Q5 - Xuân hạ thu đông, giang sơn bắc vọng Chương 208: Thế không thể đỡ Nguồn: Metruyen Share: MTQ Banlong.us Mời đọc Thời điểm Trương Vĩnh Đức ở Đại Danh Phủ đầu hàng đi đến phương Bắc, đại quân của Triệu Khuông Dẫn cũng thẳng tiến tới Lạc Dương. Tào Bân trấn thủ Lạc Dương cự tuyệt đầu hàng, gom lại hai mươi vạn binh lực dự định tử thủ Lạc Dương. Sứ giả Triệu Khuông Dẫn sai đi Tương Châu cũng vấp phải đinh, Phan Mỹ cũng cự tuyệt quy thuận Đại Tống. Triệu Khuông Dẫn không hạ lệnh công kích thành Lạc Dương, mà vây khốn thành Lạc Dương, sau đó phân quân cướp đoạt những châu vực khác, đại quân đóng ngoài thành Lạc Dương, chờ đợi tin tức mới nhất đến từ Quan Nội. Trên thực tế, Triệu Khuông Dẫn là lo lắng cho đại bản doanh ở hậu phương, y cũng đang chờ biết về trạng huống của Trương Vĩnh Đức. Còn Lục Thất sau khi chỉnh quân, sáu mươi vạn đại quân phát binh hướng nam, hắn không đánh thẳng Ứng Thiên Phủ ở Tống Châu, mà tiến quân hướng nam, chia binh hai đường cùng tiến. Một đường là hai mươi vạn đại quân men theo địa vực duyên hải chạy thẳng đến Đại Giang, một đường là tiến theo hướng hơi lệch về phía tây nam, sau cùng tiến công Từ Châu tiếp giáp với Tống Châu. Mà lộ quân theo tuyến đường duyên hải sau khi vào Tứ Châu, sẽ tiếp tục tiến vào địa vực Hoài Nam, mũi quân thẳng tiến đến Dương Châu. Lục Thất tự mình dẫn bốn mươi vạn quân lực chiếm cứ Từ Châu làm đồn trú, chờ quân lực Tấn quốc vượt sông tham chiến, hiện giờ hắn đại thế đã thành, không tất phải che đậy, có thể tập kết quân lực thế trội đi tiêu diệt Đại Tống của Triệu Khuông Dẫn. Lục Thất mang đại quân xuôi Nam, khiến cho hai huynh đệ Triệu Khuông Nghĩa và Triệu Khuông Mỹ hết sức kinh hoảng. Triệu Khuông Mỹ vội vàng gửi tin bảo Triệu Khuông Nghĩa vứt bỏ phòng ngự Đại Giang, thu quân lực trở về Tống Châu hợp binh. Sau khi Triệu Khuông Nghĩa ở Trừ Châu nhận được tin, quyết đoán buông bỏ phòng ngự Đại Giang, gom lại quân lực dự tính điều quân trở về Ứng Thiên Phủ ở Tống Châu. Thế nhưng Lục Thất sao có thể để mặc cho Triệu Khuông Nghĩa điều quân trở về Tống Châu, đã phân ra hai mươi vạn quân, từ Từ Châu chạy đi Hào Châu, thẳng đến Thanh Lưu quan, phong bế đường rút quân trở về của Triệu Khuông Nghĩa. Thời điểm Triệu Khuông Nghĩa đang rút lại binh lực phòng ngự Đại Giang, lộ đại quân dọc theo vùng duyên hải đã tiến chiếm Dương Châu, quân lệnh của Lục Thất cũng đã đưa qua Đại Giang, Tấn quân Giang Nam nhận được lệnh, lập tức lên đường vượt sông. Trì Châu và Kinh Khẩu là nơi đại quân vượt sông, hai lộ đại quân tổng cộng sáu mươi vạn quân lực đến Giang Bắc. Ba mươi vạn Ba Lăng quân từ Kinh Khẩu vượt sông đến Dương Châu, lập tức theo đuôi quân của Lục Thiên Phong đi Giang Bắc tiến công quân của Triệu Khuông Nghĩa. Triệu Khuông Nghĩa thu quân tập kết được mười tám vạn quân lực, gấp rút xuất phát đến Thanh Lưu quan, hạ lệnh xuất quan mạnh mẽ đột phá quân địch phong tỏa Thanh Lưu quan. Thanh Lưu quan dễ thủ khó công, muốn qua được cửa ải này không dễ, mà từ Thanh Lưu quan đột phá phong tỏa ở ngoại vi cũng không dễ. Công kích mấy chục lần, tử vong gần vạn người vẫn không thể đột phá được vòng vây một phía, bộ hạ đề nghị không cần đột phá, huống chi số lượng quân địch cũng phải hơn mười vạn, cho dù đối chiến trên đất bằng cũng sẽ không yếu thế, đề nghị theo đường vòng điều quân trở về. Triệu Khuông Nghĩa phẫn hận, bất đắc dĩ hạ lệnh đi đường vòng. Có điều con đường vòng này cũng bị quân địch đến từ Dương Châu đuổi theo, một hồi đại chiến diễn ra ở cảnh nội Trừ Châu. Trong lúc song phương chiến đấu kịch liệt, Ba Lăng quân cũng đã vượt Đại Giang chạy đến, dùng thế dời núi lấp biển tiến công quân của Triệu Khuông Nghĩa. Triệu Khuông Nghĩa kinh nghi khó hiểu, chỉ có thể hoảng sợ bại trốn, nhờ có Vương Ngạn Thăng cùng quân lực thân tín liều mạng bảo hộ mới thoát được một mạng, suất lĩnh không tới hai vạn quân lực bỏ chạy về hướng tây bắc, đi tìm quân của Triệu Khuông Dẫn hội hợp, không dám đi hướng Tống Châu. Lục Thất sau khi nhận được hồi báo, lập tức phát binh hướng tây tiến đến Tống Châu, bao vây thành Ứng Thiên Phủ của Tống Châu. Thành Ứng Thiên Phủ có hai mươi vạn quân lực trú đóng, Lục Thất không nóng lòng công thành, mà đợi đại quân nhà mình tới tập kết, cuối cùng sẽ cùng Triệu Khuông Dẫn dẫn quân trở về quyết chiến một trận. Sau khi Triệu Khuông Dẫn biết được quân tình, trong lòng lạnh run, không ngờ Trương Vĩnh Đức không chiến mà quy hàng Lục Thiên Phong, còn Lục Thiên Phong thì suất lĩnh sáu mươi ngàn quân lực xuôi nam đột kích. Quân tình Triệu Khuông Nghĩa trốn về mang đến càng làm cho Triệu Khuông Dẫn kinh tâm nghi hoặc, vì sao Tấn quân vượt sông không công kích quân của Lục Thiên Phong, chẳng lẽ Lục Thiên Phong và người đứng đầu Tấn quốc hợp lực? Hay là tạm thời hợp tác? Bất kể là nguyên do gì, Triệu Khuông Dẫn không có lựa chọn nào khác chỉ có thể điều quân trở về, sáu mươi vạn đại quân xuất phát trở về. Khi đến sát biên giới Tống Châu thì gặp phải đại quân của Lục Thiên Phong ngăn trở, quân lực chừng sáu bảy mươi vạn, song phương dàn ra trận thế kéo dài hơn một dặm, đại quân trên trăm vạn bày ra tư thế quyết đấu. Từ trong quân của Triệu Khuông Dẫn có một kỵ quân phóng ngựa chạy ra, tiếp cận trung tuyến giữa hai quân trận rồi ghìm ngựa hô lớn nói: - Ngu Vương Lục Thiên Phong, Hoàng đế Đại Tống ta từng nghe danh ngươi là quân tướng thiện chiến, nguyện cùng ngươi quyết một trận thắng thua. Ngươi có dám chiến hay không? Lục Thất ở trong quân chau mày, hắn phân phó một chút, một quan tướng cận vệ cưỡi ngựa đi ra tới tuyến giữa, hô lớn nói: - Ngu Vương điện hạ nói, ngài ở nơi này có trăm vạn đại quân, từ Lạc Dương và Quan Nội cũng có sáu mươi vạn đại quân chạy tới, đã là kết quả tất thắng, không tất cùng Triệu Khuông Dẫn giao đấu. Xin khuyên Triệu Khuông Dẫn có thể đầu hàng, Ngu Vương điện hạ sẽ không giết hại. Một bên khiêu chiến một bên cự tuyệt, đều ngầm mang ý nghĩa đấu trí. Triệu Khuông Dẫn khiêu chiến là xuất phát từ hoàn cảnh xấu, hy vọng lật ngược tình thế và làm phấn chấn quân tâm. Còn Lục Thiên Phong cự tuyệt chính là phản kích dương mưu của Triệu Khuông Dẫn, dùng quân lực có ưu thế tuyệt đối đả kích đấu chí và lòng quân của quân Triệu Khuông Dẫn. Quan tướng đi truyền lời khiêu chiến trở về, nhưng rất nhanh lại có một người cưỡi ngựa chạy ra tới trung tuyến rồi ghìm ngựa, hô lớn nói: - Lục Thiên Phong, tại Nguyên Châu ngươi đã từng nói qua ngày sau sẽ cùng mỗ tỷ thí, sau trận chiến ngày hôm nay, có lẽ mỗ không có cơ hội chờ ngươi thực hiện lời hứa rồi, có thể trước đó cùng mỗ đấu một trận hay không. Lục Thất vừa thấy là Vương Ngạn Thăng, hắn mang ánh mắt lạnh lùng, cưỡi ngựa đi ra ngoài. Quan tướng ở xung quanh muốn khuyên can nhưng đã không kịp, mắt thấy Ngu Vương mang theo đại thiết thương chạy tới chỗ tướng địch. - Tới tốt lắm. Vương Ngạn Thăng hét lớn một tiếng, ngựa dưới thân cũng theo tiếng rống chạy lên trước. Trong tay gã là một thanh phác đao (*), khi hai ngựa đối đầu, phác đao hung ác chém về phía Lục Thất, đại thiết thương của Lục Thất hung mãnh đâm thẳng tới nghênh đón. (*) một loại binh khí cũ, lưỡi dài, hẹp, cán ngắn. ‘Keng” một tiếng kim thiết va chạm vang dội, không ngờ phác đao của Vương Ngạn Thăng thế đánh hung mãnh lại bị đâm bật về. Sắc mặt kinh sợ, Vương Ngạn Thăng mãnh liệt rời tay vứt bỏ đao, tay phải cấp tốc thò qua bên hông nắm lấy chuôi kiếm, rút kiếm ra chém về phía gáy Lục Thất, một kiếm này nhanh đến hóa thành một đạo cầu vồng lóe tia sáng lạnh lẽo. Nhưng Vương Ngạn Thăng bỗng kêu lên một tiếng trầm đục, đại thiết thương của Lục Thất đã trước một bước đâm xuyên qua cổ họng gã. Lục Thất cùng lúc cúi người tránh khỏi kiếm trảm, đại thương theo thế chạy của ngựa quét ngang, Vương Ngạn Thăng bị đánh rơi xuống ngựa. Cuộc chiến sinh tử của hai người, trên cơ bản chỉ diễn ra trong tích tắc đối mặt. Vương Ngạn Thăng vừa chết, từ trong quân trận của Triệu Khuông Dẫn bỗng nhiên vang lên tiếng kèn lệnh trầm đục, tiếp theo trống trận nổ vang, quân của Triệu Khuông Dẫn bắt đầu xuất kích, rất nhiều mã quân lao ra hàng ngũ phóng ngựa về phía Lục Thất, trên không trung cũng xuất hiện mưa tên rơi rụng tán loạn. Không chờ Chủ soái hạ lệnh, tướng sĩ quân của Lục Thất đã phẫn nộ chủ động xuất kích, đại quân như thủy triều cuộn trào mãnh liệt vồ lên phía trước. Lục Thất ghìm ngựa, ở tại chỗ vung đại thương đánh bay mưa tên rơi rụng, ánh mắt lạnh lẽo nhìn mã quân của Triệu Khuông Dẫn đánh tới. Bỗng nhiên từ phía sau hắn bay tới một rừng tên nỏ, tàn nhẫn xuyên vào đoàn mã quân của Triệu Khuông Dẫn đang xông tới, mã quân của Triệu Khuông Dẫn lập tức người ngã ngựa đổ. Dưới đợt sóng tên nỏ thứ nhất đã có mấy ngàn người tử thương, thương vong hàng loạt khiến cho quân của Triệu Khuông Dẫn ở phía sau lâm vào kinh hoàng, bộ quân và mã quân đều theo bản năng hoãn lại, lập tức quân của Lục Thất xông qua nơi Lục Thất ghìm ngựa, đi tiếp chiến quân của Triệu Khuông Dẫn. Tiếng la “Giết!” rung trời, song phương va chạm, kịch liệt chém giết, nhưng chỉ chốc lát sau, đột nhiên ở hậu quân của Triệu Khuông Dẫn xuất hiện số lớn quân lực quay đầu, tiếp theo phần lớn quân của Triệu Khuông Dẫn bị sụp đổ tan tác, gần sáu mươi vạn quân lực có hơn phân nửa không đánh mà chạy. Tại trung quân của quân Triệu Khuông Dẫn, Triệu Khuông Nghĩa mù quáng lớn tiếng quát lệnh, tướng sĩ xung quanh mỗi người đều kinh hoảng không biết làm sao. Thế mà Triệu Khuông Dẫn một thân kim giáp, áo khoác ngắn tay màu minh hoàng, lại đang nhìn tiền phương với vẻ mặt bình tĩnh. - Nhị ca, đi nhanh đi. Triệu Khuông Nghĩa quay đầu hoảng sợ nói. - Đệ đi đi. Triệu Khuông Dẫn bình tĩnh nói. Triệu Khuông Nghĩa hơi chần chừ, tiếp đó cắn răng cưỡi ngựa quay ngược về phía sau bỏ chạy, còn mấy trăm hộ vệ đều cùng Triệu Khuông Dẫn đứng lặng không rời, một đám xơ xác tiêu điều cắn răng nhìn chằm chằm về tiền phương, thoáng như không hề thấy những người khác đang bỏ chạy tán loạn. Chẳng qua chỉ chốc lát, đã bị tướng sĩ xung phong tới trùng điệp bao vây. Lục Thất cưỡi ngựa tới chỗ của Triệu Khuông Dẫn, dưới sự vây quanh của tướng sĩ nhìn tới Triệu Khuông Dẫn ở ngoài mười thước. Triệu Khuông Dẫn nhìn Lục Thất, cao giọng nói: - Ta bại rồi, chỉ là muốn gặp ngươi nói chuyện một chút. - Nếu Quận vương đã nhận thua, về sau sẽ có rất nhiều cơ hội nói chuyện với ta. Lục Thất cao giọng đáp lại. Triệu Khuông Dẫn ngẩn ra, nói: - Ngươi gọi ta Quận vương, là muốn tha ta một mạng sao? Lục Thất nói: - Hoàng đế Đại Chu bệ hạ có lẽ không muốn nghe được tin ngươi chết đâu. Triệu Khuông Dẫn chần chừ một chút, nghiêng người xuống ngựa đi lên, vừa đi vừa cởi ra áo khoác minh hoàng, tháo xuống mũ giáp, đến trước ngựa Lục Thất thì quỳ một chân xuống đất, cung kính nói: - Triệu Khuông Dẫn nguyện hàng Ngu Vương điện hạ. Lục Thất xuống ngựa tiến lên đỡ Triệu Khuông Dẫn dậy, bốn mắt nhìn nhau, Lục Thất cười nói: - Sau này sẽ cùng Quận vương uống rượu đàm chuyện, tạm thời đành phải ủy khuất ngươi mấy ngày rồi. - Thần tạ ân Điện hạ không giết. Triệu Khuông Dẫn cung kính đáp lại. Lục Thất gật đầu, xoay người vẫy tay, Triệu Khuông Dẫn gật đầu đi đến, có tướng sĩ của Lục Thiên Phong áp giải rời đi. Lục Thất mệnh lệnh cận vệ của Triệu Khuông Dẫn nhanh đi truyền lệnh chấm dứt chiến sự và ngăn lại quân binh đào vong, tuyên bố tất cả đều được đặc xá vô tội. Loạn quân của Triệu Khuông Dẫn nếu đào vong vào rừng làm cướp, sẽ trở thành tai họa rất lớn cho địa phương.
Q5 - Xuân hạ thu đông, giang sơn bắc vọng Chương 209: Kết nối Nguồn: Metruyen Share: MTQ Banlong.us Mời đọc Sau khi Triệu Khuông Dẫn đầu hàng, phải qua hai canh giờ mới có thể bình ổn chiến loạn, quân Triệu Khuông Dẫn đào vong lục tục quay lại hơn phân nửa, trong đó có Triệu Khuông Nghĩa. Triệu Khuông Nghĩa bị dẫn tới trước mặt Lục Thất. - Tội thần bái kiến Ngu Vương điện hạ. Triệu Khuông Nghĩa cung kính bái kiến Lục Thất. Lục Thất lạnh lùng nhìn gã, hỏi: - Vì sao ngươi vứt bỏ huynh trưởng một mình chạy trốn? Triệu Khuông Nghĩa ngẩn ra, không nghĩ tới Lục Thất lại đột nhiên vấn tội, trong số ‘tướng sĩ Tống quốc’ theo Triệu Khuông Nghĩa trở về có rất nhiều người nghe xong đều nhìn về phía Triệu Khuông Nghĩa, ánh mắt của một số người lộ ra sự khinh miệt. - Là huynh trưởng của tội thần không chịu trốn. Triệu Khuông Nghĩa chỉ đành trả lời. - Bổn vương đã nói qua tất cả đều được đặc xá vô tội, tuy nhiên ta không muốn dùng loại người như ngươi, về sau ngươi có thể làm chức tán quan. Lục Thất lạnh lùng nói, nói xong xua tay, lập tức có tướng sĩ đến áp giải Triệu Khuông Nghĩa đi. Ánh mắt của Lục Thất nhìn tới những người quy hàng khác, ánh mắt nhanh chóng định vị một quan văn, hắn mở miệng: - Trình Đức Huyền, lại đây. Trình Đức Huyền ngây ra, vội đi qua hành lễ cung kính nói: - Tội thần bái kiến Ngu Vương điện hạ. - Trình Đức Huyền, ta rất thưởng thức năng lực làm việc của ngươi, cho nên từng nói muốn dùng ngươi, về sau ngươi làm Thứ Sử Tương Phàn đi, trước tiên tu sửa cho tốt cây cầu bắc qua Hán Thủy. Lục Thất ôn hòa nói. Trình Đức Huyền ngẩn ra, sau đó kích động vội vàng quỳ xuống đất, cung kính nói: - Thần tạ Ngu Vương điện hạ ban ân. - Đứng lên đi. Lục Thất nói, Trình Đức Huyền cung kính đứng dậy. - Thay mặt bổn vương đi tuyên bố với hàng thần, về sau bổn vương sẽ dùng đến bọn họ, nhưng trước mắt chỉ có thể bảo lưu tán giai, chờ bổn vương sắp xếp xong chỉnh thể rồi, trong vòng một năm, sẽ dùng bọn họ. Lục Thất nói. - Vâng, thần sẽ báo cho biết. Trình Đức Huyền cung kính đáp lại, Lục Thất gật đầu, xoay người rời khỏi đi Ứng Thiên Phủ. Bởi vì Triệu Khuông Dẫn đầu hàng, Triệu Khuông Mỹ đóng giữ tại Ứng Thiên Phủ sau khi nhận được thư viết tay của Triệu Khuông Dẫn, liền mở thành suất lĩnh quan viên Tống quốc đi đầu hàng, đánh dấu ngày diệt vong của Đại Tống quốc mới thành lập chưa bao lâu, trở thành một gợn sóng nhỏ giữa dòng sông dài lịch sử. Lục Thất tọa trấn Ứng Thiên Phủ bắt đầu giải quyết hậu quả chiến tranh, quan viên và tướng soái cấp cao của ‘Đại Tống’ nguyên bản luân phiên đưa đi thành Trường An chờ được dùng, đồng thời chỉnh quân trên diện rộng, phân tán trả về, quan tướng trung hạ tầng mất đi thuộc binh đều trở thành phó tướng trong các quân doanh khác của hắn, còn ba huynh đệ Triệu thị đều áp giải đến Tấn quốc, tách ra giam lỏng. Lục Thất gửi cho Chu hoàng đế một phong thư, thẳng thắn nói ra mình chính là Tấn Vương, mời Chu hoàng đế có thể hiểu và bỏ qua cho, Chu hoàng đế không có hồi âm, cũng không biểu thị thái độ gì với việc Lục Thất chiến bại Triệu Khuông Dẫn. Mọi chính sự của địa phương ‘Tống quốc’ Lục Thất căn dặn dâng thư đến Khai Phong Phủ, còn về quân sự thì phải xin chỉ thị của Quan Lũng đại đô đốc phủ. Ở Ứng Thiên Phủ chừng nửa tháng, Lục Thất khởi hành đến thành Trường An, Phan Mỹ vẫn như cũ nắm giữ hơn mười vạn quân tại Tương Châu, Tào Bân cũng đang ở Lạc Dương. Lục Thất không lệnh bọn họ quy thuận giao ra quân lực, nhưng sau khi Tống quốc bị diệt, Tào Bân đã chủ động giải tán quân về quê, hiện giờ trấn thủ Lạc Dương là tám vạn Cấm quân chính quy. Sau khi Lục Thất biết được tin tức, sai người đi ân cần thăm hỏi Phan Mỹ và Tào Bân, ngoài ra không nói gì khác, Phan Mỹ và Tào Bân cũng không trả lời cái gì. Mà tin tức Lục Thiên Phong chính là người đứng đầu Tấn quốc đã lan truyền khắp Chu quốc, thậm chí có lời đồn đại rằng, Hoàng đế Đại Chu bệ hạ trong chuyến tây tuần trước đây đã biết được Lục Thiên Phong chính là người đứng đầu Tấn quốc. Lời đồn vừa truyền ra liền bị người người chất vấn, nhưng không lâu sau tin đồn đó đã được chứng thực. Tấn quốc dùng thuyền biển chuyên chở rất nhiều lương thực đến Tề Lỗ cứu nạn thiên tai và tu sửa đê điều. Quan địa phương vùng Tề Lỗ dưới sự chỉ huy của Thứ sử Thanh Châu Từ Huyễn bắt đầu tích cực trị thủy Hoàng Hà, Lục Thiên Phong điều đi ba mươi vạn quân lực phụ trợ sửa trị Hoàng Hà, nếu vào cuối thu đầu đông có thể sửa trị tốt Hoàng Hà, như vậy năm sau sẽ có thể thu hoạch lương thực. Chu quốc rơi vào trạng thái hòa bình mà lại quái dị, đều bị tin tức Tấn quốc và Chu quốc thật sự hợp thành một nước khiến cho không thể tưởng tượng nổi. Toàn bộ Chu quốc không hề xuất hiện hiện tượng phản kháng, Lục Thiên Phong đã nắm trong tay hơn phân nửa quân lực và lãnh thổ quốc gia của Chu quốc, chỉ có quân sự và chính sự của Khai Phong Phủ không chịu ảnh hưởng của Lục Thiên Phong, nhưng trong thành Khai Phong Phủ cũng đã yên ổn khôi phục lại đời sống phồn hoa an bình, quan và dân thuộc trung hạ tầng ngày ngày nói cười vui vẻ sinh hoạt, nguyên nhân là vì không còn sự uy hiếp của chiến tranh. Lục Thất cùng ba mươi vạn Ba Lăng quân tới thành Trường An, Kỷ Vương suất lĩnh quan viên văn võ thành Trường An ở ngoài Diên Hưng môn nghênh đón, ở xa xa có mấy vạn dân chúng tập trung nhìn xem. Lục Thất cưỡi ngựa ra khỏi hàng ngũ tiến lên trước, tới gần Kỷ Vương thì xuống ngựa. Kỷ Vương cung kính chấp lễ nói: - Hi Cẩn cung nghênh Ngu Vương. Lục Thất đi lên nâng dậy, ôn hòa nói: - Đệ là huynh đệ của ta, không cần xa lạ như vậy, về sau gọi ta ‘Thất huynh’ là được. - Thất huynh. Kỷ Vương cảm động khẽ gọi. Lục Thất mỉm cười gật đầu, giơ tay vỗ vỗ vai trái y, nói: - Chúng ta nói qua rồi mà, cho nên đệ phải làm huynh đệ của ta đấy. Kỷ Vương gật đầu, nói: - Thật không ngờ, Thất huynh chính là người đứng đầu Tấn quốc. - Ta là người đứng đầu Tấn quốc, nhưng về sau sẽ không còn Tấn quốc nữa. Lục Thất mỉm cười đáp lại. Kỷ Vương hiểu được gật đầu. Lục Thất mỉm cười đối mặt với quan viên văn võ thành Trường An, sau khi tiếp nhận lễ nghênh đón, cùng Kỷ Vương tiến vào thành Trường An. Vào thành Trường An rồi, Lục Thất không đi đến Hoàng cung, mà đi phủ Ngu Vương, là trước đó hắn đã phân phó xây dựng. Hiện giờ quân lực thành Trường An có mười vạn, thuộc quyền thống soái của Dương Côn, bảy vạn là Tấn quân tinh nhuệ đến từ Hán Trung, còn Dương Côn cũng đã đi Hà Hoàng trấn thủ. Hóa ra khi Trung Nguyên phát sinh chiến loạn, cũng là lúc Thổ Phiên thu hoạch lương thực ở Hà Tây và Hà Hoàng. Tán Phổ Thổ Phiên tập kết quân lực từ rất nhiều bộ lạc đi xâm lấn Hà Tây và Hà Hoàng, nhờ có thủ quân Hà Tây và Hà Hoàng ngoan cường phòng ngự, đại quân của Thổ Phiên không chiếm được bất kỳ thu hoạch gì, nhưng vẫn không chịu lui quân. Lần này Lục Thất mang đến Ba Lăng quân của Đỗ Dũng, chính là muốn đả kích Thổ Phiên quân một đòn nặng nề. Ở phủ Ngu Vương, Lục Thất và Kỷ Vương cùng với mười bảy vị trọng thần văn võ thành Trường An tụ hội, sau khi ăn uống tiệc rượu, Lục Thất giữ lại Kỷ Vương, Tống Kỳ và Trương Tề Hiền uống trà, có một số việc cần thông qua Kỷ Vương và lão thần Chu quốc đi câu thông. Phủ Ngu Vương nằm ở Trường Nhạc phường ngoài Đại Minh cung, bố cục và cảnh trí cũng khá, rất lâu trước kia là phủ của Lỗ Vương triều Đường, sau lại qua mấy đời chủ, thậm chí còn bị phân tách thành mấy nhà. Sau khi nhận được thông báo của Lục Thất, Lục Thiên Cần lựa chọn trạch khu, khẩn cấp tu sửa một phen, tái hiện lại Vương phủ to lớn một thời. Bốn người ngồi trong sưởng thính ở hoa viên, vây quanh bàn mà ngồi, có thị nữ dâng trà lên, Lục Thất mỉm cười mời trà, Kỷ Vương vẻ mặt tùy ý lấy uống, hai vị lão thần thì câu nệ nâng chén, nhấp ngụm nhỏ phẩm trà. Buông chén trà, Lục Thất mỉm cười nói: - Các ngươi có điều không hiểu, cứ việc hỏi. Hai vị lão thần cẩn thận không nói, Kỷ Vương bình tĩnh nói: - Nghe nói Thất huynh vẫn còn tự xưng là Tấn Vương, không biết Thất huynh tính toán khi nào đăng cơ? Lục Thất nhìn Kỷ Vương, nói: - Hi Cẩn, đệ có biết vì sao ta vẫn tự xưng là ‘Tấn Vương’ hay không? Kỷ Vương lắc đầu, nói: - Mời Thất huynh chỉ bảo. - Bởi vì ta không nghĩ hành thích vua, cho nên khi ở Giang Nam, ta vẫn không có diệt Đường quốc. Lục Thất trả lời. Kỷ Vương và lão thần đều nhìn Lục Thất, Lục Thất lại nói: - Ta làm người có ranh giới cuối cùng nhất định, hành vi hành thích vua ta không muốn làm, cho nên ta không vì thống nhất phương Nam mà tiến vào diệt Đường quốc. Lúc trước ta đến Chu quốc, chủ ý là dò hỏi quân tình Chu quốc, không tính trở thành trọng thần chân chính của Đại Chu. Cho đến ngày nay, ta vẫn như cũ sẽ không làm ra hành vi thần tử hành thích vua, ta tình nguyện tiếp tục chờ đợi. Kỷ Vương và lão thân im lặng, một lát sau, Lục Thất lại nói: - Hi Cẩn à, đệ cũng hiểu được, Bệ hạ lần nữa tứ phong ta, hẳn là có tâm nhường ngôi cho ta, ban ân của Bệ hạ ta khắc sâu trong lòng, cho nên ta không muốn vội vàng lên ngôi Hoàng đế. Kỷ Vương lặng lẽ gật đầu, Tống Kỳ hơi chần chừ, hỏi: - Nếu Ngu Vương điện hạ là được nhường ngôi, có phải sẽ tôn Hoàng đế bệ hạ làm Thái thượng hoàng? Lục Thất lắc đầu, nói: - Chữ ‘Ngu’ là Hoàng đế bệ hạ ban cho ta, Đại Ngu đế quốc thành lập nên do Hoàng đế bệ hạ tuyên cáo. Ta nguyện tôn Hoàng đế bệ hạ làm Thái tổ hoàng đế của Đại Ngu, sẽ không có Thái thượng hoàng của Đại Chu. Hai vị lão thần hiểu được gật đầu, Lục Thiên Phong nói rất rõ ràng, ngày sau vị Hoàng đế đầu tiên của Đại Ngu đế quốc chính là đương kim Bệ hạ, Lục Thiên Phong nguyện khuất phục làm vị vua đời thứ hai. Sự nhượng bộ của Lục Thiên Phong có thể nói là vô cùng to lớn, nói cách khác, trong sử sách ngày sau, đương kim Hoàng đế bệ hạ chính là vị Hoàng đế thống nhất thiên hạ. Lấy thế lực hiện giờ của Lục Thiên Phong, có thể nhượng bộ đến bậc này quả là không dễ, thứ cổ nhân luyến tiếc nhất chính là danh truyền hậu thế, càng là khát khao của bậc đế vương. - Thất huynh, đa tạ huynh, ta sẽ viết thư hỏi ý Phụ hoàng. Kỷ Vương chân thành cảm tạ nói. Lục Thất mỉm cười, nói: - Ta nói rồi, chúng ta vĩnh viễn là huynh đệ. Kỷ Vương gật đầu, nói: - Ta cũng sẽ vĩnh viễn tôn sùng Thất huynh và hậu nhân của Thất huynh, nếu có chân trong chân ngoài, trời đất không dung. Lục Thất nghe xong lắc đầu, nói: - Huynh đệ nói quá lời. Làm xong kết nối căn bản, bốn người chuyển sang đề tài trị quốc ngày sau.
Q5 - Xuân hạ thu đông, giang sơn bắc vọng Chương 210: Tiếc tình Nguồn: Metruyen Share: MTQ Banlong.us Mời đọc Kỷ Vương và lão thần rời đi rồi, Lục Thất mới có thể thả lỏng, được thị nữ dẫn đường đi xuống hậu trạch. Hắn được quan tướng trong phủ báo cho biết, các phu nhân đang ở hậu trạch, cũng không biết là những nàng nào. Sau khi tiến vào hậu trạch, liền thấy rất nhiều nô tì và bà tử, chừng hơn mấy chục người, hiển lộ khí phái của nhà đại phú đại quý, đi thẳng vào sân viện của một tòa lầu các u nhã, trong viện rộng rãi được thiết kế rất nhiều cảnh quan tinh xảo lả lướt, sừng sững trong viện là một tòa lầu các hai tầng. Lục Thất mới bước vào viện vài chục bước, từ trong lầu các liền có năm mỹ nhân đi ra nghênh đón, Lục Thất hơi giật mình, lập tức kinh hỉ sải bước lớn đi qua, nhanh chóng đến trước mặt năm người con gái, hắn giơ tay khẩn cấp nắm lấy cánh tay của mỹ nhân đi đầu. - Vận Nhi, các nàng đã đến rồi. Lục Thất thất thố, rõ ràng vẫn còn chìm trong niềm vui bất ngờ, thật không ngờ Tân Vận Nhi đã đến Trường An. - Thất lang. Tân Vận Nhi nghẹn ngào ôn nhu gọi, trong đôi mắt đẹp ngập tràn ánh lệ. - Ôi ôi. Lục Thất vui sướng khôn xiết, chợt vươn tay ôm Tân Vận Nhi vào ngực, mũi lên men như muốn trào lệ. Ôm một hồi, Lục Thất mới buông ra, giơ tay âu yếm bờ má lúm xinh đẹp của Tân Vận Nhi, thâm tình ngắm nhìn. Thật lâu không thấy, khuôn mặt của Tân Vận Nhi so với trước kia nở nang thêm vài phần, mang theo nét tươi đẹp của đàn bà thành thục, Lục Thất cúi đầu hôn lên cái trán thanh tú của người yêu. Tân Vận Nhi xấu hổ mà vui sướng không ngớt, chợt giơ tay kéo Lục Thất quay người, để Lục Thất đối mặt với các vị mỹ nhân khác của hắn. Lục Thất thuận thế tiến lên, bốn vị mỹ nhân khác là Ngọc Trúc, Song Nhi, Vân Nga (Lục Nga) và Vân Thường. Lục Thất sung sướng ngắm nhìn bốn mỹ nhân yêu quý, Ngọc Trúc chủ động dịu dàng nói: - Lão gia vào các nghỉ ngơi đi. Lục Thất khẽ ừ gật đầu, bước tới vươn ra tay trái ôm lấy vòng eo của Ngọc Trúc, tay phải duỗi về nắm lấy tay Tân Vận Nhi, cất bước đi về hướng lầu các, sau khi cùng nhau tiến vào lầu các, thấy trong lầu các có sáu nô tì đứng hầu, còn chuẩn bị một thùng nước tắm. - Đều ra ngoài đi. Lục Thất bình thản phân phó, sáu ả thị nữ vội vàng hành lễ lui ra ngoài. Vừa đóng cửa, Lục Thất liền xoay người mỉm cười vẫy tay, bảo năm vị mỹ nhân đứng thành một hàng, hắn ôn nhu nhìn ngắm từng người một, năm vị mỹ nhân vừa xấu hổ vừa vui sướng, nhìn lại Lục Thất với ánh mắt hàm ẩn tình ý. Nhìn nhau thật lâu sau, Lục Thất mới ôn hòa nói: - Ta nhớ thương các nàng, là thật đấy. Đôi mắt đẹp của năm vị mỹ nhân dâng trào ánh lệ, đều gật nhẹ đầu. Lục Thất đi lên ôm lấy Vân Thường, bàn tay to vuốt ve thân thể đẫy đà của Vân Thường, Vân Thường như chim nhỏ nép sát vào người Lục Thất, nàng vốn là tỳ thiếp trong phòng Tân Cầm Nhi, luôn phải làm một món đồ chơi hèn hạ lấy lòng người khác, một đời ti tiện, bởi vì được Lục Thất tiếp nhận mà chuyển thành phúc quý, nàng là một đóa hoa hiểu biết lòng người, đã xúc động trước tiếng lòng đau khổ của kiếp sống vùng vẫy giành sự sống trong quân doanh của Lục Thất, nàng đã sinh cho Lục Thất một cô con gái. - Vân Thường, chốc lát nữa chải đầu cho ta nhé. Lục Thất dịu dàng nói, Vân Thường khẽ dạ một tiếng. Lục Thất nhẹ nhàng buông ra Vân Thường, dời bước đến trước mặt Song Nhi. Hắn ngắm nhìn khuôn mặt xinh đẹp của Song Nhi, dung mạo của Song Nhi cũng có biến hóa rất nhỏ, nàng ngửa bờ má lúm mê ly nhìn lại Lục Thất, nét mặt hàm xúc nỗi bi thương, sâu sắc chạm vào nơi mềm mại trong tâm Lục Thất. Lục Thất không kìm nổi cười nhẹ, nhớ đến duyên phận năm đó giữa hắn và Song Nhi. Lục Thất ôm choàng Song Nhi vào ngực, khẽ khàng nói: - Song Nhi, lần đầu gặp mặt, tiếng khóc tỉ tê của nàng khiến cho ta cả đời khó quên. Vi Song Nhi nghẹn ngào khẽ dạ, ôm nhau trong chốc lát, Vi Song Nhi chủ động rời khỏi ngực Lục Thất. Lục Thất mỉm cười dời bước tới trước Vân Nga, giơ tay âu yếm bờ má xinh đẹp của nàng, Vân Nga hai mắt trong suốt đẫm lệ si ngốc nhìn Lục Thất, Lục Thất duỗi tay ôm mỹ nhân vào lòng. Năm đó hắn nảy sinh sắc tâm với Vân Nga, cũng vì thông cảm cho vận mệnh bất hạnh của Vân Nga, cùng ham muốn độc chiếm mãnh liệt, hắn từ trong tay Vương nhị phu nhân trộm đi Vân Nga, Vân Nga có nô danh là Lục Nga, xuất thân gia tộc thư hương Lý thị ở Thường Châu, là Tiểu Phức cho nàng sửa lại một chữ. - Chốc nữa phải dụng tâm hầu hạ ta, không được nhàn hạ đấy. Lục Thất mờ ám thì thào, bàn tay to nhẹ nhàng xoa bóp cặp mông đầy đặn của Vân Nga, Vân Nga khẽ dạ, chợt ngượng ngùng tránh lui, rời khỏi ôm ấp của Lục Thất, rũ mắt đứng ở một bên, má ngọc như phủ son, kiều diễm không nói nên lời. Lục Thất cười dời bước đối mặt Ngọc Trúc, Ngọc Trúc tỷ tỷ tủm tỉm cười nhìn kỹ Lục Thất, Lục Thất cũng cười nhẹ ngắm nhìn, một lát sau mới nói: - Đa tạ tỷ tỷ năm đó tín nhiệm và xem trọng ta. Ngọc Trúc thu lại nét cười, đôi mắt đẹp u oán nhìn chằm chằm Lục Thất, Lục Thất ôm lấy mỹ nhân vào ngực, dịu dàng nói: - Vẫn luôn muốn hỏi tỷ tỷ, từ khi nào bắt đầu yêu thích ta, là vì khúc Tây Giang Nguyệt kia sao? Ngọc Trúc nhẹ ừ, Lục Thất khẽ nói: - Khi đó ta vẫn chưa sinh tình với tỷ tỷ, vì tự biết bản thân không có năng lực cho tỷ tỷ cuộc sống hạnh phúc mà tỷ tỷ khát khao, nếu không lọt vào mắt xanh của tỷ tỷ, ta cũng không dám có ý nghĩ quá phận. - Là nô không xứng với lão gia. Ngọc Trúc chua xót khẽ nói. - Ta và tỷ tỷ hẳn là có duyên phận từ kiếp trước, bằng không một kẻ vũ phu như ta sao xứng với tỷ tỷ. Đời này duyên đã định, chúng ta không nên có cái gọi là xứng hay không xứng, mà chỉ có cả đời “cầm tiêu hòa minh”. Lục Thất ôm Ngọc Trúc, bày tỏ tiếng lòng duyên tình của mình. Ngọc Trúc khẽ ừ. Trái tim rộn ràng vui sướng, Lục Thất cúi đầu hít hà hương thơm cơ thể của mỹ nhân, ở sâu trong nội tâm, hắn thật sự vô cùng yêu thích Ngọc Trúc, vị mỹ nhân tỷ tỷ này mang đến cho hắn không chỉ là sự hưởng thụ ôn hương nhuyễn ngọc, mà còn một loại tình kết (*) hư vinh khó quên, Ngọc Trúc cũng là một trong những căn do hắn đạt được thế lực tại Giang Ninh. (*) tâm lý phức tạp Ôm một hồi, Lục Thất mới buông ra Ngọc Trúc, quay đầu nhìn về phía Tân Vận Nhi, ôn hòa nói: - Vận Nhi, ta muốn tắm rửa một chút trước đã. Tân Vận Nhi dịu dàng gật đầu, tới hầu hạ Lục Thất thoát y, bốn vị mỹ nhân ở bên cạnh phụ trợ, cũng không chủ động hầu hạ Lục Thất, đây là đặc quyền của “thê”, không có Tân Vặn Nhi chỉ bảo, bốn người Ngọc Trúc không thể chủ động hầu hạ Lục Thất. Lục Thất cởi sạch trơn, xoay người đi đến thùng nước bước vào, nhẹ nhàng ngồi vào thùng nước, thư thái thở hắt ra, tựa gáy lên mép thùng, rất nhanh một đôi tay ngọc lần mò lên tóc hắn, cởi bỏ búi tóc, nhẹ nhàng chải vuốt, Lục Thất nhắm mắt, thân thể thả lỏng hưởng thụ sự vuốt ve của năm vị mỹ nhân. Thật lâu sau, Lục Thất mới lên tiếng nói: - Vận Nhi, thân thể mẫu thân có khỏe không? - Thân thể mẫu thân tốt lắm, có cháu trai cháu gái làm bạn, tâm tình cũng vui sướng, nhưng thê cảm giác được, mẫu thân vô cùng lo lắng cho Thất lang. Tân Vận Nhi dịu dàng trả lời. - Ta cũng rất tưởng niệm mẫu thân, lần trước ta ở Trường Sa Phủ, lại chưa từng trở về đi khấu kiến mẫu thân, là ta bất hiếu. Lục Thất tự trách nói. - Thất lang là vì quốc sự mới không về, mẫu thân và chúng tỷ muội đều hiểu được, lần này nhóm thê đến thành Trường An, Tiểu Phức tỷ tỷ cũng dặn không cần báo cho Thất lang, sợ Thất lang phân tâm lầm lỡ đại sự. Lục Thất khẽ ừ, Tân Vận Nhi chà xát cánh tay trái cho hắn, một lát sau dịu dàng nói: - Thê từ Phúc Châu đến phương bắc, vốn định mang quận chúa xứ Cao Ly tới hầu hạ Thất lang, nhưng mẫu thân khi biết thì không đồng ý. - Quận chúa Cao Ly? Lục Thất nghi hoặc nói. - Là con gái của Cao Ly Vương, dung mạo hết sức xinh đẹp, là Tống đại soái đưa đến vương cung Phúc Châu đấy, ngoài ra còn có một trăm mỹ nhân Cao Ly, hiện giờ đều giữ lại trong vương cung. Tân Vận Nhi nhẹ giọng nói. Lục Thất không nói gì, Tống Lão Thanh thật biết mang đến phiền toái cho hắn, hắn ôn hòa nói: - Vận Nhi, những nữ nhân Cao Ly đó sau này đều nhập vào đoàn tú nữ, gả cho các tướng sĩ làm vợ. - Vậy không tốt, Tống đại soái nói, Chủ thượng và con gái của Cao Ly Vương liên hôn, sẽ trợ giúp cho việc quy phục người Cao Ly. Tân Vận Nhi ôn nhu đáp. Lục Thất im lặng, một lát sau Tân Vận Nhi dịu dàng nói: - Thất lang ở Hà Tây cưới Quận chúa Hồi Hột và Quận chúa Đảng Hạng, không phải cũng dùng liên hôn để quy phục hay sao? - Không giống nhau, khi đó ta ở Hà Tây là tứ cố vô thân, chỉ đành dùng liên hôn để giảm bớt sự căm thù của người Hồi Hột và người Đảng Hạng. Bây giờ ta đã gần như thống nhất thiên hạ, thế lực thông suốt không bị ngăn trở, tác dụng của liên hôn đã không còn trọng yếu rồi. Lục Thất ôn hòa nói. - Không trọng yếu cũng là có dùng mà. Tân Vận Nhi nhẹ nói. - Vận Nhi, kỳ thật có các nàng làm bạn cả đời, ta đã thấy rất đủ rồi, có các nàng bồi ta trò chuyện, đánh đàn, du ngoạn, tâm tình của ta sẽ thích ý thoải mái. Về sau sinh hoạt hàng ngày của ta đều do các nàng tự mình chiếu cố, không cần có nô tì bên cạnh hầu hạ. Lục Thất ôn hòa nói. Tân Vận Nhi khẽ dạ, chợt tay ngọc bị bàn tay to nắm ngược lại, tiếp đó thấy phu quân từ trong thùng đứng dậy bước ra, chân vừa chạm đất liền kéo nàng nhào vào trên người ướt sũng, sau đó khuôn mặt mỉm cười cúi xuống che lấp môi son của nàng, nàng khẽ ưm một tiếng, mê say nhắm lại đôi mắt đẹp, một bàn tay to lớn với vào trong áo nàng sờ soạng âu yếm. Sáng sớm, Lục Thất ở trong viện luyện công, trong viện chỉ có Song Nhi và Vân Nga đứng ngoài quan sát, không hề có nô tì nào khác, Ngọc Trúc và Vân Thường thì ra phía ngoài chuẩn bị thức ăn sáng, Tân Vận Nhi đang ở trong lầu các. Lục Thất thu thế bật hơi, xoay người mỉm cười đi về phía hai vị mỹ nhân, hai vị mỹ nhân tiến lên nghênh đón, Song Nhi lấy khăn mặt lau mặt cho Lục Thất, Vân Nga chỉnh lại y phục cho Lục Thất, bỗng thân mình bị một cái ôm siết chặt, một bàn tay to vươn vào áo yếm, vuốt ve “thỏ ngọc” đẫy đà, Vân Nga khẽ ưm một tiếng, cánh tay duỗi ra choàng lên gáy Lục Thất, kiễng chân, chủ động dâng lên đôi môi thơm.
Q5 - Xuân hạ thu đông, giang sơn bắc vọng Chương 211: Chiến Thổ Phiên Nguồn: Metruyen Share: MTQ Banlong.us Mời đọc Lục Thất chỉ ở phủ Ngu Vương hưởng thụ năm ngày gia đình đoàn tụ ấm áp, năm ngày sau hắn rời khỏi thành Trường An, cùng Ba Lăng quân của Đỗ Dũng xuất phát chạy đến Hà Hoàng. Hắn phải đi giải quyết vấn đề Thổ Phiên xâm phạm biên giới, thân là Hoàng đế trên thực tế, hắn nên bắt lấy cơ hội ngự giá thân chinh, có thể thu được sự sùng kính của quân tâm rộng khắp. Một đường hành quân, dọc đường đi Lục Thất cũng tiếp kiến quan địa phương, tìm hiểu về đời sống của dân, đối với một số quan viên có trách nhiệm sẽ khen ngợi. Địa vực Quan Nội cũng còn một ít nạn trộm cướp, phần nhiều là do Lục Thất lúc trước máu tanh càn quét tiếp quản Quan Nội, những thế lực của Triệu Khuông Nghĩa trốn chạy vào trong núi làm cướp rất khó tiêu diệt, cũng không chịu nhận chiêu hàng. Sau khi tìm hiểu rõ ràng, Lục Thất mệnh lệnh ba vạn Cấm quân ở thành Trường An, cũng chính là quân lực đã từng đóng quân tại Hà Hoàng tiến hành tiêu diệt phỉ kiến công trên quy mô lớn ở Quan Nội. Lục Thất cố ý khiến cho ba vạn quân lực kia rời khỏi thành Trường An, dù sao cũng là Cấm quân từ Khai Phong Phủ điều đến Kinh Triệu Phủ đóng quân, giữ ở ‘tâm tạng’ (*) không được ổn, khó tránh sẽ phát sinh binh biến bất ngờ hoặc là ám sát, Lục Thất không muốn thân nhân gặp phải nguy hiểm. (*) ví với trung tâm, nơi quan trọng nhất. Lục Thất lo nghĩ thật sự không phải là phạm vào chứng bệnh “đa nghi”, mà là đối với ba vạn quân lực kia hắn chỉ có sức ảnh hưởng với tướng soái cấp cao, còn quan tướng trung hạ tầng không có tiếp xúc nhiều với hắn, đến cả tướng soái cao cấp cũng sẽ chịu ảnh hưởng của quan hệ ngày xưa mà đối địch với Lục Thất, tỷ như mệnh lệnh của Chu hoàng đế có tới sáu phần hiệu lực với ba vạn quân lực này. Ba Lăng quân đã tới Hà Châu, Thứ sử Hà Châu Tiêu Tri Lễ ở ngoài thành Lâm Hạ nghênh đón Lục Thất, Thứ sử Hà Châu nguyên bản đã bị Lục Thất điều đi Duyên Châu, bây giờ Tiêu Tri Lễ không chỉ là Thứ sử Hà Châu, mà còn là Chuyển Vận Sứ của Tây Ninh đô đốc phủ, quản lý tài quyền của Tây Ninh đô đốc phủ. Vừa vào huyện thành Lâm Hạ, đập vào mắt Lục Thất là cảnh tượng xây dựng rầm rộ, nam bắc trong thành được chia cắt bởi đường cái hình chữ thập, rộng chừng bốn mươi thước, ở hai bên đường cái đang dựng lên các cửa hàng san sát, Tiêu Tri Lễ giới thiệu, y muốn trong thời gian nhiệm kỳ, cải tạo thành Lâm Hạ này thành một nơi thật tốt vừa thích hợp sinh sống vừa thích hợp kinh thương, y tính toán bao thêm một tầng gạch xanh bên ngoài tường thành loạn thạch lũy. Lục Thất hiểu được tâm ý của Tiêu Tri Lễ, Tiêu Tri Lễ là muốn lưu danh một phương, hắn thuận tiện nói huyện thành Lâm Hạ so ra nhỏ hơn thành Thanh Đường rất nhiều, về mặt mỹ quan cũng được kiến tạo thua xa thành Thanh Đường, mà thành trì huyện thành Lâm Hạ được xây dựng theo khẩu (口)hình vẹo, hắn đề nghị Tiêu Tri Lễ dỡ xuống hai mặt tường thành tiến hành xây dựng thêm để huyện thành Lâm Hạ được ngay ngắn rộng rãi, sau khi thành trì được cải tạo xong có thể đổi tên là thành Đại Hạ. Đương nhiên sự ủng hộ của Lục Thất không hoàn toàn là vì thành toàn cho nguyện vọng của Tiêu Tri Lễ, hơn phân nửa là vì sự phồn vinh và phòng ngự của Hà Châu, thành trì được mở rộng và xây dựng thành một kiến trúc hùng vĩ, sẽ có thể chứa được càng nhiều nhân khẩu, nếu thích hợp cư ngụ, sẽ hấp dẫn được càng nhiều nhân khẩu di dời đến Hà Châu, nhân khẩu là căn bản làm nên một vùng đất phồn vinh, Hà Hoàng bao la rộng lớn nhưng rất thiếu người. Lục Thất đóng quân ở Hà Châu một ngày, ngày kế đi hướng Hoàng Châu, khi đến thành Thanh Đường, Dương Côn và Đô đốc Tây Ninh mang người đi đón chào, Lục Thất đã phong Dương Côn làm Tần Vương, lập phủ tại Tần Châu, gia ân cho bố trí biệt phủ ở huyện Thanh Dương. Tiến vào thành Thanh Đường, Lục Thất ở Hoàng Châu cùng doanh tướng cấp tướng soái trở lên tụ hội, sau tụ hội, giữ lại tướng soái cấp cao thảo luận quân sự. Dương Côn nói, Thổ Phiên ở vùng Thanh Hải có ba mươi vạn quân lực, sau khi tiến công Hà Tây và Hà Hoàng thất lợi, Thổ Phiên phái sứ giả đến đưa ra điều kiện bãi binh, điều kiện là cấp cho lương thực và dê bò, nếu không cấp, bọn họ sẽ tiếp tục phát binh gây chiến, Dương Côn mượn cớ xin chỉ thị yêu cầu Thổ Phiên tạm thời đình chiến. Dương Côn nói quân Thổ Phiên rất dũng mãnh, kỵ binh ước chừng mười vạn, quân lực Hà Tây và Hà Hoàng tuy rằng có thể thủ vững cương vực, nhưng tổn thất rất lớn, đã chết hơn năm vạn tướng sĩ, mắt thấy mùa đông sắp đến, càng có lợi cho quân Thổ Phiên. Lục Thất tỏ thái độ không đồng ý thỏa hiệp cùng Thổ Phiên, trong số ba mươi vạn Ba Lăng quân chinh tây lần này có ba vạn thần nỏ quân có thể sử dụng, còn có thần nỏ xa, có thể trước khi cái rét kéo đến gây thiệt hại nghiêm trọng cho Thổ Phiên, chiến lược là từ chối đòi hỏi của Thổ Phiên, áp dụng thế phòng thủ để dụ địch, chờ quân Thổ Phiên chủ động tiến công. Năm ngày sau, đại quân của Thổ Phiên xâm lấn Hoàng Châu, ba mươi vạn đại quân phát động thế công che trời phủ đất. Tán Phổ của Thổ Phiên cực kỳ tức giận, tiến công Hà Hoàng và Hà Tây thất lợi khiến uy vọng và quân lực của y đồng thời chịu sự tổn thất nghiêm trọng, đưa tới sự bất mãn của rất nhiều bộ lạc, bởi vì từ khi thành Thanh Đường khôi phục “trà mã hỗ thị (*)”, mang tới lợi ích rất lớn cho rất nhiều bộ lạc, nổi lên chiến sự thế này chỉ đưa đến tổn thất. (*) giao dịch trà ngựa Tán Phổ Thổ Phiên dĩ nhiên biết Hà Hoàng có ba mươi vạn viện quân đến, theo tin thám báo hầu như đều là bộ quân, cho nên Tán Phổ Thổ Phiên không cam lòng rút quân, lòng tham với Hà Hoàng khiến Tán Phổ Thổ Phiên quyết định tiếp tục chiến tranh, chỉ cần đánh bại được Chu quân ở Hà Hoàng, y sẽ lấy được lương thực và số lượng lớn nô lệ, thậm chí có thể cho Thổ Phiên lần nữa sở hữu Lũng Hữu rộng lớn. Quân lực của Lục Thất cũng bày ra trận thế không cam lòng yếu thế, đại quân đóng quân ở ngoài mười dặm mặt đông sông Đại Thông, Tán Phổ Thổ Phiên nghe báo quân địch không ngờ không trú đóng ở sông Đại Thông, mà đang bày ra tư thế nghênh chiến cách mặt đông sông mười dặm, không khỏi mừng rỡ, lập tức hạ lệnh qua sông tiến công, y phải cùng Chu quân chính diện đại chiến. Mười vạn kỵ binh Thổ Phiên nối liền không dứt lội nước qua sông Đại Thông, mới bắt đầu còn lo lắng quân địch sẽ bất ngờ kéo đến tập kích, nhưng đã qua được ba thành kỵ quân Thổ Phiên, vẫn không gặp quân địch đột kích, vì thế tốc độ sang sông tăng vọt, bộ quân Thổ Phiên cũng đã lâm thời dựng lên mười cây cầu gỗ, cho phép hàng loạt quân qua sông. Lục Thất ở bên này có sáu mươi vạn quân lực, dàn ra thành một trận thế dài hơn hai dặm, sau khi được bẩm báo quân Thổ Phiên đã có hơn phân nửa qua sông, Lục Thất truyền lệnh, trận chiến này không cần tù binh, bởi vì đa số người Thổ Phiên dã man tàn bạo, bắt về làm tù binh sẽ rất khó khống chế, thường sẽ trở thành tai họa khiến cho địa phương bất ổn. Theo quân Thổ Phiên qua sông, Lục Thất ở trong quân đã có thể thấy kỵ quân Thổ Phiên đang tiếp cận, hắn biết được nhân khẩu của bổn tộc Thổ Phiên có ước chừng ba triệu, phụ thuộc chủng tộc khác có bốn năm trăm vạn. Thổ Phiên ở chiến trường phương đông bị người Đảng Hạng cướp đi Hà Hoàng, nhưng ở chiến trường phương tây lại diễu võ dương oai, thống trị bao quát Thổ Hỏa La và một bộ phận của lãnh thổ Thiên Trúc rộng lớn. Địa vực Thổ Hỏa La đã từng là một bộ phận của An Tây đô hộ phủ, nằm ở phía nam của Hắc Hãn Hồi Hột ngày hôm nay, phía tây Thổ Hỏa La chính là Đại Thực quốc (Ả Rập), tổ tiên của đại đa số chủng tộc trên địa vực Thổ Hỏa La là người Nguyệt Thị và Lâu Lan. Thổ Phiên ở phương tây đã chiếm cứ lâu dài địa vực Thổ Hỏa La, cùng người Đại Thực phương tây khi chiến tranh khi hòa bình, cùng Hắc Hãn Hồi Hột ở phương bắc cũng không ngừng chiến tranh, hơn phân nửa cương vực của Hắc Hãn Hồi Hột chính là An Tây tứ trấn thời kỳ Đường triều, còn Thổ Phiên vào thời kỳ Đường triều đã cùng Đường triều kịch liệt tranh đoạt địa vực An Tây tứ trấn, cho nên Thổ Phiên muốn tiêu diệt Hắc Hãn Hồi Hột, mà dân tộc Hắc Hãn Hồi Hột vì chịu sự uy hiếp đến từ Đại Thực và Thổ Phiên, cho nên không có sức đi chiếm cứ Bắc Đình. Cuối cùng quân Thổ Phiên đã qua sông bày xong trận thế xuất kích, Lục Thất biết Thổ Phiên cũng am hiểu công kích bằng dầu hỏa, nhưng hắn có Thần Tí nỏ có thể sử dụng để giết địch từ xa, chỉ cần đánh bại kỵ quân Thổ Phiên, sáu mươi vạn bộ quân đủ để chôn vùi bộ quân Thổ Phiên. Kỵ quân Thổ Phiên bắt đầu tiến công, vạn mã lao nhanh như sóng triều đánh tới, Ba Lăng quân cũng triển khai, hơn một ngàn chiếc xe được đẩy ra trước đội hình quân, mỗi chiếc xe giống như một hòm gỗ được đóng thêm bánh xe, ở mặt trước hòm xe có ba mươi lỗ thủng, mỗi lỗ thủng nhô ra một mũi tên sắc bén. - Bắn! Quan cầm cờ theo lệnh xua cờ, một trận tiếng vang run rẩy như tiếng “đạn bông (*)” cất lên, từ mỗi chiếc nỏ xe phóng ra ba mươi chi kình nỏ, hợp lại thành một đoàn ba vạn chi tên nỏ, giống như mưa sao sa đi đến đâu san bằng đến đó. (*) là một trong những truyền thống thủ công nghệ của Trung quốc, đánh tơi sợi bông vải bằng cây cung. Một trận mưa nỏ xả tới, mấy ngàn kỵ binh Thổ Phiên lảo đảo xuống ngựa, kình nỏ lướt không bắn vào kỵ binh ở phía sau và bộ binh cũng tạo thành sát thương, tiếp theo nỏ xe lui xuống, ba vạn thần nỏ quân bước ra ngoài, bắt đầu bắn theo đội hình ba đoạn, từng đám tên nỏ vọt tới, kỵ binh Thổ Phiên dũng mãnh người ngã ngựa đổ tiếng kêu la ghê người vang rền, đại lượng kỵ binh ở tiền phương tử vong khiến rất nhiều kỵ binh Thổ Phiên ở mặt sau hoảng sợ ghìm ngựa. Quân Thổ Phiên đều là tập kết từ các bộ lạc, khuyết thiếu tố chất quân kỷ quân trận, vừa thấy phía trước đã chết mấy vạn đồng bạn, quân ở mặt sau lập tức hoảng sợ không chịu xung phong, đều quay đầu chạy trở về. Lục Thất thấy tình cảnh đó thì có chút bất ngờ, hạ lệnh đại quân đẩy mạnh lên trước, ba vạn thần nỏ quân dẫn đầu xuất kích, đuổi giết quân Thổ Phiên trốn chạy. Giết! Mấy chục vạn đại quân phía sau tiếp trước xung phong, một lát sau đã vượt qua thần nỏ quân đánh tới quân Thổ Phiên, thần nỏ quân xạ kích cần phải nhắm, chứ không bắn loạn tên nỏ, hơn nữa nhất định phải duy trì hàng ngũ, cho nên các quân lực khác vừa xông lên trước, thần nỏ quân từng bước một tiến lên liền rơi lại phía sau. Kỵ quân bị tàn sát trốn về, khiến cho bộ quân Thổ Phiên ở mặt sau và Tán Phổ Thổ Phiên kinh hồn bạt vía, vừa thấy quân địch như sóng triều ụp tới, không đợi Tán Phổ Thổ Phiên hạ lệnh, bộ quân Thổ Phiên đều quay đầu chạy trốn, kết quả sông Đại Thông lại trở thành trở ngại trí mạng, từng nhóm một qua sông thì có thể bình an, thế nhưng như ong vỡ tổ chen lấn qua, rất nhanh cầu gỗ sụp đổ, bởi vì có quá nhiều người lội nước khiến cho nước sông ùn tắc biến thành cuộn trào mãnh liệt, rất nhiều quân Thổ Phiên bị sóng nước nhấn chìm, hơn nữa còn báu víu lấy nhau, kết quả là cầu sinh không thành, ngược lại lôi kéo nhau cùng chết đuối trong sông. Hai thời sau, Tán Phổ Thổ Phiên mang theo hơn năm vạn quân mã bộ lẫn lộn đào thoát, hơn hai mươi vạn quân Thổ Phiên bỏ mạng trong chiến dịch sông Đại Thông, bởi vì quân lệnh của Lục Thất, quân Thổ Phiên xin hàng cũng bị đồ đao đoạt mệnh, sau trận chiến Dương Côn suất lĩnh quân lực tiến chiếm địa vực xung quanh hồ Thanh Hải.
Q5 - Xuân hạ thu đông, giang sơn bắc vọng Chương 212: Di giá Nguồn: Metruyen Share: MTQ Banlong.us Mời đọc Chiến báo của sông Đại Thông, Lục Thất không có phát đến Khai Phong Phủ báo tin thắng trận, nhưng có phát hướng Phúc Châu báo tin thắng trận, do triều đình Phúc Châu ban bố tuyên cáo, nhằm tăng mạnh uy vọng của hắn, gây kinh sợ hạng người mang dã tâm không an phận. Sau cuộc chiến hắn trở về thành Trường An, chiến dịch sông Đại Thông bắt sống được hơn bốn vạn chiến mã, Tây Ninh đô đốc phủ đã có điều kiện để thành lập năm sáu vạn kỵ quân, cơ bản không sợ Thổ Phiên phản công, biên giới phòng thủ cũng có thể kéo dài qua hồ Thanh Hải. Cùng Ba Lăng quân trở lại thành Trường An, Lục Thất lệnh Ba Lăng quân tiếp tục trú đóng ở mấy châu phía đông nam thành Trường An, nhân số ba mươi vạn quân lực quá nhiều, thời kỳ hòa bình sau chiến tranh nên để cho tướng sĩ trải qua cuộc sống bình thường, tạm thời trở thành quân thường trực Lục Thất có thể nhanh chóng điều động. Nửa tháng sau chiến dịch sông Đại Thông, Chu hoàng đế ở Khai Phong Phủ rốt cục có phản ứng, tuyên bố dời đô đến thành Trường An, Khai Phong Phủ trở thành thủ đô thứ hai, toàn thể Khai Phong Phủ nơi nơi xôn xao, hơn phân nửa vì Khai Phong Phủ mất đi địa vị Kinh thành mà bàng hoàng, Kinh thành mang ý nghĩa là căn bản của sự phồn hoa tôn quý, một khi trở thành thủ đô thứ hai, rất có thể sẽ đi về hướng tiêu điều. Tuy rằng bàng hoàng không muốn tiếp nhận, nhưng sau khi Hoàng đế tuyên bố, cũng không có dẫn phát sự phản đối của đại thần và huân quý, Trịnh Vương trở thành người đóng giữ Khai Phong Phủ, Hàn Thông làm phó quan đóng giữ, Tiết Cư Chính kiên trì muốn ở lại Khai Phong Phủ phụ tá Trịnh Vương, được để lại chủ trì chính sự. Chu hoàng đế xa giá rời khỏi Khai Phong Phủ, sau khi Tống quốc bị diệt Khai Phong Phủ cũng tiến hành giải tán quân cho về quê, cho nên quân lực chỉ có mười vạn, giữ lại năm vạn trấn thủ, năm vạn theo hộ giá Chu hoàng đế và rất nhiều văn võ bá quan, cùng với mấy trăm đại biểu huân quý. Khi xa giá đến thành Lạc Dương, Tào Bân ra khỏi thành tiếp giá, Phan Mỹ cũng từ Tương Châu đến kiến giá, Phan Mỹ biết Chu quốc đại thế đã mất, chỉ bằng hơn mười vạn quân lực của y, căn bản đã là hoàn cảnh bốn bề thọ địch, nhưng Chu hoàng đế và Lục Thiên Phong đều không có phát đến quân lệnh, cho nên chỉ có thể chờ, tuy nhiên quân chính của địa phương Tương Châu đã bị Trình Đức Huyền tiếp quản, cây cầu bắc qua Hán Thủy ở giữa Tương Phàn cũng đã được sửa xong, quân dân ở hai bờ sông Hán Thủy qua lại và thông thương như thường, căn bản không tồn tại sự đối địch. Ngày kế, Chu hoàng đế khởi giá, Tào Bân và Phan Mỹ cũng đi theo, xem như giải thoát khỏi nhà tù “cát cứ”, lần nữa trở thành trọng thần của Chu hoàng đế, đại quân trùng trùng điệp điệp hướng về thành Trường An mà đi. Tháng mười một, gió lạnh thấu xương, Lục Thất và Kỷ Vương mang theo người và hai vạn quân lực ra ngoài mười dặm thành Trường An nghênh giá, gặp xa giá của Chu hoàng đế, liền cung kính quỳ cả hai gối khấu đầu nghênh đón, sau đó cùng trở về thành Trường An. Đến thành Trường An, năm vạn Cấm quân hộ giá nhận được chỉ dụ của Hoàng đế trú đóng ở ngoài thành, chỉ có cận vệ ban trực và năm ngàn Hổ Dực tả quân của Vân Cẩm Đông tiến vào thành Trường An, có quan viên thành Trường An an bài chỗ nghỉ ngơi cho đại thần và huân quý. Lục Thất và Kỷ Vương, cùng với một số trọng thần đi theo xa giá của Chu hoàng đế hướng tới Đại Minh cung. Thành Trường An có ba tòa cung điện chủ yếu, theo thứ tự là Thái Cực cung, Đại Minh cung và Hưng Khánh cung, Đại Minh cung là cung điện lớn nhất tốt nhất, vị trí trên Long Thủ Nguyên thành bắc. Còn Thái Cực cung là trung tâm quyền lực của triều Đường thời kỳ đầu, ở trung tâm thành bắc, chính biến Huyền Vũ môn do Đường Thái Tông Lý Thế Dân phát động chính là xảy ra ở Thái Cực cung. Sau khi Lý Thế Dân lên ngôi, xây dựng cho Lý Uyên Đại Minh cung, về sau Đường Cao Tông kế vị, liền từ Thái Cực cung dọn đến Đại Minh cung tráng lệ quảng đại, khiến cho Đại Minh cung trở thành tượng trưng cho quyền lực của Đường triều. Xa giá đã tới Đan Phượng môn của Đại Minh cung, Lục Thất quan sát thì thấy cung thành nơi này so với của Hoàng cung ở Khai Phong Phủ lớn hơn rất nhiều, mà tòa Đại Minh cung này so với Hoàng cung ở Khai Phong Phủ lớn hơn không chỉ mười lần. Mặc dù Lục Thất chưa từng tiến vào, nhưng có nghe người khác nói qua, rằng bức tường cung to lớn này bởi vì chiến loạn mà bị phá hư và đã nhiều năm không được tu sửa, nên rất cũ nát tan hoang. Tiến vào Đan Phượng môn, dọc theo ngự lộ đi về phía trước, Đại Minh cung được chia làm ba đại điện, theo thứ tự là Hàm Nguyên điện của tiền triều, Tuyên Chính điện của trung triều, Tử Thần điện của nội triều. Tử Thần điện chính là khu vực nội cung, Thái Dịch trì trong nội cung có thể chơi thuyền du nhạc, xung quanh trì còn có quang cảnh vườn cây xinh đẹp, tuy nhiên Lục Thất nghe người ta bẩm báo qua, nội cung của Đại Minh cung vô cùng hoang vu tồi tàn. Xa giá tới Hàm Nguyên điện, Hoàng đế truyền dụ cho Lục Thất và các trọng thần rời đi, chờ chỉ tuyên triệu. Lục Thất và các trọng thần biết Chu hoàng đế mệt nhọc, tuân dụ rời khỏi, chỉ để lại Kỷ Vương bầu bạn Chu hoàng đế, Vân Cẩm Đông và ban trực thì trấn thủ cung thành. Lục Thất rời khỏi Đại Minh cung, trực tiếp trở về phủ Ngu Vương, không có đi gặp các đại thần và huân quý, lúc này không nên vì gấp gáp mà rước lấy sự chỉ trích lên án, hắn cũng không tính nhanh chóng lên ngôi Hoàng đế. Ngày nay hắn đã nắm trong tay mấy trăm vạn quân lực, đó mới là căn bản quyền lực của Hoàng đế, Hoàng đế không khống chế được quân quyền chỉ có thể là vật bài trí. Nếu Chu hoàng đế đã đến thành Trường An, Lục Thất có thể kiên nhẫn chờ, như trước ở phủ Ngu Vương xử lý công văn từ các nơi đưa tới, những địa phương vốn xin chỉ thị xử trí của Khai Phong Phủ, Lục Thất không có phát lệnh thay đổi, nói cách khác chính vụ của Hà Nam đạo và Hoài Nam đạo vẫn như cũ thuộc quyền định đoạt của Khai Phong Phủ, liên quan đến quân sự thì phải đưa đến thành Trường An. Nhoáng cái đã năm ngày trôi qua, Chu hoàng đế ở Đại Minh cung cũng không có triệu kiến, chỉ bảo Kỷ Vương bầu bạn, năm ngày sau Chu hoàng đế dụ lệnh Lục Thất tiến kiến, Lục Thất đến Đại Minh cung, không ngờ Chu hoàng đế đang ở trên thành môn lâu của Đan Phượng môn. Lên thành môn lâu, Lục Thất thấy có ba mươi mấy vị trọng thần và huân quý Chu quốc, đang cùng Chu hoàng đế ngắm nhìn cảnh trí ngoài thành Trường An, đây cũng là một trong những ưu thế của Đại Minh cung, có thể thấy được quang cảnh và sự phồn hoa của thành Trường An. - Thần bái kiến Bệ hạ, Hoàng thượng vạn tuế. Lục Thất đi qua cung kính bái kiến. - Thiên Phong, đến đây đi. Chu hoàng đế ôn hòa tiếp đón, Lục Thất đi tới, vừa đi vừa gật đầu với các trọng thần và huân quý, Triệu Phổ và Thạch Thủ Tín cũng có ở đó, nhóm trọng thần và huân quý cũng đều khẽ gật đầu. Lục Thất đứng ở bên trái Chu hoàng đế, Kỷ Vương ở bên phải Chu hoàng đế, Chu hoàng đế nhìn Lục Thất, ôn hòa nói: - Thiên Phong, khanh có thể vẫn tôn kính trẫm, lòng trẫm rất được an ủi. Lục Thất cười yếu ớt, ôn hòa nói: - Thần đã từng nói với Bệ hạ, thật tâm kính trọng Bệ hạ, là Bệ hạ thương cảm dân sinh, lấy mình làm tấm gương thiết thực để cường quốc, mới có thể cho vùng Trung Nguyên được quốc thái dân an, vạn dân an cư. Sai lầm duy nhất của Bệ hạ chính là quá mức cứng rắn, không chịu thỏa hiệp đối ngoại. Chu hoàng đế cười khổ, tiếp đó chuyển đề tài nói: - Trẫm có một vấn đề không rõ, lấy khả năng của khanh thành lập Tấn quốc không tính ngạc nhiên, nhưng Tấn quốc mới lập, hẳn là ẩn chứa rất nhiều tai họa ngầm, vì sao khanh không ở Tấn quốc, quản chế quân thần Tấn quốc không phản, theo trẫm biết, quân lực của Tấn quốc đều là hàng tốt, khanh làm thế nào áp chế bọn họ không phản? - Bệ hạ, tuy thần không có ở Tấn quốc chủ quản, nhưng thần có một vị phu nhân có thể so với Tiêu Hà (*) thay mặt thần chủ quản, ngoài ra thần cũng có đông đảo lương thần chí hữu ủng hộ, Trương Hồng Ba chính là một vị chí hữu của thần, thần đã từng cứu hắn, hiện giờ Trương Hồng Ba là Hải Đông quận vương. Dương Côn bây giờ đang trấn thủ Tây Ninh là huynh trưởng của thần, hai bên có thế giao từ đời cha chú. Quan Xung trấn thủ Phượng Tường là hậu nhân của Quan Vũ, tuyệt đối là một nam nhi trọng nghĩa, còn có vài vị chiến hữu đã trải qua sinh tử cùng thần, đều đang chấp chưởng quân quyền Tấn quốc. Lục Thất nói. (*) thừa tướng nhà Hán, cùng với Trương Lương, Hàn Tín là tam kiệt nhà Hán. - Nghe khanh nói như vậy, tình hình của khanh và trẫm năm đó tương tự nhau. Chu hoàng đế nói. - Đúng là cùng với hoàn cảnh năm đó của Bệ hạ tương tự, bất đồng duy nhất chính là thần có một vị phu nhân am hiểu thuật trị quốc thay mặt thần cầm lái, mặt khác sau khi Tấn quốc thành lập, vẫn có cơ hội nghỉ ngơi lấy lại sức, nếu vừa mới lập quốc đã cùng bên ngoài phát sinh chiến sự tử thương thảm trọng, Tấn quốc tất sụp đổ vì loạn, đó cũng chính là nguyên nhân thần nguyện đến Chu quốc, thần lo lắng Chu quốc sẽ phát động chiến sự quy mô lớn với Tấn quốc, cho nên thần cần phải hiểu rõ được quân tình Chu quốc. Lục Thất hồi đáp. Chu hoàng đế gật đầu, nói: - Khanh thân là người đứng đầu Tấn quốc lại tiến đến Chu quốc, là cử chỉ không khôn ngoan, nhưng lại là người đại dũng lấy hạt dẻ từ trong lò lửa, nếu như khanh không đến, có lẽ kết quả sẽ tái hiện cảnh Tào Ngụy và Tôn Ngô tranh bá năm đó, cuối cùng kẻ bại chính là khanh, bởi vì Tấn quốc của khanh mới được thành lập, quả thật không chịu nổi tổn thất gây ra do chiến tranh tàn khốc, nhất là quân tâm của hàng tốt rất dễ dẫn đến quân đội sụp đổ. Lục Thất gật đầu, nhưng lại nói: - Lời của Bệ hạ, thần chỉ có thể tán thành một nửa, thần cho rằng dù là tái hiện tình cảnh Nam Bắc tranh bá, cũng chưa chắc thần sẽ bại, bởi vì thần có ưu thế đột kích theo đường biển. Chu Hoàng Đế lắc đầu, nói: "Của ngươi lục chiến nếu là lâm vào tàn khốc đúng tiêu hao, vậy ngươi Tấn quốc sẽ xuất hiện nghiêm trọng nội hoạn tạo phản, lúc kia, ngươi sẽ lâm vào được cái này mất cái khác hoàn cảnh, tài lực, lính đều đã lâm vào nghèo cho ứng phó, một khi của ngươi Tấn quốc xuất hiện không xong, ngươi cho rằng Giang Âm thuỷ quân còn có thể ủng hộ ngươi sao, cường nhân hằng cường, Tấn quốc nếu là lâm vào chiến loạn, rất nhiều quy thuận thế lực sẽ vứt bỏ ly ngươi rồi." Chu hoàng đế lắc đầu, nói: - Nếu chiến sự trên đất liền của khanh chịu sự tổn thất tàn khốc, vậy trong Tấn quốc của khanh sẽ xuất hiện nội hoạn tạo phản nghiêm trọng, lúc đó, khanh sẽ lâm vào hoàn cảnh được cái này mất cái khác, tài lực, quân số đều sẽ gặp phải cảnh ứng phó tạm. Một khi Tấn quốc của khanh xuất hiện dấu hiệu bất ổn, khanh cho rằng thủy quân Giang Âm còn có thể ủng hộ khanh hay sao, cường giả hằng cường, nếu Tấn quốc lâm vào chiến loạn, rất nhiều thế lực quy thuận khanh đều sẽ vứt bỏ khanh. Lục Thất gật đầu tán thành, Chu hoàng đế mỉm cười nói: - Hôm nay, trẫm tuyên cáo Đại Chu đổi tên thành Đại Ngu đế quốc, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc, bãi giá Hàm Nguyên điện. Lục Thất và Kỷ Vương thối lui ba bước, cùng những đại thần huân quý khác hướng tới Chu hoàng đế hành lễ tuân dụ, sau đó Lục Thất đỡ Chu hoàng đế xuống thành lâu Đan Phượng.