời đã nói đến như vậy, hắn cứ tự cho là mình văn hay chữ tốt, nhất định sẽ khiến chúng tôi gật đầu đáp ứng. Không nghĩ tới tôi và Tuyền béo lại là hai thằng cứng đầu cứng cổ, đẩy ngược mấy thứ đồ kia trả lại hắn mặc cho đồ này toàn là đồ tốt thượng hạng, tôi thật ra cũng rất muốn nhận lấy, nhất là mấy bao thuốc hiệu “Chiến đấu” kia. Đây chính là loại thuốc lá xịn nhất lúc bấy giờ, trên vỏ bao so với mấy nhãn hiệu thuốc lá phổ thông khác nhiều một hàng chữ “Theo sát lãnh tụ vĩ đại cùng vượt qua sóng to gió lớn tiến bước về phía trước!”, không chỉ mùi hương đặc biệt mà vỏ thuốc còn dùng loại giấy cuốn tốt nhất. Ở thời kỳ ấy mà nói, trên người mà mang theo một bao thuốc lá như vậy, sẽ khiến ngươi cảm thấy mình so với người khác ưu việt, thời thượng hơn, lộ ra khí chất phi phàm. Nhưng hai người thợ săn này lai lịch không rõ ràng, nói gì mà săn thú với chẳng tìm đồ cho thủ trưởng, tôi cho tới giờ chưa từng nghe qua thứ gì như vậy, thế nào mà càng nhìn lại càng giống mấy tay săn hổ ở trên núi mới xuống!

     
  3. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,686
    Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư
    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng
    Chương 8: Hoàng Kim Linh Chi

    Dịch: Đặng Nam
    Nguồn: facebook./ma-thoi-den

    Tôi cùng Tuyền béo nhìn ra ngay, hai tên thợ săn này ngoài miệng thì ba hoa chích chòe sáo sậu như vậy, nhưng ngay cả đến một phong thư giới thiệu cũng không có, còn giả mạo nói gì mà mình là “Đả Quan Vi” này nọ, đơn giản chỉ là muốn lấy được hoàng kim linh chi trong ngôi cổ mộ kia mà thôi! Tương truyền trong cổ thư có nhắc đến rằng “Hùng cứ lang cố đích thị là ác tướng”, tuy nói đó chỉ là những lời mê tín của cổ nhân, nhưng tôi không hiểu sao nhìn thế quái nào cũng thấy hai tên này đếch phải là người tốt. Cho dù bọn chúng có nói thật đi chăng nữa, hứa sẽ cho chúng tôi những chỗ tốt kia, tỉ như lập công luận thưởng, cho là chúng tôi sẽ vì thế mà nguyện ý nghe theo, vậy há chẳng phải là coi thường anh em chúng tôi quá, tuy rằng hai thằng cũng thòm thèm đống thuốc lá siêu cấp hiệu “Chiến Đấu” kia lắm nhưng mà không thể để người ta coi mình là hạng tiểu nhân mới thấy tí lợi mà đã mù hai con mắt được. Càng muốn đẩy cho chúng tôi, thì chúng tôi càng cố chấp, cứ như vậy mà làm cao!

    Cuối cùng tôi đành dứt khoát cho hai vị đây một câu trả lời: “Không biết là hai vị Đả Vi Quan đây là từ nơi nào nghe được tin tức này, hoặc là hai vị đã nghe nhầm, hoặc là đã tìm lộn người mất rồi, ban đầu quả thật chúng tôi ở nông trường số 17 đã từng gặp phải bão tuyết lớn cùng với đàn sói hoang từ Siberia kéo đến, chuyện đó không hề bịa đặt, sau đó mấy người trên đường bỏ chạy có chui lạc vào một cái động hồ ly, nhờ thế mới nhặt được cái mạng rách trở về, chỗ đấy nào có phải là cổ mộ thời Liêu gì đâu chứ! Hoặc giả như này nhé, cứ cho là chúng tôi có chui vào được một ngôi cổ mộ như mọi người nói đi, rồi cũng từng nhìn thấy trong mộ có một gốc hoàng kim linh chi, chúng tôi lại chẳng phải là kẻ ngu gì đúng không, làm sao lại không nhận ra giá trị của nó chứ? Lúc ấy tại sao không hái xuống mang theo ra ngoài luôn? Nghe có hài hước không?” Bọn họ tin cũng được, không tin cũng được, có hỏi đi hỏi lại tôi cũng vẫn sẽ chỉ nói như vậy thôi.

    Thật vất vả mãi mới đuổi được hai tên thợ săn này đi, tôi cùng Tuyền bèo liền nhỏ giọng thầm thì, thống nhất đường lối đối ngoại, từ nay về sau nếu còn có ai tới hỏi mấy chuyện này nữa, thì đáp quách là ngày ấy do hai thằng uống nhiều đâm ra say quá nên nói linh tinh, chớ có tin là thật. Cứ tưởng rằng như vậy sẽ đối phó xong với mấy người sau tìm tới, chúng tôi sẽ không bị làm phiền nữa, ai ngờ mới chỉ có hai ngày thôi, Lục Quân vốn đang tham gia sản xuất ở hạ nguồn Hắc Thủy Giang lại đột nhiên chạy tới, hắn đã thế lại còn mang theo một đống tin tức ngoài ý muốn! Cái này là từ lúc vẫn còn trong biên chế của binh đoàn nông khẩn và phòng thủ nông trường số 17, Lục Quân cùng Tiêm Quả hai ngươi bị phân về hạ nguồn Hắc Thủy Giang để làm việc: Thanh niên trí thức về Đại Hưng An Linh tham gia sản xuất so với khi ở binh đoàn khai hoang thoải mái hơn rất nhiều lần, bởi vì toàn là mấy người chân yếu tay mềm, chả có mấy sức để mà làm việc, những lúc bình thường, ngươi trong thôn chỉ an bài cho đám thanh niên độc có hai nhiệm vụ, lúc ấy có câu “Nhất đẳng hán tử khán thanh, nhị đẳng hán tử bộ thử”. Nói trắng ra, tôi cùng Tuyền béo ở thượng nguồn Hắc Thủy Giang trông coi hoa màu, cái này chính là “khán thanh”, nhiệm vụ này là đơn giản và thoải mái nhất, cả ngày chỉ có ngồi trong chòi mà căng mắt ra trông chừng mấy luống rau, chẳng phải động tay động chân mấy, chán thì lại thay ca đi ngủ hoặc ngồi bốc phét. Ở chỗ khác á, nếu mà không phải là “hoàng thân quốc thích” hay “con ông cháu cha” thì cũng đừng hòng mà có được cuộc sống an nhàn như hai thằng tôi. Còn nhiệm vụ thứ hai là chính là đi diệt chuột, bởi vì năm 1910, Mãn Châu bị dịch chuột hoành hành, tình hình bệnh dịch như nước lũ vỡ đê cuốn qua khắp toàn bộ vùng Đông Bắc, thậm chí còn ảnh hưởng đến tận Hà Bắc lẫn Sơn Đông, người chết đếm không xuể, sau đó Ngụy Mãn Châu cũng bị hai lần dịch chuột tấn công, vẫn như trước, xác chất đầy đồng, thây phơi thành đống, lòng người bàng hoàng hoang mang, cho nên thẳng đến thời điểm năm 1969 khi chúng tôi bị điều đi sản xuất, diệt chuột vẫn là một nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu. Tuy nói là trọng yếu nhưng không có nghĩa quá khó khăn, chỉ có mỗi việc bỏ thuốc kết hợp với đặt bẫy, hết!

    Chuột ở vùng hạ nguồn Hắc Thủy Giang tương đối nhiều, Lục Quân bọn họ phần lớn đều bị phái đi diệt chuột. Đến lúc này cuộc sống của bầy chuột liền trở nên xui xẻo, thanh niên tri thức tất cả đều là mấy ông thần trẻ trâu mới mười bảy, mười tám tuổi, người nào người nấy sức dài vai rộng, cả ngày chỉ tìm cách sao cho bẫy được nhiều chuột nhất, thề phải đem cái bọn phản động “trộm lương thực của xã hội chủ nghĩa” này quét sạch không còn một mống. Mà thợ săn ở mấy thôn quanh dòng Hắc Thủy Giang, đối với sự xuất hiện của bầy chuột thì lại không để ý mấy, bởi vì theo tập tục mê tín ở vùng Đông Bắc này, chuột cũng là một vị “đại tiên gia” a, đứng hàng thứ tám trong Bát tiên thượng địa, cho nên còn được gọi là lão Bát. Nửa đêm mà nghe thấy tiếng chuột gõ gõ trên trần nhà, thì liền dập đầu mà khấn, vì lúc ấy “Đại tiên gia đang kiếm tiền”, chớ kinh động ngài phát tài. Còn có người thấy ở cạnh sông có con chuột đangcưỡi trên lưng một con cóc to, liền nói đó là sủng vật tọa kỹ của đại tiên gia, sau khi thấy thường thường sẽ quỳ rạp người xuống dập đầu mà lạy, cẩu khẩn đại tiên gia phù hộ độ trì, vì đối với họ, đại tiên gia mà cưỡi được cóc, vậy tức là đạo hạnh quá sâu đi, bét nhất cũng phải hai trượng a! Thế nhưng đấy lại hoàn toàn không phải là chuyện bịa đặt, đám người Lục Quân bọn họ ban đầu cũng chỉ cho là truyền thuyết dân gian xạo quần mà thôi, nhưng về sau lại thấy tận mắt, hơn nữa còn thấy mấy lần liền!

    Lục Quân ngày thường hay xem nhàn thư, chẳng mấy khi lại nguyện ý dùng đầu óc mà suy nghĩ như bây giờ, hắn phát hiện ở hạ nguồn Hắc Thủy Giang có rất nhiều cua, cóc nhái cũng nhiều, khu vực này chuột núi chuột đất thường xuyên ăn cóc. Ngoài ra trong nước còn có không ít ruồi muỗi, côn trùng kể không hết tên, thành ra cóc nhái thức ăn dồi dào, con nào con nấy to vật vã. Bọn chuột thường thừa dịp cóc chưa chuẩn bị, liền nhào tới nhảy lên lưng, từ phía sau cắn vào cổ cóc, con cóc bị răng chuột cắm vào da thịt đau quá nhưng không làm gì được, lúc này mới vác chuột trên lưng mà nhảy loi cha loi choi, người không biết gì thấy cảnh tượng này liền bị dọa sợ, thật ra thì căn bản không phải gì mà đại tiên gia với chẳng đạo hạnh nông sâu. Lục Quân dẫn đầu đám thanh niên tri thức tổ chức tuyên truyền, đập tan những truyền thuyết mê tín dị đoan gây ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân. Ở Hắc Thủy Giang này, có nuôi rất nhiều chó săn, vì đa số người trong thôn đều là thợ săn, cho nên nhà nào cũng phải có ít nhất năm, sáu con, đến mùa săn thì sẽ dẫn theo lên núi, còn đâu thì để trông nhà, những lúc như vậy Lục Quân lại lôi chúng ra dạy cho mấy chiêu đào hang bắt chuột. Dưới sự hướng dẫn của hắn, toàn bộ thanh niên tri thức lẫn chó săn trong thôn cùng nhau phát động đợt tổng tiến công diệt chuột quy mô chưa từng thấy, xem chừng dăm bữa nửa tháng nữa bọn chuột cũng chưa dám quay lại phá phách.

    Đám người thanh niên ấy cảm thấy lăn qua lăn lại chưa đủ, sức trâu sức bò của tuổi đôi mươi chẳng có chỗ nào để phát tiết thành ra tay chân ngứa ngáy khó chịu, lần này lại có việc để làm nên ai cũng rất hứng khởi, cứ thấy hang chuột là lao đến đổ nước sôi, hun khói cay, nhưng bọn họ lại quên mất không phải cái hang nào trên núi cũng là hang chuột! Buổi trưa hôm nay, mấy người ở trên núi tìm được một cửa hang, đang định đổ nước vào ngập bên trong để lùa chuột ra như mọi lần, không ngờ tới trong hang đột nhiên lại chui ra hẳn một con đại xà to lớn! Trên đỉnh đầu mọc ra một cái mào thịt đỏ hỏn, thân nó phải dài hơn 1 mét, bộ vảy óng ánh đủ màu sắc rực rỡ, cái miệng há to thè ra chiếc lưỡi dài, phun ra một làn khói sương dày đặc nồng đậm, ba người đứng phía trước nó lập tức hít phải, bị làn khói ấy làm cho chân tay mềm nhũn, đồng loạt ngã oạch ra đất. Thật may lúc ấy vừa vặn có một tay thợ săn trong thôn đi qua, thấy tình hình của đám thanh niên trí thức, vội vàng giương súng bắn chim nhắm thẳng vào con quái xà, bắn chết! Mà ba người kia sau khi hít đầy một hơi khí độc, tính mạng bây giờ xem ra rất nguy kịch, miệng mũi máu đen chảy ra ròng ròng không ngừng. Ba người trúng độc ấy có hai gái một nam, trong đó có Tiêm Quả!

    Tay thợ săn kia nói cho mọi người biết, đó là một con ngũ bộ xà, độc tính vô cùng mãnh liệt, nếu như bị nó trực tiếp cắn phải, đi được chưa đầy 5 bước chân liền sẽ chết luôn! Ba người Tiêm Quả mặc dù chỉ bị nó phun khí độc vào người, nhưng cũng lành ít dữ nhiều, hơn nữa còn không thể mang xuống núi được vì như thế sẽ khiến mấy người họ mất máu nhanh hơn. Tôi và Tuyền béo vừa nghe xong liền bật dậy ngay tức khắc, Tiêm Quả là chiến hữu cách mạng thân thiết của chúng tôi, đã từng đồng sinh cộng tử vượt qua khó khăn ở nông trường số 17, trở nên thân thiết như huynh đệ tỷ muội một nhà, hừ, nếu không phải do thằng ôn con Lục Quân này ăn no dửng mỡ, lại sợ thiên hạ không loạn, đem mấy người bọn họ lên núi diệt chuột, thì làm sao Tiêm Quả có thể xảy ra chuyện không may cơ chứ! Hai thằng tôi lúc ấy hận không thể trực tiếp chạy tới hạ nguồn Hắc Thuỷ Giang để xem xem tình hình của Tiêm Quả ra sao rồi, nhưng rồi chợt nghĩ lại, chúng tôi giờ có chạy đến thì cũng chưa chắc đã làm được gì. Chuyện đã tới nước này, ba người tôi, Tuyền béo và Lục Quân đều không hẹn mà gặp, cùng nghĩ tới gốc hoàng kim linh chi sinh trưởng ở trong ngôi cổ mộ sâu trong núi kia, nghe Đại Hổ và Nhị Hổ nói, đó chính là chí bảo có thể giúp người ta cải tử hoàn sinh, tiễu trừ bách độc, không biết chừng lại có thể cứu mạng được Tiêm Quả cùng hai người kia!

    Ba người chúng tôi suy nghĩ một hồi, con hồ ly dẫn chúng ta vào trong cổ mộ bây giờ đã chết rồi, người chết thì như đèn tắt, hồ ly há chẳng phải cũng là thế sao? Trước mắt việc cứu người vẫn là quan trọng hơn, cùng lắm thì mang mấy con gà giấy vào đốt cho con hồ ly cho lòng đỡ phải vướng bận. Ba người sau khi đã quyết định chủ ý xong, vội vã thu thập đồ dùng các thứ cần thiết, chuẩn bị tiến vào núi tìm cổ mộ, lấy hoàng kim linh chi. Trăn Tử không chỉ là người lớn gan lớn mật, mà còn rất tò mò hiếu kỳ, cô nàng cứ đòi nằng nặc đi theo đến ngôi mộ trong Hắc Sơn Đầu kia, muốn nhìn qua một chút bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly cùng gốc hoàng kim linh chi kì lạ xem hình dạng ra sao. Trăn Tử vốn là một thợ săn, nắm rõ khu vực Đại Hưng An Lĩnh này trong tay, từ Hắc Thuỷ Giang xuất phát tiến về phía trước tìm đến ngôi mộ nhà Liêu phải trèo qua ba núi bốn đèo, đường đi lọt thỏm trong rừng rậm, ngẩng đầu lên cũng không thấy ánh mặt trời đâu, nếu không có Trăn Tử dẫn đường thì chúng tôi xem chừng sẽ không dễ dàng vượt qua được. Hơn nữa từ nhỏ đã theo cha vào sâu trong rừng già săn thú bẫy chim, thân thủ hết sức bén nhạy, vạn nhất gặp phải nguy hiểm gì, Trăn Tử cũng có thể tự mình phòng vệ không thành vấn đề, thế là tôi bèn đồng ý cho cô nàng được gia nhập đội chúng tôi. Bởi vì hầu như mọi người trong thôn đều đã lên núi tham gia đợt săn thú đầu năm, chó săn cùng súng chim cơ hồ đều bị mang đi hết sạch, trong rừng sâu núi thẳm có nhiều độc trùng mãnh thú thường xuyên qua lại, vạn nhất mà gặp phải gấu đen gấu chó sẽ không dễ gì mà đối phó, cho nên ít nhiều vẫn phải dắt theo vài món đồ để mà phòng thân.

    Thời kỳ quân Nhật còn chiếm đóng Trung Quốc, bọn chúng liền cho xây dựng một doanh trại đóng quân cùng một phi trường nhỏ sâu trong núi. Sau này nhân lúc hồng quân Liên Xô kéo sang càn quét, đánh tan phát xít Nhật cút trở về nước, lão hương nơi đây bèn thừa dịp hỗn loạn mà cướp lấy kha khá đồ của đám quân Nhật, coi như bảo bối đem giấu kỹ vào trong hầm trú ần. Trăn Tử chẳng tiếc gì cả, chui vào trong hầm đào lên một chiếc rương đã cũ của cha nàng, tìm được cho chúng tôi mấy bộ quân tư trang cùng vài món đồ cần thiết. Mỗi người đầu đội một chiếc mũ quân dụng làm từ da chống va đập của quân đội chính quy Quan Đông, chân đi một đôi giày lính lót bông to sụ, bốn người vũ trang đầy đủ lên người, lại đeo thêm một chiếc thắt lưng da, trước ngực không quên mang huy hiệu “Thanh niên tri thức”, trên lưng khoác theo một chiếc balo cùng với bi-đông đựng nước, tuy hơi chắp vá lung tung một tí, nhưng xem chừng cũng khá oai phong lẫm liệt đấy chứ! Trăn Tử mang theo cùng tên để phòng thân, tôi cùng Lục Quân mỗi người vác theo một cây đinh ba. Hiện tại trong thôn bây giờ ngay cả một cái cán súng bắn chim cũng chẳng có, chúng tôi đứa nào cũng lo lắng sẽ đụng phải gấu đen, giờ mà tay không tiến vào trong núi, cứ cảm thấy ghê ghê. Cuối cùng dưới sự xúi giục và năn nỉ của tôi và Tuyền béo, Trăn Tử đành phải đến nhà cậu Tư mượn lấy khẩu súng săn cũ cậu vẫn cất kỹ dưới đáy rương, cây súng chỉ có một nòng, bắn phát một, con mẹ nó chứ, thứ đồ chơi cổ lỗ sĩ này đáng ra nên vứt vào trong bảo tàng rồi mới phải! Đây là dạng súng được sửa đổi từ súng trường 22 thời kỳ chiến tranh Nga-Nhật, đã bị phủ bụi nhiều năm chưa từng lấy ra sử dụng lại, đạn dược chỉ còn đủ chừng cho mười phát bắn, phương ngôn vùng này gọi nó là “đồng pháo”. Nói cho cùng, có còn hơn không! Súng săn được giao cho Tuyền béo giữ, ngoài ra còn có một thanh chiến đao của quân Đông Quan thì tôi đeo ở trên lưng. Tôi lại đua cho Tuyền chiếc ngọc khuyết lấy được từ trên người cái xác khô trong cổ mộ đeo lên làm hộ thân vật.

    Toà cổ mộ thời Liêu kia dù sao cũng đã sớm bị khoắng sạch, ngay cả một cái quan tài cũng chẳng thấy đâu, Tuyền bèo cảm thấy không cần đem theo Âm Dương ô, đinh đóng quan hay bát mực chu sa làm gì cho nó lỉnh kỉnh, có khẩu súng săn này trong tay cộng thêm chiếc xẻng công binh đã là quá đủ để phòng thân rồi, chỉ đem chiếc ngọc khuyết tôi đưa cất vào trong ngực. Bốn người đem balo chia nhau ra mang mấy món “lương khô, mồi lửa, dây thừng, đèn bão, xẻng công binh”, mỗi người còn quấn theo một bộ áo da hươu bên ngoài, chỉ có duy nhất một chiếc đèn pin cũng mang theo nốt, từ Hắc Thuỷ Giang bắt đầu xuất phát tiến vào dãy Đại Hưng An Lĩnh trập trùng rừng núi rậm rạp, đi tìm hoàng kim linh chi bên trong toà cổ mộ bị quên lãng.

    Trong rừng sâu núi thẳm, thứ nhất là không có lấy một bóng người, thứ hai là ngay cả một con đường để đi cũng không thấy, trên mặt đất rụng đầy thành từng đống từng đống lá tùng già, thảm thực vật nơi đây phân bố rải rác theo từng tầng từng lớp khác nhau so với độ cao của mực nước biển, hoa dại cỏ bụi giăng đầy khắp núi, thứ duy nhất có thể bắt gặp chính là chim muông cùng thú vật. Đứng giữa cánh rừng rậm rạp này, dễ làm cho người ta sinh ra cảm giác mình là một con kiến nhỏ bé, đang lạc trong một không gian bao la bát ngát đại ngàn. Khắp nơi tùy ý đều có thể trông thấy những cây gỗ to khổng lồ đã mục nát cùng những ngọn cây xiêu vẹo đổ ập chắn ngang mặt đất, ngoài ra còn có tầng tầng lớp lớp cỏ cây cành lá héo úa đã được tích lũy qua không biết bao nhiêu năm tháng, thậm chí nhiều chỗ đã sớm bị mục rữa hoàn toàn, chỉ cần vô tình dẫm phải sẽ lập tức bị sa lầy, chỉ có cách là đi vòng qua mà thôi, một đường cứ phải lượn hết bên này lại tránh sang bên nọ, đừng nói là không có bản đồ nên đường đi mới khó khăn như thế, con mẹ nó chứ, kể cả có nó ở đây cũng đếch thể nào dùng được, hoàn toàn dựa vào Trăn Tử dẫn đường. Dọc đường ngoài việc phải đề phòng mãnh thú hung dữ lao ra tấn công, còn phải coi chừng các loài độc trùng cùng rắn rết, cái thứ đồ chơi chết tiệt ấy không phải càng lớn càng nguy hiểm giống mãnh thú, mà ngược lại. Truyền thuyết có kể lại rằng, trong cánh rừng rậm nguyên sinh này, có một loài rắn nhỏ dài còn chưa tới 1 tấc (Trans: 1 tấc u003d 10 cm), độc tính rất yếu, cũng không có răng nanh như các loài rắn khác, nhưng cái đáng sợ của nó chính là việc nó sẽ thừa dịp lúc con người ngủ say mà dùng lưỡi đưa vào hai lỗ mũi, hút lấy dịch não, trong nước bọt của nó có chứa một loại hoạt chất có thể gây tê liệt thần kinh trung ương, kể cả có bị hút sạch não cũng không biết gì, vĩnh viễn không tỉnh dậy được nữa, vì thế khi đi rừng cần phải thay phiên nhau nghỉ ngơi, tránh lơ là mất cảnh giác. Đoàn người chúng tôi vượt núi băng đèo, xuyên qua biển rừng mênh mông, đói thì hái trái cây rừng ăn, khát thì vục nước suối uống, hai ngày sau, cuối cùng cũng đã tới được Hắc Sơn Đầu.

    Mấy người chúng tôi trèo lên một đỉnh núi cao, ngó nghiêng quan sát khắp bốn phía, vừa nhìn liền thấy một bên là cánh đồng hoang vu vô tận, một bên là quần sơn nguy nga tráng lệ, núi non cây cối trùng trùng điệp điệp tựa như sóng biển bồng bềnh. Tuyền béo và Lục Quân đều há hốc miệng vì sững sờ, chỉ nhớ là tòa cổ mộ kia nằm đâu đó trong một khe núi dưới kia, lúc từ trong mộ chui ra được bên ngoài chỉ thấy biển rừng hoàn toàn bị băng tuyết trắng xóa bao phủ, khác xa với hình ảnh trước mắt, lối vào chỉ là một cái đạo động được chuột đất đào ra. Chu vi của Hắc Sơn Đầu ít nhất cũng phải chừng vài chăm dặm, có biết bao khe núi rãnh đèo, mà cái nào cái nấy cứ na ná nhau rất khó để phân biệt, với tình hình này mà muốn tìm được lối vào cổ mộ thì thật chẳng khác gì mò kim đáy bể. Trăn Tử tuy là một tay thợ săn lành nghề lớn lên ở vùng Đại Hưng An Lĩnh này, chỉ có thể giúp chúng tôi đi tới Hắc Sơn Đầu, còn việc tìm vị trí cổ mộ các thứ thì hoàn toàn mù tịt, hai tên ăn hại kia cũng thế, đều thúc thủ vô sách (Trans: Bó tay, không có cách nào cả)!

    Tôi không chỉ một hai lần hồi tưởng lại những gì mà chúng tôi đã trải qua ở ngôi cổ mộ ấy, thứ nhất là vì ngôi mộ này có rất nhiều điểm đáng nghi khó lý giải, thứ hai là tổ phụ tôi ngày trước cũng đã từng làm chuột đất, ngài còn bắt tôi phải ghi nhớ thật kỹ “Lượng Kim Thước”, đặc biệt là thuật tầm long trong đó, thuật ấy tóm gọn không ngoài tám chữ “Ngoại quan hình thế, nội phân âm dương”. Tầng lớp quyền quý thời cổ đại khi tiến hành mai táng chôn cất đều rất để ý, chú trọng đến hình thế âm dương, nói trắng ra chính là muốn tìm lấy một phong thủy bảo địa để mà hạ táng, phong thủy bảo địa phần lớn đều là ở trên long mạch. Bí thư “Lượng Kim Thước” có nói: “Thiên lý vi thế, bách lý vi hình, thế lai hình chỉ, tự thành âm dương”. Cái gọi là âm dương khí, chính là sinh khí tồn tại trong đất, cũng được gọi với tên khác là long khí, khí mà thăng thì sẽ thành mây, khí mà hàng thì sẽ làm mưa, cho nên mới có câu nói “Táng giả thừa sinh khí” (Trans: Chôn người phải lựa theo long khí, nơi khí phát thì đời sau giàu sang phú quý, nơi khí suy thì bần hàn nghèo túng). Tôi liền nhớ tới khẩu quyết của bí thuật phân kim định huyệt: “Tung đại khán tiểu, do cao đáo đê, tiên kiến thiên địa, tái vọng long mạch” (Trans: Quan sát từ cái lớn tới nhỏ nhỏ, từ cao đến thấp, trước quan sát trời đất, sau mới tìm long mạch), không thể chỉ nhìn chằm chằm vào một ngọn núi này được, thế là tôi bèn hướng mắt ra xa quan sát xung quanh, chỉ thấy trời đất mênh mông rộng lớn, từng đạo long khí kéo dài từ phía Đông tới, đó là chín dãy núi non trập trùng nối tiếp nhau, vây lấy ngọn Hắc Sơn Đầu này, tựa như đang quy tụ về phía Tây. Hình thế của Hắc Sơn Đầu vừa khoáng đạt lại vừa kín kẽ chính trực, khắp nơi bốn phía đều được che chở bảo hộ, giống như một cố bảo liên ngự xa của Hoàng Đế, trong âm dương phong thủy được xưng là “Cửu long đài ngọc liên” (Trans: Chín con rồng nâng ngọc liên, liên ở đây là chỉ một loại xe chuyên dụng dành cho vua), thậm chí còn được coi là tôn vương bảo địa.

    Tôi mặc dù sớm đã thuộc làu làu bí thư “Lượng Kim Xích”, từng câu từng chữ trong đó nắm rõ như lòng bàn tay, nhưng cảm thấy chúng cũng chẳng có ích lợi gì lắm, cùng lắm trong giấc mơ có suy nghĩ một chút về chúng, mà nay nhìn ra hình thế “Cửu long đài ngọc liên” trước mắt, mới nhận ra thuật phân kim định huyệt nào phải chuyện đùa hay trò tà đạo, thật sự có thể thông qua những khẩu quyết trong đó đem từng ngọn núi lớn nhỏ ra nhìn thấu! Nếu đã nhìn thấu được hình thế thì việc tìm ra cổ mộ bị chôn sâu trong núi không còn là vấn đề gì to tát! Tôi chỉ vào một khe núi hình móng ngựa ở phía Bắc đang ngoảnh mặt về hướng Nam, nói với ba người kia: “Cửa vào tòa Liêu mộ kia chính là ở chỗ này!” Mấy người họ cứ tưởng trí nhớ của tôi quá tốt, nhớ được cả vị trí của đạo động, rối rít khen ngợi, tôi cũng kệ không giải thích gì cả, tránh cho sau này rượu vào lời ra người ta lại cho là tôi mê tín dị đoan, việc trước mắt vẫn nên là mau mau tiến vào cổ mộ hái lấy gốc hoàng kim linh chi kia!

    Một nhóm bốn người chúng tôi trèo từ trên núi xuống, vạch đường tìm lối vượt qua từng tầng lá cây cỏ dại chặn trước mặt, quả nhiên thấy được đạo động. Trong đầu tôi lại chợt nhớ lại những gì đã xảy ra trước kia trong ngôi cổ mộ này, kẻ gian trộm mộ phơi thây trên đất, bích họa khổng lồ cửu vỹ hồ ly, mộ gạch tinh xảo cùng hoa văn trang trí bảo tương hoa, gốc hoàng kim linh chi sinh trưởng bên trong cổ mộ, cảnh con bái đáng sợ nhặt lấy điếu thuốc hút lấy hút để, tất cả hãy còn rành rành ngay trước mắt, nhưng lại thoáng như đã xa cách cả một đời người.

    Theo như kế hoạch chúng tôi đã định ra lúc trước, chỉ cần không xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, một khi tìm được tòa Liêu mộ bên trong Hắc Sơn Đầu, sẽ lấy dây thừng thả vào, sau đó một, hai người sẽ bám dây mà leo xuống dưới, gỡ lấy gốc hoàng kim linh chi mọc ở trên tường, rồi lập tức quay trở lại Hắc Thủy Giang cứu mấy người kia. Khi tới được gần đạo động, thời gian không còn sớm. Tôi quyết định cắt cử Tuyền béo ở lại cửa hang để canh giữ, còn tôi sẽ mang Lục Quân cùng Trăn Tử leo xuống. Trăn Tử bèn hỏi làm sao lần trước chúng tôi lại có thể trèo lên trên thoát ra ngoài được vậy? Nhân lúc Lục Quân và Tuyền béo đi chuẩn bị dây để thả xuống, tôi miêu tả qua một lần cho Trăn Tử nghe về kết cấu của ngôi mộ, nắng đã sắp tắt, sắc trời tối dần, tôi liền mở đèn pin lên, mượn ánh sáng lôi ra quyển sổ, vẽ lên phương vị.

    Ngôi mộ thời Liêu này tọa ở hướng Bắc nhưng lại ngoảnh mặt về hướng Nam, phân thành ba gian trước, giữa và sau, tương đương với tiền thất, trung thất và hậu thất, phía Nam thành tiền thất, phía Bắc làm hậu thất, giữa các gian của mộ đều có cửa động thông nhau, minh khí tùy táng được cất rải rác ở sáu phòng nhĩ thất, dựa hoàn toàn theo cách cục “một thông hai, hai thông ba”, đỉnh mộ cách mặt đất ước chừng 30 thước. Lúc ấy chúng tôi từ nông trường số 17 chui qua một khe hở trong địa câu, vượt qua động hồ ly, từ hướng Tây Nam tiến được vào trong trung thất của ngôi mộ này, thấy một xác chuột đất chết từ tận mấy chục năm trước nằm phủ bụi trên đất, lại nhìn xung quanh, trước sau trái phải mỗi bên có một đạo môn hình vòng cung, chia ra thành hai lối dẫn đến hai gian nhĩ thất, cùng lối trước lối sau của ngôi mộ.

    Trong mộ thất lúc bấy giờ tối mò mò như hũ nút, chúng tôi chẳng thể nào phân biệt được đâu là Đông Tây Nam Bắc cả, chẳng còn cách nào nữa, đành đi theo dấu máu của hồ ly lưu lại trên cửa chui vào hậu thất. Hậu thất chính là mộ chính, ở trên bức tường phía cuối gian phòng là một bức bích họa cửu vỹ hồ ly khổng lồ, hai bên cũng có hai gian nhĩ thất, gốc hoàng kim linh chi mọc ngay ở phía trên bích họa kia. Chúng tôi vừa mới thấy nó, còn đang mải ngắm nghía thì đột nhiên phát hiện ra con bái trong bầy sói hoang kia chẳng biết đã đi theo vào từ lúc nào, hai bên liều mạng với nhau ngay trong mộ. Con bái đó bị chúng tôi lột mất một mảng da thịt lớn, vội vã quay đầu bỏ chạy vào trong đạo môn thông với trung thất, không nghĩ tới đạo môn lại bất ngờ sụp đổ, chôn sống nó ở dưới, đồng thời cũng chặn luôn lối dẫn tới gian phòng cũ. Mấy người bèn tìm kiếm thì thấy phía trên nhĩ thất ở hướng Tây có một đạo động mà tên chuột đất kia đã đào ra để chui xuống, nhờ có nó mà mọi người thoát được ra ngoài. Thủ đoạn đào đạo động của hắn hết sức cao minh, kỹ thuật nện đất cũng rất lợi hại, trải qua hàng mấy chục năm mà vẫn vững chắc chỉnh tề như cũ, không hề thấy có điểm nào xuống cấp cả. Vị trí đào vào nhằm ngay hướng chính Tây, đâm nghiêng hơi xiên chéo, thế đi không nhanh không chậm, như thế mới có thể bò ra bò vào dễ dàng không gặp trở ngại. Đạo động này không đào xuyên thẳng vào mộ chính, bởi vì hắn đã nhìn ra ngôi cổ mộ này bị đất đá chôn vùi, kết cấu không còn bền vững nữa, chỉ có đào như kia mới là phương án thích hợp nhất. Người này trên cổ có đeo một miếng ngọc khuyết, lại có bí thuật phân kim định huyệt trong tay, cho nên mới dám một mình tiến vào ngôi mộ này, tới hôm nay chưa chắc đã có ai có thể đạt tới được bản lĩnh của hắn.

    Tôi đem mọi chuyện đã trải qua lần lượt kể ngắn gọn cho Trăn Tử nghe, dặn cô ấy khi vào bên trong chớ có đi lung tung bậy bạ, coi chừng ngôi mộ này sẽ sụp xuống chôn sống cả lũ. Huống chi bản thân ngôi mộ này có rất nhiều điều kỳ quái khó lý giải, cũng không biết lai lịch của chủ mộ ra sao. Năm đó tên chuột đất kia đào đạo động chui vào rõ ràng là từ phía Tây, nhưng lại chết ở trung thất, nguyên nhân cái chết xem ra cũng quá là kỳ quặc đi. Tôi đoán rằng hắn sau khi chui được vào trong này, thấy gốc hoàng kim linh chi quý giá kia thì lòng tham nổi lên, nhất định phải đem được ra ngoài, ai ngờ lại bị hồ ly mê hoặc, thành ra mới chết một cách oan uổng. Chúng tôi không cách nào có thể khẳng định chắc chắn xem liệu có còn con hồ ly nào ở trong này hay không, đầu tiên là chúng tôi không muốn đối địch với chúng, sau là quả thật hồ ly rất khó đối phó, giống như con hồ ly ngày trước đã dẫn chúng tôi vào đây vậy, mặc dù không giống trong truyền thuyết gì mà thành tinh thành ma, nhưng mà nó lại có thể nghĩ ra việc trộm củi để khiến chúng tôi chết rét, từ đó có thể thấy được trình độ giảo hoạt của chúng đã sớm vượt qua phạm vi hiểu biết của con người. Nghe tôi nhắc đến hồ ly, Trăn Tử từ trong túi móc ra một hòn đá hình tròn, màu xanh xám đưa cho tôi. Tôi cầm trong tay, vân vê quan sát, bên trên hòn đá khắc đầy mật văn, có chút sáng bóng, bèn hỏi cô ấy đây là thứ gì vậy? Trăn Tử đáp lúc còn ở trong thôn, có chạy qua tìm cậu Tư hỏi xin một cái “cẩu bảo”. Cẩu bảo chính là hòn sỏi sinh ra trong ruột của chó, đường kính phải gần một phân, hơn nữa hình dáng lại bất quy tắc, không cụ thể, viên cẩu bảo mà Trăn Tử đem tới tròn lẳn như quả trứng vịt, lại còn sáng bóng, hết sức hiếm thấy. Cẩu bảo cùng hoàng ngưu, ngọ bảo được gọi là “tam bảo”, có thể hàng phong, khai úc, giải độc, theo như truyền thuyết mê tín trong dân gian, vật này còn có thể hàng phục hồ yêu, cho dù có là hồ ly đã tu hành ngàn năm đi chăng nữa, thấy viên cẩu bảo này cũng phải thối lui ra ngoài trăm dặm!

    Vừa nói xong, hai người kia cũng đã chuẩn bị ổn thoả chuyện dây rợ, một đầu dây được buộc chặt vào gốc cây to vững chắc, đầu còn lại thì ném vào trong đạo động. Tuyền béo tay cầm theo ngọn đuốc, súng săn đeo ở trên người, hùng dũng oai vệ, khí thế bừng bừng, đi tới hỏi tôi: “Mọi lần chẳng phải đều là để tôi xung phong đứng mũi chịu sào, đánh trận mở đầu sao? Hôm nay thế quái nào lại bắt ông đây canh cửa như chó vậy?”

    Tôi nói với hắn: “Tôi đây là đang lo chuyện hoàng kim linh chi xuất hiện trong cổ mộ vừa mới bị truyền ra ngoài không lâu, sẽ có nhiều người đánh chủ ý tới nó. Từ lúc chúng ta vào trong núi tới giờ, tôi vẫn luôn có cảm giác như kiểu có người đang bám theo ở phía sau vậy, haiz, chỉ mong đều là do tôi suy nghĩ nhiều nên thế, bất quá không sợ vạn nhất chỉ sợ nhất vạn, chả nhẽ trong vạn dặm xung quanh này không có ít nhất một kẻ nào đó có ý đồ xấu sao? Vạn nhất có người triệt hạ đường lui của chúng ta, vậy phải làm thế nào? Tôi thấy trong mấy người, chỉ có cậu mới có khả năng một mình phụ trách được nhiệm vụ này, cho nên mới đặc biệt bố trí cậu ở ngoài canh cửa, bọn chúng tôi vào trong có như thế mới yên tâm hơn.”

    Tuyền béo nghe tôi nói thế, lập tức trở nên hăng hái phấn khởi, nói: “Cậu Nhất đây quả là có mắt nhìn người đấy, Tuyền gia tôi mà đã ra tay thì các cô các cậu không phải lo gì hết! Cứ yên tâm mà vào trong mộ, nhớ cẩn thận tránh để hồ ly mê hoặc!” Mọi thứ đã sẵn sàng, tôi cầm ngọn đuốc cháy phừng phừng, đi trước mở đường, Trăn Tử và Lục Quân theo sát ngay phía sau, từng người lần lượt bám dây tụt xuống dưới mộ thất.

    Lối vào đạo động được đào ngay trên nóc Tây nhĩ thất, từ trong động rơi xuống đất bùn cùng lá khô, đã sớm xếp thành hẳn một toà núi nhỏ. Chúng tôi lúc trước có ở trong mộ tránh bão mấy ngày, địa hình ngóc ngách nơi này đều nắm rõ như lòng bàn tay, chẳng qua là vừa qua tiết Kinh Trập, phải đề phòng trong mộ có rắn. Tôi xuống trước, rồi quay qua đỡ hai người kia, không gian trong mộ vẫn âm u lạnh lẽo như ngày nào. Tuy nói rằng thợ săn trong núi gan to mật lớn, thường xuyên đánh nhau với hổ, báo, thậm chí cả gấu đen, bất quá với tình hình hiện tại cũng phải nói lại, toà Liêu mộ này là chỗ để chôn cất người chết, người miền núi thì lại mê tín thôi rồi. Trăn Tử lòng hiếu kỳ tuy nặng nhưng cũng không át được nỗi sợ khi bước đi trong cổ mộ, cứ bám theo thật sát sau lưng tôi, cũng không dám thở mạnh, cứ rón ra rón rén. Căn nhĩ thất phía Tây chỉ toàn gạch đá với đất bùn vụn vỡ, cành khô lá khô rải thành đống, từng cỗ chướng khí ngai ngái mùi mục rữa bốc lên từng đợt, xộc thẳng vào lỗ mũi khiến đầu óc cứ ong hết cả lên. Ba người dè dặt bước từng bước về phía trước lục lọi, xuyên đạo môn hình vòng cung để tiến vào mộ chính. Chúng tôi khuơ khuơ ngọn đuốc trong tay soi khắp xung quanh, mộ chính từ lúc chúng tôi rời đi cho đến bây giờ vẫn giữ nguyên trạng như vậy, chỉ có bộ hài cốt hồ ly là bị đất đá sụp xuống che kín thôi, tôi trong lòng không khỏi có chút cảm thán. Lại ngẩng đầu nhìn một cái, phía trên bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly phía cuối mộ thất, một gốc linh chi to như cái bát tô đang cắm rễ ở đấy, được ngọn đuốc chiếu vào liền toả ra kim quang rực rỡ, tựa hồ còn bắt mắt hơn cả lúc trước! Trăn Tử tròn mắt ngây ngô: “Thật sự trên đời có hoàng kim linh chi a! Các anh nói xem mấy đời thợ săn chúng tôi, trong cánh rừng này có mọc cây gì hay sống con gì đều đã từng thấy qua hết! Thật không ngờ trên bức bích hoạ này lại có thể mọc ra vàng, vàng lại còn có thể sinh trưởng ra được một gốc hoàng kim linh chi nữa chứ, không hiểu sao lại như vậy được?”

    Tôi lắc đầu: “Đừng nói cô không biết, đến tôi còn chịu nữa là, hoàng kim linh chi đáng ra phải sinh trưởng ở nơi nào đó có điều kiện đặc biệt hơn chứ, sao có thể mọc được ở đây?” Hiểu biết của Trăn Tử đối với hình dáng kích thước của các loại linh chi trên núi rất rõ ràng, linh chi được phân chia theo sáu màu sắc, theo thứ tự lần lượt là đỏ, đen, xanh, trắng, vàng và cuối cùng là tím. Linh chi màu tím thường mọc trên các thân cây đã mục nát; linh chi màu đen thì hay mọc ở khe đá dựng đứng, vách nham thạch cheo leo; linh chi trắng còn được gọi là ngọc linh chi, là loại linh chi dễ bắt gặp thấy nhất; linh chi màu vàng tục xưng là kim linh chi, tuy nhiên đó chỉ là một cách gọi đơn thuần, nhìn qua thật sự chúng không phải màu vàng kim, mà là vàng đất; linh chi màu xanh trong dân gian gọi là long chi, mọc lên thành từng cụm sau mỗi đợt mưa bão; còn linh chi màu đỏ thì hay kêu huyết chi, đa số sinh trưởng trong các hang động cùng cốc. Trong ngôi mộ cổ thời Liêu này xuất hiện một gốc linh chi, lại có kim quang rực rỡ, thật khiến người ta phải ngoạc miệng khó tin!

    Tôi đồng dạng cũng cảm thấy khó hiểu, nghe mấy lời của hai tên thợ săn đến từ Trường Bạch Sơn kia nói, tổ tiên bọn hắn trước làm Đả Quan Vi cho Hoàng Thượng, đã gặp qua không ít thứ tốt, căn cứ theo một số tài liệu ghi lại, hoàng kim linh chi thuộc vào hàng thiên địa chí bảo, chỉ sinh trưởng trên long mạch bảo địa, có thể cải tử hoàn sinh vô cùng kì dị, là tiên chi nghìn năm may ra mới gặp một lần. Tôi nghĩ nếu như đây là thật, thì cũng không thể nào mọc trên bức bích hoạ được, bích hoạ chỉ được làm từ bùn đất trộn thạch cao, làm sao có thể sinh trưởng ra được một gốc hoàng kim linh chi lớn như vậy? Bất quá mắt thấy là thật, không muốn tin thì cũng phải tin, nếu nói nghìn năm mới gặp một lần, hồ ly đến chết đều không nỡ ăn, mấy người thợ săn Ngạc Luân Xuân bản địa chưa từng thấy qua, vậy cũng không có gì là kỳ quái.

    Lục Quân một mực lo cho an nguy của Tiêm Quả, thúc giục chúng tôi mau mau ra tay nhanh lẹ để còn trở về. Tôi đi nhìn thử xung quanh, trong mộ không có gì bất thường cả, lúc này đã bước tới phía dưới bức bích hoạ, ngẩng đầu lên, gốc hoàng kim mọc ngay phía bên trên, mỗi tội lại cao quá tầm với của tôi, cố nhảy lên cũng chưa chắc đã chạm tới được. Mộ cổ hai bên có trường minh đăng nhưng sớm đã tắt ngấm từ bao giờ, tôi bèn đem cây đuốc giao cho Trăn Tử, bảo cô ấy đi châm lại trường minh đăng lấy chút ánh sáng. Sau đó vẫy vẫy Lục Quân tới gần, tôi định giẫm lên vai hắn thì may ra mới vừa đủ cao để có thể lấy được gốc hoàng kim linh chi kia, Lục Quân vội vàng giãy nảy lên, xua xua tay bảo không được, hắn thể trạng gầy yếu, không chịu được sức nặng của tôi đâu, huống chi chân tôi còn đang đeo đôi “vó sắt Nhật quân” - danh xưng đạp thảo nguyên, vượt trường sơn lừng lẫy. Hắn đã nói như vậy, tôi không thể làm gì khác hơn đành bảo hắn đạp lên vai tôi. Không cần nhiều lời, Lục Quân thấy tôi chịu xuống nước, lập tức hiểu ý, đưa tay bám lên bức bích họa, hai chân giẫm lên hai đầu vai. Tôi từ từ nâng người lên, nâng hắn lên cao. Đào linh chi nhất định phải đào lấy cả gốc, phiến linh chi mặc dù mọc hướng lên trên, nhưng phần gốc vừa to vừa dài lại mọc uốn ra từ giữa khe đất trên đỉnh mộ. Lục Quân bảo Trăn Tử đưa cho cậu ta cây đinh ba, rồi ngẩng đầu lên, lấy đinh ba ra sức định đục nóc lấy gốc linh chi ra. Ai ngờ đỉnh mộ đã sớm xuống cấp nặng nề, kết cấu vô cùng yếu ớt, hắn càng đâm, vết nứt càng lớn, sâu trong vách đá vang lên tiếng “rào rào” vang dội, đất bùn cùng gạch mộ không ngừng rơi xuống ào ào. Tôi sợ Liêu mộ không chống được bao lâu, chẳng mấy sẽ sập xuống, đang định hô Lục Quân dừng tay thì hoàng kim linh chi đã rơi xuống theo cùng gạch đá. Tục truyền rằng không thể để linh chi chạm vào mặt đất, vì khi chạm phải tục khí sẽ làm nó bị ô uế, tổn hại đến giá trị. Lục Quân thấy thế vội vàng ném bỏ đinh ba, hai tay với ra, rốt cuộc cũng tóm gọn được gốc hoàng kim linh chi. Tôi kêu lên: “Hay lắm!” Ngay sau đó lùi về phía sau, đỡ Lục Quân xuống đất. Tôi và Trăn Tử bước đến, muốn nhìn gần một chút xem gốc hoàng kim linh chi này có gì đặc biệt, vừa đưa mắt lập tức lòng trắng trợn lên, đỉnh đầu “oanh” một tiếng, con mẹ nó chứ, trong tay Lục Quân làm quái có thứ gì!

    Lục Quân rõ ràng đã đem được hoàng kim linh chi nắm gọn trong tay, nhưng khi hắn từ trên vai tôi nhảy xuống, nhìn vào tay mình, vẻ mặt cũng đầy hoảng sợ, chỉ trong nháy mắt thôi gốc linh chi vừa rơi vào tay hắn giờ đã hoá thành bụi đất, đồng thời toả ra một mùi tanh hôi nồng nặc. Dưới ánh đuốc lập loè cùng ánh nến lúc tôi lúc sáng, sắc mặt Lục Quân bỗng trắng bệch như tờ, trong nháy mắt lại từ trắng chuyển sang xanh, rồi lại từ xanh biến thành đen, hai tay cũng y hệt như vậy, ngay cả móng tay cũng trở nên đen bầm lại. Toàn thân hắn phát run, mồm miệng méo xệch không rõ là đang khóc hay đang cười nữa, thất khiếu chảy ra từng dòng máu đen. Tôi chứng kiến cảnh tượng như vậy, liền bị kinh hãi, định bước lên xem tình hình của hắn ra sao, bất ngờ Trăn Tử từ phía sau lôi ngược tôi lại, nhắc nhở: “Cẩn thận có độc đó!”

    Tôi như bừng tỉnh sau cơn mê, cuối cùng đã hiểu ra, thứ đồ mọc trên bích hoạ kia, căn bản vốn không phải là hoàng kim linh chi gì hết, mấy chục năm trước tay chuột đất kia đào ra một cái đạo động hướng xuống Tây nhĩ thất, chính là đã đụng phải vào vật này, rồi mới chết ở gian trung thất phía Nam, chứ không phải là bị hồ ly mê hoặc đến chết. Còn con hồ ly đã dẫn chúng tôi vào trong này, trước khi chết không hề đụng tới gốc linh chi này, lại còn ngăn cản ý định hái xuống của chúng tôi, tất cả đều bởi vì nó biết vật này không thể ăn được! Tôi còn chưa kịp nghĩ xong, toàn thân Lục Quân đã đen bầm lại, trên mặt đầm đìa máu với máu, hắn dùng toàn bộ khí lực còn lại, hung hãn lao ngừoi thật mạnh vào bức bích hoạ. Cậu ta vốn là người nhát gan sợ chết, nhưng bây giờ thà tự tử, đâm uỳnh một cái rồi ngỏm luôn còn sung sướng hơn phải chịu đựng nỗi thống khổ như bây giờ. Nhưng vừa đâm vào tường, dùng sức tuy cũng mạnh, nhưng nhất lời lại không chết ngay, hắn lại ra sức dùng lực hơn nữa, đập đầu ầm ầm đến nỗi máu thịt cũng trở nên mơ hồ, miệng há to nhưng không thốt ra nổi một tiếng nào cả. Trong cổ mộ hết sức tĩnh lặng, chỉ có Lục Quân đang liên tục đập đầu vào tường, phát ra từng tiếng vang nặng nề và đầy quái dị.

    Tôi và Lục Quân nghe được tiếng đập đầu hết lượt này đến lượt khác của hắn, rõ ràng còn kèm theo cả tiếng hộp sọ vỡ nát, hai người đều sợ hết hồn hết vía. Không đợi chúng tôi kịp phản ứng, Lục Quân đã tự dập đầu vào bức bích họa gần chục lần, một phát cuối liền ngã nhào ra đất, sau đó nằm im thin thít không nhúc nhích động đậy, không gian trong mộ lại trở về một mảnh tĩnh mịch vốn có. Trống ngực tôi đập “bình bịch” một cách điên cuồng, quay sang nhìn Trăn Tử, cô ấy hai mắt cũng đang mở to nhìn lại tôi, trong ánh mắt cũng chứa đầy sự kinh hoàng như tôi. Hết thảy mọi chuyện đều phát sinh quá nhanh, bây giờ tôi mới ý thức được điều gì vừa diễn ra —— Lục Quân đã chết! Cậu ta mặc dù vốn là người nhát gan yếu đuối, tố chất thân thể cũng chẳng có gì nổi trội, thế nhưng hồi còn ở nông trường số 17, gặp phải bão tuyết trăm năm mới gặp lớn như vậy, lại thêm bầy sói hoang dã hung dữ, cậu ta đều có thể kiên trì vượt qua, vậy mà giờ lại phải chết một cách không minh bạch như này. Đối với chúng tôi, cậu ấy không chỉ là chiến hữu, mà còn là anh em vào sinh ra tử cùng nhau, tôi chỉ biết trơ mắt nhìn cậu ấy cứ thế ra đi, chẳng thể giúp gì, giờ có muốn ra tay cũng không kịp nữa rồi. Nếu vừa rồi người đi lên hái hoàng kim linh chi là tôi, thì mọi chuyện sẽ ra sao? Vốn người đi lên phải là tôi, ai ngờ Lục Quân lại thay tôi nạp mạng! Mà gốc hoàng kim linh chi kia hóa ra lại là thứ không hề tồn tại, không chỉ có Lục Quân bỏ mạng oan uổng, mà sợ rằng mạng sống của Tiêm Quả cũng chẳng cứu vãn được nữa rồi! Tôi nhất thời không tài nào tiếp nhận được sự thật hiện tại, đồng thời cũng thầm thấy mình quá là may mắn, cảm thấy đáng ra Lục Quân không thể chết một cách lãng xẹt như vậy, vừa mới nãy còn cười cười nói nói, sờ sờ là một người sống, ấy thế mà chớp mắt một cái, đã thành người thiên cổ! Tôi theo bản năng tiến về phía trước hai bước, nhìn thấy trên bức bích họa bây giờ be bét toàn máu tươi với não tương, xác Lục Quân nằm bẹp trên đất, đầu nát toang.

    Trăn Tử ở sau lưng tôi, giọng run run hỏi: “Anh ta… Anh ta thế nào… Thế nào…!” Tôi đang muốn lắc đầu bảo cậu ấy chết rồi, nào ngờ liền phát hiện cái xác Lục Quân khẽ động một chút! Tôi bị dọa suýt thì hồn phi phách tán, mặc dù trong thâm tâm vẫn mong hắn chưa chết, còn có thể cứu chữa, nhưng đầu hắn đã vỡ toang thế kia, não tương văng tung tóe trên tường, đã thành bộ dạng như này rồi sao sống lại được nữa chứ, nếu thế thì trên đời làm gì còn người chết nữa! Tôi cho rằng mình nhìn lầm, bèn quan sát kỹ hơn, liền thấy trên người Lục Quân rơi ra một bao thuốc lá. Lúc hắn ngã xuống đất, rơi ra một bao thuốc lá, vậy cũng không có gì là kỳ lạ lắm, nhưng đằng này bao thuốc kia lại là một bao “Chiến Đấu” loại đặc biệt, hộp vuông vỏ cứng, trên bao còn có hàng chữ nho nhỏ in “Theo sát lãnh tụ vĩ đại cùng vượt qua sóng to gió lớn tiến bước về phía trước!” Tôi liền cảm thấy kinh ngạc, phải biết rằng thời điểm lúc bấy giờ, một bộ da sói nguyên vẹn mới đổi được một bao thuốc lá hiệu Chiến Đấu, mấy thằng thanh niên tri thức lên thôn xuống ruộng tham gia sản xuất như chúng tôi ở Đại Hưng An Lĩnh, đào đâu ra được thuốc lá xịn như vậy cơ chứ. Thuốc lá hiệu Chiến Đấu cũng chia ra làm ba loại, một loại bọc giấy xanh, đầu tút trắng, trên thân điếu có hai chữ “Chiến Đấu”, thuộc hàng thuốc lá phổ thông, chúng tôi ngay cả loại này cũng không có khả năng với tới. Còn loại nữa thì giấy trắng, tút xanh, chỉ chuyên dành để cung cấp cho quân nhân trong các binh đoàn sử dụng, mỗi tháng lại xếp hàng một lần, mỗi người được một bao, không được phép phân phối ra bên ngoài. Còn một loại khác, chính là loại vừa rơi ra từ trên người Lục Quân, ngoài vỏ xanh tút trắng ra, trên thân còn có dòng chữ “Thuốc lá Chiến Đấu”, vỏ bao được làm đặc biệt, vuông vức cứng rắn, in khẩu hiệu “Theo sát lãnh tụ vĩ đại cùng vượt qua sóng to gió lớn tiến bước về phía trước!”, được xếp vào hàng thuốc lá đặc cấp, rất nhiều người quen miệng gọi đây là “Đặc cung thuốc lá”, trên thực tế không phải vậy, tuy nhiên muốn sở hữu thì cũng phải thông qua một số mối quan hệ cùng chút phí tổn thì mới được, tại sao trên người Lục Quân lại có nửa bao thuốc loại này cơ chứ?

    Tôi cùng Tuyền béo, Lục Quân, ba người thời điểm còn ở binh đoàn cho tới tận bây giờ đều là đồng cam cộng khổ, dù chỉ là một điếu thuốc thôi, không phân tốt xấu, nhất định phải cả ba cùng chụm đầu hút, mỗi người hưởng sái một tí. Mọi người một đường thẳng tiến đi vào trong núi, trên người tên tiểu tử Lục Quân này lại mang theo một bao thuốc xịn như thế, tại sao một mực chỉ giữ khư khư không móc ra cho chúng tôi hút cùng? Là không nỡ chia cho hai thằng bọn tôi, hay là còn có nguyên nhân sâu xa nào khác? Tôi không khỏi nghĩ tới hai anh em Đại Hổ, Nhị Hổ, bọn chúng từng mang ra vô số đồ vật mê người để dụ chúng tôi nhận lời dẫn đường vào núi tìm hoàng kim linh chi, tôi cùng Tuyền bèo đều lắc đầu không đáp ứng. Nhưng mà chuyện xảy ra ở trong Liêu mộ này, nhân vật chính không chỉ có hai thằng tôi, mà còn có Lục Quân và Tiêm Quả, lẽ nào hai tên thợ săn ấy đã đi tìm Lục Quân bàn chuyện? Lục Quân thế mà lại đồng ý với lời dụ hoặc của chúng sao? Trong đầu vừa hiện lên ý nghĩ như vậy, tôi bèn nhặt bao thuốc lá lên nhìn một chút, trong lòng cảm xúc cứ lẫn lộn, đang lúc thất thần, chợt thấy âm phong ào ào, đèn đuốc trong mộ lập tức bị thổi tắt, mọi thứ trở nên tối mịt. Cái xác Lục Quân nằm trước bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly, đột nhiên, ngồi dậy!

    Lục Quân nằm trước bích hoạ bất ngờ tá thi hoàn hồn, cùng lúc đó, phía trên bức bích hoạ truyền đến từng đợt tiếng vang lạo xạo dày đặc, người nghe mà da đầu cứ tê hết cả đi. Tôi cùng Trăn Tử phát giác tình huống có gì đó không ổn, lập tức ngẩng đầu lên trên nhìn, chỉ thấy từ vết nứt toác trên đỉnh mộ bò ra một con rết khổng lồ dài phải hơn 6 thước, đầu vàng thân xanh, không biết đã ẩn núp ở chỗ đó từ bao giờ, trên lưng mọc ra chi chít vảy nấm lớn vảy nấm nhỏ, toàn thân óng ánh màu sắc, trong miệng chảy xuống từng giọt kim quang lấp lánh, ra chiều thèm muốn, nhắm thẳng đến xác Lục Quân hút lấy hút để. Tôi đứng ngay sát bức bích hoạ, chứng kiến rõ ràng mọi chuyện, lông mao liền dựng đứng. Thì ra toà Liêu mộ này nằm trên long mạch bảo địa, không chỉ có hồ ly ở Hắc Sơn Đầu chọn chỗ này làm nơi táng thân, mà còn có hẳn một con rết khổng lồ ẩn nấp ở đỉnh mộ, cũng muốn đem ngôi mộ trở thành hang ổ của mình, chỉ bất quá vết nứt quá hẹp, nó không thể nào chui lọt mình vào. Gốc hoàng kim linh chi mọc ra từ trên bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly, lại chính là do cái đầu ánh vàng của con rết kết thành. Trong dân gian thường có nhắc tới năm loại kịch độc, lần lượt là: “Rết, bò cạp, rắn, cóc, thằn lằn”, rết được xếp vào hàng đầu tiên, từ đó có thể thấy độc tính của nó mạnh tới nhường nào. Lần trước chúng tôi vào trong cổ mộ để tránh bão tuyết bên ngoài, chính là lúc trời cực lạnh, nước đều đóng cứng thành băng, con rết này nằm ở trên đỉnh mộ bất động, cho nên chúng tôi mới không có phát giác ra điều gì bất thường. Mà vừa nãy Lục Quân trèo lên cầm đinh ba đâm đâm mấy cái, vừa vặn khiến cho vết nứt kia lan to ra, con rết kia ẩn nấp đã khá lâu, sớm đã đói mờ cả mắt, liền há mồm lao tới hút sạch não tương của hắn. Nước dãi của nó vừa nhỏ xuống, xương cốt da thịt lập tức phát ra từng tiếng xì xì, bốc lên khói trắng, trong nháy mắt biến thành một vũng máu tươi, cũng bị con rết kia hút sạch vào trong miệng. Tôi vừa giận vừa sợ, nhặt lên cây đinh ba dùng sức đâm thẳng vào cái đầu ánh vàng của nó. Con rết khổng lồ há miệng cắn lấy đinh ba, hai bên giằng co chưa được bao lâu, một cỗ quái lực nhấc bổng tôi dậy, toàn bộ thân thể bị ném thẳng ra sau, lưng tôi đụng trúng phải vách đá tường mộ, hai mắt nổ đom đóm, khí huyết sôi trào chỉ trực nôn oẹ ra ngoài.

    Con rết kia đã bị bỏ đói khá lâu, bây giờ trông thấy người sống, liền quay đầu vẫy đuôi đuổi về phía tôi. Tôi vừa mới bị dính một kích trí mạng, toàn thân ê ẩm, nhất thời không đứng dậy nổi, đành thuận thế lăn hơn chục vòng ra đất. Nhưng con rết kia lại bò ở trên vách đá, thế tới quá nhanh, mắt thấy không thể tránh thoát, tôi thầm than một tiếng: “Thôi bỏ mẹ rồi! Không ngờ Hồ Bát Nhất ta một đời lừng lẫy, cuối cùng lại bỏ mạng ở chỗ này!” Đang lúc ngàn cân treo sợi tóc, Trăn Tử liền tháo xuống chiếc cung tên đeo trên lưng, xuất thủ nhanh như gió, một mũi tên găm thẳng vào đầu con rết. Thợ săn trong núi này thường mê tín chỉ sợ quỷ hồ ma quái, chứ độc trùng mãnh thú lại không hề kiêng kỵ. Khu vực Đại Hưng An Lĩnh này rắn rết trùng độc cũng ít khi thấy, bởi vì thời tiết khí hậu trên núi không phù hợp với chúng, nhưng nói thế cũng không phải ý bảo hoàn toàn không có, ở mấy khe núi sơn động ẩm ướt vẫn có thể bắt gặp. Tương truyền loài rết có ba điều đại kỵ, thứ nhất kỵ gà mái, nếu như có người nào bị rết cắn, chỉ cần đem một con gà mái tới, đặt mông nó lên miệng vết cắn, một giờ sau liền hết bệnh; thứ hai là kỵ cây ngải, thật ra không chỉ có mỗi rết, mà cả năm loài kịch độc đều kỵ ngải hết; thứ ba là kỵ cái đế giày, đếch cần phải nói nhiều, lấy đề giày đạp một cú thật mạnh, di di vài phát, đảm bảo nát bét! Trăn Tử đối với xà trùng mãnh thú trong rừng rất quen thuộc, ngày xưa người ta không hoàn toàn gọi là rết, mà phân ra gọi tên tuỳ theo kích thước lớn nhỏ, nhỏ thì kêu là “rết”, còn lớn hơn thì gọi là “kim đầu” hoặc “bách thối” (Trans: Tức là “đầu vàng” và “trăm chân”), loại này có tới hơn trăm cặp chân lận, rất khó để đối phó. Cô ấy thấy con “kim đầu” này dài không dưới 6 thước, miệng nhỏ từng đợt dãi ánh vàng thèm thuồng, liền biết ngay một khi bị nước dãi của nó rơi trúng người, hoặc là bị nó cắn cho một cái, liền sẽ bỏ mạng tại chỗ, chết không toàn thây, cho nên vừa nãy rút ra một mũi tên, liền ngắm thẳng vào đầu nó mà buông dây bắn phập tới. Thân thủ Trăn Tử nhạy bén linh hoạt, kỹ thuật bắn cung thượng thừa, liền sau mũi đầu tiên đã có ngay hai mũi nữa bay tới, một mũi ghim thẳng vào đầu con rết đang hối hả bò trên vách đá, còn lại hai mũi tên găm gọn vào lưng nó. Con rết “kim đầu” kia bị bắn trúng cả ba mũi tên vào người, liền nổi điên, bò loạn khắp nơi, chỉ chớp mắt một cái đã vòng qua được sau lưng Trăn Tử, nhe răng cắn tới!

    Tôi vừa mới từ dưới đất gắng gượng bò dậy, thấy Trăn Tử không kịp xoay người, lập tức liều mình xông lên phía trước, nhưng cây đinh ba trong tay đã rơi từ nãy, giờ chỉ có tay không làm sao đối đầu với con rết khổng lồ kia được đây? Lúc này tới mới sực nhớ ra, sau lưng tôi có một cây trường đao do Trăn Tử mượn của cậu Tứ, đây là bảo đao mà cậu Tứ vẫn luôn giấu kỹ dưới đáy rương, bình thường đều không nỡ đem ra cho người khác nhìn thử, thật đúng là cậu coi trọng chúng tôi quá, lo lắng mấy đứa vào núi gặp phải nguy hiểm nên mới chịu cho mượn mang theo để phòng thân. Thật ra đây chẳng phải là bảo đao gì cả, trường đao của quân Quan Đông cơ bản chia làm hai loại, một loại là làm cho quân lính bình thường, một loại khác thì đặc biệt làm cho sỹ quan kỵ binh, cây trường đao này của cậu Tứ, chính là loại sau, theo như nhận xét khách quan mà nói, lưỡi dao hãy còn sắc bén lắm. Tôi rút cây trường đao ra khỏi vỏ, hai tay cầm chặt lấy cán đao, hướng thẳng đầu rết mà đâm tới, không ngờ lại bị nó ngoảnh đầu lại, ngoạc mồm ra cắn chặt lấy lưỡi đao, muốn đâm tới cũng không được, mà rút ra cũng chẳng xong. Nhưng như thế cũng đủ làm con rết bị phân tâm lộ ra sơ hở, Trăn Tử đã nhanh tay rút ra ba mũi tên khác, lắp cùng lúc cả ba mũi, trong khoảnh khắc đồng loạt ba mũi thần tiễn lao ra khỏi dây cung tựa như vũ bão, cắm “phập phập phập” ba tiếng đanh gọn vào đầu con rết. Nó bị liên tiếp ba mũi tên nữa ghim vào đầu, không tránh khỏi đau đớn, co rúm người lại. Tôi lúc này liền rút cây đao ra khỏi miệng nó, nhân cơ hội chém tới tấp mấy chục nhát đao lên thân nó. Cây trường đao này rất thích hợp để đâm chém, hai tay ra sức vung lên vung xuống, con rết kia không kịp tránh né, tức thì bị phân thành hai nửa, đoạn thân dưới bò lung tung loạn xạ, đâm phải ngọn trường minh đăng đã tắt đổ cái uỳnh, càng bò càng chậm, rồi nằm im bất động. Mà nửa đoạn đầu trên bị dính mấy mũi tên, ấy thế mà vẫn chưa chết, nhe ra cặp răng sắc nhọn, phun ra một đạo kim quang thẳng về phía chúng tôi!

    Con rết khổng lồ dài hơn 6 thước này, trên người mọc rất nhiều vảy nấm loang lổ sặc sỡ, nước dãi mà nó phun ra vừa rơi xuống đất lập tức đông lại như mỡ nến. Lục Quân và tên chuột đất ngoài kia, đều là đụng phải sắc nọc độc này mà bỏ mạng. Truyền thuyết nói rằng đây chính là rết độc cương thi sâu trong nơi rừng thiêng nước độc, người bị độc nấm của nó dính phải, nửa người sẽ hoá thành thực vật, không đem chặt bỏ đầu xuống thì dù có làm thế nào cũng sẽ không chết. Tôi thấy nó há miệng nhe răng phun ra một đạo kim quang, sợ không ngăn được độc tính của nó, nhưng lại không dám tránh, Trăn Tử hãy còn ở sau lưng tôi, giờ tôi mà trốn đi thì cô ấy sẽ bị đẩy lên hàng đầu. Trong lúc nguy cấp vừa hay mò được viên đá lúc trước Trăn Tử đưa cho tôi để phòng hồ ly, không còn thời gian mà nghĩ nữa rồi, có còn hơn không, thế là liền vung tay lên hướng về phía đầu con rết ra sức ném tới, không lệch một phân nào, rơi thẳng vào trong miệng nó. Cẩu bảo là do dương khí kết tinh, mà con rết cương thi kia lại là vật chí âm, nó vừa há miệng vừa vặn nuốt trọn lấy viên đá, lập tức đem đạo kim quang kia nuốt ngược trở lại. Con rết lăn lộn mất vòng, lại định bò lên tường, nhưng chưa được mấy đã lăn đùng ra co giật giãy giụa trên mặt đất, tôi không thể làm gì khác hơn là kéo Trăn Tử chạy ra ngoài, hai người tổng cộng là bốn cái chân, làm sao có thể chạy nhanh hơn trăm cái chân của con rết kia chứ, chớ nên chậm trễ!
     
  4. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,686
    Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư
    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng
    Chương 9: Sư Tử Hiến Bảo

    Dịch: Đặng Nam
    Nguồn: facebook./ma-thoi-den

    Dịch: Đặng Nam

    Ngay lúc ấy, hai người chúng tôi dường như đã dần mất hết hi vọng, chợt nghe tiếng súng từ đâu nổ “đoàng” đầy bất ngờ, trong mộ, bốn vách tường đồng loạt rung lên. Thì ra là Tuyền béo ngồi chờ ở bên trên đạo động lâu quá đâm ra có chút không yên tâm, đợi cả nửa ngày trời mà không thấy ai leo lên, lại nhìn tình hình xung quanh không có gì khác thường, nên bèn ngó đầu xuống xem chúng tôi ở bên trong mộ có gì nguy hiểm không, đúng lúc ấy thì phát hiện thấy con rết khổng lồ kia đang bò trên vách đá. Cây súng trên tay hắn đã khá cũ kỹ, chẳng phải loại xịn sò như bây giờ, là loại súng trường kiểu 56 được quân Quan Đông sử dụng, sau rơi vào tay người dân vùng Đông Bắc cải tiến lại thành súng đi săn, chỉ có thể bắn một phát rồi lại nạp đạn mới bắn được tiếp, nhưng uy lực đã được tăng cường đáng kể so với kiểu cũ, một phát súng vừa được bắn ra, lập tức ghim thẳng vào đầu con rết, để lại một cái lỗ máu thịt bầy hầy. Ai ngờ một phát súng đấy còn chưa đủ để giết chết nó, chỉ khiến con rết rơi xuống phía dưới bức bích họa cửu vỹ hồ ly. Đỉnh mộ sụp đổ cũng khiến cho trên bích họa xuất hiện chằng chịt những vết nứt rạn, con rết cương thi vội vàng bám vào bích họa bò lên đỉnh mộ, dưới những cái móng chân sắc nhọn của nó, một cái đạo động được đào ra, từng miếng từng miếng thạch cao bụi mù trắng xóa bị cạo tung, rơi rào rào xuống đất, một thứ âm thanh quái dị từ trong tường truyền ra, theo sau đó là một làn hỏa cầu lớn bất ngờ phun tới, đem con rết này bọc ở chính giữa, chúng tôi thấy từ trong bích họa phun ra một đoàn quỷ hỏa thì vội vàng cúi gập người sát mặt đất, không dám ngẩng đầu. Ngọn lửa rực rỡ tỏa ra một thứ ánh sáng xanh u ám làm cho người ta không mở nổi mắt, không chỉ không cảm giác thấy hơi nóng của lửa, mà ngược lại là cảm giác lạnh lẽo rùng mình, con rết cương thi kia chỉ trong nháy mắt đã bị đốt thành tro thành bụi. Quỷ hỏa phun ra từ trong bích họa đến cũng nhanh mà đi cũng nhanh, đảo mắt đã không thấy đâu nữa rồi. Trong lòng chúng tôi vừa run rẩy vừa sợ hãi, lồm cồm bò dậy từ dưới đất, mới vừa rồi may mà nhanh nhẹn tránh kịp, không thì giờ cả ba đứa chắc đã bị thiêu chết cùng con rết kia mất rồi. Đống ban nấm trên người con rết bị lửa nướng chín, tỏa ra một mùi hôi tanh ngập tràn khắp không khí. Ba người chúng tôi ngửi được mùi hôi thối này, đều thi nhau ho sặc sụa, nôn khan mấy lần, hai mắt cay xè dính chặt lại, nước mắt dàn dụa, cuối cùng không nhịn được nữa, đồng loạt há miệng nôn mửa một trận, xong xuôi đâu đấy mới từ từ dựa lưng vào tường ngồi xuống, mãi lúc sau mới nói được nên lời.

    Tuyền béo quay qua hỏi tôi cùng Trăn Tử: “Sao lại có một con rết khổng lồ bò vào trong mộ thế này? Hai người không làm sao đấy chứ? Đã lấy được gốc hoàng kim linh chi kia chưa vậy? Tên tiểu tử Lục Quân chạy đi đâu mất rồi?” Hắn hỏi một hơi cả đống câu hỏi, khiến cho tôi không kịp trả lời, mà quả thật bây giờ tôi cũng không biết mở miệng trả lời hắn thế nào đây? Trăn Tử mau mồm mau miệng, liền nói cho Tuyền béo nghe qua một lượt những gì hai đứa tôi vừa mới trải qua. Tuyền béo nghe xong cũng cảm thấy đầu óc choáng váng, chuyện này phát sinh quá bất ngờ, hắn vẫn chưa thể nào tin được là Lục Quân đã chết, hơn nữa ngay cả một mẩu xương cũng không để lại.

    Tôi móc ra nửa bao thuốc lá hiệu “Chiến Đấu” rơi ra từ trên người Lục Quân, đưa qua cho Tuyền béo nhìn. Vừa thấy, cậu ta liền ngẩn người ra: “Thuốc lá Chiến Đấu loại đặc biệt? Cậu lấy ở đâu đấy?” Tôi liền nói cho cậu ta biết nửa bao thuốc này lúc đầu được Lục Quân giấu ở trong người, sau lúc hắn ngã xuống thì liền bị rơi ra, e rằng nửa bao thuốc này… có vấn đề không nhỏ a!

    Tuyền béo dĩ nhiên biết lời này của tôi là có ý gì, thuốc lá hiệu Chiến Đấu, lại còn là loại đặc cấp, không phải là thứ mà một bọn thanh niên tri thức bọn này có thể hút nổi, nhất định là do hai tên thợ săn kia đưa cho Lục Quân. Lục Quân từng là bạn học thân thiết của chúng tôi, chiến hữu cùng kề vai sát cánh bên nhau, bằng vào những hiểu biết của tôi và Tuyền béo về hắn, đừng xem tiểu tử này tuy lá gan không được lớn lắm, toàn đưa ra chủ ý vớ vẩn, nhưng lại sống vô cùng nghĩa khí, tuyệt không phải là loại ăn cây táo rào cây sung, có lẽ nhất thời muốn tham chút tiện nghi nhỏ, mới để cho hai tên thợ săn không rõ lai lịch kia dùng làm phát súng mở đường. Chỉ dựa vào một mình bản thân Lục Quân, bất luận thế nào cũng sẽ không thể tìm được lối vào tòa cổ mộ bị chôn sâu trong Hắc Sơn Đầu này, cho nên nghe theo lời xúi giục của bọn chúng, lần mò chạy tới thượng nguồn Hắc Thủy Giang kiếm tôi cùng Tuyền béo. Nói như vậy, Tiêm Quả có hay không bị rắn độc trên núi cắn? Nếu không đi thử một chuyến xuống hạ nguồn e rằng sẽ không biết được tình hình thực sự ra sao, nhưng ít nhiều thì cũng còn có chút hi vọng. Nếu như Lục Quân thật bị hai tên thợ săn đem ra làm phát súng mở đường, bọn chúng nhất định là đang bám theo ngay phía sau lưng chúng tôi. Tuyền béo nổi nóng nói: “Hai thằng thợ săn bỏ mẹ kia rõ ràng là đang trêu đùa chúng ta mà, còn khiến cho Lục Quân phải bỏ mạng oan uổng. Con mẹ nó chứ, bọn chúng mà không đến tìm tôi, thì tôi cũng phải đi tìm bọn chúng mà tính sổ! Cậu sợ thì sợ chứ Tuyền gia đây đếch thèm sợ mấy thằng ếch nhái tép riu đấy. Lão tử sẽ đái một bãi dìm chết con cụ bọn nó!”

    Tôi vỗ vỗ vai Tuyền béo ý bảo chớ có nóng vội: “Hãy bình tĩnh đã, lại nghe tôi nói đây này. Tôi cảm thấy Đại Hổ và Nhị Hổ, bọn chúng căn bản không phải là nhắm tới gốc hoàng kim linh chi kia, nếu không thì lúc chúng ta vừa mới tìm được cửa mộ, bọn chúng đã sớm xông ra hạ thủ, cậu thấy đúng không?.”

    Tuyền béo ngó nghiêng quan sát khắp một lượt: “Trong mộ mọi thứ vẫn thế mà có quái gì nữa đâu nhỉ? Bọn chúng còn muốn thứ gì chứ?”

    Trong đầu tôi chợt xẹt ngang một dòng suy nghĩ, bèn hỏi cả hai người kia: “Hai người nói xem, tại sao hồ ly trên Hắc Sơn Đầu trước khi chết đều chạy tới nơi này? Con rết trên đỉnh mộ tại sao cũng cố tìm cách chui vào?”

    Tuyền béo cùng Trăn Tử đầu óc mơ hồ, hỏi ngược lại tôi: “Lúc trước chẳng phải chính cậu nói ngôi mộ này được xây trên long mạch sao? Cái gì mà phong thủy với chẳng bảo địa ý?”

    Tôi đáp: “Âm dương phong thủy bí thuật, mười phần trong đấy thì hơn chín phần là cố làm ra vẻ huyền bí, huống chi long mạch các thứ đều là do con người nghĩ ra rồi tự nói với nhau, chẳng lẽ hồ ly cũng có thể nhìn ra được âm dương phong thủy sao? Tôi phỏng chừng trong ngôi mộ này có cất giấu một thứ đồ vật được liệt vào hàng chí bảo, thứ này được đưa tới từ tít trong vùng rừng sâu núi thẳm.”

    Trăn Tử tò mò: “Vậy rốt cuộc nó là thứ gì vậy?”

    Tôi trầm ngâm nói: “Rất khó có thể nói rõ đấy là thứ đồ vật gì, tôi chẳng qua chỉ là phỏng đoán lung tung dựa trên trực giác mà thôi…”

    Tuyền béo chen vào: “Vừa nãy mới chẳng phải có một đoàn quỷ hỏa phun ra từ trong bức bích họa sao? Bên trong liệu có phải có thứ đồ chơi gì hay ho không nhỉ?”

    Tuyền béo vừa nói vừa bước tới gần, lấy tay cào bớt gạch bụi ra khỏi khe nứt trên bích họa, ghé mắt nhìn thử vào bên trong, thì ra bức bích họa trong tòa Liêu mộ này là được vẽ trên một dãy tường gạch, phía sau bức tường gạch lại có một dãy tường khác được nối liền với đỉnh mộ, cùng bức tường bích họa cách nhau ba thước, bên trong tràn ngập một thứ mùi rất khó chịu. Tuyền béo thấy bên trong không có đoàn quỷ hỏa lúc trước, lập tức giơ đen pin lên chiếu sáng, súng săn khoác ở trên lưng chui vào nhìn rốt cuộc trong đấy có thứ gì. Tôi và Trăn Tử đến bên đống tro còn sót lại sau khi bị thiêu rụi của con rết khổng lồ kia, tìm nhặt lấy lại viên đá cẩu bảo, rồi vội vàng đi vào theo sau Tuyền béo.

    Ba người chúng tôi tự sốc lại tinh thần của bản thân, nói không chừng phía sau bức bích họa lại có thứ đồ vật gì đó đáng giá thì sao, tuyệt không thể để rơi vào tay hai tên thợ săn bất minh kia. Chúng ta trước cứ tới nhìn qua xem đấy là thứ đồ chơi gì, mà cũng đếch cần quản đấy là cái quái gì, chung quy đều là sản phẩm của bọn giai cấp phong kiến thống trị bóc lột từ xương từ máu của nhân dân, không bằng cứ móc ra, rồi chia cho lão hương thôn dân mỗi người một phần. Tôi cùng Tuyền béo đến Hắc Thủy Giang này tham gia sản xuất, được bà con trong thôn chăm sóc chiếu cố không ít, đang buồn rầu vì không có gì để báo đáp họ, giờ vừa vặn lại xuất hiện cơ hội hiếm có như này, nhất định phải nắm lấy. Nhưng ba người chúng tôi phồng mồm trợn má cả nửa ngày ở phía sau bức bích họa cửa vỹ hồ ly mà cũng chẳng phát hiện thấy thứ gì khác lạ, cùng lắm là chỉ thấy nơi này có rất nhiều cát mà thôi. Tôi đưa tay ra sờ tới sờ lui khối gạch mộ trên bức tường hình đỉnh tháp phía đối diện,đó là một khối gạch dài một xích rất vuông vắn chỉnh tề,vững chắc vô cùng,kể cả có dùng xẻng công binh mà ra sức chém lên cùng lắm cũng chỉ lưu lại được vài vết xước mờ mờ,hơn nữa khe hở giữa khối gạch khác nhau còn được bịt kín bằng một lớp đồng nung chảy, đến nước cũng không thể thấm qua nổi,rõ ràng đây chính là một toà “Phân Thuỷ Kim Cương Tháp”! Đa số cổ mộ có quy mô lớn ngày xưa vì để phòng ngừa mộ tặc cùng ẩm mốc xâm nhập, ở trước lối vào mộ đạo đều lấy rất nhiều gạch lớn mà dựng thành tháp tường kiên cố, đồng thời đổ nước đồng đã được nung nóng chảy bịt vào các khe hở,trên hẹp dưới rộng,phía đỉnh tháp vuốt thành chóp nhọn,chính gọi là “phân thuỷ kim cương tháp”,tựa như một tôn Bất Động Kim Cương thật sự vậy, có thể đem kẻ gian có ý định trộm mộ ngăn ở bên ngoài. Phía sau bức bích hoạ có giấu quỷ hoả, nếu như kẻ gian định đục xuyên qua đấy để đi vòng qua kim cương tháp, liền sẽ bị thiêu thành tro!

    Nghĩ đến đây, đầu óc tôi liền quay mòng mòng, bình thường mọi ngày đều có Lục Quân đứng ra làm quân sư nghĩ kế cho tôi, tuy chỉ là loại quân sư đầu chó nhưng ít ra cũng giúp đầu óc tôi được thảnh thơi ít nhiều. Bất quá kể cả giờ hắn có còn sống đi chăng nữa, thì thủ đoạn thủ thuật cùng kiến thức về các loại cơ quan trong cổ mộ hắn cũng có biết cái quái gì đâu, thành ra bây giờ chỉ có thể tự mình dựa vào mình mà thôi. Tôi bảo Trăn Tử cùng Tuyền béo trước đừng lên tiếng gì hết, cứ để mặc tôi một mình cẩn thận suy nghĩ một chút xem sao. Theo nguyên tắc, “phân thủy kim cương tháp” đáng ra phải được thiết kế ở ngay cửa vào mộ đạo, tại sao trong ngôi Liêu mộ này nó lại ẩn phía sau bức bích họa? Có lẽ nào kích thước của ngôi mộ này còn lớn hơn so với tôi nghĩ rất nhiều lần? Ba đạo môn chôn ở các khe núi kia, đơn giản chỉ là lối dẫn vào mộ giả, cho nên bên trong mới không có bất kỳ quan quách hay đồ bồi táng nào cả. Chẳng lẽ tòa đại mộ thời Liêu này lại học theo quy cách của nhà Đường, xẻ núi làm lăng, phía sau kim cương tháp kia mới là mộ đạo thật sự? Huyền cung nằm tít trong chỗ sâu nơi bụng núi, thứ đồ mà hai tên thợ săn kia muốn đoạt được, có phải hay không cũng đang ở ngay phía sau kim cương tháp kia?

    Tôi đem ý nghĩ này nói qua với Tuyền béo và Trăn Tử, hai người họ nghe xong cũng cho rằng khả năng đó là rất cao, đồng thời càng cảm thấy tò mò hơn, rốt cuộc lai lịch của vị chủ mộ này là như thế nào? Liệu thật có phải là một con cửu vỹ hồ ly không? Không biết có thứ kỳ trân dị bảo gì sẽ được chôn theo trong địa cung đây? Bao nhiêu câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu mà không có lời giải đáp khiến ai cũng cảm thấy khó chịu, tuy rằng chúng tôi rất muốn đi tìm kiếm kết quả cuối cùng, nhưng mà kim cương tháp phía trước mặt lại cứ như một tôn Bất Động Kim Cương vậy, tuy chỉ có một tầng gạch lớn bên ngoài thôi, nhưng kể cả có cho nổ thuốc cũng sẽ không mảy may lay chuyển, nếu thật là đại mộ kiểu như lăng tẩm của Hoàng Đế lão gia tử, kích thước nhất định phải lớn đến kinh người, kim cương tháp tuyệt không chỉ được dựng bằng một tầng mộ gạch như này đâu, mà ít nhất phải cỡ bảy, tám tầng, thậm chí nhiều hơn nữa lên đến cả con số chín. Ba người chúng tôi tổng cộng chỉ có một cái bồ cào, một cây súng săn kiểu cũ, một thanh quân đao, cùng với một chiếc xẻng công binh mẻ, làm sao có thể lay chuyển được kim cương tháp cơ chứ?

    Kim cương tháp trong tòa Liêu mộ này là do hàng trăm, hàng nghìn khối gạch vuông vức chắc chắn chồng lên nhau mà thành, khe hở giữa các khối lại được đổ một lớp thép nung nóng chảy để gắn kết lại, nếu nói đây là một tòa núi vô cùng kiên cố cũng chẳng có gì quá đáng cả. Kim cương tháp đem đạo môn dẫn vào mộ chính ngăn lại một cách kín kẽ, đến con kiến cũng không chui lọt, chỉ dựa vào ba người chúng tôi muốn phá hủy được nó, thật chẳng khác nào châu chấu đá xe cả. Mặc dù bản thân biết rõ là ngay phía sau bức tường kia thôi, chính là quan quách đặt thi thể của chủ nhân ngôi mộ này, kỳ trân dị bảo chắc chắn sẽ phải chất đống như núi, nhưng địa cung nơi ấy lại hoàn toàn bị kim cương tháp ngăn trở, không có cách nào để có thể đi vào bên trong tìm kiếm câu trả lời được, thật cảm thấy bất lực.

    Ba người đối mặt với tòa kim cương tháp vừa dày vừa nặng, lại vô cùng kiên cố vững chắc này, hoàn toàn là bó tay chịu chết. Thế nhưng Tuyền béo và Trăn Tử vẫn khư khư cái ý niệm muốn được nhìn xem bên trong địa cung có chôn theo thứ đồ gì hay ho đáng giá hay không, liền châm đèn bão giơ lên soi kỹ đến từng ngóc ngách xó xỉnh, dù sao trên kim cương tháp này không thể nào đến một khe hở cũng không có được. Nhưng chiếu đi chiếu lại mấy lần kim cương tháp, hết giơ lên lại hạ xuống, cuối cùng cũng chẳng tìm thấy một chỗ nào có thể lợi dụng được cả. Ánh mắt tôi nãy giờ vẫn một mực bám theo ngọn đèn bão trong tay Tuyền béo, lướt qua lướt lại từng viên gạch của kim cương tháp, trong bụng đang thầm nghĩ: Kim cương tháp bình thường được dựng lên ngay phía sau cửa mộ, dùng để phong bế lối vào đạo môn, dựa theo quy cách về mộ táng thời cổ đại mà nói, quan quách của chủ mộ sẽ thông qua mộ đạo mà được an trí ở trong địa cung, kim cương tháp cùng cửa mộ không thể nào bị bịt kín trước khi hạ táng, mà là sau khi quan quách được đưa vào địa cung thì mới lập tức khép lại, để tránh cho long khí trong mộ bị tản mất ra ngoài. Vì vậy kim cương tháp có thể sẽ lưu lại một lối đạo môn khác, đến khi quan quách đã được đặt yên vị trong địa cung, lúc này sẽ tiến hành rót nước đồng nóng chảy vào các khe hở giữa các khối gạch của kim cương tháp, dấu vết này có thể nhận ra một cách rõ ràng. Mà bức bích họa phía sau kim cương tháp lại là một khối thống nhất, kim cương tháp vừa dày vừa chắc tuyệt không thể nào có thể được hoàn thành trong một sớm một chiều được cả…. Tuyền béo thấy tôi ngẩn người, mới mở miệng khuyên nhủ: “Cậu sớm bỏ cái suy nghĩ vớ vẩn ý đi, đầu cậu có cứng hơn đi nữa thì cũng đếch húc đổ được cái tường bỏ mẹ này đâu, tôi cùng Trăn Tử không nỡ lòng nào thấy cậu lấy trứng chọi đá mà chết thảm!”

    Tôi đáp: “Cậu thì biết cái mẹ gì, tôi đây là đang nghĩ nhiều khả năng hãy còn tồn tại một mật đạo nữa có thể dẫn tới địa cung nơi hạ táng quan quách.”

    Tuyền béo nói: “Mới vừa rồi cậu còn nói kim cương tháp này là dùng để phong bế lối vào mộ đạo, quan quách không phải đều là từ mộ đạo mà đưa vào trong địa cung sao? Tại sao lại có một cái mật đạo quái gì ở đây?”

    Tôi đành nói rõ cho cậu ta hiểu: “Người cổ đại rất là mê tín, hạ táng cũng tốt, khép kín mộ đạo cũng được, địa cung nhiều lắm chỉ được mở ra một khoảng thời gian mà thôi, không thể chờ đưa quan quách vào trong địa cung rồi mới xây dựng kim cương tháp được, nhất định trên kim cương tháp sẽ lưu lại một một đạo môn để có thể mang quan quách đi vào. Nếu như là từ nơi này tiến thẳng vào địa cung để hạ táng, trên kim cương tháp dùng để chặn đạo môn sẽ không có dấu vết được bị lại, cho nên rất có thể là còn có ít nhất một cái mật đạo.”

    Trăn Tử chưa tin lắm, hỏi: “Ở trong núi lớn đào ra được một cái mộ đạo như vậy, cũng tốn không ít công sức tiền bạc, tại sao lại còn phải làm ra tận mấy cái nữa làm chi?”

    Tôi đáp: “Đó là do chủ mộ lo sợ sau này sẽ bị bọn mộ tặc ghé thăm, đem bảo vật trong địa cung cướp đi sạch sẽ. Càng chôn theo nhiều trân bảo tùy táng, thì càng sợ có người chui vào trộm đi, trải qua nhiều thời đại, đạo lý này vẫn luôn tồn tại!”

    Tuyền béo ủ rũ cúi đầu, chán nản nói: “Nhưng biết tìm ở đâu bây giờ? Có lẽ quan quách vốn căn bản không phải là từ trong gian mộ thất có bức bích họa kia mang vào!”

    Tôi liền gạt phắt suy nghĩ này của Tuyền béo, quan quách chứa thi thể của chủ nhân ngôi mộ này nhất định là từ gian mộ thất kia mang vào trong địa cung. Tôi khẳng định như vậy tất nhiên là có lý do rồi, chính là xuất phát từ đống gỗ mục ở trong gian mộ thất bích họa hồ ly, bên trên những thân gỗ ấy có mọc ra rất nhiều gốc mộc nhĩ, năm 1968, chúng tôi vì trốn tránh sự tấn công của bầy sói cũng như bão tuyết mà phải trốn vào trong tòa Liêu mộ này, nhờ có những gốc mộc nhĩ ấy mới giúp chúng tôi có thể cầm cự được qua mấy ngày liền, nhặt được một cái mạng này trở về. Tại sao trong đấy lại có rất nhiều gỗ mục? Đổi lại là người ngoài chắc hẳn sẽ không thể nào nhìn ra được điều gì từ chúng cả, nhưng với tôi thì lại khác, tổ phụ của tôi trước kia trong xã hộ cũ vốn được xưng là âm dương tiên sinh, chuyên xem phong thủy, âm dương mộ trạch cho người ta, đồng thời cũng đã từng có thời gian làm mộ tặc chui qua chui lại không ít hầm mộ, nhiều lúc rảnh rỗi, người thường giảng cho tôi nghe qua một hai kiến thức về các loại đạo môn, cách cục bố trí bên trong cổ mộ,... Với kích thước và quy mô như này của tòa Liêu mộ Hắc Sơn Đầu, có thể khẳng định chắc chắn mộ chủ được khâm liệm vô cùng cầu kỳ, quan quách không hề nhỏ. Đối với quan quách lớn như vậy, không thể nào trực tiếp mang vào mộ đạo, còn nếu như để xuống dưới đất rồi đẩy vào trong, thứ nhất là rất dễ làm quan quách bị hư tổn, thứ hai là sẽ để lại dấu vết trên tầng mộ gạch, cho nên ở dưới tình huống bình thường, trong mộ sẽ sử dụng rất nhiều cây gỗ được vát tròn, sau đó đặt quan quách lên rồi mới từ từ dời xuống địa cung. Đống gỗ mục đặt ở trước bức bích họa cửu vỹ hồ ly, chính là được để lại sau khi quan quách đã được đưa vào trong địa cung thành công, như vậy thì lối vào mộ đạo thật sự nhất định là ở xung quanh đây! Tuyền béo nói: “Bảo sao trong gian mộ thất đó lại có nhiều gỗ mục như vậy, trước tôi còn tưởng thằng bỏ mẹ nào dở hơi đi mang mấy cái cọc gỗ này làm đồ tùy táng chôn theo, hóa ra chúng lại có công dụng như vậy. Tôi xem chừng cái đứa được chôn cất ở đây, cho dù có thật là một con cửu vỹ hồ ly đắc đạo thành tinh đi chăng nữa, thì cũng đếch có giảo hoạt được bằng cái loại tiểu tử nhà cậu!”

    Có thể tưởng tượng được, quan quách của mộ chủ hết sức to lớn, cửa vào mộ đạo cũng sẽ không hề nhỏ, nghĩ tới nghĩ lui, chẳng có nơi nào thích hợp cả, chỉ có mỗi cách là đi qua kim cương tháp, nhưng vậy há chẳng phải rất kì quái sao, quan quách như thế nào mới có thể xuyên qua được kim cương tháp vững chắc như này chứ? Ba người chúng tôi chẳng biết phải làm gì tiếp theo cả, vô thức bước tới phía trước kim cương tháp. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy hình như đôi giày lính khi dẫm lên trên lớp cát có phát ra một thứ tiếng vang gì đó, liền lập tức gập người cúi xuống, bốc lên một nắm cát, vân vê trong tay một hồi, rồi lại cúi xuống cắm thẳng tay vào trong tầng cát, chỉ thấy tầng cát dưới chân sâu không thấy đáy. Hai người kia cũng cảm thấy kỳ quái, Hắc Sơn Đầu đáng ra không thể có nhiều cát đến như vậy. Chúng tôi thay nhau dùng xẻng công binh đào xuống phía dưới chân kim cương tháp, rất nhanh liền đào ra được một cái sa động. Có thể thấy rằng trong mộ đạo vốn từ đầu đã có một tòa sa chướng, kim cương tháp được xây dựng phía trên sa chướng, trước khi tiến hành hạ táng đã cho người từ trong sa chướng đào ra một cái động, sau khi quan quách của chủ mộ đã được đưa vào trong địa cung, lúc này mới mở ra hai cái sa động, khiến cho lưu sa chảy đầy vào trong hai sa động này, kim cương tháp ngay sau đó liền được hạ xuống, ngăn kín lối vào mộ đạo. Kim cương tháp cùng sa chướng kết hợp với nhau, có thể nói là một cương một nhu, tất nhiên là không thể chê vào đâu được, nhưng mà bách mật nhất sơ (Trans: Có kín kẽ đến đâu đi chăng nữa, cũng sẽ có một số kẽ hở, sai lầm không ngờ tới), không để ý tới lúc kim cương tháp đang hạ xuống sẽ khiến cho lưu sa khó mà hoàn toàn có thể chảy kín vào trong sa động, bên dưới hãy còn hố cát sâu hơn một thước chưa được lấp đầy, nhưng lại bị kim cương tháp chặn lại, khiến cho lưu sa không thể chảy xuống được nữa. Tuyền béo trước giờ vẫn luôn là kẻ cậy mình lớn gan thích làm bậy, cậu ta thấy sau khi đã đào ra được cửa động vừa vặn có thể chui vào, liền lấy đèn bão treo lên trước đầu súng săn, xung phong đi trước mở đường. Tôi cùng Trăn Tử cũng theo sát ngay phía sau, chỉ thấy tòa kim cương tháp này có tận bảy lớp gạch dày kiên cố chứ không phải một lớp như bọn tôi vẫn tưởng, bên kia chính là một đoạn đường hầm, phía dưới dùng loại gạch có hoa văn bảo tương hoa lát thành lối đi, vách tường có những vết tích giống như đã từng bị đục đẽo qua, xem ra địa cung tòa Liêu mộ này chính là được tạc thẳng từ trong lòng núi mà thành. Tầm chiếu sáng của đèn bão chỉ có hạn, trong địa cung tuyền một màu đen nhánh, không gian tràn ngập một loại khí tức tử vong, vừa âm u lại vừa ngột ngạt, không khỏi khiến cho người ta rợn hết cả tóc gáy.

    Tuyền béo lè lưỡi nói: “Tòa cổ mộ lớn như thế này, nhất định là dùng để chôn nắm xương khô của tên Hoàng Đế nào đấy!”

    Tôi thì lại không cho rằng mộ chủ là một lão Hoàng Đế, hình thế âm dương nơi này chính là ứng với “Cửu long đài ngọc liên”, tuy là dùng để an táng bậc cửu ngũ chí tôn, thế nhưng trên mộ gạch lại dùng hoa văn bảo tương hoa để trang trí, theo như suy luận của tôi, nơi này là để an táng một vị nữ tử nào đó mới đúng!

    Trăn Tử hỏi: “Nữ nhân cũng có thể trở thành Hoàng Đế sao?”

    Tuyết béo liền vênh mặt giảng đạo: “Đương nhiên là có chứ, tỷ như lão nương Từ Hy Thái Hậu của chúng ta đó thôi!”

    Tôi quay qua nói với Tuyền béo: “Từ Hy đâu có làm Hoàng Đế hả tên ngốc này? Được cái tuy bà ta không phải là Hoàng Đế, nhưng cấp bậc cùng quyền lực tuyệt đối không hề thấp hơn!”

    Tuyền béo vẫn cố nói: “Nữ nhân mà có thể ngồi ngang hàng cùng với Hoàng Đế, thì chỉ có thể là vợ của Hoàng Đế thôi chứ, gọi là nương nương hay gì gì đó.”

    Tôi nói cho cậu ta hay: “Thôi cậu đừng có đoán mò linh tinh nữa, tôi phỏng chừng tòa Liêu mộ này chính là dùng để chôn cất một vị Thái Hậu!” Lời kia vừa mới thốt ra khỏi miệng, Trăn Tử liền gật đầu liên tục tỏ ý đồng tình, quả thật trong núi trước giờ có rất nhiều truyền thuyết kể về một ngôi mộ Thái Hậu bí ẩn. Ví dụ như có một chuyện nói như này, thời Liêu có một vị Thái Hậu bị kẻ gian hãm hại, sau đó bị Hoàng Đế khoét mất cặp mắt, nhưng thế nào lại may mắn chạy thoát ra được khỏi thâm cung, cơ duyên xảo hợp liền được một con “Thần Hồ” cứu giúp, sau đó xây dựng lực lượng quay trở lại diệt trừ gian thần, đoạt lấy quyền binh, để cho con trai mình thừa kế ngôi vị Hoàng Đế. Lại có người nói rằng, Thái Hậu thật đã sớm bỏ mạng ở trong thâm cung, còn vị Thái Hậu xuất hiện sau này chính là do một con cửu vỹ hồ ly hóa thân thành, chẳng lẽ chúng ta thực sự đã chui vào đại mộ mai táng vị Thái Hậu nhà Liêu kia.

    Trăn Tử từ bé đã từng nghe qua nhiều truyền thuyết mê tín quỷ dị về ngôi mộ Thái Hậu trong núi, quay sang hỏi tôi cùng Tuyền béo hay là trước tiên cứ quay trở lại thôn đã, sau đó gọi thêm người tới giúp một tay? Tuyền béo nói: “Ba người chúng ta đi một chuyến lại về một chuyến, rồi còn thêm người này người nọ, vậy phải trì hoãn đợi đến lúc nào đây? Đến lúc đấy rồi sợ rằng kỳ trân dị bảo trong mộ đã sớm bị những tên chuột đất khác vác đi sạch từ đời nào, đâu đến lượt chúng ta nữa? Chớ nên tự mình làm lỡ cơ hội!”

    Tôi cũng đồng tình với ý này của Tuyền béo, Lục Quân bỏ mạng một cách bất ngờ không rõ ràng ở trong tòa Liêu mộ này, tôi và Tuyệt béo tuyệt sẽ không bỏ qua dễ dàng như thế, huống chi chúng ta chân trước chân sau vừa rời khỏi đây, lập tức sẽ có kẻ khác nhảy vào. Sao không đánh liều một lần tiến vào trong địa cung, thăm dò xem rốt cuộc tình hình trong đó là như thế nào? Tuyền béo là loại chuyên thích cầm đèn chạy trước ô tô, thấy tôi cũng có ý tán đồng với cậu ta, liền co cẳng vội vã đi về phía trước. Tôi lập tức gọi ngược cậu ta trở lại, chưa vào đến mộ chính mà đã gặp phải lưu sa, phục hỏa, rết cương thi khổng lồ, thì có quỷ mới biết bên trong địa cung còn có cạm bẫy đáng sợ như nào nữa? Tôi chỉ là dựa vào chút kiến thức học được từ “Lượng Kim Thước” cũng như các sự tích mà tổ phụ truyền lại, từ phương diện âm dương phong thủy mới nhìn được ra rằng tòa Liêu mộ này là một tòa đại mộ để chôn một vị Thái Hậu nào đó, còn các kiến thức khác thì tôi hoàn toàn không biết, nếu như không muốn bỏ mạng oan uổng ở đây thì chỉ có một cách duy nhất, đó là cẩn thận gấp đôi! Tôi để cho Tuyền béo đi sau cùng bọc hậu, còn mình thì đi ở phía trước mở đường, Trăn Tử kẹp giữa hai thằng tôi.

    Tuyền béo lo rằng trong mộ đạo này không khéo vẫn còn con rết khổng lồ nào đó sót lại, liền nói với tôi và Trăn Tử: “Viên cẩu bảo kia quả là thứ đồ tốt đó nha, tác dụng trên cả tuyệt vời, nếu mà gặp phải con rết bỏ mẹ nào nữa á, cứ trực tiếp đút tọt vào mồm nó!” Quả thật tôi tới tận bây giờ trong lòng vẫn còn sợ hãi vì cuộc đối đầu với con rết kia, thật sự lúc ý tôi quá may mắn khi vô tình ném ra viên cẩu bảo hàng phục được nó, mặc dù tôi vẫn biết rằng vạn vật trên đời này đều là tương sinh tương khắc, bất kỳ vật nào cũng sẽ có một vật khác khắc chế được nó, nhưng lúc ấy lại không nghĩ rằng viên cẩu bảo này chính là khắc tinh của loài rết này!

    Ba người chỉnh cường độ chiếu sáng của đèn bão lên mức cao nhất, dè dặt đi vào trong đường hầm dẫn tới địa cung. Tôi vừa bước từng bước cẩn thận về phía trước, vừa hồi tưởng lại những tin đồn truyền miệng, truyền thuyết mê tín đề cập đến vấn đề mộ phần, trộm mộ, đoạt bảo vật trong mộ mà trước kia tổ phụ đã từng kể qua. Nghe nói ở Đại Hưng An Lĩnh cũng như mấy vùng thảo nguyên phía Tây, có rải rác rất nhiều lăng tẩm đế vương thời kỳ nhà Liêu, nhưng phần lớn đã bị phá hủy nặng nề. Căn cứ theo sử sách ghi lại, năm đó quân Kim hạ gục, đánh chiếm được Đông Kinh Biện Lương, Tống Khâm Tông cùng Tống Huy Tống bị bắt làm tù binh, Tống Khâm Tông trong lúc bị đày đi lưu vong, từng thấy quân Kim tiến hành quật mả hoàng lăng nhà Liêu. Hắn chỉ dám lặng lẳng đứng từ phía xa mà quan sát, trông thấy một đám người ăn mặc giống hệt nhau, tuyền một bộ đồng phục quần tím áo tím từ đầu tới chân, đó chính là đám trộm mộ xuất thân Phát Khâu phái, bọn chúng từ trong lăng khiêng ra một chiếc quan tài lớn, đồng thời lấy sạch những thứ tùy táng chôn theo trong mộ. Bởi vì lúc ấy Tống Khâm Tông chỉ dám đứng quan sát từ một khoảng cách khá xa, cho nên cũng không thấy rõ bên trong mộ kia có thứ kỳ trân dị bảo gì hay không, thứ duy nhất có thể nhận ra là một chiếc bảo kính, tiên quang phát sáng chiếu xuyên thiên địa. Trong truyền thuyết từng có nhắc đến một thứ bảo kính như thế này, nghe nói nó có thể khiến cho phong vân biến sắc, dù sắc trời có quang đãng thế nào đi chăng nữa, chỉ cần bảo kính vừa ra, soi ngược lên thiên khung, lấy tay bắt quyết niệm chú, trong khoảng khắc mây đen sẽ ùn ùn kéo đến, thiên địa sa sầm, tiếp đó một trận mưa to như trút nước sẽ ập xuống. Thứ đồ tuỳ táng chôn theo trong toà Liêu mộ này, có khi nào cũng là một cái thiên địa bảo kính như kia?

    Ngoài ra, xung quanh khu vực Hắc Thủy Giang từ trước đến nay cũng có không ít truyền thuyết liên quan tới mộ cổ thời Liêu, chúng tôi từng nghe các tay thợ săn già đời trong thôn kể rằng, nằm sâu trong những cánh rừng bạt ngàn kia có một ngôi cổ mộ, rộng hơn mười dặm, cao tự như núi. Năm đó có một đám thổ phỉ hồ tử không biết làm như nào lại tìm ra được vị trí của cửa mộ, chuẩn bị đi vào trong mò khoắng bảo vật, nào ngờ lại bị một bầy ong rừng bất ngờ tấn công, mười mấy người liền lập tức bỏ mạng ngay tại chỗ, đám người còn lại liền không còn gan nào mà vào nữa. Tương truyền rằng ngôi mộ này là nơi dùng để an táng một vị Thái Hậu nào đó nhà Liêu, bên trong giăng đầy cơ quan cạm bẫy, nguy hiểm luôn trực chờ sẵn. Những tin đồn kiểu như này nhiều vô kể, chuyên được mấy con mụ đồng cốt giả thần giả quỷ truyền ra. Ví dụ như trên núi có một người hái thuốc vô cùng nghèo khổ, ở nhà cùng bà sống nương tựa lẫn nhau qua ngày. Người này là một người cháu có hiếu, chẳng quản khó khăn nhọc nhằn, thà chịu đói chịu khát vẫn cố gắng băng núi vượt rừng, đổ biết bao mồ hôi nước mắt chỉ để lên núi hái thuốc đổi lấy chút tiền, tất cả đều đem biếu bà ăn quà, không giữ lấy một đồng. Có một lần nọ, trong lúc vô tình thế nào lại sẩy chân rơi xuống một cái sơn động, chỉ thấy trong lòng núi khắp nơi đều là lầu các đền đài nguy nga tráng lệ, người đi đường tấp nập qua lại, nhưng đều chỉ một mực cắm mặt xuống đất không nói lời nào, dáng vẻ vội vã gấp gáp, trang phục mặc trên người cũng đều là kiểu cách, hoa văn của thời kỳ trước, thì ra bọn họ tất cả đều là người chết năm xưa bị chôn sống trong mộ làm đồ bồi táng theo vị Thái Hậu kia. Sau khi rơi vào sơn động, người này bèn đi tới đi lui khắp nơi dò xét thử, cho đến khi mò được đến trước một toàn đại điện, ngẩng đầu lên liền thấy một lão thái thái mặt mũi xấu xí khó coi đang ngồi trên Phượng Liên, đầu đội Phượng Quan, bên cạnh lượn lờ lượn lờ từng làn châu quang bảo khí, mấy chục cung nữ nô nức trước sau hầu hạ, thật sự là uy phong quá đi! Hắn cứ ngỡ rằng mình đang gặp được thần linh, vội vàng quỳ xuống dập đầu bái lạy, thập phần cung kính, lão thái thái thấy hắn cũng là kẻ biết điều, hành động lại thành kính như vậy, liền hỏi xem hắn có tâm nguyện gì không, hắn thật thà đáp rằng mình chỉ có một tâm nguyện duy nhất bây giờ là nhanh chóng tìm được đường rời khỏi núi để còn về nhà chăm sóc người bà đã già của mình. Lão thái thái ấy vừa nghe thấy hắn nói thế thì biết ngay là một hiếu tử, thưởng cho hắn rất nhiều kim nguyên bảo, rồi bảo một cung nữ bên người trước dẫn đường cho hắn ra khỏi sơn động, sau hãy đi theo hầu hạ hắn. Sau khi trở về nhà, hắn liền cưới cung nữ này làm vợ, lại đem số kim nguyên bảo được thưởng kia mang ra mua bán này nọ, lập tức phát tài.

    Cái loại truyền thuyết với nội dung na ná nhau kiểu một tên nghèo nào đấy rùa rùa thế nào trải qua một phen kỳ ngộ, vừa cưới được vợ xinh, vừa một chốc phát tài như này đến bây giờ thực sự là vẫn còn tồn tại khá nhiều. Nhưng không có lửa thì làm sao có khói? Có lẽ chính là bởi vì ở trong núi thật sự có một tòa cổ mộ mai táng một vị Thái Hậu như vậy, thế nên mới sinh ra nhiều loại truyền thuyết nhân quả báo ứng, thần linh hồ tiên như vậy. Trên thực tế, vạn biến không rời kỳ tông (Trans: Mọi thứ đều có nguyên tắc, quy cách nhất định), tòa Liêu mộ kia là bắt chước theo kiểu cách xây dựng lăng tẩm của nhà Đường, huyền cung được tạc thẳng trong lòng núi, bố trí không ngoài ba kiểu, trong “Lượng Kim Thước” chia ba kiểu bố trí mộ cung này tương ứng với ba chữ, thứ nhất là chữ “Giáp”, hai là chữ “Trung”, ba là chữ “Thập”. Nói đơn giản như này, chữ “Giáp” dùng kết cấu đơn mộ đạo, chữ “Trung” dùng kết cấu Nam Bắc song đối mộ đạo, còn chữ “Thập” thì dùng kết cấu bốn mộ đạo Đông Tây Nam Bắc kết hợp, tuy kết cấu khác nhau nhưng mộ đạo chính đều lấy Nam Bắc làm chủ hướng.

    Vừa rồi chúng tôi từ phía dưới chân tường Kim Cương Tháp chui vào một cái mộ đạo gọi là “Khoáng đạo”, nằm đối diện với cửa vào huyền cung. Mộ đạo hơi nghiêng, chếch xuống phía dưới, ba người cẩn thận mò mẫm từng bước một về phía trước, ước chừng mới đi được hơn trăm bước, lần lượt vượt qua hai đoạn “Qua Động", mỗi một đoạn Qua Động đều có một đôi điện thờ được tạc từ đá, trái phải mỗi bên sừng sững một toà, trấn giữ bốn phương vị Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc. Điện thờ cao chừng hơn một trượng, đỉnh điện được làm phỏng theo thiết kế trong hoàng cung, phía bên ngoài lợp một lớp ngói úp kết hợp với nhau tạo thành các rãnh thoát nước, mặt phía trong thì dùng gạch đá xây thành khung lô đỉnh, bên trong đặt tượng thờ của bốn vị Thiên Vương, ngoài ra còn bố trí thêm khá nhiều cây nến Trường Minh Đăng. Bốn vị Thiên Vương bên trong bốn toà điện thờ toàn thân mặc một kiện Long Lân Y, Đông điện phía Nam thờ Tây phương Quảng Mục Thiên Vương tay nắm xà kích, Đông điện phía Bắc thờ Bắc phương Đa Văn Thiên Vương tay cầm lọng báu, Tây điện phía Nam thờ Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương tay giữ bảo kiếm, cuối cùng là Tây điện phía Bắc thờ Đông phương Trì Quốc Thiên Vương tay gảy tỳ bà. Tuyền bèo và Trăn Tử cùng trợn to cả hai mắt, cả hai người họ đều tỏ ra vô cùng lạ lẫm với những thứ trước mắt, cứ liên tục nhìn nghiêng ngó phải rồi hỏi tôi đây là cái gì, kia là thứ chi. Tôi chỉ biết rằng những thứ đồ xuất hiện trong mộ cổ này đều có một giá trị nhất định, tỷ như bốn loại pháp khí “Tỳ bà, xà kích, bảo kiếm, lọng báu" trong tay Tứ Đại Thiên Vương kia là để tượng trưng cho “Phong, Điệu, Vũ, Thuận", còn giải thích rõ ra như thế nào thì tôi cũng chịu thôi.

    Ba người đi qua hai đoạn qua động, thấy ở giữa mộ đạo chỉ có duy nhất một toà khuyết môn, trên hai cánh cửa đá đều có khắc đồ hình “Hải Thú", trong miệng hải thú có ngậm vòng khoen cửa. Hải thú trong truyền thuyết thật ra chính là một trong chín đứa con của rồng, đứng hàng thứ Năm, tên thường gọi là Nghê, dũng mãnh vô địch, hổ báo cũng chỉ có nước làm thức ăn cho nó mà thôi, tuy thế nhưng nó lại là thú cưỡi của Văn Thù Bồ Tát. Ngoài ra xung quanh khuyết môn còn khắc rất nhiều đồ hình khác như “tỳ bà, bảo kính, trái cây, hương thắp, thiên y” tượng trưng cho năm loại ham muốn của nhân thế là “sắc, thanh, hương, vị, xúc", ý là “Vượt qua ham muốn, ắt đắc thành chính quả". Tất cả đồ hình được bao bởi một vòng phù điêu tròn trịa, lại dùng hai mươi tư cánh hoa trong Tam Đại Phật Hoa trang trí hết sức hoa lệ cầu kỳ. Chỉ riêng những phù điêu bên trên cánh cửa đá bên ngoài địa cung này đã đủ khiến chúng tôi xuýt xoa, thán phục mãi không thôi, ba người đều không kiềm chế được lòng hiếu kỳ, trợn mắt bặm môi dùng hết sức bình sinh đi tới phía trước đẩy mạnh cánh cửa đá, lập tức cánh cửa vang lên một thứ âm thanh trầm đục nặng nề, chầm chậm mở ra.

    Cánh cửa đá này dày cỡ một gang tay, ba người chúng tôi cố gắng lắm mới miễn cưỡng đẩy ra được một khe hở đủ để lách người qua. Tôi cho rằng bên trong chắc chắn phải là chính điện địa cung nơi đặt quan tài của chủ mộ, liền sốc lại tinh thần, mạnh dạn từ cửa đá khẽ lách vào, nhưng nào ngờ trước mắt vẫn chỉ là một đạo động được tạc thẳng từ trong lòng núi, trải dài theo hướng Nam Bắc, nhưng Đông Tây thì lại hẹp, hai bên cũng có điện thờ như trong qua động, cung phụng Tứ Đại Bồ Tát, lần lượt là Cái Chướng Bồ Tát, Hư Không Tàng Bồ Tát, Tự Tại Thiên Bồ Tát và Ma La Già Bồ Tát. Mà ở giữa hai điện thờ lại có một toà động môn hình vòm cung, phàm là trong cổ mộ hễ là động môn có hình vòm cung thì sẽ được gọi là “Khoán Động”. Tôi chiếu theo những gì ghi trong “Lượng Kim Thước” động não suy nghĩ một chút, xem ra huyền cung của toà Liêu mộ này là do tiền điện, trung điện, hậu điện, cùng với năm toà điện trái phải phối hợp với nhau tạo thành. Đạo động có điện thờ Tứ Đại Thiên Vương phía sau kim cương tháp làm tiền điện, đạo động phía sau cánh cửa đá có đồ hình hải thú thờ Tứ Đại Bồ Tát thì là trung điện, tiền điện cùng với trung điện đều có thế đi thẳng hướng Nam Bắc, trung điện hướng Tây Bắc hai bên trái phải thiết lập các phối điện. Phối điện chỉ có khoán động, không có cửa đá ngăn cách, phía cuối trung điện lại tách ra thành một đạo khuyết môn, bên trên điêu khắc đồ hình một cặp dị thú đang cõng bảo vật, rất dễ để nhận thấy lối đi này sẽ thông đến hậu điện, cũng chính là địa cung chính điện chúng tôi đang tìm kiếm, theo như người xưa gọi là “Trường Sinh Điện”.

    Tuyền béo lầm bầm nói: “Mẹ cổ mộ kiểu quái gì mà hết cái hang này lại đến cái hang khác thế? Biết đến bao giờ mới đến đích đây?”

    Để cậu ta khỏi sốt ruột nữa, tôi bèn bảo: “Một cái đạo động tương đương với một toà điện đường, chỗ chúng ta đang đứng đây đã là trung điện rồi, tiếp theo sẽ là hậu điện, quan tài của chủ mộ nhất định phải được đặt ở trong hậu điện kia.”

    Tuyền béo chỉ vào cánh cửa đá trước mặt: “Các cậu nhìn hai con chó lông xù trông nhà cho chủ mộ kia, trên người chúng đang cõng cái quái gì thế?”

    Trăn Tử vốn xuất thân là thợ săn, bất luận là chó săn trên núi hay là chó chăn dê trên thảo nguyên nàng đều đã thấy qua rất nhiều, tuy nhiên lại chưa thấy giống chó nào trông như thế này, đây liệu có phải là chó thật không? Tôi nói: “Cái con thú lông xoăn tít xù xì cõng bảo vật kia hình như là sư tử, tôi cũng là lần đầu tiên trông thấy, phía trước địa cung Trường Sinh Điện mà lại có đồ hình hai con sư tử cõng bảo vật này, có thể sáng tỏ một điều rằng: đồ vật chôn theo bên người mộ chủ chắc chắn phải có giá trị liên thành!”

    Tuyền béo nói: “Hai cái con súc sinh chó chẳng ra chó, sư tử chẳng ra sư tử kia rốt cuộc là gì đều không quan trọng, tôi muốn bảo hai người nhìn kĩ cái vật mà nó đang cõng kia kìa, thứ đó có giá trị liên thành sao? Thế quái nào Tuyền gia đây càng nhìn lại càng thấy giống một con ngươi nhỉ?”

    Vừa nghe cậu ta nói thế, tôi và Trăn Tử đồng loạt ngẩng đầu lên quan sát thật kĩ một lần nữa đồ hình kia, cả hai đều cảm thấy quả thật là giống một con ngươi như lời Tuyền béo. Hai con sư tử được chạm trổ trên cửa vào địa cung, một trái một phải, trên lưng mỗi con cõng theo một món bảo vật, hình dáng tựa bảo châu, là một vòng xoáy hình tròn, xung quanh vật này còn có cả lông mi, không phải là con ngươi thì còn là cái gì được nữa? À mà cũng không hẳn, còn một khả năng nữa, rất có thể những vòng tròn xoáy xung quanh kia chính là những đạo bảo quang. Tôi liền nhớ lại truyền thuyết về một chiếc bảo kính được chôn theo trong mộ cổ thời Liêu, nhưng mà thấy thế nào cũng không giống bảo kính lắm, chẳng nhẽ thứ kỳ trân dị bảo hiếm có chôn theo mộ chủ lại thật sự là một con ngươi? Hơn nữa lại còn là con ngươi của người nào chứ?”

    Tôi cùng Tuyền béo xắn tay áo lên, tiến lên đẩy cánh cửa đá dẫn vào địa cung. Trăn Tử ở một bên, nói: “Hai bên còn có hai cái động khẩu, sao không đi vào trước xem thử như nào?”

    Tuyền béo đáp: “Mọi thứ rõ rành rành như thế rồi còn phải nghĩ ngợi nhiều làm gì? Để tôi lấy một ví dụ cho cô em đây dễ mường tượng nhé, giả sử tôi mang lên ba món ăn đặt trên bàn, chính giữa mâm là một tô thịt thơm phức nóng hổi, còn bên cạnh là hai đĩa cải trắng muối chua, vậy cô sẽ chọc đũa vào cái nào trước?”

    Tôi cũng nói: “Cái ví dụ này của cậu rất là khá! Chúng ta trước cứ đi vào chính điện nhìn qua chút đã!”

    Trăn Tử không phải là không biết trước tiên phải chọc đũa vào tô thịt thơm ngon, mà là cô nàng lo sợ vị Thái Hậu nhà Liêu nằm trong địa cung kia, vạn nhất mà ả ta quả thật là do cửu vỹ hồ ly thành tinh hoá thành, vậy thì biết đối phó ra sao? Tuyền béo không hiểu vậy thì có cái gì mà đáng sợ, bĩu môi nói: “Cho dù cái con mụ già Thái Hậu kia là do yêu tinh quỷ quái gì đấy đắc đạo hoá thành, gặp phải Tuyền gia đây thì cũng tắt điện hết mà thôi! Không nhìn xem bây giờ là thời đại nào rồi cơ chứ, nó mà dám xuất đầu lộ diện thì chẳng khác gì thiêu thân tự lao đầu vào lửa, một đám muỗi đốt inox mà thôi, hehehe…”

    Tuyền béo đang hăng say ba hoa chích choè thì chợt nghe thấy mộ đạo phía sau lưng truyền đến một loạt tiếng bước chân. Năm đó lúc hạ táng dời quan, phía dưới nền đất địa cung có lưu lại khá nhiều gỗ mục, chỉ cần bước lên đạp nhẹ một cái, liền sẽ phát ra tiếng “kẽo kẹt, kẽo kẹt" rất là đặc trưng, tiếng vang tuy nhỏ nhưng giữa không gian âm u vắng lặng bên trong mộ đạo này thì lại đặc biệt trở nên chói tai. Song phương cách nhau chỉ mấy chục bước chân, nhưng khoảng không phía trong địa cung lại tối như hũ nút, dù có đứng trước mặt nhau cũng chưa chắc đã nhìn thấy gì cả, hiềm nỗi địa hình nơi này lại vừa dài vừa hẹp, tiếng vang có thể truyền thẳng đến điểm cuối của Trường Sinh Điện. Tôi sau khi nghe thấy những âm thanh này, lập tức nhận ra ngay hai tên thợ săn kia đã bám theo tới nơi. Lúc trước tôi cũng đã nghĩ tới việc này, chẳng qua là không ngờ tới việc bọn chúng lại đến nhanh như vậy, xem ra đối phương đang rất nôn nóng, dần mất hết kiên nhẫn, lo sợ chúng tôi sẽ mở được địa cung trước, tìm được trân bảo chôn theo trong mộ rồi cao chạy xa bay! Tôi không biết đối phương còn dẫn theo bao nhiêu người tới nữa, chỉ có mỗi mình hai bọn chúng, hay còn thêm kẻ nào?

    Tôi vội vàng tắt ngọn đèn bão, nhưng tiếng bước chân thì lại càng ngày càng gần, chỉ còn cách nhau khoảng hai mươi bước nữa thôi, hiện giờ đã có thể thấy hai ngọn đuốc lập loè ở phía sau. Tôi xem chừng đối phương không dẫn theo nhiều người, lúc này mới lôi đèn pin trong túi ra, bật lên chiếu thẳng về hướng bọn chúng, chỉ thấy hai tên thợ săn Đại Hổ, Nhị Hổ kia, trên người đeo súng chim cùng với xẻng lưỡi vịt, tay cầm cây đuốc, một trước một sau đang đi vào bên trong lục lọi. Hai người bọn chúng vừa thấy bên này có ánh đèn pin chiếu vụt qua, vội vàng nhảy sang một bên né tránh, cùng lúc đó, súng chim trong tay Tuyền béo cũng đã được khai hoả. Bên trong Trường Sinh Điện là một mảnh tối đen, cách nhau tận mười mấy bước chân thành ra rất khó để xác định được đúng mục tiêu, phát súng này của cậu ta liền bắn trúng vào nóc điện thờ Hư Không Tàng Bồ Tát, hoành phi bằng đá vỡ vụn.

    Hai tên kia bị phát súng này làm cho đâm hoảng, liền lắc mình chui vào một bên khoán động. Tuyền béo thấy cừu nhân không đội trời chung thì liền tức giận, hai mắt long sòng sọc, hơn nữa bên trong Trường Sinh Điện chật hẹp này, không thể để cho đối phương có được cơ hội trả đũa nên liền tức tốc đuổi về phía trước. Tôi cùng Trăn Tử lo sợ cậu ta hành động sơ xuất, cũng lập tức mở hết đèn pin lên theo sát ngay đằng sau. Hai tên thợ săn trốn vào một cái động môn, bên trong động môn là một đoạn thông đạo dài được lát gạch nung, thông với phối điện phía Tây. Trong thông đạo tối mò mò, khắp nơi đều là mạng nhện cùng bụi bặm tích trữ suốt mấy trăm năm, khiến cho người ta sặc lên sặc xuống không thở nổi, ánh sáng đèn pin cơ hồ có cũng như không, chúng tôi cũng sợ đối phương sẽ dùng súng chim bắn ngược trở lại, cho nên không dám đuổi quá nhanh. Thông đạo được lát gạch, cao hơn hai trượng, đi sâu chừng ba mươi bước, phía cuối nối với phối điện bên trái, chỗ giao nhau cũng là một cái khoán động, không hề thấy có cửa đá, chỉ dùng mộ gạch bịt kín lại. Chúng tôi nghe thấy phía trước vang lên tiếng hai tên kia đang cố đẩy sập bức tường, đi tới gần lấy đèn pin chiếu một cái, chỉ thấy dưới đất vương vãi đầy gạch mộ, có một tên đang xoay lưng về phía chúng tôi, ngồi bệt dưới đất ngay phía trước phối điện phía Tây không nhúc nhích, tựa hồ hắn đã trông thấy một thứ gì đó rất đáng sợ, thành ra ngây người như vậy, tôi cũng thử hướng mắt nhìn theo nhưng chỉ thấy bên trong là một khoảng không âm u tối đen. Nhờ ánh sáng từ đèn pin soi tỏ liền có thể nhận ra ngay, hắn chính là Đại Hổ.

    Hai anh em bọn chúng thân hình tương tự nhau, đều đeo trên lưng một cây súng chim, trên đầu đội chiếc mũ sành, điểm khác biệt giữa hai người là một cái khăn quàng lớn, cùng một cái túi to, đi đến nơi nào cũng mang theo. Ba người chúng tôi không biết tay Đại Hổ này đang định giở trò quỷ gì, tại sao hắn lại đột nhiên dừng lại? Thằng em Nhị Hổ của hắn trốn đi đằng nào mất rồi? Chúng tôi không hẹn mà cùng bước chậm lại, từ đống gạch đổ vỡ cẩn thận bước vào, đi sang hai bên nhìn thử, tất cả tối đen như mực, không hề thấy có người nào cả, đang lúc trong lòng cảm thấy kỳ quái, chợt nghe sau lưng có tiếng bước chân mạnh mẽ lao tới, tôi lúc này mới ý thức được rằng đây là một cái bẫy! Hai tên mộ tặc giả dạng thợ săn này, một tên dẫn dụ chúng tôi chạy đến đây, còn một tên thì núp sẵn ở trong thông đạo từ trước. Tuyền béo phản ứng lại cũng khá nhanh, cậu ta xoay người giương súng định bắn, nhưng bất ngờ phía trên thông đạo lát gạch điên cuồng ập xuống một dòng lưu sa, trong khoảnh khắc bịt kín cả thông đạo lại.

    Thì ra thời điểm mà toà Liêu mộ này được xây dựng, đào ra được bao nhiêu đất đá trong núi, liền từ Đại Mạc vận chuyển đến tới bấy nhiêu cát vàng, bố trí thành thật nhiều cạm bẫy bằng cát phía trên đỉnh mộ. Hai tên Nhị Hổ này cũng là hai tay mộ tặc lão luyện, nhìn ra được cách cục bố trí địa cung bên trong Liêu mộ, ở trong thông đạo khởi động được cơ quan lưu sa, đem phối điện lấp kín. Cát chảy không thể so với gạch đá hay đất bùn, muốn đào cũng không có cách nào mà đào được, đào được bao nhiêu cát lại chảy xuống lấp đầy bấy nhiêu. Thời xưa, loại phương pháp phòng chống trộm này được sử dụng không ít, đừng nói là hoàng cung đại nội, ngay cả đại hộ nhà người ta sân tường biệt viện đều là hai lớp kép, ở giữa nhét đầy gạch khối đá vụn để phòng ngừa trộm cướp, chủ yếu là ngăn chặn đám đạo tặc đục tường khoét vách, còn đám phi tặc thì có được bao nhiêu tên mà phải phòng bị? Đại đa số nếu muốn đột nhập vào thâm trạch đại viện thì thường thường đều là ở trên tường viện khoét ra một lỗ hổng, trước kia từng có câu cách ngôn như này “Làm kẻ gian khoan lỗ thủng”, còn theo tiếng lóng của dân trong nghề thì gọi là “Khai đào viên". Bọn họ có một loại đoản đao đặc chế riêng biệt, chỉ có một chút ở phần đầu đao mới được làm từ thép, còn lại thân đao làm hoàn toàn từ nhuyễn thiết, để đến lúc khoét vách không còn bị gãy ngang chừng nữa. Còn có thể loại đạo tặc không những bản lĩnh cao mà đạo đức cũng rất tốt, bọn chúng xách đao đến khoét tường đục ngói chui vào trong nhà trộm lấy bảo vật, xong xuôi đâu đấy đến lúc chui ra còn giúp người xếp lại tường gạch chỉnh tề, ngay cả kẽ hở giữa các viên gạch cũng được trát vữa cẩn thận. Người trong nhà có tiền vì để đề phòng kẻ gian lẻn vào lấy đi thường thường dùng đá vụn xây thành tường kép. Ở các nhà ngục bên trong doanh trại còn dùng thật nhiều cát vàng đổ vào giữa hai bức vách, được gọi là hổ tường, không nghĩ tới bên trong địa cung này cũng có thiết lập hệ thống lưu sa như vậy. Trong lòng cả ba người đều cảm thấy trào lên một cảm giác tuyệt vọng: “Tên mộ tặc kia thật là độc ác, vì muốn chúng ta bị chôn sống ở chỗ này mà hi sinh cả đại ca hắn! Nghe nói cái bọn mộ tặc này thấy tài liền vong nghĩa, vì chuyện xích mích chia chác báu vật mà sẵn sàng hạ đạo giết người diệt khẩu, kể cả là huynh đệ ruột thịt!”

    Chúng tôi thấy tên thợ săn Đại Hổ kia vẫn ngồi bất động ở chỗ đó không nói một tiếng nào, đối diện với hắn chỉ có vách đá trống rỗng, không hề thấy thứ gì có thể khiến hắn sợ ngây người ra như thế được cả, tôi thầm tặc lưỡi: tên này bản lĩnh chính trị quả là kiên định! Phải chăng hắn muốn lấy tĩnh chế động để đối phó với chúng tôi? Tuyền béo từ nãy đến giờ vẫn không nuốt trôi được cục tức, sớm đối với hai tên này hận đến cắn răng nghiến lợi, chỉ muốn lia cho tên Đại Hổ kia một băng súng mới hả được cơn giận. Tôi vội bảo cậu ta trước chớ nên động thủ, vòng tay ra sau rút lấy thanh quân đao, rồi tiến lên phía trước nắm chặt một cái vào vai Đại Hổ, muốn xoay hắn lại để hỏi cho ra nhẽ, nào ngờ tay tôi vừa mới đưa tới thì hắn đã ngã ngửa ra đất. Ba người lấy làm kinh hãi, vội giơ đèn pin lên soi thẳng vào mặt hắn, chỉ thấy trên khuôn mặt trắng loá một mảnh, tôi lập tức cảm thấy khó hiểu: hắn thế nào lại để cho mặt mình dính đầy bùn đất thạch cao thế này, cho đến khí nhìn kĩ lại một lần nữa, mới nhận ra trên mặt hắn tất cả đều là hoạt thư (Trans: Ấu trùng ruồi nhặng, dòi,..”)!

    Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Cương Thi Thợ Săn” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng & https://truyenfull.vn
     
  5. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,686
    Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư
    Tác giả: Thiên Hạ Bá Xướng
    Chương 10: Cương Thi Thợ Săn

    Dịch: Đặng Nam
    Nguồn: facebook./ma-thoi-den

    Dịch: Đặng Nam

    Tay thợ săn Đại Hổ sau khi chạy vào trong phối điện, liền ngồi im thin thít không cử động, hệt như một pho tượng sống vậy. Tôi đánh bạo tiến lên kéo vào vai hắn một cái, cả người hắn lập tức đổ ập ra sau, mặt ngửa lên trời, lúc này mới phát hiện ra trên mặt hắn nhung nhúc toàn dòi với dòi, da thịt đã sớm bị nát rữa từ bao giờ, một mùi hôi thối tởm lợm cũng ngay tức khắc xộc ra. Ba người chúng tôi sợ hết hồn, vội lui về phía sau hai bước, quáng quàng đưa tay lên bịt kín mũi miệng, sau đó mới cẩn thận cúi xuống quan sát kĩ hơn cỗ thi thể thối rữa kia, chỉ thấy dòi bọ bò đầy trên mặt, ngũ quan không thể nào phân biệt nổi. Nhưng rõ ràng là chúng tôi vừa mới cùng tay thợ săn này một trước một sau bám đuổi gắt gao chạy vào phối điện này, hắn tuyệt đối không thể nào nhanh như vậy đã có thể tìm ra được một cái xác rồi lại thay trang phục, giả làm hắn để lừa chúng tôi được! Tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng cỗ thi thể đầy dòi kia tuyệt không phải của ai khác mà đích thực là của Đại Hổ, bởi vì tôi nhớ là Đại Hổ hắn có hai cái răng nanh sắc nhọn như nanh hổ, mặc dù da thịt đã bị thối rữa nát bét nhưng hai cái răng hổ kia vẫn còn có thể nhìn ra được.

    Tuy phút trước còn sống rành rành, phút sau đã chết ngay tắp lự thì cũng chẳng có gì kỳ quái cả, mà điều đáng để băn khoăn là tại sao thi thể hắn lại bị thối rữa thành ra bộ dạng như bây giờ? Bình thường sau khi chết, cơ thể phải mất hai đến ba giờ sau mới bắt đầu cứng dần, lại phải đợi thêm vài ngày nữa mới có thể xuất hiện dòi bọ ăn xác thối. Phải chăng lúc chúng tôi gặp Đại Hổ ở thượng nguồn Hắc Thủy Giang, hắn đã là một người chết sẵn rồi? Một cỗ cương thi giả trang thành thợ săn thú, ban ngày ban mặt vào tận trong thôn tìm chúng tôi, còn nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất một hồi lâu, mới nghĩ tới đây thôi đã đủ khiến người ta nổi hết cả da gà vì ớn, không biết nó là từ trong tòa cổ mộ nào bò ra? Hoặc cũng có khả năng bên trong tòa Liêu mộ này có một loại thi trùng nào đó, Đại Hổ chính là bị loại thi trùng đó cắn phải nên mới lập tức biến thành ra như vậy? Bất quá cả ba người chúng tôi cũng bước vào phối điện này, đây cũng là một tòa trường điện đặt trên trục Bắc Nam, cũng chạy qua thông đạo được lát gạch đã bị lưu sa lấp kín, trừ tên thợ săn đang phơi thây trên đất này ra cũng không phát hiện thấy có bất kỳ dị trạng gì cả, không biết sau khi hắn chui vào trong này đã xảy ra biến cố gì?

    Chúng tôi lúc ấy toàn là nói mò, suy đoán lung tung một trận. Cái tư tưởng mê tín thâm căn cố đế đã sớm ăn sâu vào trong đầu óc của Trăn Tử, nàng cho là tay thợ săn Đại Hổ kia kỳ thực là một cỗ hành thi. Tôi cùng Tuyền béo tặc lưỡi xem thường, người miền núi quả là đầu óc mê muội, mê tín một cách thái quá, nhưng mà kể ra cái suy nghĩ mê tín của họ cũng khá là có logic đấy chứ, truyền thuyết kể về cương thi tôi đã sớm nghe qua không ít, có câu là nhập thổ vi an, tức là người chết sau khi chôn xuống đất là coi như hết nợ với đời, tuy nhiên có một số người bị oan mà chết thành ra nhập thổ bất an, trở thành cương thi. Trong ngũ hành thì cương thi thuộc hành thổ, vì thổ có thể khắc được thủy, cho nên trong truyền thuyết dân gian thì cương thi sẽ mang đến hạn hán, vì vậy gọi là Hạn Bạt (Trans: Hôm trước có một bài nói về Tứ Đại Cương Thi thì Hạn Bạt là công chúa trên trời, chắc là có nhiều cách lí giải, các bạn nếu muốn có thể tìm đọc thử). Trên thân lông cứng mọc ra tua tủa, vô cùng hung ác, ban ngày núp kín ban đêm mới bò ra, bắt người sống hút hết óc, trăm năm làm Hung, nghìn năm thành Sát, sau khi hình thành đạo hạnh thậm chí có thể bay lên trời, chui xuống đất một cách dễ dàng, hút hết thủy mạch long khí. Lại bởi vì mộc có thể khắc thổ, để đối phó với cương thi phá quan tài bò ra, phía trên mộ phần phải lấy gỗ đào làm cọc đóng chặt xuống đất. Cho dù theo như truyền thuyết mê tín mà mọi người truyền miệng nhau bấy lâu nay thì cương thì ban ngày vẫn phải núp ở trong quan tài, nếu như nói tay Đại Hổ kia là một cỗ cương thi, hắn làm sao có thể đi tới đi lui giữa ban ngày ban mặt như vậy, mà hơn nữa cũng không ai phát giác ra trên người hắn có mùi hôi thối của thịt rữa, chẳng lẽ nguyên một cái xác chết trên người bám dầy dòi bọ đứng trước mặt mà chúng tôi lại không nhìn ra được sao? Tôi xem chừng bên trong địa cung tòa cổ mộ này nhất định là có thứ gì đó đã tác oai tác quái, làm sao có thể khiến một người đang sống rành rành chỉ trong chớp mắt đã hoàn toàn biến thành một đống thịt thối rữa bầy nhầy như này? Càng không giải thích được thì lòng càng không yên, nếu như không có cách nào sớm tìm ra chân tướng, chỉ sợ người kế tiếp chịu trận chính là một trong số chúng tôi! Tuyền béo mở miệng nói: “Tuy rằng chưa biết thứ gì đã khiến hắn trở nên như vậy, nhưng ở cái nơi quỷ quái âm u như này, chúng ta vẫn nên cẩn thận hơn!”

    Nói xong hắn đem đèn bão treo trên súng săn đi một vòng xung quanh kiểm tra thử, ben trong trường điện hoàn toàn vắng vẻ lạnh lẽo, ngay đến một con chuột cũng không có, hắn tự nhủ: “Ở trong lòng núi đục khoét ra được một tòa đại điện như này nhưng thứ gì cũng không có, là cố tình xếp đặt như thế hay là con mẹ nó ăn no rửng mỡ đào ra cho vui?”

    Lời này của Tuyền béo đã nói trúng đến điểm mấu chốt, táng chế thời cổ đại rất chú trọng đến chuyện cuộc sống sau khi chết, địa cung trong mộ lúc đầu được gọi là huyền cung, đến đời Thanh vì tránh phạm phải tục danh của thánh tổ Khang Hy nên mới đổi cách gọi thành địa cung, càng về sau thì càng có nhiều cách gọi, thích kêu là gì cũng được, tóm lại chủ yếu là muốn làm thành cung điện y như của chủ mộ lúc còn sống vậy. Nếu như không thể hoàn toàn làm giống y đúc thì ít nhất trên phương diện cách cục cũng phải tương tự phần nào, trong mộ phải chia thành tiền trung hậu - tam đại điện, hai bên có phối điện, không quan trọng là có cần thiết hay không nhưng vẫn phải có. Tôi vừa ngẩng đầu lên nhìn một cái, đèn pin cũng lia theo chiếu lên trên cao, liền phát hiện trên vách có chừng mười người, là đồng nam đồng nữ đã chết héo từ lâu, đóng thẳng vào vách đá, mỗi tay bưng một ngọn trường minh đăng, quần áo trên người đều đã mục nát, mắt mũi vặn vẹo khó coi, sắc mặt đen nhánh, ở trong mộ bất thình lình nhìn thấy mười cái xác chết như vậy, thật có thể dọa người ta chết khiếp, són đái ra quần!

    Táng chế thời nhà Liêu đại khái cũng gần tương tự với các vương triều Trung Nguyên, tuy nhiên cũng có chút bất đồng, không hẳn là giống nhau hoàn toàn, bình thường thì sẽ đem những đồng nam đồng nữ tuẫn táng lột sạch da, rồi lấy những bộ da đấy đính lên cọc gỗ, giả thành hình người, gọi là nhân cọc, không nghĩ tới bên trong ngôi cổ mộ này lại có nhiều hài tử tuẫn táng theo như vậy. Đại Hổ chỉ trong nháy mắt đã trở thành một đống thịt rữa nhung nhúc dòi bọ như vậy, liệu có phải hay không là do những đồng nam đồng nữ này tác quái gây ra? Trăn Tử không dám nhìn lâu, núp kín ở sau lưng hai thằng tôi, tôi cùng Tuyền béo thì bạo dạn hơn, dùng đèn pin chiếu qua một lượt. Những đồng nam đồng nữ bị tuẫn táng theo chủ mộ này, tất cả đều là bị lột da ngay từ khi còn sống, sau đó bộ da được đính lên hình nộm bằng gỗ, rồi tô thêm mắt mũi. Hình nộm được đẽo ra từ từ gỗ cây nhãn, trăm năm không mục, sâu kiến cũng không làm gì được. Những người này đều là bị vạch một đường ở giữa sống lưng, rồi dùng dao nhỏ lóc dần da ra khỏi bắp thịt, bộ da sau khi đã lột hoàn chỉnh được gọi là “Cánh bướm”. Cho dù âm hồn không tiêu tan trở thành ác quỷ có thể hù chết được tên thợ săn này, vậy cũng không thể khiến cho thi thể hắn biến đổi nhanh như thế này được.

    Cảm giác sợ hãi trong lòng chúng tôi càng mãnh liệt hơn, đồng thời cũng trở nên căm ghét đối với hành động tàn nhẫn này của tên chủ mộ, tại sao lại có thể nhẫn tâm bắt nhiều tiểu hài tử tuẫn táng theo mình thế chứ? Chúng tôi thật sự không nên nhất thời hấp tấp như vậy, khinh thường hai tên thợ săn kia, tùy tiện theo chúng chạy vào gian phối điện này để rồi bị tên Nhị Hổ kia giở trò hãm hại, lối vào duy nhất đã bị lưu sa lấp kín, lúc vào thì dễ chứ giờ muốn chạy ra thì mới thực sự là nan giải! Vừa nghĩ tới tên Nhị Hổ đã chạy mất, lại nhìn Đại Hổ đang phơi thây ở đây, có lẽ nào là do Nhị Hổ đã bày trò kim thiền thoát xác, đồng thời cũng là để chôn sống chúng tôi ở đây nhằm giết người diệt khẩu. Vậy có thể nói thi thể của Đại Hổ bị như thế kia không phải là do thứ gì đó trong mộ gây ra? Phải chăng người huynh đệ Nhị Hổ của hắn cũng là một hoạt thi có thể đi đứng nói cười như người sống sao?

    Hết thảy mọi thứ phát sinh quá mức đột ngột, khiến tôi cùng Tuyền béo không thể nào tìm ra được nửa điểm đầu mối để có thể giải thích được những chuyện này, tuy nhiên có một câu nói của Trăn Tử lại khiến tôi phải để tâm suy nghĩ, nàng nói rằng tay Nhị Hổ không phải là hành thi. Tôi nghe những lời nàng nói cũng có chút ý tứ gì đó, tựa hồ rất có nguyên do, liền hỏi nàng tại sao nói tay Đại Hổ mà chúng tôi gặp lúc ở trong thôn là hành thi, còn tay Nhị Hổ này lại không phải? Trăn Tử nói những chuyện này nàng cũng chỉ là nghe từ một số người cao tuổi trong thôn đề cập đến một hai lần, trước kia từng có một phân mạch tà đạo như vậy, chuyên có những thủ đoạn đào mộ trộm cổ vật vô cùng khó lường, đồn rằng thứ bọn chúng sử dụng chính là yêu pháp, nhưng nghe nói sau này đều bị trấn áp rồi xử tử, tuy nhiên rất có thể vẫn còn một hai truyền nhân còn sót lại. Tôi cùng Tuyền béo nghe xong đều trợn mắt há mồm, hai tên chuột đất này có thể sử dụng yêu pháp gì chứ?

    Theo như đám thợ săn trong thôn nói, từ rất sớm trước kia, trên thảo nguyên cũng có khá nhiều chuột đất xuất hiện, trong số bọn chúng có kẻ biết sử dụng tà thuật yêu pháp, có người nói đó là truyền nhân của Bạch Liên giáo, cũng có người nói là không phải. Trong đó có một chiêu thức khá kỳ quái được dùng lúc khai quan đoạt bảo, những tên chuột đất khác nếu như muốn móc lấy minh khí chôn theo trong mộ thì phải cạy bỏ lớp ván đóng quan tài rồi mới chui vào lấy đồ. Nhưng tên này thì lại niệm Phi Chử Chú, khiến cho người chết trong quan tài tự mình bò ra ngoài, mặc người khoắng sạch lấy minh khí bên trong, sau đó sẽ niệm chú lại một lần nữa để cho người chết bò trở lại như chưa có chuyện gì xảy ra. Mặc dù truyền thuyết này nghe có vẻ rất là tà môn, nhưng cơ hồ chưa có lấy một người nào từng thấy qua cả, không loại trừ trong câu chuyện này đa phần là người xưa nói quá lên để hù doạ nhau mà thôi.

    Ngoài ra còn nói, hễ là những tay chuột đất mà biết sử dụng tà thuật yêu pháp, trước giờ mỗi khi ra ngoài hành sự đều không bao giờ đi một mình mà sẽ dẫn theo một người, người ngoài không biết nhìn vào còn tưởng đấy là hai huynh đệ một nhà, nào có biết đâu trong hai người này có một người sống và một người chết. Bọn chúng trước khi đổ một cái đấu nào đó, đều sẽ đi tìm một người có thân hình vóc dáng từa tựa với mình, đầu tiên là nghĩ cách đoạt mạng người ta, rồi lập tức lấy một chiếc kim đâm vào chính giữa đầu lưỡi xác chết nhằm phong bế hồn phách lại, dán tiếp bùa chú lên, vậy là liền có một bù nhìn bằng thịt hay còn gọi là hành thi. Hành thi này nhất cử nhất động đều nghe theo lời chủ nhân, ăn cơm nói chuyện sinh hoạt hệt như người sống. Tuy nhiên nếu như khoảng cách giữa hai người quá mười bước chân thì bùa chú sẽ mất tác dụng, hành thi lập tức lộ bị hủ mục thối rữa. Tại sao lại phải mất công làm một cỗ hành thi như vậy? Tất nhiên không phải là do quá rảnh rồi, mục đích thực sự là để cho hành thi giả làm mình cùng đồng bọn tiến vào đạo động, sau đó ở một bên ra tay giết người diệt khẩu, một mình tiến lấy minh khí trong mộ. Chuyện Trăn Tử nghe được cũng chỉ có đến đây là hết, bây giờ nghĩ lại, hai tay thợ săn kia tuyệt chẳng phải anh em gì cả, Nhị Hổ mới thực sự là chủ mưu còn Đại Hộ chỉ là hành thi hắn mang theo bên người mà thôi.

    Tôi tất nhiên tin rằng bọn chuột đất vì muốn giết người diệt khẩu một mình nuốt trọn báu vật sẽ sẵn sàng giở mọi thủ đoạn, còn chuyện một người sống đem theo một người chết chạy nhảy tung tăng khắp nơi, trong giang hồ cũng không phải là không có sự tình như này, chưa chắc mọi chuyện đã hoàn toàn đều là mê tín, có lẽ thực sự có chút thủ đoạn nào nó, chẳng qua là chúng ta không biết rõ nội tình bên trong mà thôi. Tôi đem tất cả tình tiết sắp xếp lại một lần cẩn thận, bởi vì trước đó chúng tôi có làm lộ ra một số thông tin, khiến cho tay chuột đất kia mới mò tìm tới tận cửa, bày mưu để chúng tôi phải chạy tới đây đào lấy hoàng kim linh chi, ngay từ đầu hắn đã biết bên trong mộ cổ làm gì có thứ nào như thế, chẳng qua là lừa chúng tôi làm con tốt thí dẫn đường, giúp hắn tìm được lối vào bên trong toà Liêu mộ này. Sau đó chúng tôi từ chui qua phía dưới Kim Cương Tháp vào được trong mộ đạo, việc này khiến cho hắn lo sợ rằng chúng tôi sẽ đoạt được bảo vật trước hắn, nên mới dẫn dụ chúng tôi chạy vào gian phối điện này, rồi khởi động cơ quan trong mộ định dùng lưu sa chôn sống chúng tôi. Ba người chúng tôi không khỏi tức giận rủa thầm tên chuột đất này quá là độc ác, đáng tiếc lúc trước đã để hắn chạy mất, giờ có lôi cả mười tám đời tổ tông hắn ra chửi thì cũng chẳng được tích sự gì, đã dám làm những chuyện như này thì hắn sớm đã đếch cần thèm quan tâm đến tổ tông làm gì rồi. Chúng tôi vẫn nên đứng dậy tìm cách thoát thân ra khỏi đây thì hơn, bị bao vây trong không gian kín mít như này chẳng thì chầy cũng sẽ chết vì ngạt thở.

    Tuyền béo lục soát trên người cái xác kia một lần, thứ gì cũng không có, ngay cả khẩu súng chim kia cũng là đồ hỏng, cậu ta không cam lòng ngồi chờ chết, bực bội xách xẻng công binh cố đào bỏ đống lưu sa chặn kín thông đạo. Tôi vừa nghĩ tới số đồng nam đồng nữ chôn theo đang treo lủng lẳng bên trong Trường Sinh Điện này, liền cũng muốn nhanh chóng thoát được ra ngoài, bất quá lưu sa càng đào càng nhiều, con đường lát gạch kia giờ đã trở thành tử lộ, đành gọi Tuyền béo cùng đến phía cuối gian phối điện dò xét tìm cửa ra thử xem. Lúc này đèn pinđã sớm hết điện, chỉ còn đèn bão là có thể sử dụng được, không biết đến bao giờ mới có thể chui ra được khỏi nơi đây nên cũng không nỡ dùng đuốc. Ba người chúng tôi lục lọi tới lui một hồi, những đồng nam đồng nữa kia hoàn toàn được đóng chặt vào phía trên vách điện, bên trong phối điện trống trơn chẳng có gì nữa cả. Tôi cảm thấy dường như mình đã rơi vào đường cùng rồi, không thể làm gì khác hơn đành ngửa mặt lên trời than thở: “Ít ra cũng có mấy tiểu quỷ này làm bạn cùng!”

    Trăn Tử mặt trắng bệch, sợ hãi quay sang nhìn tôi: “Anh vừa nói gì thế?”

    Tôi đáp: “Ba chúng ta bị bao vây trong này không tài nào thoát ra được, không phải vừa vặn làm bạn với mấy đứa trẻ này sao?”

    Trăn Tử thấp giọng nói: “Phỉ phui cái miệng nhà anh, đừng có nói như thế, cẩn thận chúng nghe được thì lại tha hồ mà rắc rối!”

    Tôi nói: “Cô không cần phải sợ, bọn họ ở trên trời nếu có linh thì nên phù hộ cho chúng ta thoát ra được khỏi đây, diệt trừ ác nhân nằm bên trong cỗ quan tài kia trả thù cho họ! Huống chi trên đời này căn bản làm gì có quỷ, tôi nói mấy lời này sợ quái gì chứ!”

    Trăn Tử bỗng nhiễn trợn to mắt, nhìn thẳng vào thứ gì đó phía sau lưng tôi, lắp bắp nói: “Trên đời có quỷ?... Vậy phía sau lưng anh… là cái gì thế kia?”

    Vừa nghe Trăn Tử nói vậy, cộng thêm gương mặt hãi hùng không có nửa điểm gì là giả dối của nàng, một cơn lạnh buốt liền chạy dọc sống lưng tôi, rốt cuộc sau lưng tôi có thứ gì chứ? Lúc trước tôi đã nhìn khắp một lượt xung quanh đây rồi, ngoài chúng tôi ra chẳng còn thứ gì nữa cả, tại sao Trăn Tử lại đột nhiên nói như vậy? Tuyền béo đang dùng sức cố thử bậy tung bức tường đá phía cuối Trường Sinh Điện, chỉ có ngọn đèn bão trên tay tôi là nguồn sáng duy nhất, cũng chẳng chiếu được bao xa, nếu như Trăn Tử nói sau lưng tôi có quỷ thì nhất định thứ đó phải ở khoảng cách rất gần, nghe nàng nói như vậy lông mao trên người căng thẳng dựng đứng hết cả lên, thật cảm thấy đằng sau có thứ gì đó! Bất qua tôi không muốn bị mất thể diện trước mặt Trăn Tử, cả ngày nay lỡ miệng nổ to gì mà một đao chém chết lũ đầu trâu mặt ngựa, anh hùng cái thế diệt yêu ma, bây giờ thật thấy quỷ mà lại bị doạ cho té đái thì sau này còn biết ngẩng mặt nhìn ai? Thà để quỷ bóp chết chứ nhất định không thể để quỷ hù chết, trong lòng vừa động, tôi liền lập tức quay phắt người về phía sau nhìn thử, trong ánh đèn bão lờ mờ hiện lên một khuôn mặt đồng nữ tuẫn táng, da dẻ đen quắt lại, còn có thể loáng thoáng thấy qua lấm tấm những vết ban do thuỷ ngân gây ra, quần áo trên người mục nát, đứng thẳng đờ ngay phía sau lưng tôi.

    Trong gian phối điện phía Tây này có tới tận mười mấy đồng nam đồng nữ tuẫn táng chôn theo chủ mộ, khi còn sống bị lột da một cách man rợ, lại bị đóng vào trên vách đá, tay bưng trường minh đăng, đứng cúi đầu, làm thành đội nghi trượng đi theo chủ mộ đến thế giới bên kia. Bởi vì vong hồn của mộ chủ sẽ được thăng thiên, cho nên đồng nam đồng nữ tuẫn táng theo đều phải đóng lên vách cao, cách mặt đất hơn một trượng có dư. Bất quá vị đồng nữ sau lưng tôi này, là bị rơi từ trên vách đá xuống, dường như đang cùng tôi mặt đối mặt! Trăn Tử vừa rồi đứng đối diện với tôi, đèn bão lại là do tôi cầm thành ra nàng chỉ loáng thoáng thấy quá hình bóng mờ mờ của cái xác này chứ chưa có nhìn rõ. Lúc này tôi quay cả người lại, đèn bão trong tay cũng quay theo, khuôn mặt của cái xác giờ hiện lên rõ như ban ngày, tôi mặc dù không sợ trời cũng chẳng sợ đất, thế nhưng cũng bị một phen bất ngờ, hít đầy một hơi khí lạnh, suýt nữa ngã ngồi ra đất, đứa bé gái này thế quái nào lại rơi xuống được vậy?

    Trăn Tử bị doạ cho sợ mặt cắt không còn giọt máu, một câu cũng không thốt ra nổi nữa rồi. Tuyền béo xoay người lại, thấy trước mặt tôi có một xác chết đồng nữ, cũng lập tức kinh hãi, nghệt ra hỏi tôi: “Ôi giồi ôi bố Nhất ơi bố làm sao lôi cái xác này xuống được thế?”

    Tôi cứng lưỡi: “Tôi nào có động gì đến nó, chính nó tự rơi xuống…”

    Tuyền béo không đợi tôi nói hết: “Ai bảo nhà ngươi ăn nói lung tung bậy bạ, gì mà làm bạn với chả làm bè, nó không nhảy xuống tìm ngươi mới là lạ!”

    Tôi giơ cao đèn bão chiếu vào khuôn mặt của cái xác, da thịt đã khô quắt lại, ngũ quan vặn vẹo, trên đỉnh đầu phía dưới búi tóc có một lỗ nhỏ, chính là vết tích cũ của đường rạch đầu tiên khi lột da, tựa hồ có thể nghe được tiếng kêu gào rách gan rách ruột của nó khi còn sống vậy. Nhưng xem chừng nó mới chỉ là đứa trẻ lên bảy hay lên tám mà thôi, tại sao lại có thể cao ngang bằng tôi cơ chứ? Tôi cúi đầu xuống nhìn một chút, liền bị doạ cho hết cả hồn lần nữa, hai chân của nó đang đung đưa hờ hững trên không, tuyệt không phải là đứng trên mặt đất.

    Tôi trong lòng dứt khoát: “Ngươi cho rằng có thể hù chết được ông đây sao? Thách cả nhà ngươi dám làm gì luôn đó!” Vừa nghĩ, hai tay tôi vừa vươn ra phía trước, định bụng bẻ gãy cái đầu kia xuống cho bõ tức, nào ngờ vừa mới tiến lại gần, chợt nghe trong cổ họng nó phát ra một thứ tiếng kêu quái dị, đồng thời toàn thân nhào thẳng về phía người tôi, tôi vội vội vàng vàng lùi lại đằng sau thật nhanh, cái xác liền mất đà ngã ập xuống đất, đầu nó lăn một lèo tới góc gian phòng, từ chỗ cần cổ không đầu phun phì phì ra một dòng nước đen.

    Tôi bị nó doạ thêm một phen suýt nữa thì đái ra quần, trống ngực vẫn đang đánh uỳnh uỳnh không thôi, trên trán ướt đẫm mồ hôi lạnh, đèn bão trong tay rơi đánh “choang" một tiếng rồi tắt ngóm. Tuyền béo vội vàng lục trong túi lấy ra một cây đuốc tẩm sẵn dầu, Trăn Tử cố nén nỗi sợ chạy tới đỡ tôi dậy. Ba người chúng tôi vô cùng lo lắng cẩn thận giơ ngọn đuốc chiếu qua, lúc này nhìn ra mới biết, thì ra xác của đứa bé gái này đã bị treo trên vách đá quá lâu nên cũng đã sớm hủ mục, lúc nãy không hiểu sao vừa khéo lại tuột xuống, nhưng quần áo vẫn còn mắc lại trên tường, thành ra mới treo lủng lẳng trước mặt khiến tôi tưởng nhầm, tiếng kêu quái dị vừa rồi chính là do tiếng vải bị xé rách do không chịu nổi sức nặng của cái xác mà gây ra. Tuyền béo ngạc nhiên: “Úi dồi, mặt cậu sao trắng bệch thế kia hí hí?”

    Tôi tức giận nói: “Mặt tôi đây gọi là rạng rỡ như vầng Thái Dương, trắng bệch cái đầu nhà cậu!”

    Tuyền béo cười khẩy: “Thôi đi ông tướng, sợ thì cứ nói thẳng ra! Tôi đã nói rồi mà, trên đời này làm quái gì có quỷ cơ chứ, chỉ có lòng người có quỷ thôi hahaha!”

    Tôi cũng không có phản bác lại lời châm chọc của Tuyền béo, đúng như cậu ta nói, tôi đã tự mình doạ mình rồi. Nhưng không hiểu sao cái xác ấy vốn đã bị đóng chặt vào vách đá mấy trăm nghìn năm rồi, sớm không rơi xuống, muộn không rơi xuống, chẳng nhẽ lại là đợi chúng tôi đến rồi mới rơi xuống sao, tình cơ đến thế cơ à? Tuyền béo lại quay qua hỏi tôi: “Sao lại nghệt cái mặt ra nữa thế?”

    Tôi đáp: “Tạm không nói đến việc có quỷ hay là không, đứa bé này lúc còn sống mạng khổ số khổ, bé thế đã bị đem đi lột da tróc thịt tuẫn táng theo chủ mộ thật là đáng thương, bất quá người chết thì như đèn tắt, ba chúng ta cũng chẳng có thể giúp nó được cái gì, thôi thì đừng để nó chết không toàn thây ở nơi này, tôi đi nhặt cái đầu của nó lại, cho nó yên tâm mà siêu thoát đầu thai!”

    Tuyền béo và Trăn Tử cũng đồng tình với ý kiến của tôi, thấy vậy tôi liền cầm lấy ngọn đuốc đi tới góc phòng, sau đó cúi xuống nhặt lấy chiếc đầu lâu khô quắt, dưới ánh sáng của ngọn đuốc đang cháy phừng phừng, tôi chợt phát hiện ra hoa văn bảo tương hoa trang trí phía trên mấy viên gạch có gì đó sai sai. Tôi thầm giật mình, trước đem cái đầu xếp gọn gàng trở lại vào khúc thân, rồi nhanh chóng bước trở lại chỗ cũ, sau một hồi quan sát cẩn thận tôi liền lôi chiếc xẻng công binh cậy thử mấy phát, quả nhiên mấy viên gạch này có vấn đề thật, phía dưới chúng che dấu một cửa hang! Chúng tôi bị bao vây trong chỗ này cũng khá lâu rồi, đã sớm lục tung hết mọi ngóc ngách xó xỉnh nhưng chẳng tài nào tìm thấy được lối ra, nào ngờ nó lại nằm ngay phía dưới tầng mộ gạch này. Cửa động này nằm ở phía cuối góc gian Trường Sinh Điện, mấy viên mộ gạch phía trên bị lộn ngược lại, khiến cho hoa văn trang trí khác hẳn với gạch mộ xung quanh, nếu như cái đầu lâu kia không lăn tới tận chỗ này thì tôi cũng chịu chẳng thể nào nhận ra được, liệu đây cũng lại là một sự tình cờ nữa ư? Hay là do lúc trước tôi có nói “Nếu như bọn họ ở trên trời có linh thiêng thì đáng ra phải phù hộ chúng tôi đập tan được quan quách của tên chủ mộ, trả thù cho họ”? Động khẩu hướng thẳng xuống phía dưới, chỉ sâu chừng 3, 4 trượng nhưng cũng đủ khiến ánh lửa từ ngọn đuốc không thể nào chiếu được tới đáy, chúng tôi đành phải đánh liều bám dây thừng mà tụt xuống, không gian dưới đáy động khá là chật hẹp. Ba người cố ổn định lại thân người, dùng đuốc đi xung quanh kiểm tra một lượt, chỉ thấy khắp nơi toàn là xương khô, trên mỗi khúc xương đều có dấu vết của thuỷ ngân, tựa hồ như toàn bộ người ở đây là do uống thuỷ ngân mà chết.

    Tôi thấy đáy động chất đầy xương khô, cảm thấy rất có khả năng nơi đây chính là một động chôn người câm. Tuyền béo không hiểu, mới hỏi: “Đào ra hẳn một cái động chỉ để chôn mấy lão câm thôi sao?” Tôi cũng chỉ là dựa trên phán đoán của bản thân mà thôi, những người thợ làm quan tài lẫn đám nô lệ khiêng quan vào địa cung vì để giữ bí mật đều sẽ bị cắt hết lưỡi, trở thành người câm, thậm chí để đảm bảo hơn nữa, trực tiếp tuẫn táng cùng chủ mộ. Nhưng không thể để những kẻ thấp hèn như này tuẫn táng trong địa cung được, vì vậy mới có động chôn riêng.

    Nghe nói vào thời nhà Liêu lẫn nhà Kim, vì để đề phòng bí mật trong mộ bị truyền ra ngoài, đại đa số sẽ cho đào ra một cái động người câm phía dưới mộ đạo, bình thường rất sâu, có thể trực tiếp đem người ném xuống chết tươi luôn. Nơi nay có mấy chục bộ hài cốt khi còn sống từng uống thuỷ ngân tự vẫn, là cam tâm tình nguyện chết theo chủ mộ, hay là bị ép buộc không thể không nghe theo? Chúng tôi nhất thời không nghĩ ra, lại không tìm ra được con đường nào khác, đành dựa vào mấy lá gan lớn nhắm mắt nhắm mũi bước tiếp về phía trước. Mò mẫm mãi một hồi rốt cuộc cũng phát hiện, động người câm nằm phía dưới Tây phối điện này một mực thông tới Đông phối điện, hai bên bố trí cân đối, bên trong cũng có đồng nam đồng nữ tuẫn táng treo trên vách đá. Tôi liền leo lên trước, rồi thả dây xuống kéo hai người kia lên. Mấy người chúng tôi đi vào từ Tây phối điện nhưng lại từ Đông phối điện đi ra, cũng may lưu sa chỉ chặn kín lối vào Tây phối điện, còn lại các lối đi khác vẫn hoàn toàn bình thường.

    Ba người lại lần nữa trở về cánh cửa có khắc cặp sư tử cõng bảo vật phía trước địa cung, thấy cửa đá đã bị đẩy ra một nửa. Tuyền béo đi vào bên trong nhìn quanh nửa ngày, chẳng thấy cái quái gì cả, có lẽ nào tay chuột đất kia đã khoắng sạch bảo vật rồi cao chạy xa bay từ lúc nào? Tôi thầm mắng hắn hạ thủ quá nhanh, thời gian chúng tôi bị vây khốn trong Tây phối điện mới chỉ ước chừng qua một canh giờ, mà hắn đã vét sạch chẳng để lại gì. Phía trên cánh cửa đá kia, chỗ hai con sư tử có thứ đồ gì đó tựa hồ một con ngươi, chỉ sợ cũng bị hắn cậy luôn mất rồi! Mấy món bảo vật chôn theo trong mộ bị hắn lấy đi thì cũng thôi, đằng này lại còn khiến chúng tôi ăn không ít khổ cực, nếu không phải phía dưới mộ đạo có động người câm, chỉ sợ chúng tôi đã sớm bị hắn chôn sống ở Tây phối điện, có thể thấy là hắn thực sự muốn lấy mạng của cả ba người, một khi để hắn chạy được ra khỏi ngôi mộ này, trốn vào trong rừng sâu thì đừng hòng tóm được hắn để hỏi tội.

    Tôi cùng Tuyền béo vẫn chưa từ bỏ ý định trả thù, có lẽ tay Nhị Hổ này vẫn còn trốn ở trong địa cung. Nhìn tổng quát khắp một lượt bố trí bên trong toà Liêu mộ này, giống hệt như một chữ “Tệ" (币), ở gian tiền điện không hề có phối điện, chỉ trung điện mới có Đông, Tây phối điện mà thôi. Nếu như tiền, trung, hậu điện đều có phối điện thì được gọi là Cửu thất huyền cung, theo như táng chế là kiểu bố trí cho lăng mộ Hoàng Đế. Theo như những gì chúng tôi thấy bên trong toà cổ mộ này, tuyệt đối không phải là để chôn một vị Hoàng Đế nào cả. Chư Hầu cùng Vương Tước khi xây mộ thì chỉ được dùng Ngũ hoặc Lục thất huyền cung, tuy nhiên Thái Hậu lại được phép xây Cửu thất huyền cung, chỉ khác ở điểm là bốn gian phối điện được bố trí rải rác ở hai bên hậu điện để tránh phạm huý với lăng mộ của Hoàng Đế. Rốt cuộc toà Liêu mộ này có phải là dùng để chôn cất một vị Thái Hậu nào đó hay không, thì chỉ có một cách là tiến vào trong mộ chính mới có thể thấy rõ!

    Ba người nóng lòng muốn báo thù, đồng thời cũng rất tò mò với thân phận thật sự của vị chủ mộ, liền nối đuôi nhau lách qua khe cửa đá hẹp đã được mở sẵn, phía sau cánh cửa là chín bậc thang đá, đều là được tạc từ loại đá thanh bạch vô cùng giá trị mà thành, trên mái đỉnh hình vòm cung có chạm trổ Ngũ phương Phật tổ hết sức tinh xảo, ở giữa là Thích Ca Mầu Ni Phật, phía Đông là Dược Sư Phật, phía Tây thì là A Di Đà Phật, phía Nam là Bảo Sinh Phật, còn cuối cùng ở phía Bắc là Bất Không Thành Tựu Phật, năm vị này còn được gọi là Ngũ Trí Phật, có thể chuyển hoá và tinh hoá năm loại phiền não của nhân gian là: vô minh, sân giận, tham muốn, ghen tị và kiêu mạn, xem ra chính điện có lẽ nằm ở ngay phía bên dưới. Súng săn trong tay Tuyền béo đã được lên nòng sẵn, tôi và Trăn Tử thì chia nhau mỗi người cầm một ngọn đuốc, từng bước một đi xuống bậc thang. Mọi người vừa đi vừa ngó nghiêng quan sát phía dưới, chỉ thấy tình hình bên trong mộ thất khác hẳn với những gì chúng tôi tưởng tượng. Trong điện có đặt tổng cộng ba cỗ quan tài, một lớn hai nhỏ, đặt trên ba bệ đỡ riêng gọi là bệ quan (Trans: Bệ đá để đỡ quan tài). Cỗ cự quách lớn nhất được tô một lớp chu sa đỏ thẫm, kết cấu đồng mộc, thật vô cùng hiếm thấy. Trên dưới tất cả có bốn thanh ngang, hai thanh dọc bằng đồng, lại được mạ một lớp vàng bên ngoài, tạo thành một bộ khung xa xỉ, gắn vào quách bản vừa to vừa dày, hoạ tiết trang trí trên mỗi tấm quách bản đều là dùng hoa văn phượng hoàng, ở giữa lại có các khớp mộng bằng đồng gia cố. Nhìn tổng thể, toàn bộ cỗ cự quách này ước chừng cao hơn hai mét, rộng gần ba mét, dài hơn bốn mét, phía dưới được đỡ lấy bằng mười hai cái chân thú bằng đồng mạ vàng, đặt trên bệ quan gọi là Tu Di Sơn (Trans: Theo vũ trụ quan của Ấn Ðộ cổ thì Tu-di là trung tâm của vũ trụ và là trú xứ của chư Thiên. Về núi Tu-di thì hai quan niệm vũ trụ của Bà-la-môn và Phật giáo giống nhau). Lại nhìn cái bệ quan này đi, cũng quá chừng là phô trương, bốn phía được vẽ bốn vị thần nữ, trong tay mỗi người chấp chưởng một loại pháp khí, xiêm y lộng lẫy rực rỡ, tư thái cao sang quý phái.

    Hai người kia không nhìn ra ý nghĩa của những hình vẽ này, nhưng tôi thì lại vô cùng sáng tỏ, đây chính là “Tứ Mẫu Tượng”, Tứ Mẫu bao gồm những gì? Thứ nhất là Khí Mẫu, tay cầm một túi vải lớn, bên trong cất giữ tiên thiên chân nhất khí, hình thành còn sớm hơn cả trời đất, chính là bản nguyên sinh ra vạn vật, hàng ngàn hàng vạn thế giới cùng với vũ trụ hồng hoang tất cả đều luân hồi bên trong nó; kế đến thứ hai là Phong Mẫu, tay nắm phong nang, bên trong cuồn cuộn tám loại thần phong lần lượt là: thao phong Đông phương, huân phong Nam phương, tiêu phong Tây phương, hàn phong Bắc phương, trường phong Đông Nam, dung phong Đông Bắc, cự phong Tây Nam và lệ phong Tây Bắc; thứ ba là Vân Mẫu, trên vai có ngũ sắc tường vân (Trans: Mây ngũ sắc), chính là do khí trời khí đất kết tinh lại tại thời điểm ban sơ khi mới hình thành nên núi non sông nước, ngũ sắc tường vân cùng với ngũ hành đối ứng với nhau, kim vân chủ phong, thanh vân chủ binh, bạch vân chủ tang, hắc vân chủ thuỷ, xích vân chủ hạn; cuối cùng là Vụ Mẫu, tay cầm vụ trướng, vụ trướng một khi được thi triển hết mức sẽ khiến cho trăm dặm ngập trong biển nước, trời đất rung chuyển, có thể nghịch chuyển càn khôn. Từ chi tiết Tứ Mẫu Tượng được vẽ bên trên bệ quan này cộng thêm với hoa văn trang trí hình chim phượng trên quách bản đã đủ để khẳng định một điều rằng: chủ nhân của ngôi cổ mộ chắc chắn là một người phụ nữ! Phía trước bệ quan có bày mấy hàng trường minh đăng, mỡ cá bên trong bát đèn dường như vẫn còn nhưng lửa thì đã tắt ngỏm từ lâu, nền gạch dưới chân đều là loại có khắc hoa văn bảo tương hoa.

    Ba người chúng tôi trầm trồ thán phục mãi không thôi, trước kia mấy đứa nào đã từng được gặp qua cái quan tài nào vừa lớn lại vừa tinh xảo như thế này đâu cơ chứ, bèn nhanh chân cầm đuốc bước lại gần hơn để nhìn cho nó rõ, lúc ấy mới phát hiện ra một tấm quách bản ở dưới đáy quan đã bị kẻ nào đó cạy bỏ mất rồi. Tôi cùng Tuyền béo mới cùng nhau thò đầu nhòm thử vào phía trong, ngọn đuốc cũng giơ theo vào, nhờ có ánh lửa le lói hai thằng liền thấy hai chiếc đế giày dính chặt xuống đáy quan, nào phải ai xa lạ chính là của tên chuột đất kia! Tuyền béo dùng súng săn chọc chọc mấy cái, cặp chân kia không có một chút phản ứng nào, tựa hồ như hắn đã chết, thấy vậy cậu ta thử túm lấy định kéo ra nhưng cũng không được. Cả ba đều vô cùng ngạc nhiên vì ai cũng tưởng rằng tên chuột đất này đã sớm ôm bảo vật chạy trốn mất tiêu rồi, nào có ngờ hắn lại nằm chết ở bên trong quan tài như này? Không biết là để cho quỷ bóp cổ chết, hay là bị hù mà chết?

    Ba người chúng tôi vẫn cảm thấy chưa hết hận, nhưng lại cũng chẳng làm gì được, lẽ nào mộ chủ thực sự đã vùng dậy bóp chết tên chuột đất kia? Lúc ấy mọi người đều không dám hành động thiếu suy nghĩ, trước tiên cứ lấy đuốc thắp lại mấy ngọn trường minh đăng để lấy chút ánh sáng đã, lập tức không gian bên trong gian mộ thất trở nên sáng sủa hơn khá nhiều, có thể nhìn ra chính điện của toà Liêu mộ này trải dài theo hướng Đông Tây nhưng lại hẹp về phía Nam Bắc, bốn vách tường xung quanh vẫn là được xây bằng loại gạch có hoa văn bảo tương hoa, đỉnh mộ phía trên có hình vòm như cái bát loa úp ngược, được trang trí bằng hình vẽ hàng ngàn hàng vạn tinh vân tinh cầu lấp lánh trên bầu trời đêm. Trên bức tường phía sau quan tài chính là một bức bích hoạ khổng lồ, gọi là “Thánh tung đồ". Bốn góc đại điện đều có một khoán môn nối liền với mộ thất, hoàn toàn phù hợp với bố cục cửu thất huyền cung được ghi chép lại trong cuốn “Lượng Kim Xích", chủ nhân của ngôi mộ này quả nhiên chính là một vị Thái Hậu của nước Đại Liêu xưa kia. Hai cỗ quan tài bên cạnh thì tương đối là nhỏ, đồ hình trang trí bên trên cũng không được hoa lệ như của chủ mộ, rất có khả năng là dành cho hai vị nữ quan tuỳ táng. Đồ đạc của tay Nhị Hổ kia vẫn vứt lông lốc dưới nền đất, gồm có một khẩu súng chim, một chiếc xẻng, ngoài ra còn có cả một cái túi da hươu khá to cùng một ngọn đèn bão đã hết dầu. Tuyền béo nhặt lấy khẩu súng chim đưa qua cho Trăn Tử, rồi quay sang mở thử cái túi da hươu ra xem, đồ đạc cất ở bên trong thật đúng là không ít, nào là búa đục, nào là nến thắp, nào là đèn pha công suất mạnh,... Cậu ta một bên vừa chọn lấy những thứ đồ hữu dụng để vào balo của mình, một bên vừa nói với Trăn Tử: “Cô em không cần phải nghe thằng cha Nhất khoác lác làm quái gì cho nhọc tai cả, hắn biết rõ thủ đoạn của tên chuột đất kia là do trước kia ông nội hắn cũng đã từng làm cái nghề này, còn trên những phương diện khác thì hắn cũng chẳng biết cái mẹ gì đâu, không tin cô cứ hỏi hắn xem thứ đồ chơi này là cái gì, dám cá là câm như hến ngay…” Nói xong cậu ta vênh mặt lôi từ trong cái túi da hươu ra một tấm giấy màu vàng đã cũ nát, đưa cho tôi cùng Trăn Tử nhìn, trên giấy có vẽ đồ án trông hệt như một cái nhãn cầu: “Hai người các cô các cậu đã thấy rõ chưa, trong toà cổ mộ này thật sự có một cái nhãn cầu như này đó, tên chuột đất kia chính là nhắm đến thứ đồ vật này!”

    Tôi thầm nghĩ nếu quả thật như thế thì chuyện này quá sức kỳ quái rồi, tại sao lại có một cái nhãn cầu chôn theo bên người chủ mộ cơ chứ? Tay chuột đất kia chỉ vì muốn đoạt được thứ này thành ra bỏ luôn cái mạng lại, thật đúng là ứng với câu “người chết vì tiền, chim chết vì miếng ăn"! Nhưng mà nhãn cầu của người chết thì có tác dụng gì đây? Quan tài giờ đã được mở ra, vị Thái Hậu bí ẩn cùng đống bảo vật có giá trị liên thành đang nằm tất ở bên trong, ai có gan chui vào đoạt bảo?

    Ba người ngồi xuống phía trước bệ quan gọi là Tu Di Sơn, chỉ cần ngẩng đầu lên liền có thể quan sát được bức bích hoạ vẽ trên tường, trong tiếng lòng của những kẻ ăn chén cơm chui hầm mộ khoét quan tài này, thường hay gọi những bức bích hoạ cuối mỗi ngôi cổ mộ là thánh tung đồ, bởi vì những bức bích hoạ được vẽ ở vị trí này nhất định là để miêu tả lại cuộc sống của chủ mộ khi còn sống. Bức thánh tung đồ này cùng với bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly mà chúng tôi đã thấy trước kia khá giống nhau, chỉ khác cái là tinh xảo và nguyên vẹn hơn mà thôi, chính giữa vẫn là hình vẽ về một con hồ ly có chín cái đuôi. Tôi lúc ấy nào có biết, đế quốc Đại Liêu hùng mạnh ở vùng thảo nguyên do người Khiết Đan đứng lên làm chủ, lấy chim ưng cùng chó sói làm đồ đằng, tôn hồ ly thành linh thần. Tuy không biết những điều đó nhưng nhìn hình vẽ kia cũng có thể tưởng tượng ra được, nó chính là một loại biểu tượng tượng trưng cho địa vị của chủ nhân ngôi mộ này. Phía bên dưới hình vẽ về cửu vỹ hồ ly còn có một bức bích hoạ khác, nội dung hết sức ly kỳ. Chúng tôi càng xem càng cảm thấy giật mình, thứ trên bức bích hoạ này miêu tả hết sức chân thật, đó là một người phụ nữ dáng vẻ hệt như một loài ác quỷ, trên trán mọc ra một con mắt, đã bị người ta khoét ra, nhãn cầu bay lơ lửng giữa không trung. Ba người bất luận thế nào cũng không thể nghĩ ra nổi, tại sao trên trán người đó lại mọc ra một con mắt như vậy? Cứ cho đó là thiên lý nhãn đi chăng nữa, khoét ra rồi thì còn có tác dụng gì?

    Trăn Tử hỏi: “Thật là doạ nguời quá đi, trên bức bích hoạ đó rốt cuộc là vẽ thứ gì thế?”

    Tuyền béo đáp: “Cái này dễ mà có gì khó hiểu đâu, xã hội phong kiến xuyên suốt từ trước tới giờ chỉ gói gọn trong mấy chữ duy nhất - ăn thịt người, uống máu đồng loại. Hoàng Thái Hậu bản chất cũng là một tay địa chủ, thậm chí còn có thể coi là đại thủ lĩnh của đám địa chủ ý chứ, mụ ta không chỉ vơ vét, ngoạm sạch của cải xương máu nhân dân vất vả làm ra, mà còn dùng thủ đoạn tàn độc khoét mắt này để hãm hại một vị cung nữ xinh đẹp đáng thương.”

    Trăn Tử nghe thế liền biết Tuyền béo đang nói linh tinh: “Cung nữ gì mà mọc cả mắt trên trán thế?”

    Tuyền béo thật đúng là có thể nói méo thành tròn, nói tròn thành vuông: “Cung nữ mắt không mọc ở trên trán thì thấy thế quái nào được Thái Hậu cao cao tại thượng?”

    Tôi bảo cậu ta chớ có đoán bậy linh tinh nữa, nội dung trên bức thánh tung đồ kia nhất định có liên quan tới những sự kiện quan trọng trong cuộc đời của chủ mộ khi còn sống, còn về phần cái nhãn cầu kia có ý nghĩa như thế nào thì tôi hãy còn chưa rõ, nhưng tên chuột đất Nhị Hổ chính vì nó mà bỏ mạng cho nên cần phải coi chừng trong này thật sự có quỷ! Tuyền béo bĩu môi: “Thôi ông lại mê tín quá rồi đấy Nhất ạ, tôi thấy tên Nhị Hổ này là ác giả ác báo, thần hồn nát thần tính tự mình đem mình hù chết! Chúng ta đừng nói suông nữa, cỗ quan tài kia đã được mở sẵn ra rồi, còn chờ gì mà không xem thử xem có cái mẹ gì dám nhảy ra hù chết ông đây nào?”

    Trăn Tử gấp đến độ dậm chân bình bịch: “Hai anh chớ manh động, ngộ nhỡ chủ mộ bật dậy, còn không phải một tay bóp chết hai người các anh à?”

    Tuyền béo cười khẩy: “Cô em lại coi thường hai thằng anh quá hehe! Bọn này nào có phải mấy tay gà mờ đâu? Muốn bóp là để yên cho nó bóp à?”

    Tôi nói với cậu ta: “Cậu cũng đừng có mà to mồm, trong cỗ cự quách kia không chỉ có mỗi lão Thái Hậu già khọm đâu mà còn có cả tay chuột đất kia kìa, với cái bụng toàn mỡ của cậu thì chui thế quái nào vừa? Tốt nhất là cậu cùng Trăn Tử ở phía sau tiếp ứng, tôi đi vào trước nhìn một chút!”

    Tuyền béo cho là tôi đang khoe tài, vẫn cố mà chui theo vào, nhưng múa may chán chê cả nửa ngày, làm mọi cách mà vẫn chẳng thể chui vừa, đành cụt hứng mà đồng ý thủ ở bên ngoài. Tôi chuẩn bị đồ đạc lại một chút, gỡ xuống thanh quân đao cùng với chiếc balo quân dụng, xiết chặt lại chiếc mũ da phòng tránh va đập trên đầu, một tay xách lấy ngọn đèn bão, một tay thì cầm chắc thanh đoản đao, nghĩ thầm trong bụng: tay chuột đất kia bò vào trong quan tài xong chết, có thể là bị thứ gì đó hù cho đứt mạch máu não hoặc có thể là bị chính chủ mộ bóp chết, không chui vào xem thử thì làm sao mà biết được, đành liều thôi! Ngay lập tức tôi đứng bật dậy, hít một hơi thật sâu, cúi đầu hạ eo cẩn thận bò vào bên trong.

    Cỗ cự quách này lớn đến doạ người, nhưng bên trong lại còn có một chiếc quan tài khác, gọi là bộ quan. Trong khe hở giữa cự quan và bộ quan có bốn đồng nữ tuẫn táng theo, phía trên đỉnh quan tài có một người, hai bên mỗi bên một người, ở dưới cũng có một người nữa, tất cả đều ăn mặc theo lối cung nữ phục vụ trong cung. Hai cung nữ hai bên một người nâng thanh đồng kính, một người nâng thanh đồng, người trên đỉnh quan tài thì nâng thuỵ bài. Bên trong bộ quan lại có mấy tầng vải gấm, phía trên đặt đầy những đồng tiền vàng, bên dưới mới là thi thể của chủ mộ, tay chuột đất đã chết kia đang nằm sấp trên người bà ta. Tôi đành chống cùi chỏ xuống đỡ lấy cơ thể, từ mặt bên bò lổm ngổm về phía trước, còn trực tiếp bò qua thân người chết, cũng không phải là do tôi không sợ gì cả, mà là lời đã lỡ nói ra rồi, tên đã rời khỏi cung nào có quay lại được nữa, đã đến nước này rồi còn bò ngược ra thì chẳng hoá trở thành con rùa rụt đầu để cho Tuyền béo chê cười? Đèn bão tuy giơ ngay trước mặt nhưng tôi chỉ có thể quan sát được những thứ ở khoảng cách ngắn dưới tầm mắt, phía trước thế nào tôi cũng không rõ vì có ngóc được đầu lên đâu. Hơn nữa càng tiến về phía trước, ánh sáng từ đèn bão càng mờ mịt, không khí hủ lậu tích tụ lâu ngày cũng càng đặc sệt lại, tôi đành cố gắng nhịn thở, vất vả lắm mới thấy được tay Nhị Hổ mặt úp xuống dưới, nằm ngay bên cạnh chủ mộ, trong tay vẫn còn nắm chặt chiếc đèn pha, đây là loại đèn xách tay kiểu cũ dùng pin, từng được sản xuất với số lượng lớn trong nước những năm 50 - 60, loại đèn này đầu tiên được sử dụng trong công tác phá núi nổ hầm cho nên yêu cầu rất cao về khả năng chịu nhiệt và va đập, còn có thể điều chỉnh chùm ánh sáng mạnh yếu tuỳ theo nhu cầu thực tế, so với đèn bão dùng tốt hơn nhiều.

    Tôi đưa tay nâng đầu Nhị Hổ lên nhìn, bóc bỏ mấy tấm cao da chó dính chặt trên mặt hắn, chỉ thấy một khuôn mặt trắng bệch như giấy, lông mày rũ xuống tận khoé miệng, ước chừng mới hơn ba bốn chục tuổi, hai mắt trợn tròn mồm miệng há hốc, toàn thân lạnh ngắt. Tướng mạo của hắn hoá ra hoàn toàn khác so với Đại Hổ, căn bản không phải là anh em ruột thịt như bọn chúng từng nói, xem ra cái danh xưng “Nhị Hổ” cũng là do hắn thuận miệng nói ra mà thôi, không biết lai lịch thật sự của hắn là kẻ nào? Tôi xem xét một lượt, trên người hắn không có bất kỳ vết máu nào, cũng không phải bị chủ mộ bóp cổ mà chết, mà là bị mắc vào đống vải liệm, cho nên mới không thể thoát được ra ngoài, nhìn như vậy hắn thật đúng là bị hù cho đến chết. Nhắc tới lai lịch chưa rõ của tên chuột đất này, hành tung quỷ bí, thủ đoạn âm hiểm, nếu không phải là dân lão luyện trong nghề, tuyệt sẽ không có hai bản lĩnh như thế. Phàm là người ăn cái chén cơm này từ người chết, hoặc là không tin vào quỷ thần ma mãnh, hoặc là có thủ đoạn còn quỷ dị hơn để đối phó, không biết gương mặt của lão Thái Hậu kia như thế nào mà lại có thể doạ chết được hắn? Tôi nổi lòng hiếu kỳ, đẩy nắp quan tài qua một bên, chỉ thấy bên trong mộ chủ đầu đội kim quan, gối đầu lên một chiếc gối ngọc mặt người thân cá, cổ đeo ba chiếc vòng ngọc kim ti, trên mặt đeo một chiếc mặt nạ hồ ly làm từ vàng nguyên chất, lại lấy mấy ngàn tấm vàng lớn nhỏ cùng những viên ngọc trai lấp lánh khảm thành văn sức trang trí, chính giữa có một viên lục bảo thạch sáng chói đến loá cả hai mắt.

    Mặt nạ bằng vàng đã từng bị tên chuột đất gỡ ra, kim câu ngọc đái cũng rơi rụng hết cả. Tôi đặt đèn bão trong tay xuống, nhặt lấy chiếc đèn pha kia, vặn công tắc chiếu luồng ánh sáng thẳng vào tấm mặt nạ hồ ly trên mặt chủ mộ, rồi lại chiếu sang cái xác của hắn, phỏng đoán nguyên nhân khiến hắn phải bỏ mạng trong này. Dựa trên tình hình bên trong cỗ cự quách này không khó để nhìn ra, Nhị Hổ đầu tiên bò vào trong này, muốn đoạt lấy tấm mặt nạ bằng vàng đeo trên mặt chủ mộ, có thể là do hắn nghĩ tấm mặt nạ này đáng tiền hoặc hắn muốn gỡ ra để tiện moi lấy ngọc châu trong miệng, lúc đang hành động, không biết hắn đã thấy thứ gì đó đáng sợ nên mới co rụt tay lại, tấm mặt nạ lại rơi xuống trên mặt chủ mộ. Hắn vội vàng chui ngược ra ngoài, lại vướng phải đống vải liệm dày cộm, nhất thời mắc kẹt không thể thoát được, trong lúc kinh hoàng vì tưởng bị quỷ quấn chân, thành ra bị doạ sợ chết tươi? Nhưng nói như vậy có lẽ vẫn chưa ổn lắm, trong nháy mắt lúc hắn gỡ tấm mặt nạ xuống, thứ gì có thể khiến hắn sợ hãi đến như vậy? Mộ chủ dù cho thân phận có hiển hách vĩ đại như thế nào đi nữa, khi chết rồi ai cũng giống nhau, cùng lắm thi thể là được bảo quản tốt hơn, cùng với lúc còn sống trông không khác biệt là bao. Tên chuột đất này suốt ngày bò ra bò vào cả đống mộ cổ, người chết kiểu gì mà chẳng thừng thấy qua, đừng nói người chết mà dáng dấp vẫn giống người sống, kể cả là gặp cương thi lông dài cũng chưa chắc đã sợ đến như vậy, gương mặt phía dưới tấm mặt nạ của Đại Liêu Thái Hậu, liệu có thể kỳ quái đến nhường nào?

    Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Quỷ Môn Thiên Sư” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng & https://truyenfull.vn
     

Thành viên đang xem bài viết (Users: 0, Guests: 0)