[Kiếm Hiệp Cổ Điển] Âu Dương Chính Lan

  1. vothanhbinh

    vothanhbinh Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    30/3/14
    Bài viết:
    165
    Được thích:
    512
    Âu Dương Chính Lan

    Tác Giả:Ưu Đàm Hoa

    -- o --

    Hồi 13

    Tuyệt bích nan phan nhân vi điểu
    Thê thê hồ thuỷ nhân vi ngư


    Nguồn:vnthuquan




    Gần tháng sau, Phi Ưng Kiếm Dương Mẫn chủ nhân kiêm tổng tiêu đầu Phi Ưng tiêu cục cùng hai tiêu sư, xuất hiện trong tiền trang thành Từ Châu. Chưởng quĩ tiền trang là một lão già người Sơn Tây, họ Ngụy, đích thân ra đón khách. Dương Mẫn vui vẻ đưa cho Ngụy lão xem một tờ ngân phiếu trị giá ngàn lượng vàng:
    - Lão phu được giao bảo tiêu một hòm gỗ đi Bắc Kinh mà không được biết có gì ở bên trong. Vị tài chủ kia hào phòng chịu giá ngàn lượng vàng thù lao, lão phu thấy lạ nên muốn nhờ Ngụy lão huynh kiếm tra giùm.
    Ngụy Hành cầm lấy xem xét, gật gù bảo đảm:
    - Dương tổng tiêu đầu cứ yên tâm. Tờ ngân phiếu này đúng là của bổn hãng. Người đổi tiền là Tề đại tài trong thành này.
    Phi Ưng Kiếm hoan hỉ cảm tạ rồi cáo từ, trở về khách điếm.
    Canh tư đêm ấy, ngài đại phú đất Từ Châu đang ngủ say thì bỗng nghe văng vẳng bên tai có tiếng gọi:
    - Tề Trung Tín, Tề Trung Tín.
    Lão giật mình mở mắt, chạm phải đôi nhãn quang sáng quắc và xanh biếc một cách ma quái. Thần thức họ Tề lập tức mê mẩn, mơ hồ và tiếng nói lại vang lên:
    - Giáo chủ Bạch Liên giáo hiện đang ở đâu?
    Tề Trung Tín đáp ngay:
    - Núi Độc Giác ở Sơn Đông.
    Người kia hài lòng bảo:
    - Tốt lắm, ngươi hãy ngủ đi.
    Họ Tề ngoan ngoãn nhắm mắt ngủ say. Hai bóng đen rời Tề gia trang, lẫn vào bóng đêm mất dạng.
    Sáng hôm sau, đoàn nhân mã đông đảo của Phi Ưng tiêu cục lên đường đi về hướng bắc, chiều ngày mười sáu tháng sáu dừng chân ở cửa nam thành Tế Ninh. Từ đây có thể nhìn thấy núi Độc Giác, cách xa chừng mười dặm về phía tây.
    Ngọn núi này có tên như vậy vì hình dáng giống như con tề ngưu Vân Nam đang nằm, chĩa sừng lên trời. Phần phía bắc có đỉnh cong thoai thoải tựa chiếc lưng, phần phía nam là một đỉnh núi đá bốn bề tròn trịa, sừng sững như cột chống trời. Nhưng vì nó chỉ cao độ sáu chục trượng nên được gọi là Sừng Tề Ngưu. Vách đá xung quanh hoàn toàn không có thảo mộc, nhưng trên rìa đỉnh, thấp thoáng bóng cây cối, đường kính đỉnh núi rộng chừng mười mấy trượng.
    Phi Ưng tiêu cục không vào thành hay ngụ trong quán trọ, mà lại mướn một tòa nông xá rộng rãi. Họ dỡ những rương hòm trên tiêu xa đem vào nhà, và tháo ngựa, tháo bánh xe ra bày la liệt, chuẩn bị sửa chữa. Lần này, họ áp tải những xe tiêu, loại có mui kín, dành cho thứ hàng hóa kỵ nước.
    Mấy năm nay, dân tình đói khổ, giặc cướp nổi lên khắp nơi nên sanh ý của tiêu cục rất thịnh vượng. Vì vậy, bọn giáo đồ Bạch Liên giáo đã quen mặt với Phi Ưng Kiếm chẳng thèm để ý đến làm gì.
    Thái Sơn Phủ Quân là người đa mưu túc trí, rải thủ hạ khắp các đạo quán, âm thầm chỉ đạo chứ không xuất đầu lộ diện. Phi Hoàn đại lão, Đào Hoa cung chủ đều chết dưới tay một cao thủ lạ mặt là Báo Ứng Lang Quân. Lại thêm Chiêu Thống pháp sư mất tích, Phong Nhân cốc bị quét sạch, chứng tỏ Hỏa chân nhân đã đưa cao thủ Hỏa giáo vào Trung Nguyên và đang phản công. Phủ Quân ráo riết chiêu mộ anh tài, huấn luyện thủ hạ, bành trướng thực lực Bạch Liên giáo để chuẩn bị đối phó với phe Tây Môn Nhỉ và chuẩn bị khởi nghĩa. Lão sợ uy lực của Đảo Thiên thần đạn nên xem đám thê nhi của Chính Lan là bùa hộ mạng. Ngày nào còn nắm được con tin, bọn Hỏa chân nhân chẳng dám công khai đối địch.
    Nhắc lại, sau khi đem hết mười mấy chiếc rương vào trong, Phi Ưng Kiếm và tám tiêu sư quây quần bên chiếu rượu. Họ đều là người quen của chúng ta, đó là Âu Dương Chính Lan, Liễu Thi Mạn, Ma Nhãn đầu đà, Ngô Công động chủ, Hỏa chân nhân và ba vị hộ pháp Hỏa giáo.
    Còn bốn chục đệ tử tiêu cục đang hý hoáy cạnh tiêu xa ngoài sân là cao thủ Bố Y hội. Có mặt Thiểm Điện Thần Kiếm, Giang Tây Thần Bộ và gã béo Lâm Chấn Hạo nữa. Họ cảnh giới cho những bên trong bàn bạc.
    Đêm xuống, Chính Lan, Ngô Công động chủ và Ma Nhãn đầu đà rời nông xá, đi về hướng Độc Giác sơn. Mục đích của họ là thám thính chứ không phải đánh nhau. Khinh công của cả ba đều rất cao cường nên chẳng ngại ánh trăng làm lộ tung tích. Ba khắc sau, họ đã đến khu rừng rậm quanh núi Độc Giác, nằm phục xuống bìa rừng nghe ngóng.
    Ngô Công động chủ thả một con trong cặp rết bốn cánh ra, con còn lại vẫn quấn lấy tay bà. Mỗi lần nhận được tín hiệu của con rết trinh sát, con thứ hai vẫy cánh, rít nhẹ lên. Tín hiệu cứ liên tục bay về, chứng tỏ đường vào có rất nhiều mai phục. Gần khắc sau, chắc con Tứ Dực Ngô Công kia đã vào đến vòng phòng thủ của lũ Miêu Ưng, nên bầy cú rúc lên ghê rợn. Chung nương vội niệm thần chú thu hồi linh vật. Bà hạ giọng thì thầm:
    - Công tử, xem ra Bạch Liên giáo phòng bị rất nghiêm mật, chúng ta tiến vào là bị bầy ác điểu kia phát hiện ra ngay.
    Bà tôn trọng Chính Lan nên xưng hô như vậy, đúng ra phải gọi bằng muội phu. Chính Lan trả lời:
    - Sư tỷ ở lại đây cảnh giới, tiểu đệ và Nhiếp lão sẽ vào bắt một tên khai thác. Biết đâu, nhờ Nhiếp Hồn đại pháp của Nhiếp lão mà tìm ra vị trí nơi giam giữ tù nhân?
    Đầu đà gật đầu:
    - Việc ấy không khó, chỉ mong công tử bảo trọng.
    Chính Lan mỉm cười, tiến vào rừng, đầu đà theo sau. Chàng vận hết thính giác tìm kiếm, lướt từ gốc cây này sang bụi rậm khác. Cuối cùng, chàng phát hiện tiếng thở của gã sát thủ ngoài cùng.
    Chính Lan êm ái áp sát. Khi còn cách chừng hơn trượng, chàng bứt một chiếc lá cây, dồn chân khí vào, búng về phía gã giáo đồ. Chiếc lá xé gió bay xẹt qua miệng hố. Gã giật mình ngồi dậy nhìn quanh và rồi đứng hẳn lên.
    Chính Lan xạ ngay hai đạo Huyết Tuyến Điểm Hồng vào huyệt Đại Bao và huyệt Bộ Lang. Đồng thời, thân hình chàng nằm dài ra, lướt trên mặt cỏ, bay đến đỡ lấy, đặt gã nằm dài trong lòng hố.
    Khoảng cách giữa các điểm mai phục chỉ cách nhau chừng hai trượng, nhưng trong rừng nhiều bụi rậm nên những tên giáo đồ gần đấy chẳng hề phát hiện được quái sự. Ma Nhãn đầu đà mừng rỡ lướt đến, nằm phục trên miệng hố, truyền âm bảo Chính Lan giải huyệt rồi bắt đầu nhiếp hồn nạn nhân. Lão thì thầm bảo:
    - Ngươi hãy nói nhỏ cho ta biết giáo chủ nhốt tù nhân ở đâu?
    Gã kia ngoan ngoãn hạ giọng:
    - Trên đỉnh Sừng Tê Giác.
    Như thế là quá đủ, đầu đà thôi miên cho gã ngủ say. Sáng mai, khi tỉnh giấc, gã sẽ phát hiện trên áo có hai dấu máu đen sạm mà không hiểu vì sao?
    Chính Lan và đầu đà hân hoan lướt ra ngoài, kéo Chung nương đi xuống hướng nam. Dưới ánh trăng vằng vặc, cây cột đá kia đứng sừng sững như thách đố bọn Chính Lan. Chỉ có cạnh nối với phần núi phía bắc là có trạm canh, phía sau chẳng có một bóng người. Cần gì phải trông coi khi mà khỉ vượn cũng chẳng thể trèo lên vách đá dựng đứng, trơn tru ấy?
    Chính Lan sững người nhìn lên đỉnh núi đá, mắt long lanh ướt rượt.Không phải chàng sợ mình không lên được, mà là thương cho thê tử. Trên ấy mùa đông chắc là lạnh lắm.
    Ngô Công động chủ thở dài:
    - Chỉ có chim mới bay lên được trên ấy.
    Chính Lan gật đầu:
    - Đúng vậy, nhưng tiểu đệ đã học được cách bay của loài cầm điểu.
    Ba người quay trở lại cửa nam thành Từ Châu. Người ở nhà vẫn thức để chờ đợi. Chính Lan vui vẻ nói ngay:
    - Lão gia, tiểu điệt đã tìm ra họ, đêm mai chúng ta sẽ khởi sự.
    Chàng liền trình bày kế hoạch của mình. Ai nấy đều hoan hỉ vô hạn. Tứ hộ pháp Bạch Tuân gãi tai lẩm bẩm:
    - Chẳng hiểu tiểu tử này có điên không nhỉ?
    Sáng hôm sau, Phi Ưng Kiếm Dương Mẫn vào thành Tế Ninh thật sớm, lão mang theo một đôi giày vải cũ, vào tiệm giầy lớn nhất thành, mua một đôi mới bằng da hươu thật tốt có kích thước giống giày cũ. Sau đó, lão tìm đến lò rèn của Trương lão cửu, người đã có bốn mươi năm kinh nghiệm, và nổi tiếng nhờ chế tạo ra những loại ám khí tinh xảo.
    Đến trưa, Dương lão hài lòng trở về, đưa cho Chính Lan xem một đôi giày có đế lót thép, mũi chĩa ra ba mấu sắc như vuốt chim ưng. Lão đắc ý khoe:
    - Điệt tế biết không, lão họ Trương đã bảo đảm rằng có đâm vào đá cũng không gãy, không mòn.
    Chính Lan đẹp dạ, mỉm cười:
    - Cảm tạ biểu thúc.
    ° ° °
    Đêm ấy, bọn Chính Lan gồm mười hai người, đem theo dây chão, thúng mây, đến mặt sau của chiếc sừng đá cao sáu chục trượng. Trăng mười bảy soi sáng vách đá sừng sững, như hỗ trợ cho Chính Lan. Chàng xỏ đôi ủng da vào chân, đứng trên bốn đôi tay của Hỏa chân nhân và ba lão hộ pháp người Tây Vực. Họ vận toàn lực, tung chàng lên độ cao năm trượng, song song với vách đá. Mượn đà ấy, Chính Lan điểm mũi giày có mấu thép vào sườn núi, song thủ vỗ mạnh vào không khí, tiến lên vùn vụt.
    Những người ở dưới nhìn lên có cảm giác như một cánh dơi khổng lồ đang cố vượt đỉnh núi. Họ vừa thán phục, vừa lo lắng, sợ chàng rơi xuống vì không đủ hơi. Nhưng Chính Lan luyện Qui Thức Bảo Tâm đại pháp từ nhỏ, thời gian bế khí dài gấp mấy lần người khác. Cộng với hơn sáu mươi năm công lực, chàng liên tục đẩy những đạo chưởng kình, như những cú đập cánh của loài chim.Chính Lan đã từng vượt thoát khỏi vực thẳm Vân Mộng sơn cũng bằng cách này. Nhưng vách vực thẳm còn có đất mềm, chàng có thể cắm ngập bàn tay vào đấy, treo mình nghỉ ngơi. Còn ở đây chỉ toàn là đá núi cứng rắn, nên mũi giày thép chạm vào bắn ra những tia lửa nhỏ. Căn bản của phép đề khí là nín thở. Chỉ cần đổi hơi là chân khí đứt đoạn, rơi xuống ngay.
    Nhưng còn một nỗi lo nữa, đó là những mấu thép ở mũi giày. Khi chàng còn cách đỉnh núi mấy trượng thì hai mấu sắt ở mũi giày bên tả gãy rời. Thân hình chàng mất đà tụt xuống ngay, Thi Mạn kinh hãi rú lên, cũng may Ngô Công động chủ đã kịp bịt miệng sư muội lại.
    Còn các cao thủ lão thành thì cử song thủ, sẵn sàng phóng chưởng đón Chính Lan. Và may thay, chàng đã trụ lại được, bằng cách vỗ liền mười sáu chưởng mãnh liệt. Thân hình chàng lại tiếp tục bốc lên, vượt đoạn đường còn lại, hạ thân xuống mép vực.
    Mọi người thở phào, ngước lên chờ đợi. Lát sau, một sợi dây bằng tơ, đầu cột cục đá, được Chính Lan thả xuống. Trịnh Thiều bắt lấy, cột một đầu dây chão vào. Chính Lan kéo lên, buộc vào gốc cây gần đấy rồi giật ba cái. Tây Môn Nhỉ và ba sư đệ lập tức nắm lấy đường dây đi lên. Có được điểm tựa vững chắc, họ thượng sơn rất dễ dàng, nhanh chóng.
    Năm người thận trọng tiến vào khu rừng tùng trên đỉnh sừng tê giác, đến được một tòa nhà bằng đá hình bát giác, giống hệt như thạch thất ở Vu Hồ. Chính Lan thì thầm:
    - Lão gia, té ra Bát Quái môn đã từng đặt căn cứ ở nơi này.
    Bỗng có tiếng khóc oa oa của trẻ thơ vọng ra, khiến mọi người phấn khởi. Họ rảo một vòng, chỉ phát hiện được hai phụ nhân già nua đang ngủ trong căn nhà bếp bằng gỗ. Có lẽ họ là người phục vụ cho tù nhân hơn là canh giữ. Chính Lan không nỡ giết, chỉ rắc ít bột mê hồn phấn vào mũi họ. Hai người này sẽ ngủ say ít nhất là bốn ngày. Lúc ấy, bọn chàng đã rời khỏi Sơn Đông rồi.
    Họ quay lại cửa chính của tòa nhà quái dị. Chính Lan rút tiểu kiếm chặt phăng khóa sắt, đẩy cửa bước vào. Có tiếng nữ nhân run rẩy hỏi:
    - Bọn ngươi muốn gì mà vào đây lúc nửa đêm? Đừng hòng tính chuyện làm càn, chị em ta thà chết chứ không chịu nhục đâu.
    Đó chính là giọng nói của Tiểu Linh Thố Tây Môn Tố Bình. Đã bàn bạc từ trước, Chính Lan không dám lên tiếng ngay để họ khỏi hoài nghi. Hỏa chân nhân bật hỏa tập, nói như sắp khóc:
    - Bình nhi ơi, phụ thân đến cứu bọn ngươi đây.
    Lúc tối ông đã gội đầu, tẩy sạch thuốc nhuộm để lộ râu tóc đỏ hung. Nhờ vậy, chẳng thể lẫn với ai được. Tố Bình mừng rỡ reo lên:
    - Phụ thân, bọn hài nhi mỏi mòn chờ mong giây phút này.
    Nàng chạy đến ôm ông khóc sướt mướt. Bốn nàng kia cũng ôm con thơ bước lại nghẹn ngào, tức tưởi. Chân nhân hỏi ngay:
    - Các con vẫn bình an chứ?
    Trại Tây Thi Du Mĩ Kỳ lên tiếng:
    - Bọn tiểu nữ thì không sao chỉ tội cho lũ trẻ.
    Kính Hồ Tiên Cơ Tiêu Uyển Như nói:
    - Để tiểu nữ đốt đèn lên cho sáng.
    Nàng bồng tiểu hài đến chiếc bàn nơi góc nhà, lấy hỏa tập châm đèn. Chỉ được tự do có một tay nên nàng rất lúng túng. Bỗng phía sau có tiếng ai thân quen:
    - Như muội đưa ta ẵm con cho.
    Một mãnh lực vô hình nào đó khiến nàng ngoan ngoãn trao đứa bé cho người ấy. Uyển Như rơi vào trạng thái mơ hồ, kỳ lạ, đờ đẫn quay lại châm đèn.
    Khi ngọn tọa đăng tỏa sáng lên, Uyển Như ngước nhìn người đàn ông ẵm con mình. Nước mắt nàng trào ra, miệng lẩm bẩm:
    - Tướng công từ âm cảnh về thăm thê tử đấy ư? Sao chàng không về thăm sớm hơn, để bọn thiếp đỡ nhớ nhung?
    Chính Lan ứa lệ, xiết chặt nàng vào lòng, hôn tới tấp lên mắt, lên môi. Uyển Như sung sướng òa khóc nức nở. Đứa bé trên tay cũng giật mình khóc theo. Bốn mỹ nhân kia quay lại, thấy cảnh tượng ấy đều ngơ ngác, chẳng hiểu gì cả. Kính Hồ Tiên Cơ vẫn ôm chặt lấy Chính Lan, như sợ chàng biến mất, và thất thanh gọi lớn:
    - Các em ơi, mau đến đây giữ tướng công lại.
    Bốn người kia lật đật chạy đến, chăm chú nhìn gương mặt Chính Lan.
    Chàng đã mập hơn xưa nhưng vẫn là nét mặt của người mà họ ngày đêm thương tiếc. Chính Lan cũng nhìn những dung nhan gầy gò, hốc hác kia bằng ánh mắt chan chứa yêu thương. Chàng dịu giọng bảo:
    - Ta vẫn còn sống, các nàng đừng sợ.
    Tây Môn Tử Quỳnh hét lên:
    - Tướng công.
    Rồi nàng ngất lịm, nếu Tố Bình không kịp đỡ thì Tử Quỳnh đã ngã xuống sàn nhà. Hỏa chân nhân cười ha hả, xóa tan nỗi nghi ngờ của họ:
    - Hắn là Chính Lan của các ngươi đấy. Người còn sống chứ không phải là ma đâu.
    Các nàng bừng tỉnh, xúm lại kêu khóc. Chân nhân vội nói:
    - Đừng khóc nữa, nếu bọn Bạch Liên giáo nghe được thì phiền lắm, về đến nhà tha hồ mà nhõng nhẽo.
    Thế là họ chỉ dám nức nở tỉ tê thôi. Bọn Chính Lan cấp tốc dẫn họ ra mép núi phía sau, đưa xuống bằng thúng mây.
    Nửa tháng sau, đoàn người về đến Vu Hồ. Ngày hội trùng phùng hạnh phúc không bút nào tả xiết.
    ° ° °
    Căn cứ Vu Hồ được củng cố thành một nơi bất khả xâm phạm. Vòng ngoài là hàng rào hỏa dược sẵn sàng nổ tung để xé tan xác đối phương. Kế đó là phòng tuyến của các tay thiện xạ. Ngoài ra đàn độc phong ngày đêm tuần tra mặt nước quanh đảo, mau chóng phát hiện kẻ lạ mặt.
    Gần cuối tháng bảy, một đệ tử Cái bang đến Vu Hồ trao thư của Đại Đầu Cái. Bang chủ Cái bang viết rằng đã phát hiện tù xa đưa Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên về Hồng Trạch hồ.
    Chính Lan lập tức khăn gói lên đường cứu bằng hữu. Chàng đưa Tây Môn Tố Bình và ba vị hộ pháp Hỏa giáo theo chàng. Tài hóa trang của nàng và bản lĩnh cao cường của các hộ pháp sẽ hỗ trợ Chính Lan rất nhiều.
    Sau hơn tháng tịnh dưỡng, các mỹ nhân đã hoàn toàn hồi phục, kiều diễm như xưa. Niềm vui tương phùng với trượng phu đã là kỳ dược đối với họ. Tiểu Linh Thố được tháp tùng Chính Lan, lòng vui như mở hội. Nhưng bề ngoài vẫn cố giữ vẻ thản nhiên. Sau lần tưởng chừng góa bụa, và cùng chia sẻ cảnh giam cầm, tình cảm giữa các mỹ nhân càng thêm thắm thiết.
    Thế mà Chu Thục Nghi vẫn giận dỗi nói:
    - Tướng công chẳng bao giờ cho thiếp đi đâu cả, chàng thực là bất công.
    Chính Lan mỉm cười:
    - Nàng định đem cả Hạc nhi đi đánh nhau với Bạch Liên giáo hay sao?
    Thục Nghi nhớ lại rằng mình còn vướng bận con thơ, thẹn thùng cúi mặt không ganh tỵ nữa.
    Năm người bọn Chính Lan rời Vu Hồ vào buổi sáng. Đến bữa cơm chiều, Hỏa chân nhân hào hứng nói:
    - Bần đạo suốt đời làm gì cũng hỏng, chỉ đắc ý duy nhất có một việc là đã chọn Chính Lan làm rể. Ngày ấy bị Chiêu Thống pháp sư bắt nhốt vào xe tù bọc đồng kín mít, tưởng chừng đã bỏ mạng, vậy mà trời xui đất khiến thế nào lại gặp hắn giữa đường.
    Sơn Đông Tử Phòng biến sắc lẩm bẩm:
    - Tù xa kín mít ư?
    Lão run giọng bảo mọi người:
    - Nếu xe tù kín đáo như vậy làm sao đệ tử Cái bang lại nhìn thấy Hách Thiết Xuyên?
    Tiêu trang chủ cha của Kính Hồ Tiên Cơ Tiêu Uyển Như là người làu thông binh pháp, hiểu ngay ý của Từ Kính Nhan. Ông giật mình nói:
    - Chẳng lẽ đây là kế điệu hổ ly sơn của Bạch Liên giáo?
    Cả nhà chết lặng, nhìn Sơn Đông Tử Phòng với ánh mắt dò hỏi. Từ Kính Nhan vuốt râu tư lự:
    - Lão phu chỉ lo xa thế thôi chứ không chắc chắn lắm. Nhưng chẳng thà tin là có còn hơn không tin? Giả như Bạch Liên giáo cố tình để Cái bang nhìn thấy Hách Thiết Xuyên, dụ chúng ta đến cứu, thì sẽ có hai trường hợp xảy ra. Một là chúng sẽ mai phục dọc đường, hoặc ở Hồng Trạch hồ. Hai là chúng sẽ đánh úp căn cứ này.
    Thương trường cũng như chiến trường, Tây Thục nhất hùng Chu Điện Kiệt đã nhiều năm lăn lộn, cạnh tranh, đầu óc chẳng phải tầm thường, lão cười nhạt bảo:
    - Thế thì, một mặt chúng ta cho người đi hỗ trợ Chính Lan, một mặt gài bẫy ở đây.
    Hỏa chân nhân rầu rĩ nói:
    - Chúng ta chẳng có đủ cao thủ để chia làm hai cánh.
    Chợt có người vào báo:
    - Bẩm lão gia, trạm canh ở bờ hồ báo về rằng Hán Trung Tam Ngốc và một gã khổng lồ, xin vào bái kiến ngũ phu nhân.
    Liễu Thi Mạn bẽn lẽn nói:
    - Chết thật, ta quên khuấy mất bốn gã ngốc này, bỏ chúng lại Cửu Hoa sơn.
    Hỏa chân nhân mừng rỡ bảo hán tử:
    - Mau cho thuyền rước họ vào đây.
    Mấy khắc sau, Âu Dương Tiểu Ngưu và Hán Trung Tam Ngốc vào đến. Đại ngốc nói oang oang:
    - Nghe tin các đại tẩu đã được cứu thoát khỏi cảnh lao lung. Lô bang chủ liền giải tán Hồng Điểm hội. Bọn tiểu đệ vội tìm đến đây.
    Thi Mạn vui vẻ giới thiệu mọi người với Tiểu Ngưu. Gã khổng lồ này kính cẩn bái kiến, nhưng vẻ mặt buồn vời vợi. Tiểu Ngưu nghiêm giọng:
    - Xin các đại tẩu cho tiểu đệ vào thắp hương cúng đại ca.
    Du Mỹ Kỳ cười khúc khích:
    - Làm gì có bàn thờ mà cúng với tế?
    Tiểu Ngưu đứng phắt dậy, gầm lên:
    - Ta thấy các vị góa chồng mà mặt tươi như hoa nở, phấn son lòe loẹt, lòng này đã không vui. Nay cả bàn thờ cũng chẳng có thì quá lắm rồi. Tiểu Ngưu thật đau lòng cho hương hồn đại ca.
    Nhị ngốc Hồ Giả cũng nói:
    - Cổ nhân dạy rằng “tối độc phụ nhân tâm” quả thực chẳng sai. Anh em tại hạ xin phép cáo từ.
    Gương mặt đau khổ của mấy gã ngốc kia khiến cả nhà phá ra cười nắc nẻ. Nhưng có một người không cười mà lại đùng đùng nổi giận, đó là Trường An đại mỹ nhân Chu Thục Nghi. Nàng chỉ mặt chúng mà mắng rằng:
    - Ai cho phép bọn hồ đồ các ngươi mỉa mai, xỉa xói bọn ta? Cái gì mà phấn son lòe loẹt với lòng dạ đàn bà. Để chờ tướng công về đến ta sẽ bảo chàng đánh đòn bọn ngươi.
    Tin Chính Lan còn sống được giấu kỹ nên bốn gã ngốc này không biết. Chúng ngơ ngác nhìn mọi người. Hỏa chân nhân thấy tội nghiệp, cười bảo:
    - Chính Lan còn sống và đã cải trang thành Báo Ứng Lang Quân.
    ° ° °
    Nhắc lại, bọn Chính Lan rời Vu Hồ, đi về hướng đông bắc để đến Hồng Trạch hồ. Bạch Liên giáo phát triển rất nhanh, tín đồ lên đến hàng mấy vạn. Vì thế, cao thủ cũng đông đảo. Bọn Chính Lan không dám sơ suất, cải trang thành khách thương hồ, hòa lẫn với dòng người trên đường quan đạo mà đi.
    Nhưng khi họ rẽ phải thì chỉ còn lại một mình. Số thương khách kia tiếp tục ngược bắc chứ chẳng đến Hồng Trạch hồ làm gì cả!
    Tích Giang là vùng đất duyên hải, cỏ cây xanh tốt, khí hậu ôn hòa nên cảnh trời thu không đến nỗi thê lương, ảm đạm như phương bắc. Ngô đồng bắt đầu rụng lá, hàng phong cũng lắc đác đổi sắc đỏ hồng. Ba vị hộ pháp Hỏa giáo suốt đời sống ở đất Tây Vực lạnh giá, hoang vu, nay hoan hỉ nói cười. Chỉ trỏ, tán dương phong cảnh dọc đường. Râu tóc của họ đã được nhuộm đen, nhưng da mặt vẫn hồng hào như say rượu.
    Chiều hôm sau, năm người còn cách mục tiêu chừng sáu chục dặm. Trước mặt họ, đường quan đạo vươn cao, men theo sườn ngọn núi Đan sơn.
    Tây Môn Tố Bình thấy địa thế ấy, nhớ đến đèo Vân Mộng sơn, rùng mình bảo:
    - Tướng công, nếu Bạch Liên giáo đặt phục binh trên đèo thì sao? Thiếp sợ lắm.
    Chính Lan gật đầu, dừng cương, ngắm nhìn hiểm địa. Dưới ánh tà dương, rừng phong non trên sườn núi cạnh đèo trông diễm lệ và hiền hòa biết mấy. Nhưng những tảng đá khổng lồ nằm cheo leo trên đỉnh vách khiến chàng nảy sinh cảm giác bất an. Chính Lan nhủ thầm: “Việc mình nhận được thư của Cái bang và đi Hồng Trạch hồ hoàn toàn bí mật, lẽ nào đối phương lại biết được mà đặt mai phục?”
    Tuy nhiên, Tiểu Linh Thố đã nói tiếp:
    - Đường đèo dốc đứng, lên đến đỉnh thì trời cũng đã sẩm tối, hay là chúng ta nghỉ lại nơi này, chờ sáng khởi hành cũng được.
    Chính Lan nhìn ánh mắt nặng trĩu ưu tư của ái thê, không nỡ từ chối. Chàng gật đầu, nhìn quanh rồi bảo:
    - Vậy chúng ta quay lại tòa miếu Sơn Thần.
    Trước khi đến chân đèo, bọn chàng đã đi qua một ngôi miếu, nằm trong cánh rừng mé hữu. Năm người quay ngựa, đi ngược lại hai dặm, rẽ vào rừng.
    Tòa cổ miếu này tuy bị bỏ phế nhưng chưa đến nỗi điêu tàn, mái ngói, vách gỗ cửa nẻo vẫn nguyên vẹn. Tiểu Linh Thố vui vẻ bảo:
    - Phiền ba vị sư thúc vào rừng kiếm ít dã vị, điệt nữ và tướng công lo việc quét dọn.
    Ba lão hí hứng đi ngay. Việc săn thú rừng cũng là dịp để họ nô đùa, nghịch ngợm. Tố Bình nhìn theo dáng đi nhún nhảy của họ, mỉm cười:
    - Ba người này tuổi đã sáu mươi mà tính tình như trẻ thơ vậy.
    Ăn uống xong, năm người trò chuyện đến khuya mới ngủ. Như chúng ta đã biết, Chính Lan luyện Qui Tức Bảo Tâm đại pháp nên rất tỉnh ngủ. Giữa canh tư, chàng giật mình ngồi dậy vì phát hiện tiếng chân người, liền báo động cho Tố Bình và ba lão họ Bạch. Họ mau chóng rời cổ miếu, tung mình lên những tàn cây gần đấy chờ đợi.
    Lát sau, phe đối phương đã đến nơi. Nhưng khi còn cách hai trượng, chúng chĩa những ống đồng dài về phía tòa miếu cổ và nhất tề khai hỏa. Những luồng lửa đỏ rực đan lưới chụp lấy mục tiêu, trong chớp mắt đã đốt cháy lớp vách gỗ. Khiến miếu lâm thần bốc cháy ngùn ngụn. Ba mươi hán tử trút hết số dầu trong hỏa đồng, đắc ý đứng nhìn kết qủa. Ánh lửa rực rỡ soi rõ dung mạo của một lão già cao lớn, đang đứng phía sau, đó là Miêu Ưng Lão Tổ Phương Kỳ Du. Năm con ngựa cột gần đấy sợ hãi hí vang mà chẳng có ai trong miếu xông ra. Lão Tổ dày dạn kinh nghiệm, biết ngay có quái sự. Lão nghiến răng quát vang:
    - Rút lui!
    Nhưng có năm bóng người đã từ những tàn cây lao xuống. Người tấn công Miêu Ưng Lão Tổ là Chính Lan. Chàng dồn hết công lực vào chiêu Hải Thượng Hàng Long, quyết lấy mạng đối phương. Nhưng do chàng phải vượt qua khoảng cách hai trượng nên lão ma có đủ thời gian ứng phó. Lão cử song thủ, vỗ liền bốn chưởng đỡ đòn. Chưởng kình chạm nhau nổ ì ầm, song phương dội ra.
    Phần Tiểu Linh Thố và ba lão hộ pháp tấn công bọn giáo đồ Bạch Liên giáo. Chúng đã buông ống đồng, rút đao chống cự. Nhưng những luồng chưởng phong nóng rực của tuyệt kỹ Thiên Hỏa Chiếu Vân đã thiêu đốt cơ thể bọn chúng. Ba lão họ Bạch thấy đối phương dám dùng hỏa khí hại mình, động nộ tàn sát không thương tiếc. Tố Bình cũng múa tít trường kiếm đâm chém chẳng nương tay. Hỏa chân nhân đã hết lòng tài bồi cho ái nữ, nên bản lĩnh nàng cao cường nhất trong đám thê thiếp của Chính Lan.
    Bên kia, Chính Lan đã dở pho Cuồng Lãng thần chưởng, đánh cho Miêu Ưng Lão Tổ thất điên bát đảo. Lão trúng ba chưởng, máu miệng rỉ ra ướt cả hoàng bào.
    Bỗng một tên giáo đồ rút còi sắt thổi mạnh. Tiếng còi cầu viện cao vút, xé tan màn đêm. Chính Lan kinh hãi, không dám kéo dài cuộc chiến nữa. Chàng xuất chiêu Nguyệt Ảnh Thu Phong. Vỗ liền bốn mươi chín đạo chưởng kình. Miêu Ưng Lão Tổ cắn răng tiếp chiêu, nhưng chỉ được ba mươi bảy chưởng đã kiệt lực. Đúng lúc ấy, Hỏa Ưng lao như mũi tên bay thẳng vào mặt Chính Lan để cứu nguy cho chủ nhân.
    Chàng không còn cách nào khác, đành vung chưởng đánh văng linh điểu, nhưng vẫn không dừng bước tiến. Tuy nhiên, trong sát na ngắn ngủi ấy, Lão Tổ cũng đã kịp hít một hơi chân khí, có sức mà chống đỡ. Lão thoát chết nhưng máu miệng trào ra như suối, nhảy lùi hơn trượng.
    Chính Lan giận dữ quát vang, định lao theo. Nhưng chàng phát hiện tiếng vó ngựa rầm rộ khua động đêm trường, chứng tỏ viện binh rất đông đảo. Chàng lo cho Tố Bình nên bỏ mặc Miêu Ưng Lão Tổ đào tẩu, lướt về phía nàng, vung chưởng đánh chết liền hai tên, và đốc thúc bốn người rút lui.
    Họ chạy sâu vào cánh rừng, chẳng mấy chốc đã mất dạng. Nhãn lực Chính Lan rất tinh tường, rút kiếm chặt phăng gai góc, dẫn Tố Bình và ba lão họ Bạch đào thoát.
    Mấy khắc sau, thấy phe đối phương không truy sát, năm người dừng chân, trèo lên một cây cổ thụ cao vút nghỉ ngơi. Lục hộ pháp Bạch Quí cười khanh khách:
    - Cũng may mà Âu Dương hiền điệt kịp thời phát hiện, nếu không chúng ta thành heo quay cả rồi.
    Ngũ hộ pháp Bạch Trung cau có bảo:
    - Chúng ta là người của Hỏa giáo mà bị chết vì lửa thì còn ra thể thống gì nữa. Nghĩ lại càng thêm tức, không hiểu Bạch Liên giáo lấy đâu ra loại hỏa khí ấy?
    Chính Lan suy nghĩ rồi đáp:
    - Từ thời Bắc Tống, ở Biện Kinh đã có một bộ phận quân khí tên gọi Mãnh Hỏa Du Tác, chuyên chế tạo những hỏa đồng phun lửa, dùng nguyên liệu là dầu mỏ. Triều đại nhà Minh vẫn duy trì bộ phận ấy. Nhưng sau khi mua được súng thần công của người Bồ Đào Nha, việc chế tạo hỏa đồng không được coi trọng nữa. Có lẽ Bạch Liên giáo đã đánh cắp từ kho quân khí, hoặc mua lại của bọn tham quan trong bộ binh.
    Tố Bình thỏ thẻ:
    - Tướng công, xem ra chúng ta đã trúng kế điệu hổ ly sơn của Bạch Liên giáo rồi, chàng tính sao đây.
    Chính Lan tư lự bảo:
    - Ta cũng biết như vậy. Nhưng đường về chắc chắn đã bị đối phương chặn đứt, trở lại còn nguy hiểm hơn tiến lên. Hơn nữa, khu rừng này không rộng lắm, chỉ sợ sáng mai là đại quân vây chặt, muốn thoát ra cũng khó.
    Nói xong, chàng trèo tuốt lên ngọn cây, quan sát tứ phía, thở dài khi thấy những ánh đuốc chập chờn. Chính Lan trở xuống nói:
    - Chúng ta phải đi ngay trước khi đối phương khép kín vòng vây. Cứ đi về hướng đông, đến được Đại Vận hà rồi sẽ tính sau.
    Năm người mau chóng khởi hành, chẳng dám diên trì. Khu rừng này đa số là cây phong nên thay lá khi vào thu. Vì vậy, khắp nơi trải đầy lớp lá khô vàng, gãy vụn dưới gót chân bọn Chính Lan. Một ý niệm thoáng lóe lên, chàng liền thúc giục:
    - Mọi người nhanh chân lên.
    Chàng cũng tăng tốc lực, trường kiếm vun vút mở lối. Nhờ vậy, khi họ rời khỏi bìa rừng phía đông, vượt qua khoảng cỏ rộng, thì quân của Bạch Liên giáo mới kéo đến. Chúng dàn hàng ngang, chờ đợi. Chỉ riêng hướng này đã có hơn trăm tên, chứng tỏ quân số Bạch Liên giáo bao vây khu rừng kia rất đông đảo. Bọn Chính Lan dừng lại, nấp sau bụi rậm rạp nghỉ ngơi và quan sát.
    Lát sau, họ nghe tiếng còi sắt vang lên, và bọn giáo đồ Bạch Liên giáo nhất tề châm lửa. Ở đây tuy ngược gió nhưng lửa vẫn lan đi theo thảm cỏ khô. Chỉ có hướng tây là sức lửa mãnh liệt nhất, nhờ ngọn thu phong.
    Tiểu Linh Thố tròn mắt nhìn cánh rừng đấy khói lửa, xiết chặt tay phu tướng. Tứ hộ pháp Bạch Tuân thở phào:
    - Âu Dương hiền điệt quả là người cơ trí, hai lần thoát chết cháy trong gang tấc.
    Chính Lan điềm đạm bảo:
    - Chúng ta đi thôi.
    ° ° °
    Chiều hôm sau, bọn Hỏa chân nhân đến nơi thì quân Bạch Liên giáo đã rút hết, và cánh rừng dưới chân đèo Đan sơn cũng chỉ còn trơ những thân cây đen nám, ẩn hiện trong làn khói mịt mù. Liễu Thi Mạn biến sắc hỏi:
    - Lão gia, chẳng lẽ Bạch Liên giáo đã dùng hỏa công để thiêu chết tướng công rồi?
    Tây Môn Nhỉ vội trấn an:
    - Khoan vội kết luận, chờ ta hỏi thăm thử xem sao?
    Lúc này, ở vệ đường có một đám lương dân đang tụ tập, nhìn cánh rừng mà rầu rĩ. Họ là những tiều phu, thường vào đây chặt củi, đổi gạo, nay rừng cháy rụi, biết lấy gì làm sinh kế?
    Hỏa chân nhân xuống ngựa, bước đến hỏi họ:
    - Chư vị có biết vì sao cánh rừng lại bốc cháy hay không?
    Một lão già vạm vỡ buồn rầu đáp:
    - Đêm qua, khu vực này bỗng xuất hiện mấy trăm kỵ mã, vó ngựa khua vang, khiến tiểu đệ không ngủ được, chạy ra xem thử. Nhờ vậy mới thấy họ vây kín khu rừng này và phun lửa đốt.
    Tây Môn lão gia chết điếng người, quên cả cảm ơn, quay lại với đoàn nhân mã. Họ gồm có tám người, cải trang thành một đoàn Sơn Đông mãi võ, mang theo một xe chiêng trống, đạo cụ. Nghe Hỏa chân nhân thuật lại, Thi Mạn bật khóc nức nở, những người kia thì cúi mặt. Nhưng Hồng Nhị Điểm đại hiệp Âu Dương Tiểu Ngưu lại thản nhiên nói oang oang:
    - Ngũ đại tẩu quả là mau nước mắt. Đại ca rơi xuống vực thẳm còn không chết, lẽ nào lại bỏ mạng vì lửa đỏ? Gia sư từng kể rằng tấm áo khoác của Báo Ứng Lang Quân không hề sợ lửa, mở rộng ra che kín được hai ba người. Họ mà thoát ra thì ai mà cản nổi.
    Hỏa chân nhân mừng rỡ khen:
    - Không ngờ một gã ngốc như ngươi mà cũng có lúc sáng suốt. Chúng ta thử đến phía đông khu rừng xem thử có dấu vết gì không?
    Thực ra, vì chân nhân quá lo lắng cho Chính Lan nên quên khuấy mất tấm áo choàng bằng tơ Hắc Tằm. Bảo vật này không chống nổi đao kiếm nhưng kỵ lửa thì tuyệt vời.
    Cuối cùng, họ phát hiện sau một bụi rậm cách khu rừng hai chục trượng, có dấu chân của năm người. Cả bọn hân hoan, bỏ cả xe song mã lại, đuổi theo dấu vết bọn Chính Lan.
    Trong lúc ấy, phu thê Chính Lan và ba lão già họ Bạch đã có mặt tại một khách điếm cạnh hồ Cao Bảo. Cũng may, trong trận hỏa thiêu miếu lâm thần, Tố Bình kịp khoác tay nải vào vai nên tiền bạc, y phục của nàng và dụng cụ hóa trang vẫn đấy đủ.
    Hồ Cao Bảo thông với Hồng Trạch hồ bằng Đại Vận hà. Từ đây, bọn Chính Lan có thể đón thuyền xuôi nam một cách an toàn. Nhưng Chính Lan quyết tâm cứu cho được bằng hữu, nên tiếp tục đi lên phía bắc. Chàng nghiêm giọng bảo Tố Bình:
    - Ta vì nghĩa bằng hữu nên không thể bỏ mặc Thiết Xuyên được. Nương tử và tam vị sư thúc cứ trở về Vu Hồ trước đi.
    Tố Bình nhất quyết đòi theo:
    - Thiếp thà chết chung với tướng công chứ chẳng thể yên tâm về nhà chờ đợi được.
    Chính Lan cảm động bảo:
    - Thôi được, nhưng nàng phải ở yên trên thuyền, không được theo vào hổ huyệt.
    Tố Bình đồng ý, cùng trượng phu bàn bạc kế hoạch hành động. Năm người rời khách điếm, ra bến đò đón khách đi Hồng Trạch hồ, sáng hôm sau đã đến nơi. Bờ đông của hồ có một khu chợ rất sầm uất. Ngoài tôm cá còn có những mặt hàng của người tây dương từ bờ biển đưa vào. Do đó, nơi này cực kỳ phồn vinh, tấp nập, quán xá, lâu điếm nhiều vô số kể. Bạch Liên giáo cũng có tai mắt ở đây, nhưng chẳng thể nào giám sát được hết khách vãng lai.
    Bọn Chính Lan chia làm hai nhòm, lần lượt vào khách điếm mướn phòng. Chính Lan tìm đến xóm chài, hỏi mua một chiếc thuyền câu. Đếm ấy, năm người lên thuyền, chèo về hướng tây. Mặt hồ giờ đây lung linh hàng trăm ngọn đèn của đám dân chài, nên chẳng ai nghi ngờ gì cả.Trọng địa của bọn thủy tặc Hồng Trạch hồ, cũng là sào huyệt của Bạch Liên giáo, nằm ở phía tây nam của hồ. Những kiến trúc chính đều nằm cả trên bờ, còn dưới nước là bến đậu thuyền bè. Bến này được vây quanh bởi một hàng rào gồm những thân cây dài, cắm thẳng xuống đáy hồ, ló khỏi mặt nước hơn trượng.
    Và trên đầu vòng rào ấy, cứ cách ba trượng là một chòi canh bằng gỗ. Khoảng cách giữa các thân cây hẹp đến nỗi đầu người không qua lọt. Lại có một đoàn thuyền thân dài, qua lại tuần tra, đuổi những thuyền câu nào vô tình lạc vào phạm vi năm chục trượng.
    Đêm đến, hàng trăm ngọn đuốc dầu mỏ được thắp lên, soi sáng cả một vùng nước quanh thủy trại. Với cách phòng thủ nghiêm mật ấy, khó có ai vào được bằng đường thủy. Thuyền của bọn Chính Lan lảng vảng ở khoảng cách cho phép, quan sát tình hình thủy trại. Ba lão hộ pháp Hỏa giáo phải nấp trong mui thuyền, chẳng dám ló mặt ra. Thường thì mỗi thuyền câu chỉ có tối đa là hai người.
    Chính Lan dặn dò Tố Bình cùng ba người kia rồi trườn xuống nước. Chàng có ống sậy trong người nhưng không sử dụng, mà lặn một hơi đến tận chân hàng rào. Khả năng kỳ diệu này là kết quả của mười mấy năm trời rèn luyện Qui Tức Bảo Tâm đại pháp. Trừ chàng ra, khó có người thứ hai làm được như vậy.
    Đến nơi, Chính Lan nhẹ nhàng trồi lên, đổi hơi hụp xuống ngay. Chàng rút tiểu kiếm cắt một đoạn thân cây, tạo thành lỗ hổng vừa một người chui qua. Chàng cẩn thận lặn xuống tận đáy hồ, cắm khúc gỗ vừa cắt ra, vì sợ nó nổi lên gây sự nghi ngờ.
    Sau đó, Chính Lan luồn qua hàng rào, và trồi lên giữa những chiếc thuyền đậu bên trong. Chàng len lỏi bơi về phía bờ hồ. Hơn khắc sau đã có mặt trong vườn hoa phía tả tòa đại sảnh. Chính Lan chui vào giữa những bụi cây rậm rạp, ngồi vận công cho cơ thể nóng lên. Chờ y phục bớt ẩm ướt, chàng lướt nhanh vào trong. Khu vực này được vây quanh bằng bức tường dày, cao hơn trượng, trên đỉnh có sàn gỗ để bọn võ sĩ đi lại tuần tra. Còn phía ngoài tường là một hào nước rộng bốn trượng, dưới thả hàng trăm con cá sấu Trường giang. Đấy là lý do vì sao Chính Lan phải vào bằng đường bến thuyền.
    Chàng thận trọng nương theo từng bụi cây, từng góc nhà, luồn lách khắp nơi, cố tìm cho ra chỗ giam giữ Thiết Xuyên. Cuối cùng, chàng nhìn thấy một tòa nhà kiên cố, cửa bằng gỗ dày đai sắt, có hai giáo đồ áo xanh đứng gác.
    Dưới ánh đuốc chập chờn, chúng nghiêm trang, bất động như hai pho tượng. Đây là công trình bền chắc nhất trong thủy trại, có thể là nhà lao. Chính Lan đoán vậy nên bò đến nấp sau hàng rào. Vị trí này chỉ cách hai hán tử áo xanh chừng trượng rưỡi. Không thấy toán tuần tra nào cả Chính Lan vững bụng xuất thủ. Chàng rút tiểu kiếm, vận toàn lực bay về phía cửa nhà lao, trong chớp mắt đã chặt phăng thủ cấp của một tên và xạ đạo Huyết Tuyến Điểm Hồng xuyên thủng tim tên thứ hai.Chàng đỡ cho hai tử thi nằm xuống một cách êm ái, rồi lục túi chúng tìm chìa khoá. May thay nó nằm ở thắt lưng của một trong hai gã. Chính Lan mở khoá, lách vào. Không gian tối đen như mực, chàng phải bật hỏa tập soi đường.
    Chung quanh vách là những ổ rơm dày và có người nằm phục trên ấy. Riêng Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên thì bị trói đứng vào một chiếc cột gần vách cuối của tòa thạch lao. Chàng mừng rỡ lướt đến định cắt đứt dây trói, đưa họ Hách ra ngoài.
    Chàng thò tay vào mũi Thiết Xuyên, kinh hãi nhận ra gã đã tuyệt khí. Trong cơn đau đớn, phẫn nộ, tai chàng bỗng nghe tiếng hỏa tập bật lách cách. Âm thanh này Chính Lan đã được nghe khi bọn Bạch Liên giáo dùng hỏa đồng thiêu hủy miếu lâm thần ở chân đèo Đan sơn. Sau mấy lần suýt chết, bản năng sinh tồn của Chính Lan càng thêm mạnh mẽ, chàng phản ứng rất thần tốc, dù lòng chưa kịp nghĩ đến.
    Thân hình Chính Lan bốc thẳng lên không trung như chiếc pháo thăng thiên. Kịp thời thoát khỏi lưới lửa của mười cây hỏa đồng. Thì ra bọn tù nhân nằm quanh đấy lại là người của Bạch Liên giáo giả mạo.
    Thân hình Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên bốc cháy ngùn ngụt. Nhưng gã đã chết từ lâu nên không còn cảm thấy đau đớn nữa.
    Chính Lan bay lên đến nóc thạch lao, vung chưởng đánh thủng mái ngói, lao thẳng ra ngoài. Nếu không có công lực thâm hậu và khinh công quán thế, chàng đã bỏ mạng bởi mười cây hỏa đồng lợi hại kia. Khi đột nhập thủy trại bằng đường thuỷ, chàng đã phải bỏ lại áo choàng Tỵ Hỏa Bảo Y trên thuyền.
    Lúc này, toàn thủy trại sáng rực đèn đuốc, tiếng reo hò như ong vỡ tổ, mấy trăm giáo đồ Bạch Liên giáo đã vây chặt thạch lao, giương cung chờ đợi.
    Trước khi phe đối phương nhận ra chàng trên nóc nhà, Chính Lan đã vận toàn lực nhảy xuống đầu bọn cung thủ ở mặt trước thạch lao. Chiêu Thủy Thượng Hoa Phi gồm ba mươi sáu thức chưởng mãnh liệt, giết liền tám tên giáo đồ Bạch Liên.
    Chính Lan hạ thân, lao vào hàng ngũ cung thủ mà tàn sát. Lúc này cung tên đã trở thành vô dụng, chúng rút đao chống cự. Chính Lan nghiến răng đem bảy mươi hai chiêu cận chiến trong pho Cuồng Lãng thần chưởng mở đường máu, chạy về phía cửa trước thủy trại. Chỉ cần lao được xuống nước là chàng sẽ thoát nạn.
    Thân hình chàng lướt đi như cơn bão, quyền cước liên tục tung ra những đòn mãnh liệt và chuẩn xác. Đám giáo đồ Bạch Liên liều chết cản đường, bị đánh văng lông lốc, rên la thảm thiết. Chính Lan vừa ra đến phía sau tòa đại sảnh bằng gỗ thì chạm trán cường địch. Đó là bảy lão tống hôn sứ giả Đào Hoa cung. Họ bày kiếm trận, để chặn đường Báo Ứng Lang Quân. Bảy lão lùn kia chưa gặp chàng lần nào, nhưng chàng thì đã gặp mười bốn vị sứ giả khác, nên chẳng lạ gì kiếm trận. Đấy là lợi thế của chàng. Chính Lan bốc thẳng lên không giáng liền bốn chưởng vào trận thế.
    Chàng không tấn công đối phương mà lại đánh vào những phương vị họ sắp di chuyển đến. Cổ nhân có câu “tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng,” áp dụng vào trường hợp này càng chí lý. Bốn lão sứ giả nhỏ bé kia trúng đòn ngã gục.
    Ba lão còn lại căm hận xông vào, tiểu kiếm trên tay họ loang loáng dưới ánh đuốc, chứa đầy sát khí. Tuy hung hăng như vậy nhưng trông họ như những đứa trẻ đang giận dữ. Thế mà trong ba mươi năm qua, những con người nhỏ bé này đã giết hàng trăm người để bắt mỹ nhân về cho cung chủ. Vì vậy, Chính Lan chẳng thể nương tay được. Chàng xuất chiêu Đông Hải Phù Lâu, chưởng ảnh mờ mờ, chưởng kình cuồn cuộn như sóng biển ập vào cơ thể lão lùn trước mặt. Lão ta vẫn kiên cường lao đến, như không biết sợ chết là gì.
    Hai lão kia chia nhau tấn công tả hữu, gài thế đồng qui ư tận. Tuy nhiên, gặp phải đối thủ có khinh công quá cao cường, đấu pháp ấy hoàn toàn phá sản. Thân hình Chính Lan bốc lên thêm vài thước, tránh thoát đòn hợp công, và tiếp tục lao đến phía trước. Ba đạo chưởng phong cuối cùng của chiêu Đông Hải Phù Lâu đã giáng vào cơ thể lão sứ giả trước mặt, đẩy văng xa hai trượng.
    Chính Lan không quay lại mà tiến thẳng lên, tìm đường thoát thân. Nhưng số đối phương quá đông, chàng không thể cầm cự mãi được. Lại thêm có bốn tên giáo đồ Bạch Liên bỏ mạng, và trên cao có tiếng quát:
    - Báo Ứng Lang Quân, ngươi còn mong đào tẩu nữa không?
    Chàng ngước lên, thấy Miêu Ưng Lão Tổ, cùng hai lão già đầu hói, đứng trên lan can lầu. Lão ta bị chàng đánh trọng thương, chắc chưa thể tái chiến được. Nhưng hai lão kia là ai mà cũng mặc áo vàng, thắt lưng bạc như phó giáo chủ.
    Chính Lan chẳng còn thời gian suy nghĩ thêm, tiếp tục mở đường máu. Chàng còn cách bến thuyền đến hơn hai mươi trượng nữa.
    Chợt vòng vây phía trước dãn ra, nhường đường cho hai gã khổng lồ. Chúng cao lớn chẳng kém gì Âu Dương Tiểu Ngưu, tay cầm ngũ mang chùy nặng năm mươi cân, trông rất uy mãnh. Gai chùy lại lóng lánh sắc xanh của chất độc. Tóc chúng không búi mà như bết lại quanh đầu.
    Chính Lan xuất thủ ngay để chiếm tiên cơ. Chiêu Lãng Đả Quần Thạch giáng vào ngực hai đối thủ, nhưng chỉ đẩy chúng lùi vài bước chứ không đả thương được. Chàng kinh hãi đoán rằng dưới bộ y phục bằng vải kia là một lớp giáp kiên cố. Hai quái nhân gầm gừ, vung chùy lao đến, bộ pháp nhanh nhẹn và chiêu thức cũng cực kỳ hiểm độc.
    Chính Lan vội thi triển pho Ngự Phong Thân Pháp, liên tục bốc cao, giáng chưởng vào đầu bọn chúng. Nhưng dường như hai chiếc thủ cấp kia có phủ một lớp gì đó bên ngoài mái tóc, nên chưởng kình không đánh vỡ đầu chúng được.Chính Lan biết rằng không còn có thể giấu diếm lai lịch được nữa, xuất chiêu Vân Vụ Mãn Thiên. Chưởng ảnh trùng trùng ẩn hiện, tạo thành đám mây mù vây chặt cả hai gã quái dị kia. Chúng chẳng hề sợ hãi, vẫn múa chùy xông đến. Hai đạo chưởng kình không mạnh lắm vỗ vào ngực, chỉ đủ làm cho chúng khựng lại. Nhưng từ trong đám mây chưởng ảnh lại có hai ánh hồng bay ra như tia chớp xạ thẳng vào mắt chúng.
    Mắt là nhược điểm muôn đời của người học võ, dẫu có luyện thành Kim Cương Bất Hoại cũng vậy thôi. Hai quái nhân ôm mặt rú lên thảm thiết, ngã ngửa ra mặt đất, lăn lộn, co giật một hồi mới chịu chết.
    Miêu Ưng Lão Tổ kinh hoàng thét lên:
    - Té ra ngươi là Hồng Nhất Điểm.
    Chính Lan chẳng còn úy kỵ gì nữa, bật cười vang dội:
    - Đúng vậy, chính là ta đây.
    Hai lão hói đầu đứng cạnh Lão Tổ liền hú lên cao vút, và tám gã quái nhân nữa chạy đến. Chính Lan thở dài, biết đêm nay lành ít dữ nhiều. Công lực chàng đã hao tổn trầm trọng, khó mà tiếp tục chấp nhận cách xa luân chiến này nữa. Chàng suy nghĩ rất nhanh, không xông đến bọn quái nhân mà lao về phía hữu, vung chưởng đánh thủng vách gỗ tòa mộc lâu, chui luôn vào đấy.
    Chính Lan chụp chiếc đèn tọa đăng ném mạnh vào những bức màn trướng bằng tre, rồi đánh thủng vách đối diện thoát ra ngay. Lực lượng Bạch Liên giáo đã dồn cả về phía bên kia Mộc Lâu nên bên này rất ít người. Dĩ nhiên chúng chẳng thể nào cản nổi bước tiến của đại sát tinh Hồng Nhất Điểm. Chính Lan không ham chém giết mà chạy khắp thủy trại, châm lửa đốt những căn nhà bằng gỗ.
    Năm nay tiết trời khô hạn, đã vào thu mà chỉ lác đác vài trận mưa. Vì vậy, ngọn lửa bùng lên rất nhanh. Gần khắc sau, thủy trại biến thành một đám cháy khổng lồ.
    Lúc này, trên mặt nước Hồng Trạch hồ lại phát sinh quái sự. Một chiếc bè chuối phủ đầy lục bình lờ lững trôi về phía hàng rào gỗ. Bọn phòng vệ đang quay cả về phía trong quan sát đám cháy nên không để ý đến. Chiếc bè vừa chạm chân rào thì phát nổ. Do chủ ý của người bố trí hỏa dược, toàn bộ sức công phá đều hướng vào phía trong, đánh sập hàng rào phá hủy hàng thuyền đậu bên ngoài.
    Không chỉ có tiếng nổ kinh thiên động địa hay sức công phá mãnh liệt, mà còn kèm theo muôn ngàn tia lửa của pháo hoa, bao trùm một nửa bến thuyền. Tất nhiên những chiếc thuyền bốc cháy ngùn ngụt.
    Và từ bóng đêm ngoài kia, ba chiếc thuyền con lao đến như tên bắn. Mười ba cao thủ nhảy lên những chiếc thuyền chưa kịp cháy, tiến vào trong. Trên đường đi, họ phóng tay chém giết, khí thế như chẻ tre. Đáng sợ nhất là tám đạo chưởng kình đỏ rực như lửa của bốn lão già râu đen. Sau đó đến cây thiết côn của gã khổng lồ.
    Trước cảnh khói lửa ngập tràn thế này, bọn giáo đồ Bạch Liên giáo chẳng còn chút dũng khí nào cả, đua nhau nhảy xuống nước đào tẩu.
    Những người mới đến chính là bọn Hỏa chân nhân. Nhờ tài truy tung của Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều. Họ đã bám theo đúng dấu vết của Chính Lan. Họ Trịnh còn tìm ra cả nơi chàng mua thuyền câu, nhờ vậy mới biết Chính Lan đột nhập thủy trại bằng đường mặt nước. Bọn Hỏa chân nhân lập tức mướn hai chiếc thuyền, chèo đến sào huyệt đối phương. Lúc ấy, Tây Môn Tố Bình đang đứng trên mũi thuyền nhìn những ánh đuốc rực rỡ trong thủy trại mà bồi hồi lo lắng. Gặp được viện binh, nàng mừng như sống lại, hối thúc Tây Môn Nhỉ tìm cách cứu Chính Lan.
    Sự tình là như thế, giờ đây chúng ta hãy trở lại với cuộc chiến.
    Âu Dương Tiểu Ngưu vừa đặt chân lên bờ đã gọi vang:
    - Đại ca, có Tiểu Ngưu đến tiếp viện đây.
    Thi Mạn, Tố Bình cũng hét đến lạc giọng:
    - Tướng công, tướng công.
    Miêu Ưng Lão Tổ đã điều tám quái nhân ra đối phó với những kẻ địch mới đến. Còn hai lão già đầu hói chỉ huy cuộc truy sát Chính Lan. Họ biết rằng chàng sắp kiệt lực và đã trúng một mũi trường tiễn.
    Miêu Ưng Lão Tổ căm thù Chính Lan đến tận xương, nên để mặc sào huyệt cháy rụi, đốc thúc thủ hạ bám theo chàng.
    Đã mấy lần Chính Lan định vượt tường đào thoát, đều bị trận mưa tên cản lại. Chân khí suy giảm, chưởng kình không đủ sức đánh bạt trường tiễn, nên chàng thọ thương.
    Lâm nguy bất loạn, Chính Lan lao thẳng về phía tây nam, nơi mà vẫn còn những công trình chưa bị đốt.
    Lúc hai lão hói và hơn trăm quân chạy đến, ra sức lùng khắp nơi. Miêu Ưng Lão Tổ xuất hiện, quát vang:
    - Đằng nào chúng ta cũng bỏ căn cứ này, hãy phun lửa đốt sạch khu vực, tất nhiên Hồng Nhất Điểm phải lòi ra.
    Năm mươi cây hỏa đồng lập tức biến bảy tòa biệt viện thành đuốc lửa. Lúc này Chính Lan đang tĩnh dưỡng trên mái ngói tòa nhà cao nhất.
    Chàng tranh thủ những giây phút hiếm hoi để uống linh đan và chăm sóc vết thương. Chính Lan sợ mất máu nên không dám rút mũi tên ở bắp tay trái ra, mà dùng tiểu kiếm chặt cụt đi. Nhưng đối với ba vết đao sau lưng, chàng chẳng thể với tới được.
    Chờ lửa bốc lên đến mái, Chính Lan mới tung mình xuống đất, tiến về phía đối phương. Miêu Ưng Lão Tổ mừng rỡ nói:
    - Hay lắm, đúng là cháy nhà ra mặt chuột, ngươi tận số rồi.
    Chính Lan không để ý đến câu nói ấy mà bình thản hỏi:
    - Hai lão hói đầu kia là ai vậy?
    Lão tổ cười hăng hắc:
    - Họ là Trung Ly song thần ở Hồ Bắc, ngươi không nhận ra sao?
    Chính Lan khẽ chấn động:
    - Té ra Ngô thị huynh đệ. Tại hạ nghe danh đã lâu, muốn thử vài chiêu có được chăng?
    Nhất thần Ngô Hiển lạnh lùng đáp:
    - Ngươi định kéo dài thời gian để chờ bọn Hỏa chân nhân vào cứu ngươi đấy ư? Làm sao họ vượt qua nổi đám Thạch Thể Thiết Chùy quái nhân của chúng ta?
    Nhưng từ ngoài đã vọng vào ba tiếng nổ kinh hồn. Miêu Ưng Lão Tổ biến sắc bảo:
    - Nhị vị còn chần chờ chi nữa mà không thanh toán Hồng Nhất Điểm cho xong đi? Với Đảo Thiên thần đạn thì chẳng ai cản nổi bước chân của Tây Môn lão quỉ đâu.
    Chính Lan thầm thắc mắc không hiểu nhạc phụ mình lấy đâu ra hỏa khí. Khi chàng rời Vu Hồ thì lão cũng chưa bắt tay vào việc chế tạo.
    Trung Ly song thần lo lắng cho đám quái nhân, bèn trút hận lên đầu Chính Lan. Hai lão vung cây thiết tiêu đen tuyền xông vào tấn công chàng. Bản lĩnh của họ không thua kém gì Miêu Ưng Lão Tổ nên khí thế cực kỳ mãnh liệt.
    Chính Lan đã thọ thương nơi tay tả nên chẳng thể thi triển chưởng pháp, bèn dùng pho Thái Chân kiếm pháp mà đối phó. Tay trái chàng buông thõng chứ không bắt kiếm ấn, và máu từ vết thương nhuộm đỏ vai áo. Hiện tượng này khiến song thần hoan hỉ, vì chẳng còn sợ chàng sử dùng tuyệt kỹ Nhất Điểm Hồng.
    Sáo dài, kiếm ngắn nên hai luồng sáo quang như phủ kín Chính Lan. Mảnh thép mỏng, nhọn và sắc cả hai bề, luôn hăm he đâm thủng ngực đối phương. Nhưng kiếm pháp vốn là sở trường của Chính Lan. Chàng ung dung dệt màn kiếm quang quanh thân, chống đỡ những đòn hiểm ác của song thần. Thiết tiêu chạm vào kiếm, ngân nga không dứt.
    Đã gần trăm chiêu mà vẫn chưa hạ được chàng. Trung Ly nhất thần giận dữ rú lên như quỉ dữ. Đó cũng là ám hiệu để nhị thần cùng phối hợp đánh chiêu Song Long Thôn Ngọc. Hai cây trường tiêu hóa thành hai con rồng đen, vươn móng vuốt chụp vào cơ thể Chính Lan, cả trước lẫn sau.
    Chân khí kiệt quệ, chẳng thể dùng khinh công tránh né, Chính Lan đành thi triển chiêu Tàn Phong Quyển Vũ. Thân hình chàng xoay tít như cơn gió xoáy, kiếm phong cuồn cuộn đánh bạt những mũi tiêu chết chóc. Nhưng lực bất tòng tâm, Chính Lan không đủ công lực để giữ cho mà kiếm ảnh liền lạc, kín đáo như mong muốn, trúng liền hai đòn vào lưng và ngực.
    Vết thương ở phía sau rạch từ vai hữu xuống hông tả. Còn vết thương phía trước vắt ngay lồng ngực. Tuy chỉ cắt đứt da thịt nhưng máu tuôn xối xả. Song thần đắc ý nhìn thân thể rách nát, đẫm máu của đối phương mà bật cười ngạo nghễ.
    Hai lão ác ma đả thương Chính Lan xong đã gian hoạt lùi lại ngay, và vẫn giữ vị trí tả hữu chứ không đứng chung. Họ cứ ngỡ Hồng Nhất Điểm đã trở thành cá nằm trên thớt, chờ hóa kiếp. Nào ngờ, Chính Lan lướt thẳng về phía nhất thần, xuất chiêu Mãn Không Tinh Hà, tạo ra làn mây hàn tinh lấp lánh.
    Tất nhiên cước bộ chàng chậm chạp nên nhị thần đã ập đến sau lưng, trước khi chàng tiếp cận nhất thần Ngô Hiển. Ngô Hồng Châu mừng rỡ xuất chiêu Cửu Tiêu Đoạt Phách. Nhằm vào chín huyệt đạo từ gáy đến thắt lưng Chính Lan.
    Tuy nhiên, khi mũi tiêu còn cách thân sau đối phương vài gang, lão bỗng nghe bụng dưới đau đớn khủng khiếp và chân khí tan biến cả. Nhị thần gào lên ghê rợn, ôm bụng quị xuống.
    Thì ra Chính Lan đã dùng kế thanh đông kích tây, giả đò tấn công nhất thần nhưng lại nhắm vào nhị thần. Ưu thế của chàng là cánh tay tả dù thọ thương nhưng vẫn còn khả năng thi triển tuyệt kỹ Huyết Tuyến Điểm Hồng. Chàng chỉ cần chĩa ngón tay út về phía sau, chờ cơ hội xuất thủ. Bàn tay, cánh tay chàng hoàn toàn bất động, đối phương chẳng thể biết mà đề phòng.
    Bí mật của tuyệt kỹ này luôn được giữ kín, nên nhị thần mới trúng kế.
    Nhắc lại, nhất thần thấy bào đệ sắp đâm thủng lưng Chính Lan, phấn khởi múa hắc tiêu chống đỡ chiêu kiếm. Thấy kiếm ảnh mịt mù, hàn tinh giăng mắc, lão thầm e ngại nên thủ nhiều hơn công. Chỉ cần chặn đứng được chàng là nhị thần Ngô Hồng Châu sẽ thành công.
    Nào ngờ em lão lại lăn ra chết đột ngột. Tiếng thét đau đớn của nhị thần khiến lão rúng động, đường tiêu chậm lại, và lộ ra sơ hở. Chính Lan là bậc thầy trong kiếm đạo, lập tức thọc kiếm vào đấy. Mũi kiếm của chàng đâm thủng sườn trái đối phương. Nhưng Ngô lão quỉ đã kịp vung tả thủ vỗ một chưởng vào ngay ngực Chính Lan, đẩy chàng văng xa gần trượng.Trúng đòn này Chính Lan hộc ra một vòi máu nóng, tay chân bải hoải.
    Chẳng còn chút khí lực nào. Bằng ý chí của người hiệp sĩ, chàng cố gượng đứng lên.
    Nhất thần tuy thọ thương nhưng công lực vẫn còn sung mãn. Lão lướt đến xem qua thi thể của nhị thần, thấy bào đệ đã tuyệt khí, đau đớn gầm lên:
    - Hồng Nhất Điểm, lão phu sẽ bằm xác ngươi ra để trả thù cho nhị đệ.
    Nhưng lão chưa kịp xuất thủ thì hai vật tròn tròn, lớn bằng trái bưởi đã rơi vào hàng ngũ bọn giáo đồ Bạch Liên, ở vòng ngoài đấu trường, và phát nổ vang trời. Dù chỉ giết được có vài tên nhưng cũng đủ dọa cho chúng chạy vắt giò lên cổ.
    Đồng thời, có mười mấy bóng người lướt đến như tên bắn. Nhất thần thấy Miêu Ưng Lão Tổ cũng đã đào tẩu, hậm hực bỏ ý định sẽ giết Chính Lan, sợ chậm chân sẽ không thoát chết. Hơn nữa, lão cho rằng với vết chưởng thương kia, Hồng Nhất Điểm cũng khó sống. Nhất thần chụp lấy xác nhị thần phi thân mất dạng.
    Bọn Hỏa chân nhân đến nơi thì Chính Lan đã quị ngã. Thi Mạn, Tố Bình ôm chàng than khóc, bị Hỏa chân nhân gạt ra:
    - Mau tránh chỗ cho ta xem thử.
    Ông nhét vào miệng chàng một nắm linh đan, và quát mọi người đi lấy nước. Lát sau, Âu Dương Tiểu Ngưu vác cả một lu sành về đến. Chân Nhân dở khóc dở cười:
    - Ngươi định tắm cho Chính Lan hay sao vậy?
    Tiểu Ngưu ngượng ngùng phân bua:
    - Không vác cả lu thì lấy gì mà đựng?
    Chân nhân lấy tiểu kiếm trong tay Chính Lan rạch nát y phục chàng ra.
    Mọi người ứa lệ nhìn thấy những vết thương chằng chịt.

     
  2. vothanhbinh

    vothanhbinh Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    30/3/14
    Bài viết:
    165
    Được thích:
    512
    Âu Dương Chính Lan

    Tác Giả:Ưu Đàm Hoa

    -- o --

    Hồi 14

    Mạt lộ anh hùng hồi cố thổ
    Lương sơn hoạ khởi bạch liên vong


    Nguồn:vnthuquan




    Mười hai ngày sau, Chính Lan đã được đưa về Vu Hồ, và đến giữa tháng tám thì thương tích trên người đã kéo da non. Nhưng than ôi, chân khí của chàng không sao vượt qua nổi huyệt Đản Trung ở Mạch Nhâm. Hơn sáu mươi năm công lực đã trở thành vô dụng. Phát chưởng của Trung Ly nhất thần đã phong tỏa tâm mạch Chính Lan, biến chàng thành một phế nhân.
    Nếu Chính Lan chưa từng được ăn nhánh thiên niên Hà Thủ Ô thì mạng chàng cũng chẳng còn. Hỏa chân nhân đã tận lực mà không sao chữa trị được cho rể quí. Lão buồn rầu than thở:
    - Không ngờ lão quỉ họ Ngô kia lại luyện được công phu Triệt Mạch Thủ. Bần đạo đành phải bó tay, thật đáng thẹn vô cùng.
    Chính Lan không những mất võ công mà còn yếu ớt hơn thường nhân, vì hơi thở đứt đoạn, lồng ngực đau nhói. Chàng cố giấu niền tuyệt vọng, an ủi chân nhân:
    - Lão gia đã tận lực mà không thành công, ắt do mệnh trời định sẵn, hà tất phải băn khoăn? Tiểu tế cũng chẳng lưu luyến chốn võ lâm. Cần gì đến võ công nữa.
    Ma Nhãn đầu đà vẫn ở Vu Hồ, con cháu đã về đến Mỹ Nhân cốc. Một là, lão hổ thẹn với con dâu về chuyện mười năm trước. Hai là, đầu đà muốn tung hoành cho thỏa chí tang bồng, bù đắp cho mấy chục năm ẩn cư. Ba là, Chính Lan đã cứu mạng cho con lão, lẽ nào lại bỏ mặc chàng trong hoàn cảnh mạt lộ?
    Nhiếp Văn Sở mân mê chuỗi niệm châu, tư lự bảo:
    - Theo lão phu được biết trong thiên hạ chỉ có một người duy nhất giải trừ được Triệt Mạch Thủ, đó là Tàn Diện Ma Thủ Tưởng Thụ Thành. Mười sáu năm trước lão ta đột nhiên biến mất, không hiểu còn sống hay đã chết?
    Chính Lan nói ngay:
    - Năm ấy họ Tưởng phân thây một nữ nhân ở Tứ Xuyên, bị tiên sư chặt đứt tay trái!
    Giang Tô đại hiệp Du Huỳnh thở dài:
    - Thế thì có tìm ra lão ta cũng vô ích. Lan nhi là đồ đệ của Tú Sĩ, lẽ nào họ Tưởng lại chịu ra tay cứu mạng?
    Không ai để ý rằng sắc mặt Âu Dương Tiểu Ngưu thoáng tái xanh.
    Chính Lan không muốn mọi người thương tâm, vui vẻ bảo Tử Quỳnh:
    - Nương tử hãy chuẩn bị một vài món bánh mứt để cả nhà uống trà thưởng trăng.
    Tiết Trung Thu đã qua được hai hôm. Các mỹ nhân vì lo lắng cho bệnh tình của trượng phu nên quên cả lễ tết. Tử Quỳnh bẽn lẽn nói:
    - Bọn thiếp sơ xuất, không mua bánh mứt gì cả, mong tướng công dùng đỡ rượu thịt.
    Hỏa chân nhân cười ha hả:
    - Rượu thịt càng tốt, ta rất sợ ngọt.
    Mọi người ra vườn hoa, ăn uống trò chuyện đến tận cuối canh hai mới tan tiệc. Trại Tây Thi Du Mỹ Kỳ dìu chàng về phòng. Nàng định trở ra thì Chính Lan giữ lại. Chàng háo hức cởi áo mỹ nhân, gầy cuộc truy hoan.
    Hơn tháng nay, Chính Lan không gần gũi thê thiếp nên Mỹ Kỳ hân hoan đáp ứng. Nhưng chỉ mới khởi sự, Chính Lan đã nghe tim đập mạnh, đầu óc choáng váng và khó thở. Chàng nằm phục trên cơ thể nóng bỏng, mời gọi kia mà ứa lệ. Chàng không còn là một hiệp khách và cũng không đủ sức để làm một nam nhân. Mĩ Kỳ cảm nhận được những giọt lệ anh hùng đang rơi trên ngực mình, liền xiết chặt phu tướng, dịu dàng an ủi:
    - Tướng công mới khỏi bệnh nên chẳng thể bằng với lúc bình thường. Chàng chỉ tĩnh dưỡng một thời gian nữa là sẽ như xưa.
    Chính Lan nằm xuống cạnh ái thê, nhắm mắt như muốn ngủ. Thực ra đang dìm mình trong nỗi thống khổ vô bờ.
    Những ngày sau đó, Chính Lan chẳng còn nghĩ đến chuyện ôm ấp ai nữa. Chàng vẫn vui vẻ nói cười nhưng không giấu được ánh mắt thê lương. Ai cũng biết Chính Lan ngày càng gầy đi vì không còn ham sống nữa. Họ cũng cười với chàng nhưng sau lưng ôm mặt khóc ròng.
    Sáng ngày cuối tháng tám, sáu mỹ nhân thức giấc, kéo đến chăm sóc phu tướng, thì thấy chàng không có trong phòng, và trên nệm giường có một mảnh hoa tiên, ghi mấy dòng chữ vụng về, thô kệch.
    “Gia sư chính là Tàn Diện Ma Thủ. Tiểu đệ không nỡ nhìn đại ca chết dần mòn nên liều mạng đưa đến gặp gia sư. Nếu người chịu khai ân thì nửa năm sau đại ca sẽ lành lặn trở về. Bằng không, tiểu đệ cũng sẽ cõng quan tài đại ca về Vu Hồ. Chư vị đừng tìm kiếm uổng công. Gia sư không muốn ai biết địa điểm người ẩn cư. Chư vị theo đến chỉ hại cho đại ca mà thôi.
    Tiểu Ngưu bái bút.”
    Sáu nàng òa lên khóc lóc, nhưng Hỏa chân nhân lại mỉm cười:
    - Phải mừng chứ sao lại khóc? Gã ngốc Tiểu Ngưu xem Chính Lan như bào huynh, tất sẽ hết lời van lạy Tàn Diện Ma Thủ cứu mạng. Lão họ Tưởng chỉ có mình Tiểu Ngưu là đồ đệ chân truyền, lẽ nào lại nỡ tuyệt tình.
    Thi Mạn hớn hở bảo:
    - Lão gia nói rất chí lý. Chúng ta chỉ cần cho người đi theo, âm thầm hộ vệ là đủ. Trước đây, Tiểu Ngưu có nói rằng gã học nghệ ở Hoành Đoạn sơn, chắc không sai đâu.
    Giang Tây Thần Bộ nói ngay:
    - Truy tung là nghề của tại hạ, xin chư vị yên tâm.
    ° ° °
    Thì ra, canh ba đêm ấy, Tiểu Ngưu vào phòng Âu Dương Chính Lan, điểm huyệt chàng, đặt tờ hoa tiên lên giường, rồi cõng đại ca rời khỏi Vu Hồ. Gã sinh trưởng bên hồ Côn Minh nên bơi giỏi như cá. Chẳng cần thuyền bè cũng đưa được Chính Lan vượt quãng đường hơn dặm mặt nước.
    Lên đến bờ, Tiểu Ngưu cõng Chính Lan chạy một mạch tới sáng, rời xa Vu Hồ ba chục dặm. Gã dừng chân ở một đoạn bờ sông vắng vẻ, giải huyệt cho đại ca. Chính Lan mở mắt nhìn quanh ngạc nhiên hỏi:
    - Sao ta lại ở đây?
    Tiểu Ngưu đỡ chàng ngồi dậy rồi cười hì hì:
    - Tiểu đệ muốn đưa đại ca về hồ Côn Minh thăm mộ song thân!
    Chính Lan giật mình, nhớ ra rằng mình đã ba năm không về cố quận chăm sóc mộ phần. Chàng mỉm cười gật đầu:
    - Nhị đệ nói phải, ta quả là đứa con bất hiếu. Nhưng sao ngươi không bàn với ta mà lại đi đột ngột thế này?
    Tiểu Ngưu biện bạch:
    - Nếu nói cho ra, chỉ sợ các đại tẩu chẳng cho đi, viện cớ đại ca đang bệnh hoạn. Nhưng tiểu đệ đã viết thư để lại, họ sẽ thông cảm thôi.
    Chính Lan biết mình không sống được bao lâu nữa, cũng muốn thắp cho phụ mẫu nén hương cuối cùng. Chàng gạt bỏ ưu tư, vui vẻ bảo:
    - Mặc kệ họ nghĩ sao cũng được, huynh đệ ta đi thôi.
    Tiểu Ngưu đã kịp vơ vội y phục của Chính Lan nhét vào tay nải ở đầu giường, nên chàng có trường bào thay tấm áo ngủ. Chính Lan thấy có cả tiểu kiếm, tấm đồng bài, và ngân phiếu ngàn lượng vàng đã tịch thu của Chiêu Thống pháp sư liền giắt vào bụng.
    Tiểu Ngưu lại cõng Chính Lan chạy thêm mấy dặm, đến bến thuyền. Hai người đi đường thủy, ngược dòng Trường giang mà về Vân Nam.
    Hai tháng sau, Tiểu Ngưu và Chính Lan mới đến được hồ Côn Minh. Mấy tháng trước Tiểu Ngưu đã ghé qua, nhờ người coi sóc nên mộ phần sạch cỏ, không đến nỗi điêu tàn, sụp đổ.
    Hàng xóm cũ thấy hai nam tử của phu thê Âu Dương Trang Chủ trở về liền kéo đến hỏi han. Họ đi rồi, Chính Lan nhìn nền nhà cũ, bảo Tiểu Ngưu:
    - Ta sẽ cho xây lại gia trang. Khi ta chết, nhị đệ hãy đưa thê tử của ta về đây sinh sống.
    Tiểu Ngưu gượng cười, nói lảng sang chuyện khác:
    - Đại ca có nhớ anh em chúng ta đã nô đùa vui vẻ suốt một thời thơ ấu ở bờ hồ này không?
    Chính Lan gật đầu:
    - Nhớ chứ, ta và ngươi đã bị tiên phụ đánh biết bao nhiêu vì tội ham chơi mà không chịu về dù trời đã tối.
    Hai người cùng ôn lại những kỷ niệm ngọt ngào của tuổi thơ, đến trưa mới về nhà một bằng hữu của Nhu Diện Phán Quan. Đào lão là một vị quan về hưu, không biết võ công, kết giao với Âu Dương Tùng qua thi phú.
    Đào Kính nghe giới thiệu, hoan hỉ chào đón, giữ lại dùng cơm. Chính Lan định đổi ngân phiếu ngàn lượng vàng ở một tiền trang trong thành Côn Minh, đưa cho Đào lão sáu ngàn lượng bạc, nhờ gọi thợ xây dựng lại Âu Dương gia trang. Tất nhiên Đào Kính vui vẻ nhận lời.
    Ăn xong bữa, Tiểu Ngưu nói với Chính Lan:
    - Đại ca, tiểu đệ muốn đưa đại ca đi thăm gia sư. Người cũng ở gần đây thôi.
    Chính Lan sửng sốt:
    - Sao trước đây ngươi bảo rằng sư phụ đã chết ở Hoành Đoạn sơn?
    Tiểu Ngưu cười hề hề:
    - Gia sư đã dọn về ngọn núi Vân sơn ở phía tây thành Côn Minh. Người không muốn ai biết danh hiệu nên dặn tiểu đệ nói như thế.
    Chính Lan nhíu mày:
    - Thế lệnh sư là bậc kỳ nhân nào vậy?
    Tiểu Ngưu lúng túng đáp:
    - Gia sư là… Phật Tâm chân nhân.
    Chính Lan thông thuộc tình hình võ lâm trong vòng trăm năm trở lại đây, vậy mà chưa hề nghe qua danh hiệu này. Chàng tủm tỉm cười, nói đùa:
    - Cửu ngưỡng, cửu ngưỡng, ta phải đến bái kiến mới được.
    Tiểu Ngưu mừng rỡ, cõng Chính Lan đi về hướng tây. Gần canh giờ sau, hai người đã có mặt trước một tòa cổ miếu trên sườn núi Vân sơn.
    Tiểu Ngưu ngoác miệng gọi to:
    - Sư phụ, đồ nhi đã về đây.
    Cánh cửa gỗ mở toang và xuất hiện một đạo sĩ râu tóc bạc trắng, tay áo bên trái phất phơ vì cụt đến bả vai, và dung mạo xấu xa vì bị rạch nát đến hàng chục vết sẹo dọc ngang! Nhưng đôi mắt lộ kia nhìn Tiểu Ngưu với vẻ yêu thương trìu mến. Lão cười ha hả, để lộ hàm răng nhọn hoắt và đáng sợ:
    - A, Ngưu nhi về đấy ư? Ta đang nhớ đến ngươi, không ngờ thật là linh ứng.
    Tiểu Ngưu đặt Chính Lan đứng xuống vui vẻ đáp:
    - Đồ nhi cũng nhớ ân sư nên nhân dịp đưa đại ca về viếng mộ song thân, liền ghé Vân sơn vấn an.
    Chính Lan vòng tay thi lễ:
    - Vãn bối là Âu Dương Chính Lan, bào huynh của Tiểu Ngưu. Hôm nay vãn bối đến đây, trước là bái kiến, sau là bái tạ đạo trưởng đã dạy dỗ gia đệ.
    Lão đạo gật gù:
    - Té ra là nam tử của Nhu Diện Phán Quan Âu Dương Tùng. Bần đạo có nghe Tiểu Ngưu nhắc đến hoài. Xin mời vào trong dùng trà.
    Tòa miếu cũ này có ba gian, ngăn cách bằng hai hàng cột tròn đen bóng. Gian chính giữa là điện thờ Tam Thanh. Gian bên tả cũng có bệ thờ nhưng không rõ thờ vị thần nào. Còn gian bên hữu có chiếc bàn gỗ và vài chiếc ghế.
    Đạo nhân rót trà. Tiểu Ngưu vừa nhấp xong một chén đã nói ngay:
    - Sư phụ, gia huynh bị trúng một đòn Triệt Mạch Thủ, mong người vì đồ nhi mà ra tay chữa trị dùm.
    Lão đạo biến sắc hỏi:
    - Pho độc chưởng kia do ai thi triển.
    Chính Lan từ tốn đáp:
    - Bẩm đạo trưởng, người ấy là Trung Ly nhất thần Ngô Hiển.
    Lão đạo trầm ngâm bảo:
    - Ngươi thử đưa tay cho bần đạo chuẩn mạch xem sao?
    Chính Lan nhấc ghế ngồi lại gần, đặt cả hai tay lên bàn. Đạo nhân kiểm tra kinh mạch một hồi lâu, lạnh lùng hỏi:
    - Ngươi là đệ tử của bậc cao nhân nào mà trong người có đến hơn một hoa giáp công lực?
    Tiểu Ngưu kinh hãi, đáp thay Chính Lan:
    - Gia huynh là truyền nhân của Báo Ứng Lang Quân Trọng Phú Lan.
    Lão đạo quắc mắt nạt:
    - Nói láo! Báo Ứng Lang Quân chuyên luyện Đồng Tử Nhất Nguyên Công, là tâm pháp dương công. Còn trong người tiểu tử này lại là nội công âm nhu của đạo gia.
    Chính Lan điềm đạm bảo Tiểu Ngưu:
    - Nhị đệ, ta đã biết đạo trưởng đây là Tàn Diện Ma Thủ, và không có ý định giấu diếm sư thừa.
    Chàng quay sang nói với lão đạo:
    - Tưởng tiền bối, tại hạ chính là đồ đệ của Hoàng Hạc Tú Sĩ Ngũ Di Nghiệp. Nếu tiền bối chưa quên được mối hận chặt tay năm xưa, cứ việc giết tại hạ mà báo phục.
    Tiểu Ngưu sụp xuống ôm chân sư phụ khóc lóc:
    - Sư phụ ơi! Đồ nhi chịu ơn dưỡng dục, cưu mang của họ Âu Dương, lòng luôn xem Chính Lan là bào huynh. Xin ân sư thương đồ nhi mà bỏ qua hận cũ. Nếu không, đồ nhi sẽ tự sát chết theo đại ca thôi.
    Gã vừa nói vừa khóc ồ ồ như trâu rống. Tàn Diện Ma Thủ yêu thương Tiểu Ngưu như con ruột của mình, hiểu rõ tính ương bướng của gã. Lão thở dài bảo:
    - Ngưu nhi đừng khóc nữa, sư phụ không giết đại ca của ngươi đâu.
    Tiểu Ngưu mừng rỡ, vớ ngay tà áo Quỉ Diện lau nước mũi, đứng lên cười toe toét:
    - Đa tạ ân sư, xin người chữa trị luôn cho đại ca, nếu y chết vì bệnh thì đồ nhi không còn ai là thân thích cả.
    Quỉ Diện gầm lên:
    - Phế ngôn! Ta không giết gã là phúc lắm rồi, ngươi còn dám đòi hỏi ta cứu đồ đệ của kẻ thù nữa sao?
    Tiểu Ngưu thấy sư phụ nổi lôi đình, sắc diện vô cùng hung dữ, bèn bẽn lẽn im bặt. Chính Lan đứng lên, vòng tay nói:
    - Cảm tạ tiền bối đã rộng lượng, tại hạ xin cáo biệt.
    Thân thể chàng quá hư nhược, chỉ đi được vài bước đã loạng choạng chực ngã xuống. Tiểu Ngưu vội chạy đến đỡ, đau đớn bật khóc và lên tiếng trách móc ân sư:
    - Sư phụ thấy chết mà không cứu, sao gọi là người tốt được?
    Tàn Diện Ma Thủ nghe đồ đệ thân yêu nói thế, lòng đau như cắt, run rẩy bảo:
    - Ngưu nhi, con có biết rằng Hoàng Hạc Tú Sĩ đã sai lầm khi chặt tay của ta hay không?
    Chính Lan biến sắc bảo Tiểu Ngưu dìu mình quay lại chỗ ngồi. Chàng nghiêm giọng nói với Tưởng lão:
    - Ẩn tình thế nào xin tiền bối nói rõ, nếu quả đúng là tiên sư hành động hồ đồ, tại hạ sẽ hoàn lại công đạo cho tiền bối.
    Tàn Diện Ma Thủ lắc đầu, mỉm cười chua xót, như muốn nói rằng mọi sự bồi hoàn đều đã quá muộn màng. Lão bồi hồi kể:
    - Bần đạo chính là Đường Vĩnh Lộc bào đệ của Vô Ảnh hội chủ Đường Vĩnh Phục. Hai mươi năm trước, gia huynh đi ngang Âm sơn, tình cờ đả thương nam tử của Thiên Ảo cung chủ Phùng Thiệu Đính, bị lão bắt giam. Phùng cung chủ bèn gửi thư đến tổng đàn Vô Ảnh hội ở ngoại thành Hàm Dương, bắt bổn hội đem ngàn lượng vàng và một bảo vật nữa đến Âm sơn chuộc mạng hội chủ. Bần đạo là em ruột, nên được cử đi. Không ngờ, giữa đường bần đạo lại gặp một nữ nhân rất xinh đẹp, và bị nàng quyến rũ. Chưa đến Âm sơn nàng ta đã hạ độc bần đạo, rồi mang vàng và bảo vật trốn mất. Bần đạo tỉnh lại, hối hận vì tính nhẹ dạ của mình, liền cào nát mặt mũi, đổi tên là Tưởng Thụ Thành, quay lại truy tầm nữ nhân xảo quyệt kia. Manh mối duy nhất là gốc gác Tứ Xuyên của nàng. Sau bốn năm phiêu bạt, bần đạo nổi danh Tàn Diện Ma Thủ và cuối cùng cũng tìm ra ả hồ ly Phan Lợi Lợi kia. Bần đạo bắt ả, đem ra một cánh rừng vắng cạnh bờ sông Mạnh giang tra hỏi. Nhưng hỡi ơi, ả thú nhận đã đánh mất tấm Cửu Thiên đồng bài và tiêu sạch ngàn lượng vàng. Thế là bần đạo không còn hy vọng cứu được bào huynh, liền nổi lôi đình băm xác ả họ Phan. Tình cờ lúc ấy lão quỉ Hoàng Hạc Tú Sĩ đi ngang, chưa hỏi rõ đầu đuôi đã chặt phăng tay trái của bần đạo. Nhờ tung ra một trái Vô Ảnh Yên Cầu, bần đạo mới thoát thân được. Khi trở lại Hàm Dương nhận tội thì Vô Ảnh hội đã tan rã mất rồi. Bần đạo nhớ lại lời khai của ả Phan Lợi Lợi rằng đã đánh rơi đồng bài ở đất Vân Nam, liền cố gượng sống đi về đây tìm kiếm.
    Chính Lan nghe xong câu chuyện thương tâm ấy, quì xuống lạy Tàn Diện Ma Thủ ba lạy rồi nói:
    - Lỗi lầm của tiên sư, tại hạ xin gánh hết. Tiền bối cứ tùy nghi xử trí.
    Chàng lại quay sang bảo Tiểu Ngưu:
    - Nhị đệ, đây là việc riêng của sư môn đại ca, ngươi không được xen vào. Nếu không ta cũng cắn lưỡi tự sát ngay.
    Tiểu Ngưu gật đầu nhưng khóc lóc thảm thiết. Bỗng gã nín bặt, chạy đến níu áo sư phụ và nói:
    - Ân sư, bản lĩnh của Chính Lan đại ca còn cao siêu hơn Hoàng Hạc Tú Sĩ ngày xưa. Hay là ân sư cứ chữa trị cho đại ca lành bệnh, rồi y sẽ cùng đồ nhi đến Âm sơn cứu sư bá về?
    Tàn Diện Ma Thủ nghi hoặc hỏi lại Chính Lan:
    - Có thực là võ công của ngươi lại cao siêu đến mức ấy sao?
    Chính Lan ngượng ngùng:
    - Nếu phối hợp cả tuyệt học của Báo Ứng Lang Quân thì quả thực là tại hạ có hơn tiên sư một bậc.
    Lão đạo suy nghĩ một lúc rồi thở dài:
    - Thực ra thì dẫu có võ công tuyệt thế cũng vô ích. Vì chẳng ai biết vị trí của Thiên Ảo cung. Nếu có Cửu Thiên đồng bài trong tay, đến Âm sơn gặp người của họ, mới được đưa vào.
    Chính Lan đang quì, chống tay đứng lên. Lúc chàng co gối, thấy bụng bị cấn bởi một vật cứng, nhớ đến mảnh đồng bài trong người, hồi hộp hỏi:
    - Bẩm tiền bối, chẳng hay Cửu Thiên đồng bài có hình dáng thế nào?
    Tàn Diện Ma Thủ buồn bã đáp:
    - Đó là di vật của Cửu Thiên Đế Quân, đệ nhất kỳ nhân thời nhà Nguyên. Mặt trước có bốn chữ Cửu Thiên lệnh bài, bằng giáp cốt văn tự, mặt sau có hoa văn rắc rối, nhưng được cho là họa đồ dẫn đến Cửu Thiên đế cung.
    Chính Lan mừng rỡ móc đồng bài ra đặt xuống trước mặt lão nhân:
    - Xin tiền bối xem thử có phải vật này không?
    ° ° °
    Năm ngày sau, Chính Lan hoàn toàn hồi phục. Tàn Diện Ma Thủ đã dùng tuyệt kỹ châm cứu có một không hai của mình đả thông Nhâm Mạch cho chàng. Tấm ngân phiếu ngàn lượng vàng vẫn còn trong túi Chính Lan. Điều kiện đã đủ, ba người phấn khởi chuẩn bị đi Âm sơn đón Vô Ảnh hội chủ Đường Vĩnh Phục.
    Giờ đây, Chính Lan đã lấy lại được lòng ham sống, tinh thần trở nên minh mẫn, chàng hỏi Tiểu Ngưu:
    - Nhị đệ, ngươi nói thực cho ta biết đã viết gì trong bức thư để lại?
    Tiểu Ngưu cười hì hì đọc lại nguyên văn. Chính Lan suy nghĩ rồi bảo:
    - Vậy chắc chắn Tây Môn nhạc phụ sẽ dẫn người bám theo. Có thể họ tìm đến Hoành Đoạn sơn nên chưa tới đây. Nhưng với tài truy tung của Giang Tây Thần Bộ, trước sau gì họ cũng tìm ra nơi này. Ta sẽ viết thư để lại cho họ yên tâm.
    Nhưng chàng vừa viết xong thư thì Tàn Diện Ma Thủ đã nói:
    - Bần đạo sẽ không đi Âm sơn mà chờ Hỏa chân nhân đến giải thích cho ông yên tâm trở lại Vu Hồ. Sau đó, lão phu sẽ về Hàm Dương, qui tụ anh em đồng môn, xây dựng lại tổng đàn Vô Ảnh hội. Khi hai người đón được hội chủ, cứ đưa thẳng về đấy.
    Chính Lan vui vẻ tuân mệnh cùng Tiểu Ngưu lên đường. Ma Thủ trao cho chàng bức chân dung của Đường Vĩnh Phục và lộ phí đi đường. Gần giữa tháng chạp, hai anh em mới đến được trấn Sa Hồi, dưới chân rặng Âm sơn.
    Âm sơn là dãy núi dài nằm dọc theo nhánh tả Hoàng hà, trên lãnh thổ nội Mông. Dòng nước vàng đục kia vượt qua khỏi Âm sơn mới rẽ phải, xuyên qua vùng thảo nguyên mênh mông. Vượt quá Bao Đầu hai trăm dặm, Hoàng hà lại rẽ phải xuống phía nam, tạo nên khúc uốn lớn có dạng nửa hình chữ nhật.
    Mùa đông vùng tây bắc cực kỳ giá lạnh, tuyết rơi nhiều và các ao hồ, suối nhỏ đều đóng băng. Chính Lan cùng Tiểu Ngưu co ro trong áo choàng lông, xuống ngựa bước vào tửu quán trong trấn. Tửu khách hầu hết là người Mông, người Hồi, nhưng chủ quán lại là một phụ nhân Hán tộc. Tuổi bà chưa đến năm mươi, nhan sắc cũng khá mặn mà. Ba ta chính là người phụ trách trạm tiền tiêu của Thiên Ảo cung.
    Trong bức thư gởi Vô Ảnh hội hai mươi năm trước, Thiên Ảo cung chủ Phùng Thiệu Đính đã dặn sứ giả của đối phương đến đây liên lạc. Chính Lan gọi một mâm rượu thịt, ba chục chiếc bánh bao. Ăn uống no nê rồi chàng mới bước đến quầy nói chuyện với chủ quán.
    Chính Lan điềm đạm nói:
    - Tại hạ là sứ giả của Vô Ảnh hội, mang Cửu Thiên lệnh bài và ngàn lượng hoàng kim đến Thiên Ảo cung chuộc mạng hội chủ.
    Nữ lang sửng sốt hỏi:
    - Sao chư vị lại trễ nải đến hai chục năm vậy?
    Chính Lan từ tốn đáp:
    - Mong đại nương thông cảm cho.
    Bổn hội đã cử người đi từ ngay lúc nhận được thư. Nhưng nửa đường, vị sứ giả ấy làm thất lạc lệnh bài, mãi đến nay mới tìm ra được.
    Nữ lang chúm chím cười:
    - Ta là Đào Tuệ San, bốn mươi ba tuổi và chưa có chồng. Các hạ danh tính là gì?
    Chàng mỉm cười:
    - Tiểu đệ là Âu Dương Chính Lan, xin bái kiến Đào đại tỷ.
    Đào cô nương hài lòng bảo:
    - Lan đệ cho ta xem Cửu Thiên lệnh bài?
    Chính Lan lấy ra trao cho bà ta. Đào Tuệ San xem kỹ, trả lại Chính Lan rồi nói:
    - Lan đệ cứ ngồi uống rượu, ngu tỷ sẽ báo về cung. Lát nữa sẽ có người ra rước.
    Chính Lan tủm tỉm hỏi:
    - Mong Đào đại tỷ cho biết Đường hội chủ có được khang kiện hay không?
    Đào cô nương mỉm cười:
    - Hiền đệ yên tâm, lão ta còn sống và rất vui vẻ.
    Thấy ánh mắt bà là lạ, chàng băn khoăn trở lại bàn. Mãi hơn canh giờ sau mới có bốn lão già lụ khụ xuất hiện. Họ đưa anh em Chính Lan đi vào vùng chân núi Âm sơn. Cả dãy núi dài mấy trăm dặm, giờ đây bị tuyết phủ trắng đỉnh, trông vô cùng thê lương ảm đạm. Tiểu Ngưu buột miệng nói:
    - Đại ca, chốn này lạnh giá, buồn tẻ còn hơn bãi tha ma của Trung Nguyên, sao những người của Thiên Ảo cung lại sống nổi nhỉ?
    Một trong bốn lão già bật cười:
    - Ngươi lầm to rồi, bổn cung là chốn đào nguyên thế ngoại, bốn mùa hoa nở, suối reo chim hót, làm sao buồn tẻ được?
    Bốn lão dừng cương trước một tòa sơn trang, nằm dựa chân ngọn núi cực nam của dãy Âm sơn.
    Từ trong trang, hai tỳ nữ xinh đẹp đội tuyết chạy ra đón chào. Lão nhân mặc áo cừu đen nghiêm giọng bảo bọn Chính Lan:
    - Cung chủ đang bế quan luyện công, hai ngày nữa mới có thể tiếp khách. Hai ngươi cứ ở lại khách xá này chờ đợi.
    Nói xong, cả bốn lão quay ngựa đi ngay. Chính Lan cau mày nhưng không nói gì. Một ả tỳ nữ vui vẻ bảo:
    - Nhị vị đi thẳng vào sảnh sẽ có người đưa về phòng, bọn nô tỳ dẫn ngựa xuống chuồng?
    Huynh đệ Chính Lan nghe lời, bước vào cửa lớn. Quả nhiên lại có hai nữ tỳ nữa xuất hiện. Trong cái lạnh cắt da này, ai cũng mặc áo ngự hàn trắng muốt, chẳng điểm xuyến được gì cho khung cảnh ảm đạm. Có điều, nhan sắc của các tỳ nữ cũng khá xinh đẹp, khiến Tiểu Ngưu cởi mở tấm lòng. Gã là trai chưa vợ nên xuân tình rạo rực, nhìn hai ả kia không chớp mắt. Phía sau khách sảnh là hai dãy phòng đối diện nhau. Ả tỳ nữ có lúm đồng tiền xinh xắn trên má trái đẩy cửa căn phòng đầu tiên, mời khách vào. Chậu than hồng đỏ rực ở giữa phòng tỏa luồng hơi ấm áp. Ả thứ hai có chiếc răng khểnh, duyên dáng nghiêng mình:
    - Bọn nô tỳ là Tiểu Ngọc, Tiểu Xuân được lệnh hầu hạ nhị vị. Nếu cần gì xin cứ kéo dây chuông ở đầu giường.
    Tiểu Ngưu không bỏ lỡ cơ hội, cười hề hề đáp:
    - Tại hạ cũng có chữ “tiểu” như hai cô nương. Âu Dương Tiểu Ngưu chính thực họ tên, còn đây là gia huynh Chính Lan.
    Tiểu Xuân che miệng cười ranh mãnh:
    - Ngưu thì đúng rồi nhưng tiểu thì e rằng không phải?
    Tiểu Ngưu ngượng ngùng gãi tai, Chính Lan cứu nguy cho hắn bằng cách hỏi Tiểu Ngọc:
    - Trong Thiên Ảo cung có được bao nhiêu nữ nhân xinh đẹp như nhị vị?
    Được khen là mỹ nữ, Tiểu Ngọc sung sướng đáp ngay:
    - Công tử quá lời, bọn nô tỳ đông đến hai trăm, nhưng chẳng ai xứng với danh hiệu mỹ nhân cả.
    Tiểu Xuân khẽ ho, nhắc nhở Tiểu Ngọc cẩn ngôn. Hai ả xin phép cáo lui.
    Chiều hôm ấy họ mới quay lại với mâm cơm rượu. Chính Lan nếm thử mỗi thứ một miếng, không thấy gì lạ mới cùng Tiểu Ngưu ăn uống. Ăn xong, chàng tư lự bảo:
    - Nhị đệ, ta linh cảm rằng Đường hội chủ đã gặp chuyện chẳng lành, và Thiên Ảo cung đang bày binh bố trận đối phó với bọn ta.
    Tiểu Ngưu thản nhiên đáp:
    - Tiểu đệ đi với đại ca, chẳng biết sợ ai cả.
    Nói xong, gã xếp chén đũa vào mâm, bẽn lẽn nói:
    - Để tiểu đệ bưng đi trả nhà bếp cho rộng chỗ.
    Chính Lan thấy đôi mắt láo liên của gã, phì cười:
    - Ngươi muốn tìm mấy ả tỳ nữ thì cứ việc đi, nhưng nhớ giữ lời, đừng cởi mở ruột gan cho họ biết là được rồi.
    Tiểu Ngưu hí hửng đi ngay. Chính Lan còn lại một mình, mở cửa sổ ngắm nhìn cảnh tuyết rơi. Chàng nhớ những lần cùng Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên uống rượu, thưởng tuyết trên quán Tước lâu Sơn Tây. Họ Hách là bằng hữu duy nhất của chàng. Hai hàng lệ hiếm hoi lén trào ra khoé mắt. Chính Lan thề sẽ giết Thái Sơn Phủ Quân, tiêu diệt Bạch Liên giáo để trả thù cho Thiết Xuyên, và cũng để trừ hậu họa cho xã tắc.
    Đêm đông dần buông, gió bắc gào thét từng cơn, thổi những bông tuyết vào mặt Chính Lan. Chàng thở dài khép cửa sổ, quay về giường. Lúc thay áo, chàng rút mảnh Cửu Thiên lệnh bài nặng chích đặt lên nệm giường. Bỗng lòng hiếu kỳ hối thúc, chàng cầm lên, đem đến cạnh giá nến xem xét. Từ ngày sở hữu nó đến nay, chàng chưa hề quan sát kỹ lưỡng. Nay sắp phải trao cho Thiên Ảo cung, chàng muốn tìm hiểu thử.
    Mặt trước lệnh bài quả nhiên có bốn chữ gồm những nét rất lạ. Mặt sau cũng khắc nổi những hoa văn rắc rối. Thấy trên kệ sách ở vách tả có văn phòng tứ bảo, Chính Lan lấy xuống, mài mực rồi dùng viết lông đồ lên mặt sau, và in vào giấy trắng. Như vậy, chàng có được hình ngược của hoa văn. Chính Lan nhìn bản in thấy chỉ có mấy chục nét, hiểu rằng đã thiếu sót, định làm lại. Bỗng chàng giật mình vì cảm nhận được vẻ quen thuộc của những đường nét trên bản sao.
    Chính Lan chăm chú quan sát và bóp trán suy nghĩ. Cuối cùng, chàng đã nhớ ra những đường gãy khúc kia biểu hiện chín ngọn núi cao thấp không đều của Cửu Hoa sơn khi đứng ở hướng đông nhìn về tây.
    Để kiểm tra lại, Chính Lan rửa sạch lệnh bài bằng rượu rồi sờ mó những hoa văn. Thì ra những đường ấy cao thấp không đều, và những nét thấp chỉ có tác dụng là rối mắt thiên hạ.
    Chính Lan sao lại lần nữa, thấy kết quả cũng giống thế, yên tâm dùng tiểu kiếm cạo cho các hoa văn bằng nhau. Đồng đen còn hiếm hơn vàng, trong ngoài đều đen tuyền như nhau, chỉ cần đánh bóng một lượt xóa đi độ nhám nhúa của mấy đường vừa cạo là có thể yên tâm.
    Chính Lan học thuộc bản sao xong cũng đốt luôn. Giờ đây, chàng là người duy nhất biết vị trí của Cửu Thiên huyền cung. Không phải vì chàng tham lam những bảo vật hay bí kíp nơi ấy, mà vì muốn đề phòng việc trao lầm gươm cho kẻ ác. Chàng sợ Thiên Ảo cung cũng nuôi dã tâm như Thái Sơn Phủ Quân, trở thành tai họa cho võ lâm và giang sơn. Chính Lan chờ mãi không thấy Tiểu Ngưu vào phòng, đành đi ngủ trước.
    Mãi gần sáng gã mới xuất hiện, tóc tai rối bù, y phục xốc xếch và mặt dính đầy phấn son. Tiểu Ngưu lăn ra ngủ vùi đến tận cuối giờ thìn.
    Gã ngồi dậy, thấy Chính Lan đang nhìn mình cười cợt, bẽn lẽn nói:
    - Đại ca, dường như trong Thiên Ảo cung thiếu nam nhân thì phải. Bốn ả tỳ nữ kia quấn lấy tiểu đệ không rời.
    Chính Lan nheo mắt hỏi:
    - Thế nhị đệ có bị họ khai thác, tra vấn gì không?
    Tiểu Ngưu đắc ý cười khà khà:
    - Đại ca chớ xem thường tiểu đệ. Ngưu này chẳng hề tiết lộ điều gì, mà còn điều tra ra một việc quan trọng. Đó là sự có mặt của đoàn sứ giả Bạch Liên giáo trong Thiên Ảo cung. Chúng gồm có bốn người không rõ danh tánh, đến trước bọn ta ba ngày, nghỉ đây một đêm rồi dời vào cung ngay.
    Chính Lan gật gù, hỏi thêm:
    - Các tỳ nữ có thố lộ vị trí Thiên Ảo cung cho ngươi biết không?
    Tiểu Ngưu lắc đầu:
    - Họ không nói, nhưng tiểu đệ tin rằng đêm nay sẽ thành công.
    Nói xong gã bỏ đi, dáng điệu rất vênh váo, tự tin. Chính Lan ở lại với nỗi suy tư của mình. Chàng đoán rằng Thái Sơn Phủ Quân e ngại Đảo Thiên thần đạn của Hỏa chân nhân nên cho người đến mời Thiên Ảo cung liên thủ.
    Thực ra, những hỏa khí mà Tây Môn Nhỉ sử dụng ở Hồng Trạch hồ, cách nay mấy tháng chỉ là những ống đồng nhồi thuốc nổ rất thô sơ, sức công phá thua xa thần đạn. Nhưng chàng lại thắc mắc, không hiểu Thiên Ảo cung có công phu gì lợi hại, đến nỗi Bạch Liên giáo phải mời mọc?
    Trưa đến, ăn cơm xong, hai huynh đệ Chính Lan ngồi nói chuyện phiếm. Giờ giữa mùi, Tiểu Xuân chạy đến bảo:
    - Nhị vị ra khách sảnh, cung chủ đã giá lâm!
    Chính Lan và Tiểu Ngưu thay y phục, khoác cả tay nải lên vai, rồi bước ra đại sảnh. Cạnh chiếc bàn gỗ dài đã có mười người ngồi sẵn. Chiếm chủ vị là một lão nhân phương phi, bệ vệ, da mặt đỏ hồng, tóc và bộ râu ba chòm đen nhánh, không một sợi bạc.
    Trời lạnh thế này mà lão ta không mặc áo lông, chắc là để khoe bộ trường bào màu đỏ, thêu nổi hình long phụng bằng chỉ vàng.
    Hồng y lão nhân cười ha hả:
    - Mời nhị vị an toạ. Bổn tòa nghe các hộ pháp bẩm báo, vội xuất quan đến đây ngay.
    Chính Lan vòng tay chào rồi ngồi xuống đầu bàn đối diện. Tiểu Ngưu bắt chước cử chỉ của chàng chẳng sai một nét. Thiên Ảo cung chủ lại chỉ người ngồi bên cạnh và nói:
    - Hai mươi năm qua, Đường hội chủ trở thành khách quí của bổn cung, cùng bổn tòa kết tình bằng hữu. Nay quí hội đã đưa Cửu Thiên lệnh bài đến, bổn cung chẳng dám lưu khách nữa.
    Người ấy là một lão nhân tuổi độ sáu mươi, có dung mạo tương tự như bức vẽ của Tàn Diện Ma Thủ. Đường Vĩnh Phục lạnh lùng bảo:
    - Đường Vĩnh Lộc và các trưởng bối trong Vô Ảnh hội đâu cả lại giao nhiệm vụ này lại cho hai ngươi. Và vì sao lại trễ đến hai mươi năm như vậy?
    Chính Lan nghiêm giọng:
    - Sự việc rất dài dòng, thuật lại chỉ làm mất thời giờ. Mong hội chủ chờ về đến Hàm Dương rồi sẽ rõ.
    Đường Vĩnh Phục cười nhạt:
    - Lão phu đã quá quen với Thiên Ảo cung, chẳng muốn về Hàm Dương nữa. Hai ngươi cứ để lại Cửu Thiên đồng bài rồi trở về đi.
    Chính Lan cười mát đáp:
    - Việc ấy không khó, chỉ cần các hạ chứng minh được mình là Đường Vĩnh Phục, hội chủ Vô Ảnh hội.
    Họ Đường giận dữ đập bàn:
    - Chẳng lẽ lúc lên đường, Đường Vĩnh Phục không miêu tả dung mạo của lão phu cho các ngươi nhận diện hay sao?
    Chính Lan thản nhiên đáp:
    - Đúng là có, nhưng sau hai mươi năm, gương mặt hội chủ đã thay đổi, vì vậy thuộc hạ phải kiểm chứng mới được.
    Chàng nói rất có lý nên lão ta cứng họng. Thiên Ảo cung chủ cười khà khà:
    - Âu Dương sứ giả đây nói cũng phải. Để xác nhận thân phận, Đường lão đệ chỉ cần đọc mấy câu khẩu quyết trong pho nội công tâm pháp bí truyền của Vô Ảnh hội.
    ĐườngVĩnh Phục gật đầu tán thành, đọc ngay một tràng dài. Tiểu Ngưu đá chân Chính Lan, ra hiệu rằng đúng là tuyệt học bổn môn. Nhưng chàng đã có chủ ý nên nghiêm giọng:
    - Trước khi đi, Đường hộ pháp đã dặn dò thuộc hạ yêu cầu hội chủ đọc lại đoạn mở đầu của quyển Kim Châm Y Giải. Đó là điều kiện duy nhất.
    Đường Vĩnh Phục bối rối đáp:
    - Đã lâu ta không sử dụng đến y thuật nên không thể nhớ được?
    Chính Lan mỉm cười đứng lên, lấy đồng bài ra cầm trên tay rồi nói với Thiên Ảo cung chủ:
    - Phùng cung chủ đã biết tại hạ là Hồng Nhất Điểm mà còn bày trò thay mận đổi đào này sao? Nếu không thành thực thương lượng, tại hạ sẽ hủy ngay bảo vật.
    Thiên Ảo cung chủ Phùng Thiệu Đính tái mặt, nhưng trấn tĩnh ngay. Lão cười ha hả, dơ ngón tay cái khen ngợi:
    - Quả chẳng hổ danh đệ nhất anh hùng đất Trung Nguyên. Bổn tòa xin bái phục.
    Chính Lan cười nhạt:
    - Tại hạ không có thói quen dông dài, xin cung chủ cho biết tình hình của Đường hội chủ.
    Phùng Cung Chủ thở dài đáp:
    - Đường lão đệ cứ chờ đợi mãi chẳng thấy ai đến chuộc về, ngỡ rằng bào đệ sanh tâm phản trắc, buồn rầu uống rượu mãi. Họ Đường lại không quen với khí hậu khắc nghiệt của Âm sơn, chỉ năm năm sau đã chết vì bệnh phổi. Bổn tòa cũng sinh lòng hối hận, cho người đến núi Vị sơn ở Hàm Dương báo tin. Nào ngờ tổng đàn Vô Ảnh hội chẳng còn một bóng người. Bổn tòa xin đem thanh danh ra bảo chứng cho lời nói của mình.
    Chính Lan trầm giọng:
    - Trong lá thư mà cung chủ gởi cho bổn hội, tuyệt nhiên không hề qui định thời gian đến chuộc mạng hội chủ. Nay Đường hội chủ chết rồi, cuộc trao đổi xem như không thành, và phần lỗi thuộc về Thiên Ảo cung. Vì vậy, bọn tại hạ sẽ trao ngàn lượng vàng để chuộc xác về. Còn như cung chủ muốn có Cửu Thiên lệnh bài, phải chấp nhận thêm một điều kiện.
    Thiên Ảo cung chủ hân hoan bảo:
    - Bổn tòa sẵn sàng hoàn lại di cốt mà chẳng cần vàng bạc gì cả. Nhưng xin các hạ cho biết điều kiện kia.
    Chính Lan dịu giọng:
    - Thái Sơn Phủ Quân gầy dựng Bạch Liên giáo là có ý tạo phản, soán đoạt cơ đồ Đại Minh và lên làm hoàng đế Trung Hoa. Nay lão bị tại hạ sát hại gần hết những cao thủ chủ chốt như Đào Hoa cung chủ, Phi Hoàn đại lão, Âm Dương Quỉ Tẩu, Trung Ly nhị thần, Chiêu Thống pháp sư… nên mới tìm đến Thiên Ảo cung cầu viện. Giả như Thái Sơn Phủ Quân nhờ cung chủ dựng nên vương nghiệp, liệu có nghĩ đến công lao mà trọng thưởng hay lại giết đi như Tống Thái Tổ từng làm? Còn như Bạch Liên giáo thất bại, tông môn Phùng thị sẽ mang tiếng phản loàn, lưu xú vạn niên. Tại hạ có bấy nhiêu lời phế phủ, mong cung chủ xem xét, chém sứ, đoạn giao với Bạch Liên giáo. Đấy chính là điều kiện để tại hạ dâng nạp Cửu Thiên lệnh bài.
    Nghe chàng nói xong, bốn lão già ngồi chung bàn kinh hãi đứng bật dậy. Một lão vòng tay nói:
    - Mong cung chủ đừng nghe lời xúc xiểm của gã mà làm tổn thương đến tình giao hảo của đôi bên.
    Phùng cung chủ mỉm cười trấn an:
    - Chư vị cứ yên tâm ngồi xuống, bổn tòa có cách giải quyết ổn thỏa.
    Bốn lão sứ giả Bạch Liên giáo nghe lời, trở lại ghế ngồi. Bất ngờ, Thiên Ảo cung chủ che miệng húng hắng ho. Và bốn lão nhân già lụ khụ đang ngồi đối diện với các sứ giả Bạch Liên giáo cử chưởng đánh liền.
    Tám đạo chưởng kình lạnh giá và trắng như tuyết, giáng vào ngực bọn sứ giả, đánh chúng văng vào vách sảnh, máu phun thành vòi, chết ngay tức khắc.
    Thiên Ảo cung chủ cười khanh khách:
    - Tứ vị trưởng lão vì không ưa bọn phản loạn nên tự ý ra tay, bổn tòa càng dễ thương lượng với công tử.
    Chính Lan thầm ghê sợ cho tâm địa tàn ác của Phùng Thiệu Đính. Chàng cũng mừng vì mình đã phá hủy họa đồ trên Cửu Thiên lệnh bài, nếu không sẽ hối hận suốt đời. Chàng lạnh lùng bảo:
    - Cung chủ hành động quyết đoán, mau lẹ như vậy, tại hạ xin nghiêng mình bái phục. Khi nào có hài cốt Đường hội chủ trong tay, tại hạ sẽ dâng lệnh bài.
    Thiên Ảo cung chủ cười đáp:
    - Khi biết công tử là Hồng Nhất Điểm đại hiệp, bổn tòa đã tiên liệu trước rằng không qua mặt nổi, nên đã cho đem theo di cốt của họ Đường.
    Lão cúi xuống nhấc một túi lụa dày màu vàng đặt lên bàn, đẩy về phía Chính Lan. Chàng mở ra, thấy có một hũ sành đựng cốt, hài lòng cột lại.
    Tiểu Ngưu bỗng nói:
    - Đại ca, làm sao biết đây có phải là tro của Đại sư bá, hay xương chó, heo, cọp, khỉ gì đấy.
    Chính Lan phì cười:
    - Trừ khi Đường hội chủ còn sống, chứ đã chết thì ai lại đưa hài cốt giả làm gì?
    Thiên Ảo cung chủ nghiêm giọng:
    - Các hạ quả là đóa kỳ hoa hiếm có, võ nghệ, cơ trí đều xuất chúng cả. Nếu chư vị không gấp gáp lên đường, xin mới giá lâm tệ cung chơi ít ngày.
    Chính Lan đặt Cửu Thiên lệnh bài lên bàn, vòng tay:
    - Cảm tạ lòng ưu ái của cung chủ, nhưng xin hẹn dịp khác. Giờ đây anh em tại hạ phải lên đường ngay.
    Hai người rời khách sảnh, xuống chuồng lấy ngựa phi mau. Tiểu Ngưu cứ ngoái lại nhìn bốn ả tỳ nữ với ánh mắt lưu luyến. Chính Lan thúc giục:
    - Nhị đệ nhanh chân lên, chúng ta phải đi xa nơi này trước khi lão cung chủ gian hiểm kia đổi ý.
    Hai mươi ngày sau, huynh đệ Chính Lan về đến Vị sơn. Lúc ấy là chiều ba mươi tết. Tổng đàn Vô Ảnh hội đã được sửa sang lại một phần, nhưng nhân số mới qui tụ được năm sáu người. Họ khóc than cho số phận của Đường hội chủ, căm hờn chửi mắng Thiên Ảo cung!
    Sáng mùng một tết, Chính Lan và Tiểu Ngưu rời Hàm Dương, lên đường về Vu Hồ. Nhưng vừa đến Trường An, họ đã bị một đệ tử Cái bang chặn lại:
    - Bẩm đại hiệp, bang chủ bổn bang có thư.
    Chính Lan mở xem, nhận ra nét chữ quen thuộc của Đại Đầu Cái. Đọc xong, chàng nghiêm nghị bảo:
    - Các hạ có thể lui được rồi, tại hạ sẽ đi Lạc Dương ngay.
    Gã hóa tử đi rồi, Tiểu Ngưu hỏi Chính Lan:
    - Đại ca, trong thư nói gì vậy?
    Chàng nhíu mày đáp:
    - Lô Bang Chủ nói rằng Bạch Liên giáo dồn lương tích thảo trên núi Lương Sơn, chuẩn bị tạo phản. Cái bang và các phái bạch đạo quyết định tấn công, trừ tai họa cho giang sơn. Họ cần có cao thủ để đối phó với Thái Sơn Phủ Quân nên đã mời ta.
    Tiểu Ngưu nhăn nhó:
    - Chúng ta đi đã mấy tháng trời, sao không về Vu Hồ cho các đại tẩu an tâm rồi hãy đi Sơn Đông?
    Chính Lan mỉm cười:
    - Ta cũng muốn thế, nhưng các phái đã lên đường đến Từ Châu, chỉ chờ ta có mặt là khởi sự.
    Tiểu Ngưu buột miệng trách:
    - Đại ca suốt đời chỉ lo gánh vác chuyện nước non. Với võ lâm, mấy lần suýt chết, sao không nghĩ đến thê tử một chút?
    Chính Lan nghiêm giọng:
    - Nhị đệ, trước khi sư phụ qua đời, người có bảo rằng khí thế nhà Minh đã tuyệt, non sông sẽ rơi vào tay rợ phương bắc vì có kẻ làm phản. Dẫu mệnh trời đã định thế, nhưng ta cũng quyết tận lực chứ chẳng chịu buông xuôi.
    Tiểu Ngưu ngơ ngác hỏi:
    - Đại ca, nếu quả thực lão trời già có đủ quyền năng để xếp đặt vận mệnh con người và đất nước, sao lão ta không làm cho thiên hạ thái bình, người người no ấm?
    Chính Lan phì cười:
    - Làm gì có lão trời già, trời non gì đâu. Chẳng qua đó là cách gọi cái đạo lý tối cao đã chi phối vạn vật. Các hoàng đế cuối triều Minh không làm sáng tỏ được đạo trời nên bách tính Hoa Hạ phải chịu tai ương.
    Tiểu Ngưu gãi đầu:
    - Đại ca nói năng khó hiểu quá, tiểu đệ nhức cả óc.
    Hai anh em vào phạn điếm dùng cơm, rồi đi về hướng chính đông. Ba ngày sau họ đã đến Lạc Dương, vào tổng đà Cái bang.
    Đại Đầu Cái Lô Chính Ngôn mừng rỡ đón chào:
    - Lão phu cứ lo rằng không gặp được công tử. Lương Sơn phòng vệ cực kỳ nghiêm mật, chỉ mình công tử mới đủ bản lĩnh xâm nhập vào.
    Dùng cơm trưa xong, ba người lên đường đi Sơn Đông. Phần lớn chiều dài Lương Sơn Bạc nằm dọc theo ranh giới Sơn Đông, Giang Tô theo hướng tây bắc đông nam. Bọn Chính Lan đến Từ Châu, đi vòng ra mặt đông của Thủy Bạc. Núi Lương sơn nằm lệch về hướng này, chỉ cách bờ chừng mười mấy dặm. Tất nhiên, khu vực cửa ngõ này được Bạch Liên giáo canh phòng cẩn mật, phe bạch đạo chẳng thể đóng quân được.
    Nhưng còn có một nơi mà Thái Sơn Phủ Quân không kiếm soát được. Đó là dòng Đại Vận hà chảy song song với Lương Sơn Bạc. Trên con sông đào vĩ đại này, thuyền bè qua lại tấp nập ngày đêm. Vì vậy, năm trăm cao thủ Bạch đạo trú ẩn trong cánh rừng liễu bên kia Đại Vận hà rất an toàn.
    Giữa tháng giêng, Đại Đầu Cái đưa anh em Chính Lan lên thuyền con, sang bờ đông. Ngược bắc chừng vài dặm, thuyền rẽ vào một nhánh sông nhỏ thông với Vận hà. Gần ngã ba sông, Chính Lan thấy hai chiếc thuyền rất lớn, trên mũi thuyền cắm cờ thủy quân Tích Giang. Hiện tượng này chẳng có gì bất thường vì gần nửa chiều dài dòng Vận hà thuộc phạm vi trách nhiệm của họ.(20)
    Qua khỏi hai chiến thuyền, là một chiếc quan thuyền xinh đẹp, dường như dành cho gia quyến của bậc đại thần nào đấy vì có tiếng trẻ thơ khóc oa oa. Lạ thay, Đại Đầu Cái lại bảo gã hán tử chèo thuyền ghé vào. Ông tung mình lên mũi quan thuyền và bảo Chính Lan:
    - Công tử lên đi, còn chờ gì nữa?
    Chính Lan và Tiểu Ngưu vội lên theo. Lô bang chủ mở cửa khoang, nhưng không vào mà lại nhường cho Chính Lan đi trước. Ai đó reo lên mừng rỡ:
    - Tướng công.
    Và chàng bị vây chặt bởi sáu người vợ trẻ. Họ cười nhưng lệ mừng ướt mặt, còn bốn đứa tiểu hài kia òa khóc, bò đến tìm mẹ.
    ° ° °
    Đêm hôm sau, có một chiếc thuyền con len lỏi qua đám gò nổi, lau sậy, tiến về phía ngọn núi Lương Sơn. Năm nay tiết trời cực kỳ giá lạnh, đã giữa tháng giêng mà eo biển Bột Hải vẫn còn đóng băng. Vùng phía nam Hoàng hà tuyết rơi mù trời, che mờ cả vầng trăng mười sáu. Tất nhiên, nước ở Lương Sơn Bạc cũng lạnh cắt da. Thế mà, ba người trên chiếc thuyền nhỏ kia chẳng hề mặc áo lông. Có lẽ họ sợ vướng víu khi cần phải bơi dưới nước. Ba người ấy là Thiên Thủ Thư Sinh Trân Dật, Chính Lan và Tiểu Ngưu.
    Trên người Chính Lan là một bộ y phục rất kỳ lạ mũ trùm đầu, áo quần liền lạc, bó sát cơ thể và đen bóng. Các mỹ nhân đã cắt chiếc áo choàng bằng tơ Hắc Tằm, may thành bộ y phục này. Nhờ vậy, Chính Lan không sợ lửa và có thể ngâm mình dưới nước hàng giờ mà không chết cóng.
    Cuối canh ba, thuyền vào đến gò đất cuối cùng. Từ đây đến chân núi Lương sơn còn hơn dặm nữa. Mặt nước hoàn toàn thoáng đãng, không vật che chắn, nên chỉ mình Chính Lan bơi vào. Trân Dật và Tiểu Ngưu sẽ đợi ở gò đất cho đến khi có tín hiệu. Chính Lan chỉ mang theo tiểu kiếm và hỏa dược.
    Trong chiếc bao bằng tơ Hắc Tằm không thấm nước này có mười ống đồng nhồi thuốc nổ, trông chúng giống như những viên đại pháo ngày xuân.
    Tuy không bằng thần đạn nhưng cũng thừa sức đốt cháy những kho quân lương, và dọa cho bọn Bạch Liên giáo thất kinh hồn vía.
    Chính Lan sinh ra cạnh hồ Côn Minh, bốn tuổi đã biết bơi. Cộng với công phu Qui Tức Bảo Tâm đại pháp, thủy tính của chàng đáng gọi là vô địch.
    Có được bộ y phục gọn gàng, kỳ diệu này, Chính Lan cảm thấy mình thoải mái như cá dưới nước, nhắm hướng Lương Sơn mà lặn một mạch. Thỉnh thoảng chàng trồi lên để đổi hơi và định hướng. Mấy chục chiếc thuyền tuần tra đi ngang qua đầu chàng mà không hề hay biết. Hai khắc sau, Chính Lan vào đến bở, nhảy lên ẩn vào khe đá. Chàng hài lòng nhận ra cơ thể chỉ bị ướt đôi chỗ.
    Chính Lan đã có lần cùng Kính Hồ Tiên Cơ Tiêu Uyển Như đến đây tìm kho tàng Nam Tống, nên rất thông thuộc đường lối. Chàng lướt nhanh như cánh chim đêm đến khu vực phía tay hữu. Bạch Liên giáo khởi sự tất sẽ tiến lên hướng bắc, đánh chiếm đế đô. Vì vậy, kho lương thảo sẽ phải nằm ở vị trí thuận lợi, dễ bốc dỡ để đưa ra đường quan đạo hướng đông, hoặc Đại Vận hà.
    Đường cạnh mép nước khá bằng phẳng nhưng luôn luôn có những toán tuần tra, Chính Lan đành phải di chuyển trên sườn núi. Lát sau, chàng nhìn thấy năm căn nhà rất lớn, nằm cách nhau sáu trượng để phòng hỏa hoạn. Đã dự liệu trước tình hình này, những ống hỏa dược của Tây Môn Nhỉ đều có ngòi rất dài. Chính Lan dùng tiểu kiếm cắt cho chúng có thứ tự ngắn dần đi, nhờ vậy sẽ nổ cùng một lúc. Chung quanh các kho lương cũng có người canh giữ, nhưng chủ yếu là gác ở cửa chính quay mặt ra ngoài. Phía sau là con đường để toán phòng vệ đi tuần.
    Chờ bọn giáo đồ đi qua, Chính Lan lướt đến vách phía sau của kho đầu tiên, cắt một mảnh ván và chui vào. Té ra đây là kho gạo. Chàng bật hỏa tập đốt ống đồng có ngòi dài nhất, đặt trên đống bao. Cứ như thế, chàng lần lượt gài hỏa dược hết cả năm kho, trở lên sườn núi chờ xem kết quả. Nhớ đến tảng đá vuông vắn trước cửa kho tàng, Chính Lan phi thân lên đấy. Chàng vừa đến nơi thì hỏa khí phát nổ gần như cùng một lúc.
    Năm kho quân lương bốc cháy ngùn ngụn vì vách bằng gỗ và mái lợp lá. Tiếng chuông, tiếng mõ tre báo cháy vang dội cả vùng Thủy Bạc. Bọn giáo đồ Bạch Liên giáo cuống cuồng đổ xô vào dập lửa. Nhưng chỉ vô ích mà thôi.
    Chính Lan nhận ra Thái Sơn Phủ Quân, Miêu Ưng Lão Tổ đều xuất hiện để chỉ huy việc cứu hỏa. Chàng quyết định nhân cơ hội này thiêu hủy luôn các kiến trúc khác trên núi, liền lướt như bay đến Tụ Nghĩa đường.
    Lúc này, phe bạch đạo đã nhất tề tấn công tiền trạm của Bạch Liên giáo ở bờ đông, cướp thuyền chèo vào núi Lương sơn. Dĩ nhiên họ bị mấy chục chiếc thuyền con, và chốt mai phục trên gò nổi, ngăn chặn lại.
    Đã đến lúc Tiểu Ngưu và Trân Dật ra tay. Hai người âm thầm từ trong đánh ra, từ sau đánh tới. Tiểu Ngưu như con trâu nước bất ngờ trồi lên lật úp thuyền của phe địch. Còn Thiên Thủ Thư Sinh mò đến làm thịt bọn cung thủ trên gò đất. Thủ pháp phóng ám khí của họ Trân cực kỳ linh diệu, bọn lục lục thường tài kia làm sao tránh nổi?
    Quân số Bạch Liên giáo ở căn cứ Lương sơn đông đến hai ba ngàn người nhưng chỉ là một đội quân ô hợp, được huấn luyện sơ sài thiếu hẳn bản lĩnh và dũng khí. Chúng thấy trọng địa bốc cháy ngút trời, hỏa dược nổ vang như súng thần công của quan quân, chẳng còn lòng dạ nào mà chiến đấu. Do đó, quần hùng tiến vào rất mau lẹ.
    Nhắc lại, Chính Lan đeo bọc hỏa khí, tay thủ tiểu kiếm, chạy ngược lên. Khi có biến, sào huyệt chính được bảo vệ sum nghiêm, đâu đâu cũng có người trấn giữ. Dù không muốn, Chính Lan cũng phải chém giết để mở đường. Cuối cùng, chàng cũng đến được mục tiêu, đốt cháy tòa mộc lâu đồ sộ phía sau Tụ Nghĩa đường. Nhưng vòng vây đã khép chặt, Trung Ly nhất thần quát lớn:
    - Hồng Nhất Điểm, hôm nay là ngày tận số của ngươi.
    Nói xong, lão cho mười hai gã quái nhân xông vào tấn công Chính Lan.
    Nhất thần tung mình lên một tảng đá, ngồi xếp bằng, đưa cây thiết tiêu đen tuyền lên miệng, thổi khúc mê hồn. Tiếng sáo ma quái kia làm cho tinh thần Chính Lan xáo trộn, mơ hồ. Ngược lại, bọn quái nhân càng hung hãn và dũng mãnh hơn. Những cây chùy gai vun vút giáng xuống thân thể đối phương những đòn sấm sét.
    Chính Lan kinh hãi, dùng công phu Qui Tức Bảo Tâm đại pháp phong bế nhĩ lực, rồi múa tít song chưởng đánh bạt bọn quái nhân ra. Mất thính giác, xem như giảm nửa võ công, nhất là khi trước sau, tả hữu đều có địch nhân.
    Chính Lan đã đụng độ hàng trăm trận, kinh nghiệm dày dạn, liền đề khí, bốc cao hơn trượng, vỗ bốn chưởng chặn đứng đường chùy của hai gã khổng lồ và giết chúng bằng hai đạo Huyết Tuyết Điểm Hồng, rồi chàng lại bốc lên cao để tránh đòn tập kích sau lưng.
    Chỉ lên xuống vài lượt, chàng đã loại được sáu tên. Trung Ly Nhất Thần vội thay đổi âm giai, bọn quái nhân đồng thời vung tả thủ chống đỡ, đánh Chính Lan bay ngược trở lên. Đòn bất ngờ này khiến chàng thọ thương vì va chạm với luồng hợp chưởng.
    Nhưng một ý niệm loé lên, Chính Lan tiếp tục lao xuống, song thủ múa tít dệt nên màn lưới chưởng mềm mại và kín đáo. Sáu quái nhân lại cử chưởng đánh liền, luồng lực đạo mãnh liệt ấy giáng vào màn chưởng ảnh phía trước Chính Lan, đẩy chàng bay đi như chiếc diều đứt dây. Tuy nhiên, điểm rơi của chàng lại là tảng đá mà Trung Ly nhất thần đang ngồi thổi sáo.
    Với khoảng cách xa đấu trường đến năm trượng, Ngô Hiển cảm thấy an toàn nên lim dim đôi mắt, chú tâm điều khiển bọn quái nhân. Tiếng thét cảnh báo của đám giáo đồ Bạch Liên giáo khiến nhất thần giật mình, vung thiết tiêu đối phó. Tiếc rằng, Chính Lan đã rút tiểu kiếm và xuất chiêu Phù Sinh Trường Hận. Kiếm ảnh loang loáng dưới ánh lửa hồng, trông như có sắc máu tươi. Tiêu kiếm chạm nhau vài tiếng rồi thôi, thủ cấp của họ Ngô rơi khỏi cổ. Chính Lan chụp lấy cây trường tiêu bằng huyền thiết, lao xuống núi.
    Bọn giáo đồ Bạch Liên giáo dương cung bắn theo nhưng không xuyên qua nổi màn hắc quang quanh người Chính Lan. Chàng hài lòng vì thấy thiết tiêu rất vừa tay và cứng rắn vô song. Với vũ khí này, chàng có thể thi triển kiếm pháp mà không gặp trở ngại gì.
    Chính Lan xuống đến chân núi thì cuộc chiến đã đến hồi khốc liệt. Thái Sơn Phủ Quân và Miêu Ưng Lão Tổ liên thủ đối phó với bảy đại cao thủ mà vẫn thản nhiên. Năm vị chưởng môn bạch đạo, Hỏa chân nhân và Ma Nhãn đầu đà đều là những đại cao thủ hạng nhất, nhưng do thanh Long Tuyền kiếm và kiếm thuật tuyệt luân của Phủ Quân, trận thế vẫn quân bình.
    Chính Lan không vội nhập cuộc, đứng trên một tảng đá quan sát kiếm pháp của Thái Sơn Phủ Quân. Càng xem, chàng càng thêm thán phục lão ác ma Vũ Diên. Quả thực lão ta đã tiến một bước dài trong kiếm đạo. Đường kiếm nhẹ nhàng, linh hoạt như thuận tay mà đánh, và luôn nhằm vào đúng sơ hở của đối phương. Khi công thì nhanh như thiểm điện, khi thủ thì vững vàng như núi Thái. Về kiếm ý, rõ ràng Phủ Quân đã luyện hết pho tuyệt kiếm của Nam Thiên Đại Hiệp Quách Tử Hưng.
    Chàng suy nghĩ, đắn đo rất lâu, hiểu rằng Thái Chân kiếm pháp không có chiêu nào đủ sức giết được đối phương. Chàng quyết định dùng chính Nam Thiên Kiếm Pháp để ra tay. Chiêu Phất Thủy Phiêu Miêu nay chắc chắn lão cũng biết, và chàng đã có diệu kế.
    Chính Lan vận công quát vang như sấm:
    - Thái Sơn Phủ Quân, Hồng Nhất Điểm ta đến đây.
    Chính Lan rời sườn núi, phi thân đến đấu trường. Hỏa chân nhân và Ma Nhãn đầu đà biết chàng sẽ tấn công Bạch Liên giáo chủ nên lao vào cầm chân Miêu Ưng Lão Tổ. Phủ Quân bị năm chưởng môn vây chặt, thầm lo ngại khi thấy đại kình địch xuất hiện. Chính Lan đến nơi, các chưởng môn mới dừng tay. Chàng lạnh lùng bảo Thái Sơn Phủ Quân:
    - Độc Giác Thần Ma, đêm nay ta sẽ vì bách tính Trung Hoa và hương hồn Vô Nhân Kiếm Khách Hách Thiết Xuyên mà tiêu diệt lão.
    Thái Sơn Phủ Quân ngạo nghễ đáp:
    - Bản lĩnh được bao nhiêu mà dám ngông cuồng?
    Chính Lan cười nhạt:
    - Ta chỉ là kẻ bất tài nhưng cũng đủ sức thiêu hủy cơ nghiệp của lão. Sau trận này, để xem lão còn dám nuôi mộng làm hoàng đế nữa hay không?
    Lời chàng đánh trúng vào nỗi đau của phủ quân. Lão căm hận lao đến như ánh chớp. Kiếm kình lồng lộng, cuốn những hoa tuyết theo người, trông như khối bông mềm mại đang trôi. Thái Sơn Phủ Quân đã dùng đến chiêu sát thủ cuối cùng, và không ngờ rằng đối phương chờ đợi điều này.
    Chính Lan không hề di động, đứng yên đón chiêu. Chàng cũng dùng chính chiêu Phất Thủy Phiêu Miêu mà đối phó. Sắt thép ngân dài, và Bạch Liên giáo chủ rú lên thảm khốc, khụy xuống quì trên mặt tuyết, ngực thủng chín lỗ. Mọi người kinh hãi nhận ra ngực áo Chính Lan cũng rách đúng chín điểm cùng bộ vị như đối phương. Thái Sơn Phủ Quân thều thào than thở:
    - Bần đạo quên rằng… ngươi từng… giải phá được… chiêu Thiên Lý Trùng Hồng.
    Miêu Ưng Lão Tổ không ngờ giáo chủ chết ngay chiêu đầu, tâm thần bấn loạn, trúng một chưởng của Hỏa chân nhân. Y phục lão bốc cháy và Ma Nhãn đầu đà đã kịp bồi thêm một trượng, đập vỡ sọ lão ác ma.
    Mọi người mừng rỡ xúm quanh Chính Lan. Quảng Tâm thiền sư hoan hỉ hỏi:
    - Âu Dương thí chủ làm thế nào mà hạ được Thái Sơn Phủ Quân một cách dễ dàng như vậy?
    Chính Lan mỉm cười:
    - Tại hạ và phủ quân cùng sử dụng một chiêu kiếm giống nhau. Có điều thiết tiêu dài hơn Long Tuyền kiếm nửa gang nên tại hạ chỉ rách áo, còn lão thì bỏ mạng.

     
  3. vothanhbinh

    vothanhbinh Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    30/3/14
    Bài viết:
    165
    Được thích:
    512
    Âu Dương Chính Lan

    Tác Giả:Ưu Đàm Hoa

    -- o --

    Hồi 15

    Chu lão thi diệu kế
    Tiểu nghưu đắc hiền thê


    Nguồn:vnthuquan




    Cái chết của Thái Sơn Phủ Quân Vũ Diên đã khiến kế hoạch tạo phản của Bạch Liên giáo chậm lại một thời gian dài. Mãi đến năm Bính Ngọ, tức năm Sùng Trinh thứ chín, Bạch Liên giáo mới khởi sự. Nhưng sự kiện khá xa xôi, chúng ta khoan nhắc đến, mà hãy trở lại với Âu Dương Chính Lan!
    Sau trận đại phá Bạch Liên giáo ở Lương sơn, thanh danh Hồng Nhất Điểm đại hiệp càng lẫy lừng hơn trước. Chính Lan được tôn xưng là Trung Nguyên đệ nhất cao thủ, nhưng chàng chẳng hề hãnh diện, tự mãn. Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ đã tiết lộ cho Chính Lan biết rằng bản lĩnh của Thiên Ảo cung chủ còn cao cường hơn Thái Sơn Phủ Quân. Nguyên do là trong Thiên Ảo cung có trồng một cây thiên niên Tuyết Đào từ mấy đời nay. Nào ngờ, ba năm trước khai hoa kết trái. Nhờ vậy, Phùng Thiệu Đính luyện ba pho tuyệt học cổ truyền đến mức đại thành. Lão ta có mối giao tình với Hỏa giáo Tây Vực, thường qua lại hàn huyên tâm sự nên chưởng môn đại sư huynh của Hỏa giáo mới rõ sự việc này, và tiết lộ cho Tây Môn Nhỉ biết.
    Chính Lan từng gặp Thiên Ảo cung chủ, thức ngộ rằng đối phương hùng tâm tráng chí không nhỏ, chắc chẳng chịu bỏ qua cơ hội, khi Trung Hoa đang rối ren, loạn lạc thế này. Thái Sơn Phủ Quân tạo phản được thì Thiên Ảo cung chủ cũng vậy. Hơn nữa, chàng âm thầm lo ngại họ Phùng phát hiện hoa văn trên Cửu Thiên lệnh bài bị xoá, tất sẽ tìm mình hỏi tội. Vì vậy, Chính Lan chuyên cần khổ luyện võ công, đồng thời chỉ bảo cho Tiểu Ngưu cùng thê thiếp. Võ học của Vô Ảnh hội chẳng phải tầm thường, nhưng do Tàn Diện Ma Thủ chỉ còn một cánh tay nên khó mà làm cho một gã ngốc như Tiểu Ngưu nắm được tinh túy của quyền chưởng. Thứ hai, do thân thể gã quá to lớn, nặng nề nên khinh công dở tệ. Thứ ba, Tiểu Ngưu là một gã lười và hay thối chí. Tuy nhiên, dưới sự dạy dỗ, đôn đốc của Chính Lan thì gã chẳng dám biếng nhác chút nào cả. Dung mạo chàng giống hệt mẫu thân, nhất là ánh mắt. Do đó, đối với Chính Lan, Tiểu Ngưu vừa yêu thương vừa sợ hãi.
    Cuối tháng tư, Quí Thành Lâm đến tìm Chính Lan, lão buồn rầu bảo:
    - Triều đình suy yếu nên dân tình đói khổ, giặc cướp như rươi, ta chẳng biết phải làm thế nào để duy trì việc kinh doanh của tiên phụ, thật đáng hổ thẹn.
    Chính Lan nghiêm giọng:
    - Dám hỏi đại ca rằng tài sản quí hay mạng người quí hơn?
    Thành Lâm ngơ ngác đáp:
    - Tất nhiên mạng người phải trọng hơn.
    Chính Lan gật gù nói tiếp:
    - Vậy thì đại ca hãy vì ba trăm sinh mạng dòng họ Quí, thu hồi vốn liếng, dời nhà về bờ biển Quảng Đông sinh sống, mở đường buôn bán với Giao Châu, Nam Dương. Sau này, dẫu quân Mãn Thanh có chiếm được Trung Hoa thì cũng còn đường rút lui.
    Thành Lâm mừng rỡ bảo:
    - Hay lắm, lời của hiền đệ như ánh dương xua tan mây mù trong lòng ngu huynh. Quảng Châu vốn là cố quận, ta rất vui được trở về đấy.
    Và lão ngập ngừng hỏi chàng:
    - Thế còn hiền đệ thì sao?
    Chính Lan trầm ngâm đáp:
    - Gia quyến xin gởi gấm cho đại ca, phần tiểu đệ sẽ đi sau một bước.
    Quí Thành Lâm biết chàng chẳng chịu khoang tay nhìn giang sơn rơi vào tay rợ phương bắc, tất sẽ liều mình. Lão buồn rầu nói:
    - Lịch sử Trung Hoa luôn luôn là sự cạnh tranh giữa người Hán và các giống rợ chung quanh. Nay Trung Nguyên suy kém, rợ Mãn hùng mạnh lên, ắt lại như quân Mông ngày trước vào đây thành lập triều Nguyên. Vận nước, vận trời đều đã thế, hà tất hiền đệ phải chống lại. Nếu ngươi có mệnh hệ gì thì thê tử ra sao đây?
    Chính Lan mỉm cười:
    - Đại ca yên tâm, tiểu đệ là người học đạo, chỉ tận lực chứ không cưỡng cầu, thấy vô vọng, tất sẽ lui ngay chứ chẳng thí mạng làm gì.
    Thành Lâm gật đầu:
    - Ta tin vào hiền đệ.
    ° ° °
    Mấy ngày sau, một gã lái buôn tìm đến Vu Hồ trao một phong thư cho Hỏa chân nhân. Đang là bữa điểm tâm nên cả nhà đều có mặt đông đủ, Tiểu Linh Thố cười bảo:
    - Sao phụ thân đọc xong lại có vẻ lo lắng như vậy? Tây Môn Nhỉ cau mày đáp:
    - Giáo chủ sư huynh đã dời thánh điện vào Lan Châu, và kết thông gia với Thiên Ảo cung. Hôn lễ sẽ cử hành vào ngày hai mươi tháng sáu sắp tới. Giáo chủ đòi ta và tam vị sư thúc phải về dự.
    Tứ hộ pháp hỏa giáo Bạch Tuân thắc mắc:
    - Lạ thực, Tây Vực là gốc rễ bao đời của Hỏa giáo, vì cớ gì sư huynh lại phải dời vào Trung Nguyên nhỉ.
    Lục hộ pháp Bạch Quí ranh mãnh nói:
    - Sau này quân Mãn Thanh kéo vào Trung Nguyên. Chúng ta tha hồ đánh nhau với bọn Lạt Ma.
    Câu nói này khiến Chính Lan chột dạ, nhưng không nói ra.
    Thời gian khá cấp bách, Hỏa chân nhân và ba lão họ Bạch khởi hành ngay trưa hôm ấy. Họ đi rồi, Chính Lan bảo Sơn Đông Tử Phòng:
    - Từ lão thử liên hệ với Cái bang hỏi xem tình hình vùng tây bắc thế nào, và động tĩnh của Thiên Ảo cung ra sao?
    Sáu ngày sau, phân đà Nam Kinh mang thư của Đại Đầu Cái đến Vu Hồ. Thì ra Thiên Ảo cung cũng đã rời vào đến tận Bình Lang, dựng cơ ngơi mới trên núi Lang sơn nơi mà Chính Lan đã tiêu diệt kẻ thù của Lôi Đao Hứa Hoa. Thiên Ảo cung chủ và Hỏa giáo giáo chủ đã gởi thiệp mời chưởng môn các phái Trung Nguyên đến dự lễ ngày đại hỉ, tổ chức ở Bình Lang.
    Danh vọng của Hỏa giáo và Thiên Ảo cung rất lớn, vì vậy, các bang phái chẳng dám chối từ. Đại Đầu Cái tỏ ý lo ngại, mong Chính Lan có mặt để phòng khi đối phương bày gian kế tóm gọn võ lâm.
    Chính Lan đọc thư cho cả nhà nghe rồi hỏi Tố Bình:
    - Nương tử, nhan sắc của ái nữ chưởng giáo thế nào?
    Tiểu Linh Thố mỉm cười:
    - Thiếp nghe phụ thân kể rằng nàng ta không xấu nhưng thân hình thô kệch, khôi vĩ. Vì vậy, chẳng ai dám lấy Hải Tụy Nhàn cả.
    Tiểu Ngưu cười hì hì:
    - Tiểu đệ to xác nên rất ái mộ những vị cô nương khôi vĩ. Giá mà biết sớm hơn, tiểu đệ sẵn sàng hỏi Hải tiểu thư làm vợ.
    Sơn Đông Tử Phòng vuốt râu hỏi Chính Lan:
    - Lão e rằng Thiên Ảo cung đã dùng mỹ nam kế lôi kéo Hỏa giáo vào cuộc. Nếu không có dã tâm, làm gì có việc cả hai lực lượng ấy di dời vào cả Trung Nguyên. Một là họ muốn xưng vương, chiếm lấy ba tỉnh tây bắc. Hai là họ sẽ tiếp tay cho quân Mãn Thanh.
    Tây Môn Tố Bình sợ hãi nói:
    - Chẳng lẽ Hỏa giáo lại hành động hồ đồ như vậy?
    Chính Lan thở dài đáp thay Từ lão:
    - Từ ngàn xưa, miếng đỉnh chung vẫn là mục tiêu của nhiều người. Vùng tây bắc vốn chẳng phải đất Trung Hoa. Do đó, mỗi khi triều đình trung ương suy yếu lại có kẻ muốn tách ra thành lãnh thổ riêng. Nay Thiên Ảo cung chủ và giáo chủ Hỏa giáo đều là người tài ba lỗi lạc, thế lực hùng mạnh, tất chẳng bỏ lỡ cơ hội.
    Tố Bình rầu rĩ lắc đầu:
    - Chắc không phải do tham vọng. Mà vì hạnh phúc của ái nữ nên giáo chủ sư bá mới dấn thân vào vũng nước đục đấy thôi.
    Tử Quỳnh hỏi ngay:
    - Sao giáo chủ không gả Hải Tụy Nhàn cho một đệ tử nào đấy?
    Tố Bình cười khổ:
    - Giáo qui không cho phép người đồng giáo lấy nhau.
    Trại Tây Thi Du Mĩ Kỳ bật cười:
    - Tướng công, hay là chúng ta tổ chức đánh cướp tân nương. Trước là phá vỡ liên minh, hai là để Tiểu Ngưu có được vợ xứng đôi.
    Ý kiến này quả là tuyệt diệu, được mọi người tán thành. Chính Lan cẩn thận hỏi lại:
    - Bình muội, tính tình của Tụy Nhàn thế nào?
    Tiểu Linh Thố trấn an:
    - Thiếp nghe ba vị sư thúc kể rằng Hải sư tỷ cao lớn hơn cả nam nhân, nhưng tính nết thuần hậu, hiền lành. Nàng giỏi võ công và rất khoẻ, nhưng chẳng bao giờ gây gổ với ai.
    Tiểu Ngưu khoan khoái cười vang:
    - Thế thì được, tiểu đệ chỉ sợ nàng dữ dằn như các đại tẩu đây thì nguy to.
    Thục Nghi trợn mắt:
    - Con trâu nước kia, sao ngươi dám chê bai chị em bọn ta?
    Tiểu Ngưu sợ nhất là nàng, nên tái mặt, ấp úng:
    - Tiểu đệ chỉ nói đùa thôi, chư vị xinh đẹp và hiền lành nhất thế gian.
    Giọng điệu nịnh hót của gã khiến mọi người phì cười. Kính Hồ Tiên Cơ Tiêu Uyển Như thỏ thẻ góp lời:
    - Thiếp chỉ sợ Hải giáo chủ đích thân đưa tân nương về nhà chồng, làm sao chúng ta cướp được kiệu hoa?
    Tây Thục nhất hùng Chu Điện Kiệt khề khà nói:
    - Lão phu có một kế mọn, mong Từ lão và mọi người thẩm xét xem sao.
    Chu lão bèn nói ra, ai nấy đều thán phục. Giang Tô đại hiệp Du Huỳnh khoan khoái bảo:
    - Kế di hoa tiếp mộc này qủa là kỳ diệu.
    ° ° °
    Hai tháng sau, đúng ngày mười hai tháng sáu, Chính Lan, Tây Môn Tố Bình và Tiểu Ngưu có mặt ở chân núi Thiên Thủy sơn cách thành Lan Châu sáu dặm.
    Hôm nay, Hồng Nhị Điểm Âu Dương Tiểu Ngưu trông oai vệ và chỉnh tề. Bộ võ phục màu lam rất vừa vặn với thân hình hộ pháp của gã. Hàng râu mép xanh rì càng tăng thêm phần lịch lãm. Trông gã có vẻ giống người đi cầu hôn hơn là đi dự đám cưới, vì trên tay là một rương gỗ cẩn xà cừ rất sang trọng.
    Nghe Tây Môn Tố Bình tự giới thiệu, bọn đệ tử Hỏa giáo mừng rỡ đưa họ lên núi. Hỏa chân nhân được tin con gái và rể quí đến dự lễ cưới, lòng vừa hoan hỉ, cũng vừa kinh ngạc. Lão đang chỉ huy việc trang hoàng đại sảnh, chuẩn bị cho lễ Vu Qui của cháu gái, vội chạy ra cửa đón. Tây Môn Nhỉ rất tự hào về chàng rể của mình, định nhân dịp này giới thiệu Chính Lan với toàn giáo.
    Quả thực là mọi người đều nhìn Âu Dương Chính Lan với cặp mắt ngưỡng mộ vô bờ. Ai cũng biết chàng là đệ nhất cao thủ Trung Nguyên, chiến tích lẫy lừng, cả người võ lâm lẫn thường dân đều biết tiếng. Nhưng con người và phong thái của Chính Lan cực kỳ giản dị, tự nhiên và dễ thân cận, tha nhân nhìn chàng, chẳng hề thấy xa cách, mà có cảm giác như đôi mắt ấm áp kia đang cười với họ.
    Hỏa chân nhân cười ha hả:
    - Quí hóa thực, không ngờ hiền tế lại chịu khó lặn lội đường xa, đến đây dự ngày vui của bổn giáo khiến bần đạo được nở mày, nở mặt.
    Chính Lan mỉm cười:
    - Tuy không được mời nhưng tiểu tế là rể của Hỏa giáo, lẽ nào lại dám vắng mặt.
    Tố Bình phụng phịu trách:
    - Phụ thân chỉ khen có mình tướng công thôi sao? Hài nhi cũng là người có lòng chớ bộ.
    Chân Nhân phì cười:
    - Bình nhi đã có chồng mà còn dám nhõng nhẽo với ta ư? Ta khen ngợi Chính Lan tức là ngươi cũng được thơm lây đấy. Mau theo ta vào bái kiến giáo chủ sư bá.
    Chân Nhân dẫn ba người đi xuyên khách sảnh, ra vườn hoa phía sau. Hàng trăm gian lều da xinh xắn nằm ôm lấy sườn núi, ẩn hiện dưới tàn lá rậm rạp của rừng tùng. Và chót vót trên đỉnh núi chính là tòa thánh điện thiêng liêng của Hỏa giáo kiến trúc hoàn toàn bằng gỗ và da, trông giống như ngọn lửa đang bốc cao.
    Tây Vực là đất thảo nguyên, dân cư sinh sống bằng nghề chăn thả gia súc. Thời tiết Tây Vực cực kỳ khắc nghiệt, có vùng hạn hán kéo dài đến mấy năm liền sông, hồ, ao, suối đều cạn nước, trở thành đất chết. Lúc ấy, người phải lùa gia súc đi phương bắc, và mang theo tất cả tài sản của mình. Tất nhiên bọn Chính Lan chẳng lên thánh điện làm gì. Chân nhân đưa họ vào tòa nhà lớn nhất ở cuối vườn hoa. Phu thê giáo chủ và Hải tiểu thư đang ngồi ở tiền sảnh bàn bạc gì đó. Tây Môn Nhỉ hoan hỉ nói:
    - Giáo chủ sư huynh, tiểu nha đầu Tố Bình cùng phu quân mang lễ vật đến mừng ngày đại hỉ của Nhàn nhi.
    Hải giáo chủ vui vẻ bảo:
    - Không ngờ vợ chồng Bình nhi lại có lòng như vậy, ta vô cùng hoan hỉ.
    Tố Bình vội giới thiệu:
    - Bẩm giáo chủ và phu nhân đây là chuyết phu Âu Dương Chính Lan và gia đệ Âu Dương Tiểu Ngưu.
    Hải giáo chủ cười khà khà:
    - Lão phu vẫn ngưỡng mộ oai danh của điệt tế, nay diện kiến càng thêm yêu mến. Tây Môn sư đệ quả là khéo chọn rể.
    Chính Lan kính cẩn đáp:
    - Bọn tiểu điệt có chút lễ vật chúc mừng, mong giáo chủ sư bá thu nhận cho.
    Tiểu Ngưu bước đến, đặt rương gỗ lên bàn rồi mở nắp. Mười món nữ trang bằng vàng cẩn bảo ngọc tỏa sáng lấp lánh trên nền vải nhung đen. Chúng trị giá không dưới ngàn lượng vàng. Giáo chủ phu nhân và Tụy Nhàn chưa bao giờ thấy vật gì đẹp hơn thế mừng rỡ ồ lên. Hải phu nhân buột miệng tán dương:
    - Chúng còn đẹp và quí giá hơn cả lễ vật nghinh hôn của Thiên Ảo cung nữa.
    Hải giáo chủ vội hắng giọng nhắc nhở phu nhân đừng vạch áo cho người xem lưng, và ông cười ha hả để khỏa lấp:
    - Vợ chồng ngươi tặng lễ vật hậu thế này khiến ta thêm áy náy. Nào sao không ngồi xuống đi?
    Lúc này, Tụy Nhàn đã phát hiện ra ánh mắt của chàng khôi vĩ kia đang nhìn mình say đắm. Nàng thẹn thùng cúi mặt, thầm nghĩ vẩn vơ: “Phải chăng trời đã sinh người ấy để dành cho ta? Bên cạnh chàng, ta thực sự là một nữ nhân nhỏ bé.”
    Nhưng sắp đến ngày xuất giá, Tụy Nhàn chẳng dám suy nghĩ nhiều, chỉ dám nhìn Tiểu Ngưu bằng ánh mắt ai oán tiếc nuối. Phần Tiểu Ngưu cũng vậy, gã rất mặc cảm khi đứng cạnh những nữ nhân bình thường, trông chẳng xứng đôi chút nào cả. Nay gặp Tụy Nhàn cao lớn hơn người, dung nhan lại mặn mà, thùy mị, bảo sao Tiểu Ngưu không say đắm như điếu đổ?
    Tố Bình nhìn thấy gã cứ nhìn Tụy Nhàn đắm đuối, chẳng biết e dè ai cả, vội đá mạnh vào ống quyển của gã. Tiểu Ngưu đau điếng, quay về với thực tại.
    Trong mấy ngày sau đó, Tố Bình luôn luôn quấn quít với Tụy Nhàn, bắt nàng đưa đi dạo cảnh Thiên Thủy sơn. Nhưng không hiểu sao lần nào họ cũng gặp huynh đệ Chính Lan. Tất nhiên Tố Bình chạy đến trò chuyện với phu tướng, và để Tụy Nhàn đàm đạo với Tiểu Ngưu.
    Người Tây Vực rất dạn dĩ nên Tụy Nhàn vui lòng làm quen với Hồng Nhị Điểm đại hiệp. Phu thê Chính Lan cũng ngồi gần đấy để làm bình phong cho đôi trai tài gái sắc.
    Cổ nhân có câu gần đèn thì sáng. Tiểu Ngưu được Chính Lan hết lòng dạy bảo nên tâm trí khai mở rất nhiều. Gã lại rắp tâm noi gương đại ca, cử chỉ ung dung, phóng dật và dễ mến. Gã nhớ lời dặn dò của Chính Lan, nên chẳng dám nói nhiều, chỉ gởi gắm ân tình qua ánh mắt. Phương pháp này xem ra vô cùng công hiệu, chỉ sau năm ngày, Hải cô nương đã xem Tiểu Ngưu là nam nhân hấp dẫn nhất thế gian. Nàng sa vào lòng gã nức nở nói:
    - Âu Dương công tử, chỉ tiếc rằng chúng ta gặp nhau quá muộn màng. Hai ngày nữa tiểu muội đã phải lên kiệu hoa về nhà chồng rồi.
    Tiểu Ngưu cảm động xiết chặt thân hình phổng phao của đại mỹ nhân. Gã nghiêm giọng hỏi:
    - Lòng ta đã nguyện phải lấy cho được nàng, dẫu chết cũng chẳng chịu bó tay. Nếu Nhàn muội thực lòng yêu thương ta thì việc lấy nhau chẳng khó gì.
    Tụy Nhàn đang đê mê trong vòng tay to như cột đình của Tiểu Ngưu, gật đầu ngay:
    - Tùy công tử xếp đặt, tiểu muội cũng chẳng thể sống thiếu chàng được. Tiểu Ngưu cúi xuống hôn lên má nàng rồi thì thầm gì đó.
    Tình tự thêm một lúc, Tụy Nhàn trở về biệt viện, tìm giáo chủ phu nhân.
    ° ° °
    Theo đúng chương trình đã thống nhất với Thiên Ảo cung, trưa ngày mười bảy tháng sáu, Hỏa giáo bày đại yến tống tiễn tân nương, để sáng hôm sau cô dâu lên đường về nhà chồng.
    Cuộc vui này chỉ toàn là người trong giáo phái, họ vui say đến tận nửa đêm mới tàn tiệc. Hải giáo chủ trở về phòng, khoan khoái uống chén trà thơm do giáo chủ phu nhân pha cho. Uống xong, lão lăn ra ngủ li bì, đến tận sáng hôm sau vẫn chưa tỉnh giấc.
    Giáo chủ phu nhân thản nhiên cho khiêng trượng phu ra xe, đốc thúc đoàn xa mã lên đường. Ngoài nhị vị hộ pháp, còn có năm mươi chức sắc của Hỏa giáo nữa. Tất nhiên, phu thê Chính Lan và Tiểu Ngưu cũng có mặt. Chỉ vắng có hai người đó là ngũ hộ pháp Bạch Trung và lục hộ pháp Bạch Quí! Hỏa giáo chủ đã tỉnh giấc khi vượt sông Hoàng hà. Ông bực bội hỏi:
    - Sao ngũ sư đệ và lục sư đệ không đi theo chúng ta?
    Giáo chủ phu nhân tủm tỉm cười:
    - Chắc họ cũng say mèm như ông chứ gì?
    Thực ra, hai người ấy không hề có mặt trong cuộc vui đêm qua.
    Đường xa đến bốn trăm dặm, xe hoa lại chẳng thể chạy như ăn cướp được, do đó, phải nghỉ lại dọc đường hết hai đêm, sáng ngày hai mươi mới đến được Bình Lang. Đoàn người ngựa dừng chân nơi cánh rừng thưa ở cửa tây thành, chờ họ đàng trai tới rước. Hải giáo chủ thấy chẳng có ma nào của Thiên Ảo cung ở điểm hẹn này, giận dữ nói:
    - Nhị sư đệ, ngươi chạy đến Lang sơn báo cho họ biết rằng tân nương đã đến.
    Tây Môn Nhỉ mau mắn phi ngựa đi ngay. Ba khắc sau, lão quay lại mặt mày tái mét:
    - Bẩm giáo chủ, Thiên Ảo cung đã rút sạch, chẳng còn một mống nào cả!
    Hải giáo chủ tưởng như sét đánh ngang tai, trợn mắt lắp bắp:
    - Thế là thế nào? Còn khách khứa thì sao?
    - Bẩm sư huynh, họ đang tụ tập dưới chân núi Bình Lang.
    Hải giáo chủ đấm ngực kêu trời:
    - Lão thất phu họ Phùng kia đã hại chết ta rồi. Không những Nhàn nhi lỡ một đời xuân sắc mà cả thanh danh của Hỏa giáo cũng bị vùi dưới bùn đen.
    Giáo chủ phu nhân cũng gào khóc như cha mất, nhưng nếu nhìn kỹ thì sẽ thấy mắt bà ráo hoảnh. Lát sau, phu nhân nắm áo giáo chủ mếu máo:
    - Ông tự hào là người đa mưu túc trí, sao không nghĩ ra cách vãn hồi cục diện đi?
    Hải giáo chủ vò đầu bứt tóc:
    - Chỉ còn một cách tìm ngay ra một chú rể khác, mời khách vào thành dự hôn lễ mới xong.
    Lão nhìn quanh, chỉ thấy có Chính Lan và Tiểu Ngưu là người ngoài giáo phái, liền hỏi:
    - Âu Dương điệt tế, chẳng hay lệnh đệ đã có gia thất chưa?
    Chính Lan mỉm cười:
    - Gia đệ vẫn còn phòng không chiếc bóng, nếu được giáo chủ chọn làm rể đông sàng, thì thật là đại phúc. Chỉ sợ Hải tiểu thư chê hắn thô lỗ mà thôi.
    Giáo chủ mừng rỡ, đến bên xe hoa, vén rèm lên hỏi:
    - Nhàn nhi, nay họ Phùng đã bội hôn, con có đồng ý lấy Âu Dương nhị công tử hay không?
    Tụy Nhàn bẽn lẽn đáp:
    - Hài nhi tùy phụ thân sắp đặt.
    Giáo chủ gật đầu hài lòng, nhưng vẫn còn lo lắng:
    - Nhị sư đệ mau trở lại Lang sơn lưu khách lại, chúng ta còn phải vào thành sắp xếp yến tiệc. Gấp gáp quá chưa chắc đã có chỗ đủ rộng rãi.
    Chính Lan vui vẻ nói:
    - Sư bá yên tâm, gia cửu phụ có sở hữu một tòa đại tửu lâu trong thành này. Tiểu điệt sẽ đi thu xếp ngay.
    Nói xong, chàng kéo Tiểu Ngưu đi vào thành. Hỏa chân nhân thì phóng ngựa đến Lang sơn.
    Hơn khắc sau, tiếng pháo cưới nổ vang rền, một đoàn người đông đảo tiến ra cửa tây. Đi đầu là Chính Lan, Tiểu Ngưu và các vị chưởng môn bạch đạo, kế tiếp là long đầu, thủ lĩnh của mười mấy bang hội khác. Theo sau là một trăm tay nhạc công y phục mới toanh. Tiếng đàn sáo dặt dìu với tiếng pháo rộn rã, khiến bách tính đổ ra xem. Hải giáo chủ ngỡ ngàng, không hiểu Chính Lan đã làm thế nào mà có ngay nghi lễ long trọng như thế? Nhất là bộ y phục tân lang trên người Tiểu Ngưu, vừa vặn như đã đặt may sẵn vậy. Nhưng giáo chủ chẳng còn thời gian để suy nghĩ, vội vòng tay chào các chưởng môn.
    Trong hàng ngũ các chưởng môn có một lão già lạ mặt, mặc đại bào mới rất sang trọng. Lão bước ra vái chào phu thê giáo chủ rồi sang sảng nói:
    - Lão phu là Tây Thục nhất hùng Chu Điện Kiệt, cửu phụ của anh em nhà Âu Dương, xin thay mặt đàng trai. Kính thỉnh phái đoàn thông gia nhập thành.
    Hải giáo chủ gượng cười, nói giả lả vài câu khách sáo, rồi ra lệnh cho phe mình khởi hành. Xe hoa đi trước, có tân lang cỡi ngựa song song, kế đến là đàng trai và đàng gái. Phái đoàn Hỏa giáo cảm thấy như đang đi trong mơ, vì hai bên đường treo đầy những đèn hoa chúc đỏ thắm và bách tính hô vang:
    - Cầu chúc Âu Dương nhị công tử và Hải cô nương bách niên giai lão.
    Hải giáo chủ lờ mờ hiểu ra mình đang rơi vào một vở tuồng được dàn dựng sẵn. Nhưng ông hoàn toàn hài lòng khi thấy đám cưới con gái mình lại được tổ chức linh đình như vậy. Giáo chủ phu nhân thì khỏi nói, bà cười toe toét luôn miệng không sao ngậm lại được.
    Khi đến tòa tửu lâu đồ sộ, mới thấy hết được vẻ huy hoàng của hôn lễ. Hơn ngàn thực khách ngồi chật ních hai trăm bàn tiệc. Họ đều là những người có danh phận trong võ lâm. Ai nấy đều vui say, và chẳng hề nhắc đến Thiên Ảo cung một lần nào cả. Hải giáo chủ sung sướng đến nỗi say mèm, chẳng còn nhớ là mình bị lừa nữa.
    ° ° °
    Khi trở về tổng đàn Hỏa giáo ở Lan Châu, Hải giáo chủ cho gọi ngũ, lục hộ pháp lên hỏi chuyện. Ông nghiêm khắc nói:
    - Vì sao Thiên Ảo cung lại đột ngột rút khỏi Lang sơn, hai người mau kể cho ta nghe thử.
    Bạch Trung không hề sợ hãi, cười khanh khách:
    - Sư huynh biết không, tiểu quỉ Chính Lan quả là thần thông quảng đại, điều động được cả võ lâm. Đêm mười tám, tiểu đệ và lục sư đệ đến nơi thì hơn ngàn khách mời đã sẵn sàng cả rồi. Cuối canh hai, họ giả làm quan quân, bất ngờ kéo lên núi Lang sơn, khua chiêng gõ trống vang trời, hệt như sắp làm cỏ Thiên Ảo cung. Tiểu đệ và Bạch Quí lên trước, tung liền mười tám trái Đảo Thiên thần đạn. Tuy chẳng ai chết, nhưng họ Phùng lại tưởng quan quân đem cả đại pháo đến, liền đốc đệ tử bỏ núi đào tẩu.
    Lục hộ pháp ôm bụng cười ngấp, cướp lời sư huynh:
    - Lúc quần hào lên đến nơi, thả cho gà vịt, heo bò chạy tán loạn. Cảnh ấy thật không nín cười được.
    Hải giáo chủ đập bàn, hầm hầm quát:
    - Hai ngươi thật là quá lắm, dám qua mặt lão phu, tự ý làm càn.
    Bỗng ông sực nhớ ra:
    - À, ta quên mất. Lại còn thêm cái tội ăn trộm Đảo Thiên thần đạn nữa chứ. Bảo bối ấy ta giấu kín trong phòng, sao hai ngươi lại lấy được?
    Bạch Trung cười hì hì:
    - Sư huynh tuy là giáo chủ, nhưng bọn tiểu đệ chẳng dám cãi lời đại sư tẩu. Mong sư huynh lượng thứ cho.
    Hải giáo chủ biến sắc:
    - Té ra chính bà ấy đã chủ sở ư?
    Ông cho hai sư đệ lui ra, rồi vào phòng bàn bạc với phu nhân. Hai ngày sau, Hỏa giáo dọn lều trở lại đất Tây Vực. Tòa đại sảnh là tài sản của một đệ tử người Hán giàu có, được hoàn trả lại cho lão.
    Ba vị hộ pháp họ Bạch được lệnh mang thư đi Vu Hồ, và sẽ ở lại bảo vệ Hải tiểu thư. Họ đã mến cảnh Trung Nguyên nên vui vẻ khởi hành.
    ° ° °
    Cuối tháng tám, tam vị hộ pháp đến Vu Hồ, trao thư cho nhị sư huynh là Hỏa chân nhân Tây Môn Nhỉ. Không hiểu trong thư viết gì mà chân nhân lộ vẻ ưu tư, mời Chính Lan và các lão nhân lên bàn bạc. Ông còn bảo Giang Tây Thần Bộ Trịnh Thiều đi gọi Quí Thành Lâm đến.
    Mấy khắc sau, họ Quí xuất hiện, thấy gương mặt mọi người nặng nề như đưa đám, gã rụt rè hỏi:
    - Chẳng hay đã xảy ra sự cố gì trọng đại mà chư vị có vẻ lo lắng như vậy được?
    Chính Lan mỉm cười:
    - Đại ca cứ ngồi đi đã.
    Chờ Thành Lâm nhấp mấy hớp trà, chàng mới hỏi tiếp:
    - Chẳng hay việc thu hồi tài sản ở phương bắc đã tiến hành đến đâu rồi?
    Quí Thành Lâm đắc ý nói:
    - Ta đã sang nhượng được hầu hết các cửa hiệu, mối lái, thu hồi được hai phần ba tài sản. Cộng với số vốn của Chu cửu phụ và Du đại thúc, ta đã thành lập được một đội thương thuyền ba chục chiếc và xây dựng xong mười kho hàng, cửa hiệu ở Quảng Châu.
    Thì ra Tây Thục nhất hùng Chu Điện Kiệt và Giang Tô đại hiệp Du Huỳnh đã hùn hạp với họ Quí để làm ăn.
    Hỏa chân nhân tiếp lời Chính Lan:
    - Thế còn nơi ăn ở thì thế nào?
    - Bẩm bá phụ, tiểu điệt đã mua hai tòa trang viện rất lớn ở cạnh bãi biển phía nam.
    Tây Môn Nhỉ là bái huynh của Quí tài thần nên Thành Lâm xưng hô như vậy.
    Chân nhân gật gù:
    - Tốt lắm, hiền điệt hãy về thưa với lão thái, rồi đưa cả gia tộc đi ngay Quảng Châu, nếu chậm trễ tai họa sẽ không lường nổi. Đám thê tử Chính Lan cũng sẽ đi cùng Quí gia.
    Thành Lâm ngơ ngác hỏi lại:
    - Quân Mãn Thanh chưa phá nổi Sơn Hải Quan, đâu cần phải cấp bách như vậy?
    Chân Nhân cười khổ:
    - Rợ Mãn chưa vào nhưng lực lượng tiên phong của chúng đã có mặt, và một trong những mục tiêu đầu tiên chính là Quí gia trang.
    Thành Lâm sợ hãi thưa:
    - Mong bá phụ nói rõ hơn cho tiểu điệt được tỏ tường.
    Hỏa chân nhân tư lự kể:
    - Đại sư huynh của bần đạo là giáo chủ Hỏa giáo đã viết thư, tiết lộ một bí mật kinh người. Đó là việc Thiên Ảo cung chủ Phùng Thiệu Đính đã được quân Mãn Thanh hứa sẽ cắt cho ba tỉnh tây bắc. Đổi lại, họ Phùng phải dốc hết lực lượng khuấy rối Trung Nguyên. Hiện nay, Thiên Ảo cung chủ đã luyện thành tuyệt học, đồng thời đào tạo được ba trăm gã Ảo Quỉ vô cùng lợi hại. Bọn Ảo Quỉ này vốn là người của bộ tộc Ngạc Luân Xuân ở phía bắc dãy Âm sơn. Họ không cao lớn nhưng vô cùng dũng mãnh và hiếu chiến. Phùng lão quỉ đã dùng dược vật làm tăng sức mạnh cũng như tính khát máu của họ. Lão còn đem khinh công Thiên Ảo Thân Pháp và sáu chiêu trong pho Ảo Kiếm ra huấn luyện bọn Ảo Quỉ. Do đó, chúng trở thành những sát thủ cực kỳ khó chịu.
    Chân nhân dừng lại, nhấp hớp trà thấm giọng, rồi kể tiếp:
    - Đáng sợ nhất là việc Thiên Ảo cung chủ đã mời được lão đại ác ma Biển Bức Lão Tổ bào huynh của Miêu Ưng Lão Tổ. Lão này tên gọi Phương Liên Khai, ẩn cư ở vùng núi đá vôi cách Âm sơn ba trăm dặm. Đàn dơi của lão đông đến mấy vạn con, mỗi con chỉ nhỏ bằng con chim sẻ, nhưng rất hung dữ và khát máu. Răng và móng của chúng đều có độc, chỉ cào trầy da là nạn nhân khó sống. Với hai vũ khí Ảo Qủi và Biển Bức, Thiên Ảo cung sắp làm cỏ các phái Trung Nguyên.
    Thành Lâm gượng cười:
    - Nhưng tiểu điệt chưa nghe được điều gì liên quan đến Quí gia trang cả
    Hỏa chân nhân khề khà:
    - Từ từ rồi ta sẽ nói đến. Chắc Quí hiền điệt cũng biết rằng làm nên cơ nghiệp thì ai cũng phải có vốn liếng. Người Mãn chỉ hứa hẹn suông chứ đâu cung cấp tài chính cho Thiên Ảo cung. Vì vậy, lão họ Phùng quyết định nhân dịp này đưa đội quân ma quỉ đi vơ vét của cải khắp nơi. Mà Quí gia trang được xưng tụng là giàu có nhất Trung Hoa, liệu bọn chúng có chịu bỏ qua hay không?
    Quí Thành Lâm tái mặt, đứng lên nói:
    - Chết thật, tiểu điệt phải về thu xếp ngay mới được.
    ° ° °
    Hơn tháng sau, Thiên Ảo cung chủ và Biển Bức Lão Tổ đưa quân đến Nam Kinh. Họ ém lại ở cánh rừng ngoại thành, cho trinh sát vào dọ thám mới biết gia tộc họ Quí đã dọn đi đâu không rõ, trang viện thì treo bảng bán. Cả căn cứ Vu Hồ cũng chẳng còn một bóng người.
    Hai lão ác ma vô cùng thất vọng, đành chuyển sang tấn công những mục tiêu khác. Trong suốt tháng chín, họ càn quét các nhà đại phú vùng Giang Nam, cướp được gần chục vạn lượng vàng. Không có một ai sống sót để làm nhân chứng cả. Chiến dịch giết người, cướp của với qui mô lớn này, đã làm chấn động võ lâm và bách tính.
    Bước sang tháng mười, Thiên Ảo cung làm thêm mười mấy vụ thảm sát nửa ở ba phủ Hồ Bắc, Hồ Nam, An Khánh. Hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang dốc toàn lực truy lùng mà chỉ hoài công.
    Quảng Tâm thiền sư và Thuần Thanh đạo trưởng vội đến Lạc Dương tìm Đại Đầu Cái.
    Lô bang chủ đã nhận được thư của Chính Lan nên biết rõ nội tình, nói lại cho hai vị chưởng môn kia nghe. Phương trượng Thiếu Lâm buồn rầu nói:
    - Không ngờ trong lúc vận nước suy vi thế này mà bọn ma đầu lợi hại kia lại xuất hiện. Nay Âu Dương thí chủ âm thầm qui ẩn, biết lấy ai diệt trừ ma chướng đây?
    Đại Đầu Cái mỉm cười:
    - Đâu thể trông cậy mãi vào Chính Lan, chúng ta phải tự lực tự cường mà thôi. Lão phu sẽ thông tri cho hai phái Hoa Sơn, Nga Mi biết mà chuẩn bị.
    Qua đầu tháng mười một, những vụ cướp kia bỗng thưa đi. Và Thiên Ảo cung chính thức chọn ngọn núi Phụng sơn cách thành Hứa Xương hai mươi dặm để làm căn cứ. Phùng cung chủ đã gởi thiệp mời các phái võ lâm đến dự lễ khai cung vào ngày rằm tháng tư. Sự kiện này càng khẳng định những điều Chính Lan đã tiết lộ. Nay Thiên Ảo cung đã vào đến đất Hà Nam trung tâm điểm của võ lâm, bảo sao bốn phái Võ Đang, Thiếu Lâm, Cái bang và Hoa Sơn không lo lắng?
    Nhưng họ không có bằng cớ để chứng minh Thiên Ảo cung là hung thủ của mấy chục vụ cướp vừa qua, đành im hơi lặng tiếng chờ đợi diễn biến của cục diện giang hồ. Năm vị chưởng môn bạch đạo âm thầm họp lại ở Lạc Dương. Đại Đầu Cái Lô Chính Ngôn là người đa mưu túc trí nhất bọn, nêu lên nghi vấn của mình:
    - Lão phu không lạ gì dã tâm của Thiên Ảo cung, chỉ thắc mắc vì sao họ không tổ chức lễ khai đàn ngay, mà lại hẹn đến tận rằm tháng tư?
    Đạo Huệ sư thái chưởng môn phái Nga Mi lên tiếng:
    - Bần ni cũng suy nghĩ mãi mà không tìm ra đáp án. Từ nay đến sang xuân có nhiều ngày đại cát, tốt lành hơn ngày rằm tháng tư, vì sao lại không được chọn?
    Khánh Hư chân nhân, chưởng môn Hoa Sơn phái, tư lự nói:
    - Bần đạo cho rằng chính sự biến mất của Âu Dương thí chủ đã khiến họ Phùng lo ngại. Trước khi nắm chắc rằng đủ sức giết Hồng Nhất Điểm, lão ta không dám mới quần hào đến Phụng sơn. Nếu hôm ấy Chính Lan xuất hiện, đòi mạng của Vô Ảnh hội chủ Đường Vĩnh Phục, lão bắt buộc phải nhận lời tỷ thí công bằng, lỡ thua thì cơ nghiệp nát tan.
    Thuần Thanh ung dung bảo:
    - Chân nhân luận việc rất có lý. Nhưng bần đạo lại có cảm giác rằng Thiên Ảo cung đang dùng kế hoãn binh để chuẩn bị cho một âm mưu gì đấy.
    Đạo Huệ sư thái mỉm cười:
    - Bần ni không tin rằng bản lĩnh của Thiên Ảo cung chủ Phùng Thiệu Đính lại vô địch như lời Hồng Nhất Điểm thí chủ đã nhận xét. Năm phái chúng ta đều có những bậc trưởng lão tuổi gần bách tuế, lẽ nào lại không hơn một người tuổi bảy mươi như họ Phùng? Nay Âu Dương thí chủ rời bỏ giang hồ, chúng ta phải tự lo thôi. Chờ đợi không bằng chủ động, bần ni đề nghị Quảng Tâm thiền sư phát võ lâm thiếp, mời hào kiệt thiên hạ đến dự đại hội công cử minh chủ. Thiên Ảo cung chủ tự hào võ công quán thế tất sẽ đến dự. Lúc ấy, các phái đưa cao thủ ra tranh tài với họ Phùng, giết chết lão là xong.
    Lời nói của sư thái đánh trúng vào khát vọng thầm kín trong lòng cử toạ. Năm phái đều có truyền thống hơn trăm năm, từng là cột trụ chống đỡ võ lâm. Thế mà, mấy năm nay, họ chỉ là ánh sao mờ bên cạnh bậc kỳ hiệp Âu Dương Chính Lan. Giang hồ chỉ nhắc đến Hồng Nhất Điểm đại hiệp, chứ không còn nhớ đến họ nữa.
    Các đệ tử Phật môn hoặc đạo gia vốn không màng danh lợi. Nhưng bốn người này lại là chưởng môn, gắn liền với vinh nhục của giáo phái, nên đạo tâm chẳng khỏi vướng bụi trần.
    Khánh Hư chân nhân phấn khởi tán thành:
    - Bần đạo ủng hộ cao kiến của Đạo Huệ sư thái.
    Quảng Tâm thiền sư và Thuần Thanh đạo trưởng cũng không phản bác, riêng Đại Đầu Cái thận trọng nói:
    - Lão phu chỉ sợ chúng ta vẽ phụng thành gà thì nguy to. Nếu không có trưởng lão nào của bạch đạo thắng nổi Thiên Ảo cung chủ, thì hóa ra chúng ta đã tự ý dâng chức minh chủ cho lão ta. Và trong cương vị ấy, họ Phùng càng dễ khống chế võ lâm.
    Đạo Huệ sư thái cười nhạt:
    - Bang chủ yên tâm, trước khi đến Lạc Dương, bần ni đã thuyết phục được sư thúc là Lãnh Diện thần ni xuất quan. Bà tiềm tu trên đỉnh Nga Mi sơn đã sáu mươi năm, võ công đạt đến mức đăng phong tháo cực, chẳng thể nào thua Phùng Thiệu Đính được.
    Lô bang chủ hiểu ngay rằng Đạo Huệ sư thái đã quyết dương danh phái Nga Mi, ông cười mát, không nói gì nữa.
    Cuối cùng, các phái chọn ngày rằm tháng giêng sẽ cử hành đại hội, địa điểm là núi Hoa sơn.

     
  4. vothanhbinh

    vothanhbinh Thành viên kích hoạt

    Tham gia ngày:
    30/3/14
    Bài viết:
    165
    Được thích:
    512
    Âu Dương Chính Lan

    Tác Giả:Ưu Đàm Hoa

    -- o --

    Hồi 16

    HỒNG NHAN HOẠ THUỶ BI THIÊN MỆNH
    CÔ CHƯỞNG NAN MINH NAM HẢI CƯ


    Nguồn:vnthuquan




    Tin này làm võ lâm khởi sắc. Tiền nhiệm minh chủ là Thất Bộ Thần Quyền Vương Quốc Trung tạ thế đã sáu năm. Nhưng lúc ấy Ngụy Trung Hiền còn nắm binh quyền, đã cấm không cho bầu minh chủ mới. Hào kiệt tam sơn ngũ nhạc hồ hởi đón chào thịnh hội. Họ mong cho mùa đông giá lạnh qua mau để lên đường đến Sơn Tây.
    Nhiều người ở vùng cực nam phải khởi hành ngay trong tháng chạp, cho khỏi lỡ kỳ hạn. Đối với khách giang hồ, việc vui xuân với thê nhi không quan trọng bằng việc tham gia võ lâm đại hội. Vì năm nào xuân cũng về nhưng thịnh hội kia rất lâu mới có một lần. Nhiều vị minh chủ sống dai đến nỗi ai cũng phải chán ngán.
    Trong số những hào khách ngược bắc có một hán tử râu rậm bó cằm. Gã có nước da rám đen của người quen vẫy vùng trên mặt biển. Cùng đồng hành với hán tử râu rậm ấy là đoàn kỵ sĩ đông đến mấy chục người. Không ai trong đám người ấy nhận ra lai lịch của gã. Họ có nằm mơ cũng chẳng dám nghĩ đến Hồng Nhất Điểm đại hiệp Âu Dương Chính Lan.
    Ba tháng qua chàng lênh đênh trên biển nam, để bảo vệ đoàn thương thuyền đi Nam Dương chuyến đầu tiên. Không phải mình chàng mà là cùng một số người thân. Trên đường đi, họ đã trải qua hàng trăm trận thủy chiến, giết hàng trăm tên hải tặc, đốt ba mươi bốn chiến thuyền. Vì vậy, kể từ nay, mỗi lần nhìn thấy đội thương thuyền cắm cờ đôi nheo thêu chữ Quí, là chúng bỏ chạy thật xa.
    Sáu mỹ nhân đã khóc lóc, van nài Chính Lan đừng dính vào ân oán võ lâm nữa. Chàng mỉm cười, hôn lên trán họ và dốc sức giúp Quí Thành Lâm khai trương ngành kinh doanh mới.
    Đến đầu tháng chạp, đoàn thương thuyền nhổ neo đi chuyến thứ hai. Chính Lan thản nhiên lên thuyền rời bến, nhưng chỉ được vài dặm, chàng đã xách hành lý nhảy xuống biển, bơi vào bờ.
    Cửu phụ chàng là Tây Thục nhất hùng Chu Điện Kiệt quá hiểu tính tình cháu ruột nên không ngăn cản, chỉ dặn dò chàng bảo trọng.
    Thì ra Chính Lan đã nhận được tin về đại hội võ lâm. Chàng không nói ra nhưng cùng một suy nghĩ như Đại Đầu Cái, sợ rằng Thiên Ảo cung chủ lên ngôi minh chủ thì có khác gì hổ thêm cánh. Vì vậy, chàng quyết định đến Hoa Sơn xem diễn biến thế nào.
    Hôm nay đã là gần cuối tháng chạp, Chính Lan tiến vào thành Hứa Xương. Chàng chọn tửu quán sang trọng nhất thành chẳng phải quen thói xa hoa, mà vì sợ đồng đạo nhận ra.
    Trên lầu ba của tòa Trung Nguyên đệ nhất tửu lâu này có rất ít hào khách võ lâm. Chính Lan yên tâm lột nón rộng vành và cởi áo choàng lông, để lộ một bộ y phục lạ lùng bằng da hải cẩu mà đen xám áo không tay, nút cài ở giữa.
    Đây là chiến lợi phẩm mà Chính Lan thu được trên một chiếc thuyền của bọn hải tặc biển nam. Nó rất gọn gàng, bền chắc, thích hợp với công việc của người thủy thủ nên Chính Lan rất thích. Tóm lại, giờ đây Chính Lan giống hệt như một gã hải tặc dạn dày nắng gió.
    Chén rượu thơm nồng chẳng làm ấm lòng người lữ khách. Chính Lan ngơ ngẩn ngắm nhìn ngọn núi Phụng sơn, thấp thoáng xa xa, nhớ đến làn da mịn màng, thơm mùi sữa của đám tiểu hài. Giờ này chắc vợ con chàng đang rộn ràng chuẩn bị đón năm mới.
    Trời đất vô tình nhưng con người lại là giống đa tình. Trong chiều đông lạnh giá, cô đơn này, cám cảnh lữ thứ không nhà, Chính Lan tự hỏi vì sao mình lại phải lao tâm khổ trí vì thiên hạ? Sinh linh đồ thán, lầm than, xã tắc suy vong là do lỗi của các hoàng đế nhà Minh, chứ nào phải của chàng? Đang suy nghĩ miên man, Chính Lan chợt giật mình vì một mùi khó chịu xộc vào mũi đó là mùi dơi.
    Trên Đại Tuyết sơn cũng có khá nhiều hang dơi nên mùi hôi hám, khai nồng của chúng chẳng lạ gì với chàng cả. Chính Lan liếc sang bàn bên, phát hiện có khách mới đến. Họ gồm sáu nam nhân áo gấm sang trọng, hông cài đơn đao, và lủng lẳng một bao lụa. Chàng định thần quan sát, thấy những vật trong bao cử động, biết ngay đám hán tử thâm thấp này là bọn Ảo Quỉ của Thiên Ảo cung. Chúng vừa ăn uống vừa nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ lạ tai của bộ tộc Ngạc Luân Xuân. Dĩ nhiên Chính Lan cũng chẳng hiểu gì.
    Hai khắc sau, sáu gã Ảo Quỉ rời tửu lâu. Chính Lan nấn nà thêm một lúc, nhớ đến vị bái huynh ở cửa tây thành, quyết định ghé thăm. Người này chẳng phải khách giang hồ, mà là một nho sĩ tài hoa. Trần Hồng Nhạn tuổi đã năm mươi, tinh thông thi phú và cầm kỳ thi hoạ. Lão góa vợ đã tám năm, chỉ có cô con gái Trần Viên Viên là niềm an ủi.
    Chính Lan quen Trần Hồng Nhạn trong một trà thất ở Hứa Xương cách nay năm năm cũng trong một ngày cuối đông như thế này. Biết chàng không có chốn đón xuân, lão lôi về nhà, cùng nhau ngâm vịnh, vui say suốt nửa tháng trời. Thời gian gặp gỡ tuy ngắn ngủi nhưng cũng đủ để hai người trở thành tri kỷ. Chính Lan và Trần Hồng Nhạn đều tâm đắc cả hai học thuyết Khổng, Lão.
    Trời sụp tối, Chính Lan mới đến được Trần gia trang. Gọi là gia trang cho thuận miệng, chứ thực ra cơ ngơi của họ Trần rất khiêm tốn, thanh bạch.
    Chỉ là mấy gian nhà gỗ, được vây quanh bởi hàng trúc thưa. Chính Lan xuống ngựa, đứng trước cửa rào, cao giọng gọi:
    - Trần huynh.
    Từ trong gian giữa, một thiếu nữ thon gầy xách đén lồng đi ra. Dưới ánh đèn, gương mặt râu ria, đen đủi của Chính Lan khiến nàng sợ hãi, ấp úng hỏi:
    - Chẳng hay tôn giá tìm gia phụ có việc gì?
    Chính Lan nhận ra thiếu nữ này là Viên Viên, con gái của họ Trần, tính ra nàng đã đến tuổi cập kê. Nhãn quang của chàng rất tinh tường nên dù ánh sáng lù mù, chàng vẫn thấy rõ dung nhan xinh đẹp của Viên Viên. Chàng không ngờ ở tuổi mười lăm, cô bé gầy gò năm xưa đã trở thành một tuyệt thế giai nhân.
    Chính Lan mỉm cười:
    - Viên nhi không nhận ra thúc thúc sao? Ta là Chính Lan đây.
    Viên Viên kinh ngạc, trợn tròn đôi mắt bồ câu đen láy, nhìn thật kỹ. Nàng mừng rỡ reo lên:
    - Nhị thúc.
    Không hiểu sao Viên Viên lại hân hoan đến nỗi đặt chiếc đèn lồng xuống đất, lao đến ôm lấy Chính Lan, úp mặt vào vai chàng khóc rấm rức như hờn trách chàng sao giờ này mới trở lại.
    Năm năm trước Viên Viên mới mười tuổi, gầy ốm và nhỏ bé. Nàng thường sa vào lòng Chính Lan nũng nịu vòi vĩnh, và bắt chàng phải cõng mình mà lướt thật nhanh trong khu rừng rộng sau nhà. Thương cô bé yếu đuối, côi cút, Chính Lan đã vui vẻ làm tất cả, để được nghe thấy những tiếng cười trong vắt.
    Giờ đây, mùi u hương xử nữ tỏa ra ngan ngát khiến Chính Lan bối rối. Chàng vuốt ve tấm lưng ong mềm mại, dỗ dành Viên Viên:
    - Viên nhi, thúc thúc vì quá bận rộn nên không đến thăm được, hãy tha lỗi cho ta.
    Viên Viên đưa bàn tay nuột nà bịt miệng chàng rồi cười khúc khích:
    - Nhị thúc chẳng có lỗi gì cả, Viên nhi biết hết những tao ngộ mấy năm qua trong đời nhị thúc nên đâu dám trách móc gì. Chẳng qua vì quá vui mừng nên sa lệ đấy thôi.
    Ánh mắt nàng chan chứa yêu thương và nụ cười đầy mị lực khiến Chính Lan phải thầm khen: “Con bé này còn kiều diễm, quyến rũ hơn cả các phu nhân của ta nữa.”
    Viên Viên cúi xuống nhặt chiếc đèn lồng, nắm tay chàng kéo đi:
    - Gia phụ đang đọc sách ở nhà sau. Gặp nhị thúc người sẽ rất hoan hỉ.
    Chính Lan bật cười:
    - Viên nhi vào trước đi, để ta cột ngựa lại đã.
    ° ° °
    Trần Hồng Nhạn vô cùng hân hoan khi được tái ngộ Chính Lan. Lão bảo Viên Viên bắt gì làm thịt, rồi ra vườn đào vò rượu quí chôn dưới gốc mai già lên đãi nghĩa đệ. Thức nhắm đam bạc nhưng rượu thì rất ngon. Lại thêm Viên Viên trổ tài cầm ca, ôm đàn tỳ bà hát tặng Chính Lan.
    Tiếng đàn, lời ca của nàng lúc thì thanh thoát, tươi vui, lúc thì trầm buồn, ai oán. Đôi mắt nhung huyền sâu thẳm thường nhìn Chính Lan như gửi gắm nỗi niềm. Trần Hồng Nhạn tửu lượng không bằng Chính Lan nên say trước, gục xuống bàn mà ngủ. Viên Viên mỉm cười rải đàn hát bài Võ Lăng Xuân của nữ sĩ Lý Thanh Chiếu:
    “Phong trụ trầm hương hoa dĩ tận
    Nhật vãn nguyệt sơ đầu
    Vật thị nhân thi sự sự hưu,
    Dục ngữ lệ tiên lưu.
    Văn thuyết song khuê xuân thượng bảo
    Dã nghi phiếm Khinh Châu
    Chỉ khủng song khuê chính mãnh châu.
    Tải bất động hứu đa sầu.”(21)
    Bài từ Vĩ Lăng Xuân này chính là dòng huyết lệ của Dị An cư sĩ Lý Thanh Chiếu khóc người chồng bạc mệnh. Và trên gương mặt đẹp mê hồn của Viên Viên, đôi dòng châu cũng lã chã tuôn rơi theo từng nốt nhạc.
    Chính Lan như bị nhận chìm trong nỗi sầu mênh mang, da diết ấy.
    Chàng rùng mình nốc cạn ba chén rượu, gượng cười:
    - Viên nhi còn quá trẻ sao lại hát chi khúc nhạc não nùng của người góa phụ như vậy?
    Viên Viên buông đàn, nhìn sâu vào đáy mắt Chính Lan, bùi ngùi nói:
    - Năm trước, Viên nhi nghe tin công tử bỏ mình dưới vực thẳm Vân Mộng sơn, nên đâm ra yêu thích bài từ này.
    Chính Lan choáng váng, lờ mờ đoán ra nỗi lòng của Trần Viên Viên. Chàng thầm e ngại, đứng lên nói giả lả:
    - Ta cũng say lắm rồi, Viên nhi lo dọn dẹp còn nhị thúc sẽ đưa Trần huynh vào phòng.
    Nói xong, Chính Lan bế xốc Trần Hồng Nhạn, đưa vào trong rồi trở về phòng dành cho khách. Đó là tòa nhà gỗ nhỏ chỉ có hai phòng, nằm ở mé hữu nhà chính. Chàng ngạc nhiên khi thấy tòa tiểu xá này được quét dọn rất sạch sẽ, như có người ở thường xuyên. Chính Lan cũng đã quá chén nên không suy nghĩ nhiều, cởi áo gieo mình lên nệm, thiếp đi. Chàng đã từng ngủ ở đây một thời gian dài nên không e ngại vào lộn phòng cha con Hồng Nhạn đều ở cả nhà trên. Dù có là cao thủ đệ nhất thì khi say vẫn ngủ vùi như chết, đó chính là cái hại của rượu vậy.
    Hơn khắc sau, Trần Viên Viên đã đẩy cửa bước vào. Nhìn thấy Chính Lan đang nằm trên giường, nàng mỉm cười sung sướng nhưng gương mặt đỏ hồng vì e thẹn.
    Thân hình rắn rỏi, rám nắng của Chính Lan đã hút chặt ánh mắt của Viên Viên. Nàng tần ngần một hồi rồi cởi xiêm y, chỉ còn lại mảng yếm đào. Cơ thể nàng khá nảy nở so với số tuổi mười lăm. Viên Viên vuốt ve gò bồng đảo săn chắc của mình như muốn tự trấn an, rồi trèo lên giường. Nàng run rẩy vòng tay qua bờ ngực trần của Chính Lan, rúc đầu vào vai chàng hít lấy mùi nam nhân nồng ấm.
    Lát sau, Chính Lan thức giấc vì cảm nhận được làn da mềm mại, mịn màng và mùi u hương phảng phất. Sự sợ hãi đã khiến chàng tỉnh táo, thoát khỏi trạng thái mụ mị của cơn say. Chàng không mở mắt nhưng vẫn đoán ra nữ nhân đang ôm mình là ai. Chính Lan thở dài bảo:
    - Sao Viên nhi không về phòng ngủ mà lại đến đây?
    Viên Viên xiết chặt vòng tay như sợ chàng ngồi dậy, thỏ thẻ:
    - Đây là khuê phòng của Viên nhi mà. Hơn năm nay Viên nhi đã dọn sang đây ở.
    Chính Lan toát mồ hôi:
    - Chết thực, ta quả vô ý. Ngàn lần mong Viên nhi lượng thứ cho.
    Chàng gượng ngồi dậy, nhưng Viên nhi đã trườn lên người chàng, nức nở khóc:
    - Công tử đừng đi, từ lúc nghe tin chàng còn sống, tiểu muội đã mòn mỏi chờ đợi giây phút này. Viên Viên thề chỉ lấy mình chàng mà thôi.
    Chính Lan sợ nàng khóc lớn, khiến Trần Hồng Nhạn tỉnh giấc, liền vỗ nhẹ lên lưng nàng:
    - Viên nhi mau mặc y phục vào rồi hãy nói chuyện. Lỡ Trần huynh thấy cảnh này, ta chỉ có cách tự sát mà thôi.
    Viên Viên thôi khóc, cười rúc rích:
    - Nhị thúc đừng lo, gia phụ đã say rượu là ngủ một giấc đến chiều hôm sau mới tỉnh.
    Té ra lòng Viên Viên cùng bối rối nên cách xưng hô cũng bất nhất, lúc thì công tử, lúc thì nhị thúc. Chính Lan đành bó tay, buồn rầu nói:
    - Sao Viên nhi lại nỡ đưa ta vào cảnh bất nghĩa thế này? Ta là nghĩa thúc của ngươi, đâu thể kề cận nhau được.
    Viên Viên bướng bỉnh đáp:
    - Ngày xưa nhị thúc vẫn thường ẵm bồng Viên nhi, sao giờ lại ngại ngùng?
    Và rồi nàng bật khóc, kể lể:
    - Nhị thúc đừng khinh rẻ Viên nhi. Từ ngày trở thành thiếu nữ, không hiểu sao hình bóng nhị thúc cứ vương vấn mãi trong lòng. Gia phụ lại thường lui tới trà thất, nghe kể về những chiến công lẫy lừng của nhị thúc, rồi về thuật lại cho Viên nhi nghe. Dần dần niềm ngưỡng mộ kia trở thành mối tương tư lúc nào cũng chẳng hay. Viên nhi biết mình xinh đẹp nên nuôi mộng sánh đôi với bậc đại anh hùng, lẽ nào lại là tội lỗi?
    Chính Lan cảm động, nhưng chẳng thể nào chấp nhận được mối si tình này. Chàng cố biện giải cho Viên Viên hiểu:
    - Viên nhi cũng biết là ta có đến sáu vị phu nhân. Thú thực là họ tuy xinh đẹp nhưng không thể sánh với nàng. Nếu Viên nhi về làm vợ ta, chẳng phải là đã chịu thiệt thòi hay sao? Nhan sắc của Viên nhi đáng bậc mẫu nghi thiên hạ, chỉ cần đến được đế đô là sẽ lọt vào mắt xanh của hoàng đế. Nếu Viên nhi đã mộng lấy cho được đệ nhất nhân, nhị thúc sẽ thu xếp cho cha con ngươi đi Bắc Kinh. Nhị thúc quen với thái giám Trần Trung, tổng quản cấm cung, chắc chắn sẽ đưa được Viên nhi vào hầu thánh thượng.
    Chính Lan nói một hơi dài, khô cả cổ, thế mà Viên Viên nũng nịu lắc đầu:
    - Viên Viên chỉ yêu mình công tử mà thôi. Chàng mà chê bỏ, tiểu muội sẽ cắn lưỡi tự sát ngay bây giờ.
    Chính Lan đành đầu hàng cô gái si tình đến mức cuồng dại này, đành gật đầu hoãn binh:
    - Thôi được, nhị thúc hứa rằng sáng mai sẽ bàn lại với Trần huynh. Viên nhi hãy để ta trở về phòng.
    Viên Viên hân hoan, hôn nhanh hai má chàng, rồi ngồi dậy. Chính Lan mặc lại áo, đi lên nhà trên ngủ chung với Hồng Nhạn. Họ Trần vẫn ngáy vang, chẳng hay biết gi cả. Chính Lan nằm xuống cạnh lão, suy nghĩ về Viên Viên.
    Chàng biết mình không bao giờ lấy nàng. Sáu người vợ kia đã quá đủ cho đời một nam nhân. Chính Lan hài lòng với quyết định ấy, và khoan khoái đi vào giấc ngủ.
    Mờ sáng, Chính Lan cố lay Trần Hồng Nhạn tỉnh giấc, kể lão nghe mọi chuyện. Chàng trao cho lão mười nén vàng rồi âm thầm rời gia trang.
    Chính Lan không ngờ mình đã phạm sai lầm khi từ chối mối tình của Trần Viên Viên. Ba năm sau, Trần Hồng Nhạn lâm bạo bệnh đột tử. Viên Viên phải lên Bắc Kinh nương tựa một người biểu thúc. Lão này đã bán nàng vào thanh lâu, trở thành đệ nhất danh kỹ đất đế đô.
    Tổng đốc Sơn Hải Quan Ngô Tam Quế đã chuộc nàng về làm ái thiếp. Khi Sấm Vương Lý Tự Thành chiếm được Bắc Kinh, lại bắt Viên Viên làm vợ mình. Chính vì vậy mà Ngô Tam Quế đã mở cửa quan ải, rước quân Mãn Thanh vào.
    Trần Viên Viên chỉ là một cô gái bất hạnh, không có tội gì với non sông. Vì vậy, Chính Lan cũng chẳng có lỗi, chàng chỉ hành động theo đúng lương tri của một bậc chính nhân.
    Thôi thì chúng ta cứ mặc cho con tạo trớ trêu, trở lại với đại hội Hoa Sơn.
    ° ° °
    Sáng ngày rằm tháng riêng, ba ngàn hào kiệt Trung Nguyên tụ tập ở bình đài trên sườn núi Hoa Sơn. Sơn Tây là vùng cao nguyên, có khí hậu lạnh nhất khu vực Hoa Bắc. Cho nên, đã là giữa tháng riêng mà tuyết vẫn rơi mau, ánh dương quang mùa xuân nhợt nhạt, và trời vẫn rét cóng xương.
    Trong thời tiết này, ai cũng co ro trong áo ấm, mũ lông, khó mà nhận rõ dung mạo. Vì vậy, Chính Lan không sợ có người nhận ra. Giữa giờ thìn, năm vị chưởng môn bạch đạo từ trên Thái Hư đạo quán của Hoa Sơn đi xuống, bước lên lôi đài, cúi chào quần hùng. Quảng Tâm thiền sư phương trượng chùa Thiếu Lâm cao giọng tuyên bố:
    - A di đà phật, kính cáo đồng đạo võ lâm, mấy năm nay thiên hạ loạn lạc, khắp nơi đạo tặc tung hoành, hà hiếp lê dân. Chúng ta là những người học võ, lẽ nào không vì dân mà trừ hại? Chính vì lẽ ấy, lão nạp cùng bốn vị chưởng môn đây quyết định tổ chức đại hội võ lâm, bầu ra một minh chủ thay cho cố minh chủ Thất Bộ Thần Quyền Vương Quốc Trung. Có được minh chủ rồi, nhất hô bá ứng, hiệu lệnh phân minh, mới mong quét sạch cường đạo, tạo phúc cho bách tính.
    Thiền sư dứt lời, toàn trường hoan hô nhiệt liệt. Đến lượt Đại Đầu Cái Lô Chính Ngôn phát biểu:
    - Cũng như những lần đại hội trước, qui củ không có gì thay đổi, nghĩa là không giới hạn tuổi tác, dân tộc. Chỉ tuyệt đối cấm dùng ám khí, độc dược, độc vật để ám toán. Ban giám đài sẽ thẩm xét và quyết định ai là người đủ tư cách tham gia. Mong chư vị nhanh chóng đăng ký.
    Lô bang chủ nói xong, cùng bốn vị kia lui về chỗ ngồi của ban giám đài ở mép phía bắc lôi đài. Quần hào xôn xao bàn tán nói cười, đốc thúc bằng hữu, đồng môn thượng đài. Nhưng đâu phải ai cũng dám đứng trước võ lâm mà diễu võ dương oai. Kỳ đại hội nào cũng có cảnh máu chảy đầu rơi, xương tan thịt nát. Cái danh vị minh chủ võ lâm đã khiến người ta điên cuồng, xuất thủ cực kỳ độc ác. Hơn khắc sau vẫn chưa có ai lên tiếng cả. Thiên Ảo cung chủ mỉm cười, cao giọng:
    - Bổn nhân là Phùng Thiệu Đính, cung chủ Thiên Ảo cung ở Phụng sơn, xin đăng ký mở màn.
    Thiên Ảo cung ẩn dật ở Âm sơn mấy chục năm, mới vào Trung Nguyên, nên ít ai biết trình độ võ công của họ Phùng thế nào. Thấy lão mở đường có mười mấy cao thủ các địa phương hưởng ứng theo.
    Cuối giờ thìn, số người trong danh sách đã lên đến ba mươi sáu thí sinh, lúc này mới đến lượt năm phái bạch đạo.
    Từ vị trí của các đệ tử phái Nga My, một lão ni lông mày dài, bạc trắng, mặt lạnh như sương, cất tiếng:
    - Bần ni là Lãnh Diện, trưởng lão phái Nga My, xin đại diện bổn phái tham gia tranh cử.
    Quần hào ồ lên kinh ngạc, không ngờ phái Nga My lại cử cao thủ hàng tiền bối thượng đài. Họ càng sửng sốt hơn khi nghe người của phái Võ Đang tự giới thiệu:
    - Lãnh Diện thần ni đã có nhã hứng, bần đạo là Huyền Minh chân nhân, tam trưởng lão Võ Đang cũng xin nối bước.
    Phần lớn các cao thủ lỡ đăng ký đều buồn rầu, lo lắng vì biết mình chẳng thể nào địch lại hai lão bất tử kia. Nhưng quần hùng lại vô cùng hoan hỉ vì sắp được chứng kiến cuộc so tài hiếm có ấy. Niềm phấn kích càng dâng cao khi Hải Hồ chân nhân trưởng lão Hoa Sơn và Vô Ngại thần tăng, sư thúc của phương trượng Thiếu Lâm cũng đăng ký.
    Thiên Ảo cung chủ Phùng Thiệu Đính là người gian hoạt, hiểu ra ngay ý đồ của các phái. Lão tự tin vào bản lãnh của mình, liền mỉm cười ngạo nghễ.
    Đại Đầu Cái đứng lên nói:
    - Lão phu không ngờ đại hội năm nay lại được các cao thủ cao niên như Thiên Ảo cung chủ và trưởng lão bốn phái bạch đạo tham gia. Xem ra, có sự chênh lệch rất lớn về bản lãnh, vì vậy, ban giám đài sẽ rất thông cảm cho những ai rút tên ra khỏi danh sách.
    Lời nói khôn khéo của Lô bang chủ đã gài chặt Phùng Thiệu Đính và mở đường cho những người đang hối hận vì lỡ đăng ký. Rốt cuộc, họ đồng thanh xin rút lui, chỉ còn lại Thiên Ảo cung chủ và bốn đại biểu bạch đạo.
    Đại Đầu Cái thản nhiên nói tiếp:
    - Phùng cung chủ là người đăng ký đầu tiên, sẽ được quyền thượng đài khai mạc. Luật lệ là ai thua một trận thì không được tái đấu. Sau mỗi trận, người thắng được nghỉ ngơi hai khắc. Mời cung chủ và Lãnh Diện thần ni đấu trận đầu.
    Bỗng có người ngắt lời lão:
    - Lạ thực, sao không thấy Hồng Nhất Điểm đại hiệp xuất hiện. Mà chỉ toàn những lão già sắp chết thế này nhỉ?
    Giọng của người ấy vang vang chát chúa và rất chói tai, nhưng y lại nêu được thắc mắc chung của mọi người. Cử tọa nhất tề ồ lên:
    - Đúng vậy, Âu Dương đại hiệp là đại biểu xứng đáng nhất của đám hào kiệt trẻ tuổi.
    Hai phần ba quần hùng đến đại hội lần này có độ tuổi dưới ba mươi. Họ cũng là người tôn sùng, ngưỡng mộ Chính Lan, nên rất thất vọng khi thấy chàng vắng mặt. Đại Đầu Cái vội đứng lên:
    - Kính cáo võ lâm, mấy năm qua Âu Dương công tử đã đóng góp rất nhiều trong sự nghiệp giáng ma vệ đạo. Có lẽ y cảm thấy đã đủ nên âm thầm thoái xuất, lo cho hạnh phúc của sáu vị phu nhân và đàn con. Mong đồng đạo thông cảm cho.
    Một người bật cười khanh khách:
    - Đúng thế, nếu tại hạ mà có được sáu mỹ nhân hoa nhường nguyệt thẹn như vậy, thì chẳng tội tình gì lặn lội đến chốn lạnh lẽo này.
    Toàn trường ồ lên. Đại Đầu Cái lại nói:
    - Mời Phùng cung chủ và thần ni.
    Hai cao thủ chậm rãi bước lên đài. Chính Lan cố tình lên núi rất sớm nên chọn được vị trí sát với lôi đài. Chàng luôn chủ trương hậu phát chế nhân, nên sẽ chờ Phùng Thiệu Đính đánh đủ bốn trận mới xuất hiện. Chính Lan hy vọng rằng sẽ nhìn ra được lộ số võ công của Thiên Ảo cung chủ.
    Lúc này, Lãnh Diện thần ni đã mỉm cười hòa nhã:
    - Bần ni may mắn hơn Phùng thí chủ được vài tuổi, xin nhường thí chủ xuất thủ trước.
    Nói xong, bà rút kiếm dựng trước ngực, tay kia bắt kiếm quyến chỉ xéo xuống đất. Trông bà an nhiên tự tại và vững vàng như núi Thái sơn, chứng tỏ đã đạt cảnh giới của kiếm đạo.
    Thiên Ảo cung chủ không cầm vũ khí, chỉ dùng bạch thủ mà đối phó. Lúc lên đài, hai người đã cởi mũ và áo lông để khỏi vướng víu. Nhờ vậy, Chính Lan mới thấy được bộ võ phục trắng tinh trên người Phùng Thiệu Đính.
    Nhưng lạ lùng ở chỗ là mái tóc đen nhánh của lão bị bịt kín bởi một chiếc khăn màu trắng. Chính Lan linh cảm rằng vật này có ý nghĩa rất quan trọng chứ chẳng phải tình cờ. Và khi họ Phùng xuất thủ, chàng biết mình đoán đúng. Quanh thân Thiên Ảo cung chủ tỏa ra màn sương huyền ảo, trắng như sữa, và lão lướt đến tấn công Thiên Diện thần ni. Từ khoảng cách một trượng, họ Phùng đẩy ra những đạo chưởng kình băng giá, trắng mờ.
    Thần ni ôm kiếm lao vào màn sương ấy chẳng chút ngần ngại. Thân pháp của bà nhanh nhẹn tuyệt luân mà vẫn không sánh bằng đối thủ. Thiên Ảo cung chủ đã rời khỏi vị trí cũ, di chuyển quanh thần ni và liên tục vỗ chưởng. Thân ảnh lão chỉ còn là một vệt trắng mờ mờ, nối nhau thành một vòng tròn mà tâm điểm là cao thủ phái Nga My.
    Vòng tròn lạnh lẽo ấy ngày càng thu nhỏ lại, mặc cho Lãnh Diện thần ni vẫy vùng, cố thoát ra. Bà đã thi thố những chiêu kiếm kỳ tuyệt nhất, nhưng không cách nào chém trúng đối phương, hoặc phá vỡ được vòng tròn ma quái kia. Không phải mình Chính Lan, mà là toàn trường chết lặng trước tuyệt học Thiên Ảo cung. Chàng than thầm trong bụng, biết mình không thể địch lại lão ác ma kia.
    Lãnh Diện thần ni chỉ chịu đựng được hai khắc đã nghe tứ chi, thân thể tê cóng vì khí lạnh của Huyền Băng thần chưởng. Và đã đến lúc Phùng Thiệu Đính hạ độc thủ. Lão nhảy xổ vào thần ni từ phía sau lưng, bốn đạo chưởng kình vươn ra như vòi bạch tuộc, trùm lấy mục tiêu. Lãnh Diện thần ni vội bốc thẳng lên không trung để tránh đòn.
    Bốn đạo chưởng phong kia lướt qua dưới chân bà. Quần hào chưa kịp mừng rỡ thì một đạo chỉ kình trắng muốt đã bay ra từ tay tả họ Phùng, xuyên lủng lưng Lãnh Diện thần ni. Đệ nhất cao thủ phái Nga My rơi xuống sàn lôi đài, trong niềm kinh hãi của mọi người. Đại Đầu Cái cố nén nỗi tuyệt vọng, đứng lên tuyên bố:
    - Phùng cung chủ thắng trận này.
    Các đệ tử Nga My vội nhảy lên bồng thần ni xuống chăm sóc. Chẳng nghe tiếng họ khóc lóc, vậy là thương thế của thần ni không đến nỗi trầm trọng.
    Phùng Thiệu Đính đã ngồi xuống tọa công để chuẩn bị cho trận sau. Quần hào đã hết bàng hoàng, xôn xao bình phẩm. Họ cho rằng bản lãnh của Thiên Ảo cung chủ đã là vô địch võ lâm. Huyền Băng chưởng còn có thể đối phó, riêng tuyệt kỹ Huyền Băng chỉ lực thì đành bó tay. Đã trăm năm nay, không một ai học được cách dồn chân khí ra đầu ngón tay, tạo thành luồng chỉ phong bắn xa đến hơn trượng, và xuyên thủng cả luồng cương khí hộ thân mà đả thương người.
    Chính Lan cau mày cân nhắc. Chàng đoán rằng Thiên Ảo cung chủ nhờ kỳ trân thiên niên Tuyết Đào nên tăng thêm được khoảng ba mươi năm công lực, cộng với tu vi sẵn có, hiện nay lão sở đắc gần chín mươi năm nội lực. Nhưng điều ấy không đáng sợ bằng Thiên Ảo Thân Pháp và Huyền Băng Chỉ. Chàng không có cách nào để giải phá hai tuyệt kỹ hãn thế ấy.
    Lúc này, Phùng Thiệu Đính đã hành công điều từc xong. Lão đứng lên cao ngạo nói:
    - Xin mời người thứ hai.
    Đại Đầu Cái thiểu não như gã mắc mưa, uể oải làm nhiệm vụ:
    - Mời Vô Ngại thần tăng, đại biểu của phái Thiếu Lâm thượng đài.
    Một hòa thượng già cao gầy, không râu, đầu tròn như trứng ngỗng, đôi mày bạc phếch tuy rậm nhưng không che được cặp mắt tinh quái, lão liên. Lão cười toe toét, hớn hở như trẻ nít được mẹ cho quà, tung mình lên đài, vòng tay nói với đối thủ:
    - Lão nạp cũng là người họ Phùng, mong thí chủ nhẹ tay cho.
    Nghe giọng điệu vành cạnh ấy, cử tọa ồ lên cười. Thần tăng lại nói:
    - Lão nạp không có râu, trong khi Phùng thí chủ nhiều râu. Vậy lão nạp không dám xem mình là già hơn, xin phép xuất thủ trước.
    Vừa dứt lời, Vô Ngại thần tăng đã vung song thủ đánh liền, cũng như Quảng Tâm phương trượng, thần tăng chuyên luyện Hàng Ma chưởng pháp, nhưng ở trình độ cao hơn. Chiêu xuất như lôi, nhanh nhẹn và vô cùng mãnh liệt.
    Thì ra thần tăng biết mình không chống nổi Thiên Ảo Thân Pháp của đối phương nên giả ngây, giả dại để chiếm tiên cơ. Phùng Thiệu Đính trúng kế, đành phải chấp nhận giáp chiến, dở pho Huyền Băng chưởng pháp ra chống đỡ. Vô Ngại thần tăng ra đòn liên tiếp, chiêu này nối chiêu kia, cố dồn địch thủ ra khỏi lôi đài. Chưởng kình chạm nhau nổ vang rền và Thiên Ảo cung chủ đã phải lùi hơn trượng.
    Quần hùng mừng rỡ hoan hô, cổ vũ cho lão hòa thượng vui tính kia. Nhưng Phùng Thiệu Đính đã động sát cơ, dồn chân khí vào ngực chịu một chưởng như trời giáng, và trả lại bằng một đạo Huyền Băng Chỉ vào bụng đối phương.
    Chưởng kình của lão thần tăng vỗ trúng tâm thất Thiên Ảo cung chủ như đánh vào một đống tuyết mềm, lực đạo giảm đi, chỉ khiến lão ta chấn động và rỉ máu miệng. Ngược lại, đạo chỉ phong đã đánh gãy một rẻ xương sườn của thần tăng, trổ ra sau lưng. Nếu hòa thượng không nhanh chan lách sang một bên thì đã mạng vong rồi.
    Phùng Thiệu Đính đã chiếm được thượng phong, ập đến tấn công tới tấp, cứ như phát chưởng vừa rồi chẳng ảnh hưởng gì cả.
    Vô Ngại thần tăng chịu được tám chiêu đã mượn lực phản chấn, bay xuống đất, bỏ cuộc. Lão còn quay lại xụ mặt trách móc:
    - Phùng thí chủ quả là tàn nhẫn, chẳng nghĩ gì đến tình nghĩa họ hàng. Lão nạp không đấu nữa.
    Lão ôm vết thương đi về chỗ của phái Thiếu Lâm để băng bó. Thần tăng vừa đi vừa nhăn nhó như khỉ khiến đám hào kiệt ngồi ở hàng trên phì cười.
    Nhưng Chính Lan và ban giám đài không cười nổi. Ngôi minh chủ chắc chắn sẽ lọt vào tay Thiên Ảo cung chủ, đồng thời thanh danh của bốn phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga My, Hoa Sơn sẽ trôi theo dòng nước. Họ đã đưa ra cao thủ hạng nhất, dùng phép xa luân chiến mà cũng không thắng nổi Phùng Thiệu Đính.
    Lúc này, Thiên Ảo cung chủ đã nuốt mấy viên linh đan và ngồi xuống tọa công. Chỉ một khắc sau lão đã đứng lên, mắt sáng như sao, ngạo nghễ nói:
    - Xin mời người thứ ba.
    Hải Hồ chân nhân, sư thúc của chưởng môn phái Hoa Sơn xách kiếm nhảy lên. Gương mặt thanh tú của chân nhân thoáng nét lo âu, vì bản lãnh của ông không hơn hai người trước.
    Chính Lan thở dài, bỏ ra ngoài. Không phải chàng muốn rời núi Hoa Sơn mà là chui vào rừng vắng để cải trang lại. Chính Lan tháo búi tóc, cắt bớt đi, buông xoã quanh vai, rồi lấy rải khăn đỏ buộc ngang trán. Giờ đây trông chàng khá giống một tên hải tặc biển Đông, vì tóc chàng đã cháy bởi nắng Nam Dương.
    Tạm hài lòng với cách hóa trang sơ sài ấy, Chính Lan trở lại bình đài. Nhưng chàng không ra nhập đám khán giả mà ẩn sau một tảng đá lớn, cách họ năm, sáu trượng.Lát sau, trên khán đài vọng lại tiếng rên đau đớn của Hải Hồ chân nhân.
    Lão đã bị Thiên Ảo cung chủ đánh bay khỏi lôi đài, thương thế chắc nặng nề hơn hai người trước. Thiên Ảo cung chủ ngửa cổ cười vang:
    - Bổn nhân cảm thấy chân khí sung mãn, không cần nghỉ ngơi, xin mời người cuối cùng.
    Quần hùng nào biết dã tâm của lão, lên tiếng hoan hô con người vô địch. Ban giám đài chụm đầu vào bàn bạc. Cuối cùng Thuần Thanh đạo trưởng đứng lên tuyên bố:
    - Chỉ qua ba trận vừa rồi cũng đủ biết Phùng Cung Chủ võ công đứng đầu thiên hạ, phái Võ Đang xin rút lui.
    Cử tọa ồ lên phản đối vì không được xem cho mãn nhãn. Quảng Tâm phương trượng cao giọng:
    - Lão nạp thay mặt ban giám đài, xin tuyên bố chức vị minh chủ võ lâm đã thuộc về…
    Thiền sư vừa nói đến đây thì có tiếng người vọng vào:
    - Khoan đã.
    Quần hào quay lại thấy một hán tử tóc xoã, râu ria rậm rạp, mặc áo lông cừu đang rẽ hàng người tiến vào. Gã từ tốn bước lên lôi đài, cởi áo choàng, để lộ bộ y phục ngắn ngủn màu xám đen và làn da rám nắng. Cộng với dáng đi hai hàng kia, hán tử biểu hiện rõ mình là người quen sống trên thuyền. Gã hướng về ban giám đài, vòng tay nói một tràng tiếng Phúc Kiến pha lẫn với Bắc Kinh.
    Tiếng Phúc Kiến không phổ biến ở Trung Hoa nên chẳng ai hiểu gì cả. Quần hào la ó um sùm:
    - Ngươi nói gì mà như đang thóa mạ bọn ta vậy?
    Đại Đầu Cái là bang chủ Cái bang, đệ tử ở khắp thiên hạ nên phải tinh thông các phương ngữ. Ông đứng lên giải thích:
    - Kính cáo đồng đạo, các hạ đây tự xưng là Đài Loan đệ nhất kiếm sĩ, tên gọi Phí Tồn Nghĩa. Y đại diện cho các cao thủ vùng biển Đông vào dự đại hội, vì không biết đường đi Hoa Sơn nên đến trễ. Y muốn so tài với Thiên Ảo cung chủ.
    Khách giang hồ đều hiếu sự nên hoan hỷ tán thành. Có người nói:
    - Đài Loan cũng là đất của Trung Hoa, phải cho y dự thí mới đúng lẽ công bằng.
    Đại Đầu Cái quay sang hỏi họ Phùng:
    - Gã họ Phí này không đăng ký trước nên không có quyền thượng đài. Tuy nhiên, đồng đạo đều muốn được thưởng thức võ công của Đông Hải, vậy ý Cung Chủ thế nào?
    Nãy giờ Phùng Thiệu Đính âm thầm quan sát gã cướp biển, thấy da dẻ, râu tóc đều cháy nắng, bắp thịt cuồn cuộn, chắc không phải Âu Dương Chính Lan. Lão yên tâm gật đầu:
    - Không sao, bổn tòa đồng ý tiếp y một trận.
    Đại Đầu Cái dịch lại cho Phí Tồn Nghĩa nghe. Gã bèn đáp lại bằng một tràng dài. Lô bang chủ bảo Thiên Ảo cung chủ:
    - Họ Phí nói rằng y không giỏi khinh công, chỉ tâm đắc có ba chiêu kiếm. Vì vậy, y yêu cầu cung chủ đừng có chạy vòng quanh mà hãy tận lực đối phó. Nếu sau ba chiêu ấy, y không thắng nổi thì sẽ hạ đài, trở về biển Đông.
    Thiên Ảo cung chủ cười khảy:
    - Bản lãnh gã ấy được bao nhiêu mà bổn tòa phải nhọc sức thi triển khinh công?
    Chính Lan tức Phí Tồn Nghĩa biết lão họ Phùng đã mắc bẫy, rút thanh Long Tuyền bảo kiếm ra thủ thế. Thanh kiếm này ít người được thấy qua nên không sợ lộ. Hơn nữa, khi lọt vào tay Thái Sơn Phủ Quân giáo chủ Bạch Liên giáo, đã được lão cho thay chuôi kiếm bằng sừng tê giác đen bóng.
    Chính Lan cố tình đưa ra con số ba chiêu, nhưng thực tâm muốn phân thắng bại bằng một chiêu duy nhất.
    Chàng nói thêm một câu nữa bằng tiếng Phúc Kiến, đại ý rằng kiếm pháp Đông Hải thường khởi đầu bằng cách thi thố định lực, chờ đối phương động mình mới động. Vì vậy, Phùng cung chủ bất tất phải nhường nhịn.
    Đại Đầu Cái lại phải dịch cho họ Phùng và quần hào nghe.
    Chính Lan đứng im như pho tượng đá, thủ thế bằng thức đầu tiên trong chiêu Phất Thủ Phiêu Miêu. Phùng Thiệu Đính cực kỳ giảo hoạt, thâm trầm nên bề ngoài ngạo nghễ nhưng trong lòng rất cẩn trọng. Lão tâm đắc câu nói của Tào Tháo: “Ta thà phụ người chứ không để người phụ ta,” do đó đã dồn hết công lực vào song thủ, chẳng hề dám lơ là.
    Tuyết rơi phủ trắng mái tóc và vai mà gã hải tặc kia vẫn chưa chịu xuất chiêu. Quần hùng mất kiên nhẫn chửi vang:
    - Gã Đài Loan dở hơi kia đã nói vậy, sao Phùng cung chủ không động thủ trước đi. Chẳng lẽ lão cũng sợ y hay sao?
    Đến nước này thì Thiên Ảo cung chủ đành phải ra tay. Lão bay vút đến như ánh sao băng, song thủ vỗ liền mười tám đạo chưởng kình liên tiếp khí thế mãnh liệt như cơn bão tuyết. Chính Lan thi triển công phu Qui Tức Bảo Tâm đại pháp, khóa kín các yếu huyệt toàn thân, lao thẳng vào lưới chưởng trắng đục của đối phương. Long Tuyền kiếm rung lên, hóa thành ngàn kiếm ảnh, xé nát chưởng phong mà tiến lên. Song phương áp sát nhau, có hai tiếng rú vang lên, và một bóng người bị văng ra khỏi đài. Quần hùng ồ lên kinh ngạc khi thấy ngực phải Thiên Ảo cung chủ thủng một lỗ, máu loang ướt đẫm bạch bào. Nhưng gã hải tặc đã bị rơi đài, máu miệng rỉ ra không ngớt. Gã gượng đứng lên điểm vào bốn huyệt trên ngực, rồi lặng lẽ quay lưng bỏ đi.
    Đại Đầu Cái run giọng:
    - Phùng Cung Chủ đại thắng trận cuối cùng, chính thức trở thành minh chủ.
    Niềm vui ấy đã khiến Phùng Thiệu Đính quên đi vết kiếm thương, hân hoan vòng tay nói:
    - Bổn tòa xin mời toàn thể chư vị đến Phụng Sơn thăm Thiên Ảo cung và vui say một chuyến. Tính cước trình từ đây về Hứa Xương, thì ngày tám tháng hai là vừa kịp để tổ chức lễ mừng.
    Tất nhiên, chẳng ai từ chối lời mời hấp dẫn ấy, tiếng hoan hô tân minh chủ vang dội cả vùng núi Hoa Sơn. Nói xong, Phùng Thiệu Đính hạ đài, đến bảo nhỏ bọn thủ hạ:
    - Mau đuổi theo giết cho bằng được gã họ Phí.
    Chúng mau mắn thi hành nhưng dù đã lục soát khắp nơi vẫn không thấy gã hải tặc kia đâu cả. Thì ra Chính Lan thọ thương khá nặng nhưng cũng cố gượng rời khỏi Hoa Sơn. Chàng vừa xuống đến chân núi, vào được cánh rừng thì ngã quị. Vừa lúc ấy, có hai bóng người chạy đến, nức nở goi:
    - Tướng công.
    Đó là hai hán tử thấp bé, râu rậm, da mặt đen đủi. Một người nhét vào miệng Chính Lan bốn viên linh đan, rồi họ đỡ chàng ngồi dậy truyền công lực vào cơ thể. Chính Lan hồi tỉnh, hít vài hơi rồi cười bảo:
    - Té ra Thi Mạn và Tố Bình đấy ư? Ta không sao đâu, đừng khóc nữa.
    Tố Bình phụng phịu trách móc:
    - Tướng công suốt đời chỉ làm khổ bọn thiếp mà thôi.
    Chính Lan biết lỗi, mỉm cười:
    - Đừng giận ta, chỉ cần giết xong lão họ Phùng là ta sẽ hoàn toàn thuộc về các nàng.
    Bỗng chàng nhăn mặt, ôm ngực và nói:
    - Mau đưa ta ly khai chốn này ngay.
    Hai mỹ nhân tái mặt vội cõng chàng rời hiểm địa.
    ° ° °
    Mười hai ngày sau, ba vợ chồng Chính Lan xuất hiện ở phía đông Cửu Hoa sơn. Chàng ngắm nhìn chín ngọn núi, so sánh với họa đồ trong đầu rồi vui vẻ nói:
    - Chắc chắn Cửu Thiên huyền cung nằm ở ngọn núi thứ tư, từ tay phải đếm qua.
    Thi Mạn lộ vẻ nghi hoặc:
    - Chỉ mơ hồ như thế làm sao xác định được vị trí của đế cung?
    Chính Lan cười đáp:
    - Ta từng được nghe tiên sư kể rằng Cửu Thiên Đế Quân Khổng Nghị tự xưng là nam tử của Cửu Thiên Huyền Nữ giáng phàm. Như vậy chỉ cần tìm cho ra miếu thờ Cửu Thiên Nương Nương trên ngọn núi kia là xong. Nếu không phải thế thì trong họa đồ đã có thêm lời chỉ dẫn.
    Hai nàng phục lăn, nhìn phu tướng bằng ánh mắt ngưỡng mộ. Ba người vào tiểu trấn gần chân núi, mua lương thực, đèn đuốc, nước uống, rồi gởi ngựa để thượng sơn.
    Tuyết vẫn còn rơi nhưng thưa thớt chứ không mù mịt như đất Sơn Tây. Thương thế của Chính Lan chưa khỏi hẳn nên cước trình của họ khá chậm chạp. Ngọn núi đã được chọn mang tên cũ của Cửu Hoa sơn. Nó nằm sâu bên trong, cách tiểu trấn đến bốn dặm.
    Chính Lan húng hắng ho, lập tức Thi Mạn cằn nhằn:
    - May mà Chu lão gia ghé thuyền vào cửa vịnh, cho người chạy về thông báo, nếu không tướng công đã bỏ mạng dưới tay bọn Ảo Quỉ rồi. Chàng còn lén bỏ đi lần nữa, thiếp sẽ trở về Quảng Tây ngay.
    Chính Lan mỉm cười chứ không biện bạch gì cả. Đó là cách hữu hiệu nhất để đối phó với nữ nhân.
    Ba người đi vòng quanh ngọn núi để quan sát. Đến trưa họ mới phát hiện mái ngói rêu phong đổ nát của một ngôi cổ miếu trên sườn núi. Hai nàng mừng rỡ nắm tay Chính Lan lướt về nơi ấy. Quả thực trên cửa miếu có đắp nổi năm chữ. Tuy không còn đủ nét, vẫn có thể đoán ra đó là năm chữ “Cửu Thiên Huyền Nữ miếu.”
    Cửu Thiên Nương Nương là một vị thần của Thiên Sư giáo, được thờ phụng ở khắp nơi. Ngay trong truyện Thủy Hử cũng nhắc đến việc Tống Giang được Cửu Thiên Huyền Nữ ban cho binh thơ.
    Thi Mạn và Tố Bình phải dùng trường kiếm chặt dây leo mới vào được miếu. Cửa nẻo đều đã mục nát cả, sàn miếu thì cỏ dại cũng mọc đầy. Mái ngói chỉ còn gần nửa nên trong miếu không thiếu ánh sáng. Trên bệ thờ bằng đá tảng nguyên khối, pho tượng của Cửu Thiên Nương Nương vẫn còn nguyên vẹn với vẻ mặt trang nghiêm. Chính Lan bảo hai nàng bẻ cành cây quét sạch bảo tượng bằng hắc thạch và bề thờ rồi chăm chú quan sát.Chàng nhảy lên, nắm hai vai pho tượng xoay thử, chẳng hề có kết quả gì.
    Chính Lan suy nghĩ một lúc, đặt tay lên đầu pho tượng, vận công đè thật mạnh. Kỳ diệu thay, từ vách núi phía sau miếu vọng lại tiếng kèn kẹt của cơ quan chuyển động. Ba người hân hoan chạy đến xem. Tuy dây leo, cỏ dại che phủ nhưng vẫn có thể thấy được một khung cửa hiện ra trên vách đá.
    Tố Bình mau mắn vung thanh Long Tuyền bảo kiếm dọn dẹp. Thi Mạn thì bật hỏa tập, châm đuốc. Nàng cẩn thận quăng Hồng Quan Kim Xà vào trước mở đường. Không thấy có hiện tượng gì, phu thê Chính Lan mới bước vào. Té ra Cửu Thiên huyền cung chỉ là một hang động ngầm trong lòng núi Lãng Dương Sơn. Nó cũng rộng rãi mà đầy thạch nhũ như thạch động dưới đáy Vô Để Uyên, Vân Mộng sơn. Nhưng có điểm ưu việt hơn là hang này nằm sát sườn núi lên có lỗ thông sáng, thông hơi, khiến không gian sáng sủa, thoáng đãng.
    Trên bức vách cuối động có khắc sâu bốn chữ: Cửu Thiên huyền cung. Dưới đó là một bệ thở vuông vức, cao nửa trượng, trên có chiếc ngai đá lớn, chạm trổ rồng phượng như long ngai của hoàng đế. Và trên ngai là một xác người mặc long bào, đầu đội mũ Triều Thiên. Tất nhiên da thịt đế quân đã khô quắt lại, trông rất đáng sợ.
    Chính Lan nghiêm giọng bảo hai mỹ nhân:
    - Chúng ta vào đây quấy nhiễu chốn yên nghỉ của đế quân, xét ra cũng có lỗi. Vậy hai nàng hãy theo ta mà bái tạ.
    Thấy trước mặt ngai là một phiến đá hình chữ nhật rộng hơn gang, dài độ ba gang Chính Lan liền thổi sạch bụi, chống tay vào đấy mà lạy ba lạy. Thi Mạn nối tiếp chàng, rồi đến Tố Bình.
    Đến cái lạy thứ ba của Tiểu Linh Thố, tức là cái thứ chín của cả bọn, bất ngờ phát sinh quái sự. Phiến đá hình chữ nhật dưới đất lún xuống, và mặt trước của bệ thờ rơi ra. Dù không thể chạm tới Tố Bình nhưng cũng khiến nàng kinh hãi nhảy lùi.
    Thi Mạn cầm đuốc soi vào khoang trống, lôi ra một chiếc rương gỗ đàn hương. Chính Lan thận trọng quan sát, rồi dùng Long Tuyền kiếm chặt ổ khoá.
    Hai nàng ồ lên sung sướng vì ánh châu báu lấp lánh. Chính Lan lại quan tâm đến hộp gỗ nhỏ trong ấy. Chàng cầm lên, bước ra chỗ có ánh dương quang rọi thẳng vào, mở xem.
    Ngoài quyển sách bằng đồng đỏ rát mỏng, còn có một lọ pha lê trong suốt, chứa ba viên dược hoàn đỏ tươi, thơm phức.
    Chính Lan đậy hộp lại, xem xét quyển sách kỳ lạ. Gọi là quyển sách vì ba mươi lá đồng kia được xâu lại với nhau thành tập, chứ thực ra chẳng giống sách chút nào. Còn chữ thì lại được viết bằng một thứ mực màu trắng, bấm vào nghe cứng rắn như men sứ.Trang ngoài cùng là bốn chữ “Cửu Thiên bí lục.” Trang thứ hai là di bút của Đế Quân.
    “Lão phu vốn là một thư sinh ở đất Hà Nam, không chịu làm nô tài cho triều Nguyên nên chẳng thi cử làm quan, mà ngao đường khắp chốn để quên nỗi sầu mất nước. Nào ngờ khi đến núi Cửu Hoa sơn này lại được một bậc kỳ nhân võ lâm thu làm đệ tử. Gia sư gom góp kỳ trân trong thiên hạ, luyện thành năm viên Huyết Châu tiên đan, mỗi viên tương đương với ba mươi năm công lực. Lão phu được uống hai viên, luyện võ mười năm trở thành đệ nhất cao thủ thời bấy giờ. Có được bản lãnh thông thần, lão phu phiêu bạt khắp nơi, chém giết quân Mông Cổ. Nhưng cô chưởng nan minh, sau ba lần đột nhập vào hoàng cung của Nguyên Thành Tông để hành thích mà không thành công, lão phu phẫn chí trở về Cửu Hoa sơn tu tiên. Do uống Huyết Châu đến năm một trăm mười tuổi mà lão phu vẫn chưa chết, liền khắc một tấm Cửu Thiên lệnh bài, bỏ ngoài đường quan đạo rồi tọa hoá. Ai là người vào được nơi này, xin hãy nối chí lão phu đánh đuổi quân Mông Cổ, và tạo phúc cho sinh linh.
    Khổng Nghị di bút.”
    Hai mỹ nhân kia đã đùa nghịch thỏa thê với rương châu báu, chạy đến hỏi Chính Lan:
    - Tướng công, đế quân có để lại tuyệt học gì không?
    Chàng bèn đưa cho Tố Bình quyển bí lục. Hai nàng châu đầu đọc lời nhắn nhủ của Đế Quân. Thi Mạn hân hoan nói:
    - Vậy tướng công hãy uống cả ba viên linh đan để có thêm chín mươi năm công lực, thừa sức đánh bại lão họ Phùng.
    Chính Lan mỉm cười, lắc đầu:
    - Không đâu! Ta chỉ cần uống một viên là quá đủ rồi. Ta không muốn nhìn thấy các nàng lần lượt chết đi mà vẫn còn sống trong nỗi cô đơn. Hai viên còn lại, cả nhà hòa ra, chia nhau uống, để cùng hưởng hạnh phúc.
    Hai nàng cảm động, ôm lấy vai phu tướng, nhón chân hôn vào má chàng, mặc cho xác Cửu Thiên Đế Quân đang nhìn trộm. Chính Lan mở bí lục xem phần kiếm pháp, hoan hỷ nói:
    - Ta chỉ cần luyện xong chiêu Cửu Cửu Dịch Thiên này là đủ để giết Phùng Thiệu Đính.
    ° ° °
    Sáng ngày tám tháng hai, quần hào tụ tập đông đủ ở Phụng sơn. Dưới chân núi giờ đây đã có một cổng tam quan đồ sộ, khắc hàng chữ “Võ lâm tổng đàn.”
    Mùa xuân đã về đến đất Hà Nam, cỏ cây tươi tốt và trăm hoa đua nở. Trên khoảng sân rộng giữa tổng đàn, mấy trăm bàn tiệc phủ vài hồng bày đầy rượu thịt. Theo đúng qui củ, cả năm vị chưởng môn đều phải có mặt để trao minh chủ lệnh kỳ cho họ Phùng, mặt mũi họ ủ ê, sầu não như cha chết.
    Ngược lại, Thiên Ảo cung chủ tươi rói trong bộ trường bào màu xanh, thêu hình cung hổ.
    Cuối giờ mão, mọi người đều đã tựu vị, chờ xong phần nghi lễ là đánh chén. Họ Phùng đã chuẩn bị sẵn trống lớn và đàn, sáo, sênh, phách. Lão chỉ đưa tay ra hiệu là các nhạc cụ ấy trỗi giọng. Trước tiên là một hồi đại cổ dài hùng dũng, rồi đến đàn sáo dặt dìu, tao nhã.
    Năm vị chưởng môn bước đến trước mặt Phùng Thiệu Đính, chuẩn bị trao lệnh kỳ. Quảng Tâm thiền sư hắng giọng rồi nói:
    - Kính cào toàn thể võ lâm…
    Ông vừa nói được có thế thì những bàn sau cùng reo lên:
    - Hồng Nhất Điểm đại hiệp.
    Thế là hơn ngàn người la theo, vang lừng như sấm động. Họ nhất tề đứng lên đón chào vị anh hùng của mình. Chính Lan đã trở lại chân diện mục, mày râu nhẵn nhụi, trường bào thư sinh bằng lụa xanh, mũ học trò đen. Bên cạnh chàng là hai mỹ nhân xinh đẹp, thùy mị. Ba người vòng tay chào đồng đạo rồi bước đến chỗ họ Phùng và năm vị chưởng môn. Chỉ cần nhìn mái tóc có chỗ vàng hoe và gương mặt rám nắng của Chính Lan, họ đã nhận ra chàng là tên hải tặc Phí Tồn Nghĩa hôm trước.
    Đại Đầu Cái mừng đến sa lệ, bước đến ôm chặt Chính Lan. Chàng liền thì thầm:
    - Bang chủ mau chuẩn bị điều động lực lượng tiêu diệt Thiên Ảo cung. Tại hạ giết xong Phùng Thiệu Đính là ra tay ngay.
    Giọng chàng tự tin như nắm chắc phần thắng trong tay. Lô bang chủ hiểu rất rõ con người Chính Lan nên yên tâm gật đầu. Chính Lan buông Đại Đầu Cái, chào hỏi bốn vị chưởng môn kia. Họ đều hổ thẹn vì đã bày ra đại hội, dâng chức minh chủ cho Thiên Ảo cung, nên lặng lẽ cúi đầu đáp lễ.
    Phùng lão quỉ cười nhạt bảo:
    - Hôm trước, ngươi giả làm Đài Loan đệ nhất kiếm sĩ, bị bổn tòa đánh trọng thương, sao giờ còn dám đến đây làm gì?
    Chính Lan thản nhiên đáp:
    - Lần ấy vì khinh địch nên tại hạ chưa dồn hết công lực vào chiêu kiếm, để thua cung chủ thật là oan uổng. Nếu cung chủ không sợ thì vui lòng tiếp tại hạ một chiêu kiếm nữa. Dẫu có bỏ mạng tại hạ cũng rất biết ơn.
    Quần hào lại đồng thanh đốc thúc:
    - Âu Dương đại hiệp đã nói thế mong cung chủ đừng phụ lòng.
    Phùng Thiệu Đính không tin rằng chỉ sau ít ngày, bản lĩnh của Chính Lan có thể tăng tiến đến mức thắng được mình. Hơn nữa, lão ta cũng muốn giết chàng để trừ hậu hoạn nên chấp thuận:
    - Được, các hạ đã muốn chết thì bổn minh chủ cũng chiều ý. Hãy chờ ta vào thay áo đã.
    Chính Lan thầm khen lão là người thận trọng, làm gì cũng không để sơ xuất. Bộ võ phục trắng mới phát huy được hết diệu dụng của pho Thiên Ảo Thân Pháp. Họ Phùng rảo bước đi về phía tòa đại sảnh hai tầng bằng gỗ. Phòng riêng lão ở ngay tầng trên.
    Quần hào đều chú mục cả vào Chính Lan nên không nhận ra hành động của Thi Mạn và Tố Bình. Hai người nắm tay nhau đi quanh khu yến tiệc. Họ không thể vượt qua hàng rào cảnh giới của trên ba trăm Ảo Quỉ, chỉ đi ngay mặt mỉm cười với chúng. Bọn người Ngạc Luân Xuân man rợ này chưa bao giờ được nhìn thấy người nữ nào đẹp hơn hai nàng, nên trố mắt ra nhìn và cười đáp lễ.
    Thiên Ảo cung chủ đã quay trở ra, gọn gàng trong bộ võ phục và khăn bịt đầu trắng tinh. Chính Lan cười bảo:
    - Màu trắng là màu của tang tóc, sao cung chủ lại thích nhỉ?
    Họ Phùng xám mặt, lạnh lùng đáp:
    - Bổn tòa để tang cho ngươi đấy, mau bước ra đây.
    Lão ra hiệu cho vòng vây thủ hạ giãn rộng, tạo thành một đấu trường. Quần hùng chẳng còn màng đến ăn uống, rời bàn đến quanh chiến địa để quan sát. Không hiểu vô tình hay hữu ý, họ vây cả bọn Ảo Quỉ vào trong.
    Chính Lan rút kiếm hờ hững chỉ xéo lên trời, dồn hết chín mươi năm công lực vào thân kiếm. Thiên Ảo cung chủ thấy thế thức đầu tiên hơi khác lần trước nên chăm chú nghiên cứu. Nào ngờ Chính Lan không đứng yên như lần ở Hoa Sơn mà xuất thủ ngay để chiếm tiên cơ. Có thêm ba mươi năm tu vi, thân pháp chàng giờ đây không thua gì Phùng Thiệu Đính. Lão có muốn tránh chiêu cũng không thể được.
    Chính Lan dùng thuật ngự kiếm, thi triển chiêu Cửu Cửu Dịch Thiên. Thanh Long Tuyền bảo kiếm hóa thành con rồng bạc vươn bốn mươi chín móng vuốt chụp lấy đối phương.Phùng lão quỉ nhận ra chiêu này cực kỳ lợi hại, hơn hẳn chiêu trước đây.
    Lão nghiến răng dồn toàn bộ công lực vào chiêu sát thủ cuối cùng trong Huyền Băng thần chưởng, dệt lưới quanh thân, hóa thành trái cầu tuyết lao đến thân đón chiêu. Chưởng phong cuồn cuộn, liên tiếp tung ra nhanh như chớp giật, cố chặn đứng bước tiến của Chính Lan. Và kèm theo là một đạo Huyền Băng chỉ hiểm ác vô cùng.
    Nhưng giờ đây công lực của Chính Lan đã tăng gấp rưỡi, kiếm kình mãnh liệt xé tan màn chưởng phong, ập vào cơ thể kẻ địch.
    Thiên Ảo cung chủ trúng liền chín kiếm vào thân trước, gào lên thảm khốc, gục ngã trước mặt Chính Lan. Lão chết trong niềm thất vọng ngút ngàn, vì đạo băng chỉ cũng không phá nổi màn kiếm quanh quanh thân đối phương. Quần hào phấn khởi, hò hét như điên cuồng. Bọn Ảo Quỉ sợ hãi, chưa biết phải hành động như thế nào thì Chính Lan đã vận công hét lớn:
    - Thiên Ảo cung là tay sai của quân Mãn Thanh và cũng là hung thủ cướp của giết người, đồng đạo còn chờ gì nữa.
    Chính Lan là thần tượng của võ lâm. Lời nói của chàng nặng như núi Thái, ai nấy đều tin phục. Do đó, hàng ngàn người kia rút vũ khí xông vào giết bọn Ảo Quỉ.
    Lạ thay, chúng kháng cự rất yếu ớt, và bị hạ nhanh chóng. Đó là do Chính Lan biết chúng tội ác ngập đầu, bản tính hung dữ chẳng thể nào thay đổi được, nên đã bảo Thi Mạn thả cổ trùng khống chế. Gia dĩ, nếu không làm thế thì với bản lãnh cao cường của bọn Ảo Quỉ, đồng đạo võ lâm sẽ phải thương vong rất nhiều.
    Chính Lan và các chưởng môn không tham ra trận tàn sát, phi thân về phía trong, lục soát các tòa nhà. Tiếc rằng Biển Bức Lão Tổ đã đem lũ dơi độc đào tẩu mất rồi.
    Nhân lúc quần hào lo việc kiểm biên tang vật, và phủ dụ đám nữ tỳ Thiên Ảo cung, phu thê Chính Lan âm thầm bỏ đi mất dạng.
    ° ° °
    Mười lăm năm sau, nhờ Ngô Tam Quế mà quân Mãn Châu vào được Trung Nguyên. Vị hoàng đế nhà Thanh đầu tiên trên đất Trung Hoa là Thanh Thế Tổ Thuận Trị. Ông lên ngôi năm Giáp Thìn tức mới bảy tuổi.
    Năm sau, Chính Lan từ Nam Hải trở về trung thổ, đột nhập tử cấm thành, định hành thích vua Thanh. Chàng tìm thấy Thuận Trị ở cung Khâu Ninh, cùng với thái hậu. Người đàn bà Mãn Châu kia quì xuống van lạy gã thích khách có gương mặt nhân từ. Chính Lan bất nhẫn, ngửa cổ than trời:
    - Đúng là khí số Hoa Hạ đã tuyệt nên giang sơn mới rơi vào tay một đứa bé phương bắc tám tuổi thế này.
    Nét trẻ thơ của Thuận Trị khiến chàng chẳng thể xuống tay. Chính Lan nghiêm nghị nói với nhà vua:
    - Nay thấy ngươi còn nhỏ dại, ta không nỡ giết. Hãy cố gắng trở thành một vị hoàng đế tốt, tạo phúc cho bách tính Trung Hoa. Nếu không, ta sẽ trở lại lấy đầu ngươi đấy.
    Thuận Trị được tha chết, bất giác sanh lòng ngưỡng mộ gã thích khách kỳ lạ, liền hỏi:
    - Mong tráng sĩ cho trẫm biết danh tính?
    Thích khách thản nhiên đáp:
    - Ta là Âu Dương Chính Lan, nhà vua hãy cố mà nhớ lấy.
    Chàng xoa đầu Thuận Trị rồi rời tử cấm thành. Chính Lan nhớ lời dạy của Hoàng Hạc Tú Sĩ, chẳng cố cưỡng lại vận trời làm gì nữa. Chàng trở về hòn đảo xinh đẹp ở vùng biển Giao Châu, sống hạnh phúc với thê tử.
    Dần dà, võ lâm Trung Nguyên quên lãng Hồng Nhất Điểm. Chỉ có một lão già nát rượu, suốt ngày lẩm bẩm:
    - Âu Dương Chính Lan, tha lỗi cho ta.
    Người ấy là Lôi Đao Hứa Hoa.

    HẾT

     

Thành viên đang xem bài viết (Users: 0, Guests: 0)