LS Q.Sự Đông Chu Liệt Quốc - Tác giả: Phùng Mộng Long - FULL 108C

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,685
    Đông Chu Liệt Quốc
    Tác giả: Phùng Mộng Long
    Chương 101: Tần Vương Diệt Chu dời Chin Đỉnh Liêm Pha Chém Tướng Bại Quân Yên

    Dịch giả: Nguyễn Đỗ Mục.
    Nguồn: NXB Văn Học

    Lại nói Trịnh An Bình đã đem quân hàng Ngụy, thừa tướng Phạm Chuy là người tiến cử, theo phép tất phải chịu cùng tội, nên không đợi hỏi đến, Phạm Chuy liền nằm trên cỏ khô để đợi tội. Vua Tần nói:

    - Dùng An Bình là do ý quả nhân, không can hệ gì đến thừa tướng!

    Rồi lại yên ủi Phạm Chuy hai ba lần, cho vẫn được làm thừa tướng như cũ. Quần thần bàn nói lao nhao, vua Tần sợ Phạm Chuy ái nái không yên, bèn hạ lệnh cho khắp nước rằng:

    - Trịnh An Bình có tội đã giết cả họ rồi, nếu ai còn nói đến việc ấy lập tức chém đầu!

    Người trong nước không còn ai dám nói đến việc ấy nữa. Vua Tần ban cho Phạm Chuy các thức ăn, lại hậu hơn trước. Phạm Chuy không được an tâm, bèn xui vua Tần diệt Chu xưng đế. Vua Tần sai Trương Đường làm đại tướng đi đánh Hàn, muốn trước lấy Dương thành để thông đường Tam xuyên.

    Lúc ấy vua sở nghe tin Tín Lăng quân đại phá được quân Tần, Xuân Thân quân Hoàng Yết kéo quân trở về không, than rằng:

    - Cái mưu hợp tung của Bình Nguyên quân không phải là điều nói bậy, quả nhân nếu được Tí Lăng quân làm tướng thì còn lo gì Tần.

    Xuân than quân có dáng thẹn, bèn nói rằng:

    - Cái nghị hợp tung trước kia, đại vương làm trưởng, nay quân Tần mới thua, khí thế tất nhụt, đại vương nếu sai sứ đi ước hội các nước hợp lực đánh Tần, lại tôn nhà Chu làm chủ, lấy thiên tử làm hiệu lệnh cho chư hầu, đó tức là cái công nghiệp của ngũ bá vậy.

    Vua Sở cả mừng, bèn sai đến nhà Chu, đem việc đánh Tần báo víưi Noãn vương. Noãn vương đã nghe tin vua Tần có ý đánh Chu, nay nếu lại đánh Tần trước, thì còn gì hay bằng, nên nghe theo ngay. Vua Sở bèn cùng năm nước định tung ước, hện kỳ đại cử binh mã. Bấy giờ vua nhà Chu càng ngày càng suy nhược, dẫu ở ngôi thiên tử, mà chỉ có cái tiếng không, chẳng thể sai bảo được chư hầu; từ khi Hàn, Triệu chia đất Chu làm Tây Chu và Đông Chu sai hai Chu công cai trị, thì Noãn vương đến ở nhờ đất Tây Chu công, chỉ ngồi làm vì. Đến lúc ấy, muốn cất quân đánh Tần, sai Tây Chu công ghép dân đinh vào hang ngũ, chỉ được có năm sáu nghìn người; lại không có xe ngựa, bèn tìm những dân giàu có ở trong nước hỏi vay tiền để làm quân phí, lậpi khoán hẹn đến ngày ban sư sẽ trả lại. Tây Chu công tự làm tướng, đóng quân ở Y khuyết để đợi quân chư hầu. Bấy giờ nước Hàn đang bị Tần đánh, tự lo không rỗi; Triệu thì mới giải vây, cơn sợ chưa hết; còn Tề thì thong hiếu với Tần, không muốn cộng sự với chư hầu; chỉ có tướng Yên là Nhạc Gian, tướng Sở là Cảnh Dương đều dẫn một đạo quân đến trước, đóng dinh trại một chỗ mà trông ngóng các nước kia.

    Vua Tần nghe tin các nước không đồng tâm với nhau, không có ý tiến, thì thêm quân giúp cho Trưưong Đường đánh hạ Dương thành; lại sai đại tướng Doanh Cù đem mười vạn quân ra dương oai ở cử Hàm cốc. Quân Yên, Sở, đóng lại chừng ba tháng, thấy quân các nước kia không đến, đều chán nản rồi cùng rút về. Noãn vương một phen ra quân, chi phí tổn suông mà chẳng được lợi gì, các nhà giàu đều mang khoán đến đòi nợ, ngày ngày chật ních cả cửa cung, tiếng ồn ào lọt vào tận nội tẩm. Noãn vương thẹn quá, không biết làm thế nào, bèn tránh lên trên đài cao, người sau nhân thế đặt tên đài ấy là “Tị trái đài” nghĩa là “Đài trốn nợ”.

    Lại nói vua Tần nghe quân Sở, Yên tan về, liền sai Doanh Cù và Trương Đường họp binh tiến đánh Tây Chu. Noãn vương quân lương đều thiếu, không thể chống giữ được, muốn chạy sang Tam Tấn. Tây Chu công nói:

    - Xưa kia thái sử Thiền có nói rằng Chu, Tần năm trăm năm thì hợp, sẽ có vị bá vương ra đời, nay đã đên lúc rồi. Tần có cái thế thống nhất được thiên hạ, Tam Tấn chẳng bao lâu cũng về tay Tần thôi, nhà vua chớ nên lại mua thêm cái nhục nữa, chi bằng dâng đất tự về với Tần, lại còn được đất phong để giữ sự cúng tế.

    Noãn vương không biếtlàm thế nào, bèn đem quần thần và con cháu đến khóc ở miếu hai vua Văn, Võ. Ba ngày sau, Noãn vương mang địa đồ thân đến dinh quân Tần lạy dưng, xin bó mình về Hàm dương. Doanh Cù nhận đất cộng ba mươi sáu thành, ba vạn nhà. Thế là đất Tây Chu thuộc về Tần cả, chỉ còn lại có đất Đông Chu. Danh Cù sai Trương Đường hộ tống vua tôi, con cháu Noãn vương về Tần để tấu tiệp, rồi dẫn quân vào thành Lạc dương, kinh lý bờ cõi đâu vào đấy. Noãn vương yết kiến vua Tần, dập đầu tạ tội, vua Tần có ý thương, phong cho đất Lương thành, giáng làm Chu công. Noãn vương vì tuổi già sức yếu, phải thường đi về qua lại đất Chu và đất Tần không chịu nổi khó nhọc, đến Lương thành được hơn một tháng thì chết. Vua Tần liền lấy lại đất phong ấy, lại sai Doanh Cù đem đinh tráng ở Lạc dương phá hủy tôn miếu nhà Chu, chuyên chở tế khí và chính cái đỉnh báu đem về Hàm dương. Dân Chu không muốn theo Tần đều chạy đến Củng thành, ở nhờ đất Đông Chu công, tỏ ra long người không quên nhà Chu vậy. Trước khi dời đỉnh một ngày cư dân nghe trong đỉnh có tiếng khóc, khi chở đỉnh đến song Tứ thủy, thì một cái đỉnh từ trong thuyền nhảy ra chìm xuống đáy nước mất. Doanh Cù sai người lặn xuống tìm, không thấy đâu cả, chỉ thấy một con rồng xanh, giương vây duỗi vuốt, một lát sóng gió nổi lên ầm ầm, người trong thuyền sợ quá, không dám xúc phạm. Đêm ấy Doanh Cù mộng thấy Vũ Vương nhà Chu ngồi ở nhà thái miếu, đòi Cù đến mắng rằng:

    - Sao mày dám dời trọng khí của ta, hủy tôn miếu của ta?

    Rồi sai tả hữu đánh vào lưng ba trăm roi. Doanh Cù tỉnh dậy, liền thấy mọc cái nhọt ở lưng, mang bệnh về Tần, dem tám cái đỉnh nộp cho vua Tần và tâu rõ sự tình. Vua Tần xem xét thấy cái đỉnh mất ấy là cái đỉnh thụôc về châu Dự, bèn than rằng:

    - Đất đai đều đã thuộc Tần cả, riêng cái đỉnh ấy lại không theo quả nhân ư?

    Nói rồi toan phái nhiều lính và phu đến chỗ đỉnh chìm để mò tìm. Doanh Cù can rằng:

    - Đó là vật linh, chớ nên tìm nữa!

    Vua Tần bèn thôi. Doanh Cù bị đau nhọt rồi chết. Vua Tần đem cái đỉnh và các tế khí bày ở trong thái miếu nhà Tần, rồi bố cáo cho các nước biết, bắt phải đến triều cống, nước nào không đến thì đem quân đánh. Vua nước Hàn vào chầu trước, cúi lạy xưng thần; Tề, Sở, Yên, Triệu, đều sai tướng quốc đến triều hạ, duy sứ giả nước Ngụy chưa thấy đến. Vua Tần bèn sai Vương Kê mang quân đánh Ngụy, Vương Kê tiết lộ việc ấy cho Ngụy biết, vua Ngụy nghe tin sợ quá, vội sai sứ đến tạ tội, rồi cũng sai thái tử Tăng sang làm con tin ở Tần, xin theo mệnh lệnh, từ đó sáu nước đều thần phục Tần.

    Vua Tần xét đến việc tư thong với nước Ngụy, đem Vương Kê xử tử. Thừa tướng Phạm Chuy thấy thế lại càng áy náy không yên. Một hôm vua Tần đang thị triều, bỗng thở dài. Phạm Chuy nói:

    - Người xưa nói: “Vua lo thì tôi phải nhục, vua nhục thì tôi phải chết”. Nay đại vương đang thị triều mà thở dài, đó là vì chúng tôi không làm hết chức trách, không chia lo với đại vương, vậy tôi xin chịu tội.

    Vua Tần nói:

    - Phàm việc không dự bị sẳn sang, thì không ứng phó kịp trong khi thảng thốt; nay Anh Võ quân đã bị giết, Trịnh An Bình lại làm phản, ngoài nhiều cường địch mà trong không có lương tướng, vì thế quả nhân lấy làm lo.

    Phạm Chuy vừa sợ vừa thẹn, không dám nói gì, rồi lui ra. Bấy giờ có người nước Yên tên là Thái Trạch, học rộng, có tài biện bác, thường dong một cỗ xe cũ kỹ đi du thuyết chư hầu mà chẳng nước nào dung; khi đến Đại lương gặp một người thầy tướng giỏi là Đường Cử, bèn nói rằng:

    - Tôi nghe nói tiên sinhtừng xem tướng cho Lý Đoái nước Triệu nói trong hạn trăm ngày sẽ được cầm quyền chính, có không?

    Đường Cử nói:

    - Có.

    Thái Trạch nói:

    - Như tôi đây, tiên sinh cho là thế nào?

    Đường Cử nhìn kỹ Thái Trạch rồi mỉm cười nói rằng:

    - Tiên sinh mũi như con rết, vai cao hơn đầu, trán nhăn, mày cau, hai chân khuỳnh khuỳnh. Tôi nghe nói “Thánh nhân không có tướng”, câu ấy có lẽ đúng với tiên sinh lắm! Thái Trạch biết là Đường Cử chế nhạo mình, nói rằng:

    - Phú quí sẽ tự tôi làm ra, tôi chỉ còn không biết tuổi thọ mà thôi.

    Đường Cử nói:

    - Tuổi thọ của tiên sinh, kể từ nay còn bốn mươi ba năm nữa.

    Thái Trạch cười nói rằng:

    - Ăn ngon mặc đẹp, lên xe xuống ngựa, mang ấn vàng, đeo thao tía, vái nhường trước mặt vị nhân quân, thì bốn mươi ba năm cũng đã đủ lắm rồi, còn cần gì hơn nữa!

    Rồi đó Thái Trạch lại đi sang Hàn, Triệu, nhưng vẫn không đắc dụng; lại trở về Ngụy, không may gặp kẻ cướp, nồi niêu bị lấy mất cả, không có gì thổi cơm. Thái Trạch đang ngồi nghỉ ở gốc cây, lại gặp Đường Cử. Cử hỏi đùa rằng:

    - Tiên sinh chưa phú quí ư?

    Thái Trạch nói:

    - Ta còn đang đi tìm đây!

    Đường Cử nói:

    - Tiên sinh tướng cốt kim thủy, sẽ phát ở phương tây. Nay thừa tướng Tần là Phạm Chuy tiến cử Trịnh An Bình và Vương Kê hai người đều bị trọng tội, Phạm Chuy lo sợ lắm, tất nóng long muốn từ chức, tiên sinh sao chẳng sang đó xem sao, việc gì cứ chịu khốn ở mãi đây.

    Thái Trạch nói:

    - Đường xa khó đi đến được, biết làm thế nào?

    Đường Cử bèn móc túi lấy mấy lạng vàng trao cho Thái Trạch. Thái Trạch có tiền ăn đường, liền đi đến Hàm dương, vào nhà trọ, bảo chủ trọ rằng:

    - Dọn cơm cho ta, gạo phải trắng, thịt phải béo, đợi khi ta làm thừa tướng, sẽ đền lại rất hậu.

    Chủ trọ nói:

    - Khách là người thế nào mà lại dám mong làm thừa tướng?

    Thái Trạch nói:

    - Ta đây họ Thái tên Trạch, là một người có tài hùng biện và nhiều mưu trí, đến đây để cầu yết kiến vua Tần. Vua Tần hễ thấy ta, tất nhiên bằng long nghe theo lời nói của ta, đuổi Ứng hầu mà lấy ta thay vào, ấn thừa tướng sẽ lập tức về tay tan gay!

    Chủ trọ cười là người cuồng, rồi gặp ai cũng nói cho biết. Môn khách của Phạm Chuy nghe chuyện ấy bèn nói lại cho Chuy biết.

    Phạm Chuy nói:

    - Sự nghiệp ngũ đế tam vương, học thuyết bách gia chư tử, không điều gì ta không biết; bao nhiêu tay hung biện, gặp ta dều phải thua; vậy thằng Thái Trạch ấy có tài năng gì để nói lọt tay vua Tần mà cướp tướng ấn của ta?

    Rồi sai người ra nhà trọ đòi Thái Trạch vào. Chủ trọ bảo Thái Trạch rằng:

    - Tai vạ của khách đến nơi rồi! Khách bảo muốn thay Ứng hầu làm tướng, nay tướng phủ cho triệu, khách vào tất bị nhục to!

    Thái Trạch cười nói rằng:

    - Ta gặp Ứng hầu, hắn tất đem tướng ấn nhường ta, không đợi đến phải yết kiến vua Tần đâu.

    Chủ nhân nói:

    - Khách ngông cuồng quấ! Chớ để lụy đến tôi đấy!

    Thái Trạch mặc áo vải, đi guốc vào yết kiến Phạm Chuy. Chuy ngồi vắt chân để đợi. Thái Trạch chỉ vái dài mà không lạy. Phạm Chuy cũng không mời ngồi, cất tiếng dữ tợn hỏi rằng:

    - Nói rêu rao bên ngoài là muốn thay ta làm thừa tướng, có phải là mày đó không?

    Thái Trạch đứng ngay bên cạnh nói:

    - Chính tôi đây!

    Chuy hỏi:

    - Mày có thuyết gì có thể cướp tước vị của ta?

    Thái Trạch nói:

    - Ồ, sao ngài lại chậm hiểu như thế? Kẻ đã thành công rồi thì nên lui về để nhường bước cho người sau. Vậy nay ngài nên lui về là phải.

    Chuy nói:

    - Ta không tự lui, ai có thể lui được ta?

    Thái Trạch nói:

    - Phàm người nào than thể khỏe mạnh, chân tay lanh lẹ, thông minh thánh trí, hành đạo thi ân cho thiên hạ, thì người đời đều phải kính mến mà tôn làm bậc hiền hào, có phải thế không?

    Phạm Chuy nói:

    - Phải.

    Thái Trạch lại nói:

    - Đã đắc chí trong thiên hạ rồi mà yên vui cõi thọ, hưởng hết tuổi đời, đem lộc nước, ơn vua mà truyền cho con cháu, cùng với trời đất cùng lâu dài, như thế thì người đời gọi là việc tốt lành đại phúc, có phải thế không?

    Phạm Chuy nói:

    - Phải.

    Thái Trạch nói:

    - Còn như Tần có Thương quân, Sở có Ngô Khởi, Việt có Văn Chủng, công thành mà đều bị giết hại, ngài có cho đó là những điều đáng ước ao không?

    Phạm Chuy nghĩ thầm người này nói những điều lợi hại, chực xoi mói ta, nếu nói là không muốn thì mắc vào thuật của hắn, bèn giả cách đáp rằng:

    - Có gì là không đáng ước ao! Thương quân thờ Hiếu công, lấy công tâm định pháp lệnh để trị nước, mở mang nghìn dặm đất cho Tần. Ngô Khởi thờ vua Sở, bỏ Quí thích để nuôi chiến sĩ, Văn Chủng bình định Ngô, báo được cái thù cối Cối kê cho vua Việt. Ba người ấy dẫu đều bị giết, nhưng đại trượng phu bỏ mình mà nên điều nhân, coi chết như về, công ở đương thời, tiếng để đời sau, như thế há lại chẳng đáng ước ao ru?

    Bấy giờ Phạm Chuy dẫu nói cứng ngoài mồm, nhưng trong long thì xao xuyến, không ngồi yên được, phải đứng dậy mà nghe.

    Thái Trạch nói:

    - Vua thánh tôi hiền là phúc của nước, cha lành con hiếu là phúc của nhà, làm con hiếu ai chẳng muốn được cha hiền, làm tôi hiền ai chẳng muốn được vua sáng. Tỉ Can trung mà nhà Ân mất, Thân Sinh hiếu mà nước Tấn loạn, hai người chịu cái chết thảm khốc mà không ích gì cho vua, cho cha, là cớ làm sao? Là vì vua không sáng mà cha không hiền vậy. Thương quân, Ngô Khởi, Văn Chủng đều không may mà chết, há phải cầu chết để lấy cái tiếng để lại đời sau đâu? Đại trượng phu ở đời, thân và danh đều toàn được là nhất, danh toàn mà than chết là thứ nhì, còn như danh nhục mà thân toàn đó là kẻ hèn kém.

    Mấy câu đó khiến cho Phạm Chuy trong long sang sủa khoan khoái, vừa bước xuống thềm vừa nói:

    - Phải lắm!

    Thái Trạch lại nói:

    - Ngài thử xem vua Tần ngày nay đối với bầy tôi, có tin dung hậu đãi như Hiếu công đối với Thương quân, Sở vương đối với Ngô Khởi, Việt vương đối với Văn Chủng không?

    Phạm Chuy ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

    - Điều đó tôi chưa biết thế nào.

    Thái Trạch lại nói:

    - Ngài tự nghĩ sự nghiệp của ngài, so với Thương quân, Ngô Khởi, Văn Chủng, ai hơn?

    Phạm Chuy nói:

    - Tôi không bằng.

    Thái Trạch nói:

    - Vua Tần ngày nay tin dung công thần đã không hơn ba vua kia, mà sự nghiệp của ngài lại không hơn ba người kia, vậy mà lộc vị và tài sản của ngài lại gấp mấy ba người ấy. Nay ngài không sớm liệu mà lui về, làm kế tự toàn, thử hỏi: ba người ấy còn không khỏi vạ, huống chi là ngài. Tô Tần, Trí Bá xưa kia, không phải là không đủ trí, không thể tự giữ mình, vậy mà điều bị hại, chỉ là vì tham lợi không thôi. Ngài vốn là kẻ thất phu, được tri ngộ vua Tần, làm đến chức thượng tướng, giàu sang rất mực, thù đã báo mà ơn đã đền rồi, vậy mà còn tham tiếc quyền thế, lợi lộc thì tôi e cái vạ Tô Tần, Trí Bá ngài khó tránh được! Tục ngữ nói: “Mặt trời đến lúc giữa thì bóng xế, mặt trăng đến lúc đầy thì khuyết vành”, sao ngài không nhân lúc nộp giả ấn tướng, chọn người hiền tài mà tiến lên, tiếng là từ bỏ vinh hoa, thật là cất được gánh nặng, rồi sẽ tìm nơi cao ẩn, chẳng hơn là cứ giữ lấy cái địa vị bấp bênh không vững mà con lo cái họa vô hình không khéo sẽ xảy ra ư?

    Phạm Chuy nghe nói, thần phục Thái Trạch là người hung biện và có mưu trí, bèn xin vâng lời, rồi mời ngồi lên trên, đãi theo lễ khách; lại lưu ở tân quán, sai người làm cơm rượu khoảng đãi. Hôm sau Chuy vào chầu tâu vua Tần rằng:

    - Có một người mới ở Sơn đông đến, tên là Thái Trạch, có tài vương bá, thông hiểu thời biến, có thể giao phó quyền chính cho được. Tôi biết người nhiều, mà không thấy ai được như người ấy, tôi thực kém xa. Có người giỏi như thế, tôi không dám dấu xin kính tiến lên đại vương. Vua Tần cho đòi Thái Trạch vào điện, hỏi kế liêm tính sáu nước, Thái Trạch tâu bài rất hợp ý, vua Tần lập tức cho làm khách khanh. Phạm Chuy xưng bệnh nộp giả tướng ấn, vua Tần không cho. Chuy cáo đau nặng không dậy được. Vua Tần bèn cử Thái Trạch làm thừa tướng để thay Phạm Chuy, phong làm Cương Thành quân. Phạm Chuy về dưỡng lão ở Ứng thành.

    Lại nói Bình Nguyên quân nước Triệu là Triệu Thắng mất, vua Triệu cử Liêm Pha là tướng quốc, phong là Tín Bình quân. Vua nước Yên là Hỉ nghĩ Triệu là nước láng giềng, sai tướng quốc là Lật Phúc sang viếng tang Bình Nguyên quân và dâng năm trăm cân vàng mừng thọ vua Triệu, ước làm an hem. Lật Phúc muốn vua Triệu tặng hảo cho mình rất hậu, nhưng vua Triệu lại đãi theo lễ thường, Lật Phúc không bằng long, về tâu với vua Yên rằng:

    - Nước Triệu, từ trận thua ở TRường bình, kẻ trai tráng đều chết cả, con bồ côi thì còn bé, tướng quốc lại mới mất, Liêm Pha thì đã già. Nếu ta thừa lúc không ngờ, chia quân đi đánh, thì có thể diệt được Triệu.

    Vua Yên không xét kỹ, liền nghe theo lời Lật Phúc. Xương Quốc quân là Nhạc Gian và đại phu là Tương Cừ đều đem các điều lợi hại phải trái can ngăn vua Yên nhưng không được. Vua Yên cử ngay Lật Phúc làm đại tướng, Nhạc Thừa làm phó, đem mười vạn quân đi đánh Cao thành. Sai Khánh Tần làm đại tướng, Nhạc Gian làm phó, đem mười vạn quân đánh đất Đại, nhà vua thân xuất mười vạn quân ở phía sau tiếp ứng. Khi vua Yên lên xe, Tương Cừ nắm lấy dây thao, rỏ nước mắt nói rằng:

    - Dẫu cho có đánh Triệu, cũng chỉ xin đại vương chớ đi!

    Vua Yên dơ chân đạp Cừ, Cừ liền ôm lấy chân vua mà khóc rằng:

    - Tôi giữ đại vương lại là vì long trung. Nếu vua không nghe thì cái vạ nước Yên sẽ đến ngay trước mắt đó!

    Vua Yên lại càng giận, sai đem Tương Cừ giam vào ngục, đợi khi thắng trận về sẽ giết, rồi cả ba đạo cùng cất quân đi.

    Lại nói vua Triệu được tin quân Yên kéo đến đánh, thì hợp quần thần để bàn kế, rồi cử Liêm Pha làm đại tướng, đem năm vạn quân đón đánh Lật Phúc ở Cao thành; dung Lý Mục là phó tướng, đón đánh Khánh Tần ở đất Đại. Lật Phúc nguyên là kẻ vô tài, không biết tướng lược, địch sao được tay lão tướng Liêm Pha. Khi hai quân vừa giao chiến, quân Triệu giả cách thua bỏ chạy, Lật Phúc không biết là mưu kế, truyền quân lính đuổi theo, chừng năm sáu dặm, quân phục xong ra, Lật Phúc luống cuống không chống lại kịp, bị Liêm Pha bắt sống. Nhạc Thừa bèn đầu hàng quân Triệu. Còn đạo quân Lý Mục ở đất Đại, cũng phá tan được quân Yên, chém giết được Khánh Tần, phó tướng là Nhạc Gian cũng đầu hàng quân Triệu. Vua Yên nghe tin hai đạo quân đều bị thua, liền luôn đêm chạy về Trung đô. Liêm Pha thẳng đường kéo quân vào bổ vây bốn mặt. Vua Yên sai sứ xin hòa. Liêm Pha nghe lời. Nhạc Gian bắt vua Yên phải tha Tương Cừ ra, dung làm tướng quốc và sai Tương Cừ đem lễ vật đến nghị hòa. Vua Yên không biết làm thế nào, phải tha Tương Cừ và trao cho tướng ấn. Tương Cừ từ chối nói rằng:

    - Tôi may mà nói trúng, há lại lấy việc nước nhà bị thua làm điều may để cầu lợi ư?

    Vua Yên nói:

    - Quả nhân không nghe lời nhà ngươi mà tự mua lấy cái nhục, nay phải cầu hòa với Triệu, vịec ấy tất phải nhà ngươi đi mới xong.

    Tương Cừ phải nhận lấy tướng ấn, rồi đi sang quân Triệu, thay vua Yên tạ tội. Và đưa trả gia quyến Nhạc Gian và Nhạc Thừa. Liêm Pha bằng lòng cho hòa, rồi chếm đầu Lật Phúc và đem thi thể Khánh Tần trao trả nước Yên.

    Lại nói Chiêu Tương vương nước Tần ở ngôi năm mươi sáu năm, tuổi gần bảy mươi bị bệnh mất, thái tử An Quốc lên nối ngôi tức là Hiếu Văn vương, lập Hoa Dương phu nhân làm vương hậu, Tử Sở làm thái tử. Vua Hàn nghe tin vua Tần mất, đầu tiên mặc áo sô gai vào thăm, coi việc tang lễ theo thần tử. Chư hầu đều sai các đại thần đến hội táng. Hiếu Văn vương sau ba ngày làm lễ trừ tang, mở đại yết thiết đãi quần thần. Tiệc tang Hiếu Văn vương trở về cung thì chết. Người trong nước đều ngờ Lã Bất Vi muốn cho Tử Sở chóng được lập làm vua, bèn đút tiền cho các người tả hữu, sai bỏ thuốc độc vào trong rượu, nên vua Tần bị độc mà chết. Nhưng ai nấy đều sợ Lã Bất Vi nên không dám nói. Rồi đó Lã Bất Vi cùng quần thần tôn Tử Sở lên nối ngôi, đó là Trang Tương vương, tôn Hoa Dương phu nhân làm thái hậu, lập Triệu Cơ làm vương Hậu, con là Triệu Chính làm thái tử, rồi bỏ họ Triệu đi, chỉ dung một chữ là “Chính”. Thái Trạch biết Trang Tương vương cảm cái ơn sâu của Lã Bất Vi, muốn cử Bất Vi làm tướng, bèn cáo bệnh đem ấn tướng nộp giả. Bất Vi bèn làm thừa tướng, phong làm Văn Tín hầu, ăn lộc mười vạn nốc nhà ở Lạc dương, Hà nam. Bất Vi mến tiếng Mạnh Thường, Tín Lăng, Bình Nguyên, Xuân Thân, thẹn mình không bằng, bèn cũng đặt ra tân quán, chiêu dụ tân khách, có hơn ba nghìn người.

    Lại nói Đông Chu quân thấy nước Tần mất liền hai vua, trong nước nhiều việc, bèn sai tân khách đi nói các nước hợp tung để đánh Tần. Lã Bất Vi nói với vua Tần rằng:

    - Tây Chu đã mất, mà Đông Chu chỉ còn như một sợi dây, tự cho mình là con cháu Văn, Võ, để hô hào thiên hạ; chi bằng ta diệt nốt đi, để dứt hẳn long trông mong của mọi người.

    Vua Tần bèn dung Bất Vi làm đại tướng, đem mười vạn quân đánh Đông Chu bắt được vua đem về, lấy hết được cả bảy ấp Củng thành. Nhà Chu kể từ vua Vũ vương làm vua năm Kỷ dậu, đến Đông Chu quân năm Nhâm tí, trải ba mươi bảy vua, cộng tám trăm bảy mươi ba năm, thì bị nước Tần diệt. Vua Tần đã diệt được nhà Chu, lại sai Mông Vụ đánh Hàn, lấy được Thành cao, Huỳnh dương, đặt ra quận Tam xuyên. Lại nghĩ khi làm con tin ở Triệu, xuýt bị vua Triệu giết, thù ấy tất phải báo, bèn sai Mông Vụ đánh Triệu, lấy được ba mươi bảy thành, đặt ra quận Thái nguyên. Rồi lại đem quân đánh Ngụy, quân Ngụy bị thua luôn. Như Cơ nói với vua Ngụy rằng chỉ có Tín Lăng quân mới có thể lui được quân Tần, nên viết thư mời về. Vua Ngụy trong cơn nguy cấp, bắt đắc dĩ phải sai Nhan An mang thư và vàng lụa sang Triệu đón Tín Lăng Quân về. Tín Lăng quân xem thư xong, nghĩ vua Ngụy bỏ mình ở Triệu đã mười năm, nay có việc nguy cấp mới đón về, không phải là thực lòng nhớ mình, bèn treo lá thư ở dưới cửa, nói hễ ai đưa sứ giả của vua Nguỵ vào thì giết chết. Tân khách đều bảo nhau, không ai dám khuyên Tín Lăng quân về Ngụy nữa. Nhan An ngóng chờ mãi không biết làm thế nào.​
     
  2. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,685
    Đông Chu Liệt Quốc
    Tác giả: Phùng Mộng Long
    Chương 102: Đạo Hoa âm, Mông Ngao Bị Thua Sông Hồ Lư, Kịch Tân Tự Tử

    Dịch giả: Nguyễn Đỗ Mục.
    Nguồn: NXB Văn Học

    Lại nói Nhan An muốn yết kiến Tín Lăng quân mà không được vào, các tân khách lại không ai nói giúp, đang vẫn vơ không biết làm thế nào, bỗng gặp Mao công và Tiết công đến thăm Tín Lăn quân. Nhan An biết hai người là thượng khách của Tín Lăng quân, liền khóc lóc kể lể sự tình. Hai người hứa xin hết sức nói giúp. Hai người vào đến nơi trong thấy Tín Lăng quân liền nói rằng:

    - Nghe nói công tử sắp về nước chúng tôi đến tiễn đây.

    Tín Lăng quân nói:

    - Đâu có việc ấy.

    Hai người nói:

    - Quân Tần vây nước Ngụy gấp quá, công tử không nghe tin ư?

    Tín Lăng quân nói:

    - Tôi có nghe nói, nhưng tôi từ giả nước Ngụy đã mười năm rồi, nay đã thành người Triệu, không muốn dự nghe đến việc nước Ngụy nữa.

    Hai người đều nói rằng:

    - Sao công tử lại nói thế? Công tử được trọng đãi ở Triệu tiếng khen khắp chư hầu, là nhờ có nước Ngụy. Ngay như công tử mà nuôi được kẻ sĩ, chiêu nạp tân khách trong thiên hạ là nhờ sức nước Ngụy. Nay Tần đánh Ngụy gấp quá mà công tử không thương, nếu quân Tần phá được Đại lương, hủy hoại tôn miếu của tiên vương thì sao? Công tử dù chẳng nghĩ đến nhà, há lại chẳng nghĩ đến sự cúng tế tổ tiên ru? Công tử còn mặt mũi nào mà cứ ăn nhờ nước Triệu này mãi?

    Hai người nói chưa dứt lời, Tín Lăng quân đã toát mồ hôi, đứng dậy tạ rằng:

    - Hai tiên sinh trách Vô Kỵ này là đáng lắm! Vô Kỵ xuýt nữa sẽ thành tội nhân trong thiên hạ vậy!

    Lập tức sai tân khách sửa hành trang, rồi vào triều từ biệt vua Triệu. Vua Triệu không muốn để cho về, cầm lấy cánh tay khóc mà nói rằng::

    - Quả nhân từ khi mất Bình Nguyên quân, cậy có công tử làm bức tường thành, nay bỗng công tử bỏ quả nhân mà đi, quả nhân biết cùng ai lo việc xã tắc?

    Tín Lăng quân nói:

    - Vô Kỵ này không nở để tôn miếu tiên vương bị phá hủy về tay quân Tần, cho nên thế nào cũng phải về. Nếu nhờ phúc của đại vương mà xã tắc không mất, thì còn có ngày lại được thấy nhau.

    Vua Triệu nói:

    - Công tử trước đem quân Ngụy đến cứu sống được nước Triệu, nay công tử về nước cứu nạn, thì quả nhân dám xin hết sức giúp lại.

    Vua Triệu bèn đem ấn thượng tướng trao cho Tí Lăng quân, sai tướng quân Bàng Noãn là phó, đem mười vạn quân Triệu đi giúp. Tín Lăng quân đã làm tướng quân Triệu, sai Nhan An về Ngụy báo tin trước, rồi sai tân khách mang thư đến các nước cầu cứu. Ba nước Yên, Hàn, Sở đều vốn trọng nhân phẩm của Tín Lăng quân, nghe biết Tín Lăng quân làm tướng, đều có ý vui mừng, sai đại tướng mang quân đến Ngụy, chịu quyền tiết chế. (Tướng Yên là Tương Cừ, tướng Hàn là Công Tôn Anh, tướng Sở là Cảnh Dương). Chỉ có nước Tề là không chịu phát binh.

    Lại nói vua Ngụy đang cơn nguy cấp, được Nhan An về báo là Tín Lăng quân đem quân bốn nước về cứu, vui mừng khôn xiết, sai Vệ Khánh đem hết quân trong nước ra tiếp ứng. Bấy giờ Mông Vụ vây Giáp châu, Vương Hạt vây Hoa châi, Tín Lăng quân cùng chư tướng bàn định, sai Vệ Khánh đem quân Ngụy hợp với quân Sở, đắp lũy để chống quân Mông Vụ, dựng hiệu cờ Tín Lăng quân, giữ vững không ra đánh, còn mình mang mười vạn quân Triệu hợp với quân Yên, Hàn, đến cứu Hoa châu; một mặt sai tướng Triệu là Bàng Noãn đem một đạo quân đến sông vị chẹn cướp thuyền lương của quân Tần. Vương Hạt được tin, sợ tuyệt mất đường quân lương, bèn lưu một nữa quân ở lại vây Hoa châu, còn một nữa tự mình đốc suất đi cứu thuyền lương ở sông Vị. Đi đến gần núi Thiếu hoa, đại quân Yên do Tương Cừ thống suúat xông ra đánh. Vương Hạt cùng Tương Cừ đánh nhau được vài hợp lại có một đội quân Hàn do Công Tôn Anh thống suất kéo đến. Vương Hạt phải chia quân ra đối địch. Bỗng có tin báo là thuyền lương ở sông Vị bị tướng Triệu cướp mất rồi. Biết thế sự đã nguy, Vương Hạt chỉ còn liều chết chống đánh, từ giờ ngọ đến giờ dậu vẫn chưa thu quân. Tín Lăng quân liệu chừng quân Tần đã mõi mệt, liền đem phục binh xông ra đánh. Vương Hạt dẫu là tướng quen đánh trận, nhưng có ba đầu sáu tay thì đối địch sau cho nổi, nên bị thua to, thiệt hại hơn năm vạn quân, chỉ còn dẫn được một toán binh tướng chạy về Đông quan. Tín Lăng quân thừa thắng lại chia ba đội đến cứu Giáp châu. Mông Vụ ở đó chia quân, để toán già yếu ở lại chống giữ với hai quân Sở, Ngụy, còn bao nhiêu quân tinh nhuệ tự mình đốc xuất định đến Hoa châu để cùng Vương Hạt hợp quân, không ngờ Vương Hạt đã thua chạy. Mông Vụ đến Hoa âm thì gặp quân Tí Lăng quân đi trước xông pha, tả có Công Tôn Anh, hữu có Tương Cừ, hai bên đánh to một trận. Mông Vụ thiệt hơn vạn quân, đành phải thu quân, lập dinh trại để chỉnh đốn quân mã, đợi ngày quyết chiến. Còn đạo quân già yếu đóng ở Giáp châu, vì không đủ sức chống với hai quân Ngụy, Sở, nên đã tan vở cả. Hai đạo quân Sở, Ngụy đã giải vây được cho Giáp châu, liền kéo luôn đến Hoa âm, thì gặp luc Mông Vụ đang bày trận, hai bên liền giao chiến. Mông Vụ dẫu khỏe, nhưng địch sao được cả năm đạo quân, nên lại bị đại bại một trận nữa, vội vàng nhằm phía tây chạy trốn. Tín Lăng quân đuổi theo mãi đến bên dưới cửa Hàm cốc, quân năm nước chia đóng năm dinh lớn ở trước cửa quan, dương oai diễu võ đến hơn một tháng, quân Tần đóng chặt cửa không dám ra. Tín Lăng quân mới kéo quân về; quân các nuớc cũng đâu về đấy. Vua Ngụy nghe tin Tín Lăng quân đại phá quân Tần trở về, xiết bao mừng rỡ, ra đón tiếp tận ngoài ba mươi dặm. An hem cách biệt trong mười năm trời, ngày nay lại gặp, nửa mừng, nửa thương, bèn cùng lên xe về triều, luận công hành thưởng, bái làm thượng tướng, phong them cho năm thành nữa. Việc chính trong nước, bất cứ lớn nhỏ, đều do Tín Lăng quân quyết định. Lại tha cho Chu Hợi cái tội giết Tấn Bỉ, dùng làm thiên tướng. Từ đó uy danh Tín Lăng quân vang động cả thiên hạ, các nước đều đem hậu lễ để thỉnh cầu binh pháp của Tín Lăng quân. Tín Lăng quân đem các thư sách của tân khách dâng cho bấy lâu, xếp làm hai mươi mốt thiên, bảy quyển trận đồ, gọi là “Ngụy công tử binh pháp”.

    Lại nói chuyện Mông Vụ, Vương Hạt trở về triều kiến vua Tần xin chịu tội. Vua Tần nghĩ đến công cũ và biết lần ấy hai người ít quân không địch nổi năm nước, nên tha không bắt tội. Thái Trạch tâu rằng:

    - Các nước sở dĩ hợp tung là vì có công tử Vô Kỵ, nay đại vương sai sứ sang thong hiếu với Ngụy, mời Vô Kỵ sang Tần họp mặt, đợi lúc vào trong cửa quan bắt mà giết đi, trừ cái lo về sau,há chẳng hay lắm ru?

    Vua Tần liền dung mưu ấy, sai sứ sang Ngụy thong hiếu và mời Tín Lăng quân. Phùng Hoan can ngăn Tín Lăng quân chớ theo như Mạnh Thường quân và Bình Nguyên quân ngày xưa, khinh than vào Tần, xuýt bị Tần bắt giữ. Tín Lăng quân cũng không muốn đi, bèn nói với vua Ngụy sai Chu Hợi làm sứ đem đôi ngọc bích sang tạ Tần. Vua Tần thấy Tín Lăng quân không đến thì trong long cả giận. Mông Vụ mật tâu rằng:

    - Chu Hợi tức là người đánh chết Tấn Bỉ. Đó là một tay dũng sĩ của nước Ngụy, nên giữ lại để dung.

    Vua Tần muốn phong quan chức cho, Chu Hợi nhất định không nhận. Vua Tần càng giận,sai người bỏ Chu Hợi vào trong chuồng hổ. Trong chuồng có con hổ đốm, thấy người đến thì nhảy chồm lên chực bắt. Chu Hợi hét lên một tiếng mắng rằng:

    - Con vật này sao dám vô lễ!

    Tức thì hai mắt Chu Hợi trợn ngược lên, đỏ ngầu như hai chén máu, hai khóe đều rách. Con hổ sợ nằm bẹp xuống không dám động. Mọi người lại dắt Chu Hợi ra, vua Tần than rằng:

    - Ô Hoạch, Nhâm Bỉ ngày xưa, chẳng hơn được người này. Nếu ta lại thả cho y về Ngụy, tức là thêm cánh cho Tín Lăng quân!

    Rồi lại sai người cố ép Chu Hợi phải đầu hang, nhưng Chu Hợi vẫn một mực không nghe. Vua Tần bèn bắt giam Chu Hợi ở trong nhà trạm, không cho ăn uống. Chu Hợi nói:

    - Ta chịu ơn tri ngộ của Tín Lăng quân, phải lấy cái chết mà đền!

    Bèn đập đầu vào cột, cột gãy mà đầu không vỡ, liền lấy tay móc cuống họng, họng đứt, Chu Hợi chết ngay. Vua Tần đã giết Chu Hợi, muốn cho Tín Lăng quân không còn được cầm quyền ở Ngụy, bèn cùng quần thần tìm kế ly gián vua tôi ngụy. Thái Trạch bài kế đem vạn cân vàng sai người sang Ngụy đút cho phái Tấn Bỉ, xui nói truyền đi rằng chư hầu sợ uy Tín Lăng quân, đều muốn tôn lên làm vua Ngụy, Tín Lăng quân chẳng bao lâu nữa sẽ cướp ngôi, cốt làm cho vua Ngụy phải xa bỏ Tín Lăng quân. Vua Tần làm theo kế, lại muốn báo cái thù thua trận, định giết thái tử Tăng nước Ngụy sang làm con tin ở Tần. Thái Trạch can rằng:

    - Giết thái tử này, Ngụy lập thái tử khác, chẳng hại gì cho Ngụy. Chi bằng dùng ngay thái tử để làm phản gián ở Ngụy.

    Vua Tần khen phải, lại càng hậu đãi thái tử Tăng, sai tân khách đi lại kết than, và mật bảo thái tử rằng:

    - Tín Lăng quân ở ngoài mười năm giao kết với chư hầu, tướng văn, tướng võ chư hầu đều kinh sợ cả, nay làm đại tướng Ngụy, quân lính chư hầu thuộc quyền, thiên hạ chỉ biết Tín Lăng quân mà không biết có vua Ngụy. Ngay như Tần cũng sợ oai Tín Lăng quân lắm, muốn lập làm vua để cầu hoà. Nếu Tín Lăng quân làm vua thì tất bảo Tần giết thái tử, chẳng thế thì thái tử cũng chết già ở Tần.

    Thái tử Tăng khóc lóc hỏi kế, khách nói:

    - Tần đang muốn cùng Ngụy thông hiếu, thái tử sao chẳng viết một phong thư đưa cho vua Ngụy, xin đón thái tử về nước.

    Thái tử Tăng nói:

    - Dù xin đón về, nhưng khi nào Tần chịu thả tôi ra?

    Khách nói:

    - Sở dĩ vua Tần muốn tôn Tín Lăng quân lên làm vua là chỉ vì sợ oai đó thôi, chứ không phải bản tâm muốn thế. Nếu thái tử xin đem nước theo Tần, thì tất là Tần phải bằng long, như vậy lo gì vua Tần chẳng ưng cho.

    Thái tử Tăng bèn viết một bức thư nói rõ chư hầu đều qui phục Tín Lăng quân, nước Tần lại muốn lập ông ta lên làm vua, cuối cùng tỏ ý xin về, niêm phong cẩn mật, nhờ khách mật đưa cho vua Ngụy. Rồi đó vua Tần cũng viết hai phong thư, một đưa cho vua Ngụy, nói Chu Hợi bị bệnh chết, một gởi mừng Tín Lăng quân, lại có lễ vật kính biếu nữa.

    Lại nói vua Ngụy nghe lời phao của những người về phe Tấn Bỉ thì đã sinh nghi rồi; đến khi sứ Tần mang quốc thư đến xin bãi chiến cầu hòa, hỏi rõ ý muốn, chỉ là vì kính mến Tín Lăng quân, lại tiếp được thư riêng của thái tử Tăng, thì lại càng nghi hoặc hơn nữa. Sứ thần lại đem thư và lễ vật đến phủ Tín Lăng quân, cố ý hở ra, để vua Ngụy biết.

    Lại nói Tín Lăng quân nghe sứ Tần đến xin cầu hòa, bèn bảo tân khách rằng:

    - Tần không có việc binh nhung, phải cầu gì Ngụy, tất là nó lại dung kế gì đây!

    Nói chưa dứt lời thì có người báo là sứ Tần ở ngoài cửa, nói là vua Tần có đưa thư mừng. Tín Lăng quân nói:

    - Kẻ làm tôi không có phép giao thiệp riêng!

    Thư và lễ vật của vua Tần, Tín Lăng quân nhất định trả lại, hai ba lần sứ giả kính tỏ long thành của vua Tần, Tín Lăng quân đều nhất định cự tuyệt. Vừa lúc đó vua Ngụy cũng sai sứ đến đòi bức thư của vua Tần để xem. Tín Lăng quân nói:

    - Vua Ngụy đã biết có thư, nếu ta nói không nhận tất vua Ngụy không tin.

    Nói rồi liền sai sắp xe, đem cả phong thư và lễ vật của vua Tần để nguyên không động, dâng lên vua Ngụy, nói là đã hai ba lần từ chối, không dám mở ra, nay vua đòi xem thì cứ để nguyên mà dâng trình, nhờ lượng trên xét nghĩ.

    Vua Ngụy nói:

    - Trong thư tất có tình tiết, không mở xem tất không rõ.

    Bèn mở ra xem, trong thư đại lược nói:

    “Oai danh của công tử lừng lẫy khắp thiên hạ, vương hầu các nước đều nghiêng long mến phục. Công tử nên định ngày lên ngôi, để làm chủ chư hầu. Nhưng không biết ngày nào vua Ngụy nhường ngôi, lấy làm mong mỏi lắm. Có chút lễ mọn để tỏ long mừng mong công tử nhận cho”.

    Vua Ngụy xem xong, đưa cho Tín Lăng quân xem. Tín Lăng quân tâu rằng:

    - Người Tần hay lừa dối, bức thư này là để ly gián vua tôi ta. Hạ thần sở dĩ không nhận, chính là gì không biết trong đó họ nói gì, sợ mắc mưu họ.

    Vua Ngụy nói:

    - Công tử đã có cái long như thế, thì nên ở ngay trước mặt quả nhân, viết thư trả lời cho vua Tần.

    Lập tức sai tả hữu lấy giấy bút đưa cho Tín Lăng quân viết thư, đại lược nói:

    “Vô Kỵ này đã chịu ơn to của quốc vương tôi, dù chết cũng chưa báo đáp được. Nhà vua có nói đến việc lên ngôi, đó là một lời nói không thể đem dạy kẻ làm tôi được. Lễ vật của nhà vua ban cho, tôi thà chết không dám nhận”.

    Viết xong trao thư cho sứ Tần và trả cả lễ vật cho đem về. Vua Ngụy cũng sai sứ tạ Tần và nói tuổi già muốn đón thái tử Tăng về nước. Vua Tần thuận cho. Thái tử Tăng đã về Ngụy, nói không nên dung Tín Lăng quân. Tín Lăng quân dẫu không ái náy gì, nhưng nghĩ vua Ngụy đã có ý nghi, bèn xưng bệnh không vào triều, trả lại tướng ấn, binh phù, ngày ngày chỉ cùng tân khách uống rượu và thường thường than cận phụ nữ để làm vui.

    Lại nói Chiêu Tương vương nước Tần ở ngôi ba năm bị bệnh, thừa tướng Lã Bất Vi vào hỏi thăm. Lã Bất Vi nhân lúc ấy sai nội thị cầm phong thư kín đưa cho vương hậu, nhắc lại lời thề ngày trước. Vương hậu chưa quên tình cũ, bèn triệu Bất Vi vào cung tư thong. Bất Vi đem thuốc dâng vua, vua đau một tháng thì mất. Bất Vi rước thái tử Chính lên ngôi, bấy giờ mới có mười ba tuổi. Tần Vương Chính tôn Trang Tương hậu làm thái hậu, phong em là Thành Kiệu làm Trường An quân, việc nước đều do Lã Bất Vi quyết định, ví như Thái công, phong làm thượng phụ. Cha Bất Vi chết, tân khách các nước đến thăm đôngnhư chợ, xe ngựa chật đường, to hơn đám ma vua Tần. Năm đầu Tần Vương Chính, Lã Bất Vi biết Tín Lăng quân đã bị bỏ, bèn sai đại tướng Mông Vụ cùng Trương Đường đánh Triệu, hạ được thành Tân dương. Đến năm thứ ba, Lã Bất Vi lại sai Mông Vụ cùng Vương Hạt đánh Hàn, lấy được mười hai thành. Từ khi Tín Lăng quân bị bỏ tình giao hiếucủa Triệu, Ngụy cũng tuyệt. Hiếu Thành vương nước Triệu sai Liêm Pha đánh Ngụy, vây Phồn dương; sau vua Triệu nghe dèm pha bỏ Liêm Pha, Liêm Pha chạy sang Ngụy; vua Ngụy dẫu tôn làm khách tướng nhưng không trọng dụng.

    Trong năm Tần Vương Chính thứ tư, Tín Lăng quân nước Ngụy vì vui chơi tửu sắc quá độ, bị bệnh mà chết, Phùng Hoan thương khóc quá cũng chết, tân khách tự đâm cổ chết theo có hơn trăm người, coi đó thì rõ Tín Lăng quân được sĩ phu tin yêu biết chừng nào!

    Năm sau, vua Ngụy mất, thái tử Tăng nối ngôi, đó là Cảnh Mân vương. Tần biết Ngụy mất vua, Tín Lăng quân cũng chết rồi, định báo cái thù trận thua năm trước, sai Đại tướng Mông Ngao đánh ngụy, lấy được hai thành Toan Tảo, đặt ra Đông quận, không bao lâu lại lấy được Triều ca và Bộc dương, Cảnh Mân vương than rằng:

    - Nếu Tín Lăng quân còn sống, chắc không để cho quân Tần tung hoành như thê!

    Rồi sai sứ cùng Triệu thong hiếu. Vua Triệu cũng lo Tần đánh lấn không thôi, đang muốn ssai sứ đi hẹn các nước lại kết ước hợp tung để chống Tần, thì được tin nước yên cử Kịch Tân làm đại tướng mang mười vạn quân đến đánh. Kịch Tân là người Triệu khi còn ở Triệu có chơi tâan với Bàng Noãn, về sau Bàng Noãn làm quan ở Triệu, Kịch Tân sang theo Chiêu vương nước Yên, Chiêu vương dùng làm thái thú Kế quận. Đến đời vua Yên là Hi, bị tướng Triệu là Liêm Pha vây khốn trong đô thành, nhờ Tương Cừ đi giảng hòa mới được giải vây, lấy điều ấy làm xấu hổ. Tương Cừ dẫu làm tướng Yên, nhưng vẫn là do Triệu che chở vì vậy vua Yên vẫn không bằng lòng, nên được hơn năm, Cừ liền thác bệnh trả lại tướng ấn. Vua Yên bèn cử Kịch Tân làm tướng quốc, cùng mưu việc báo thù Triệu, nhưng vẫn sợ Liêm Pha nên không dám động binh; bấy giờ nhân thấy Liêm Pha đã chạy sang Ngụy, Bàng Noãn làm tướng, Kịch Tân có ý khinh, bèn xin vua Yên đem binh đi đánh Triệu, nói quyết bắt sống được Bàng Noãn. Vua Yên cả mừng cho đi, vua Triệu được tin, triệu Bàng Noãn bàn kế, Noãn nói:

    - Kịch Tân tự cậy là tay túc tướng, tất có lòng khinh địch, xin sai Lý Mục ở dất Đại, dẫn quân đi về phía nam chẹn giữ lối sau, hạ thần đem một đạo quân đón đánh, làm cho Kịch Tân trước sau đều bị đánh, thì có thể bắt sống được.

    Vua Triệu theo kế ấy. Lại nói Kịch Tân kéo quân thẳng đến địa giới Thường sơn, Bàng Noãn đóng quân oqr Đông viên, Kịch Tân nghĩ đã kéo quân vào sâu, nếu Bàng Noãn cứ giữ vững không ra đánh thì không bao giờ thành công, liền hỏi các tướng bộ hạ có ai dám ra khiêu chiến. Lật Nguyên là con Lật Phúc muốn báo thù cha hớn hở xin đi. Kịch Tân lại cử Vũ Dương Tĩnh đi giúp sức, Kịch Tân cấp cho một vạn tinh binh, khiến xông vào quân Triệu. Bàng Noãn sai Nhạc Thừa, Nhạc Gian chia hai toán tả hữu để đợi, mà tự mình đem quân ra đánh. Hai bên đánh nhau chừng hơn hai mươi hợp, một tiếng pháo nổ hai toán tả hữu quân Triệu đều tiến, dung cung nỏ cứng bắn tua tủa vào quân Yên. Vũ Dương Tĩnh bị mũi tên chết ngay. Lật Nguyên không địch nổi bỏ chạy. Bàng Noãn cùng hai tướng đuổi theo chém giết, một vạn quân Yên bị chết hơn ba nghìn. Kịch Tân giận quá,vội mang đại quân đi tiếp ứng, thì Bàng Noãn trở về dinh rồi. Kịch Tân đánh thành không được, bèn sai người đưa thư, hẹn Bàng Noãn ngày mai ngồi xe không,ra trận chào nhau. Bàng Noãn bằng long, hai bên đều dự bị, đến hôm sau hai bên cùng bày thành trận thế, giao hẹn không được bắn tên ngầm. Bàng Noãn ngồi x era đứng ở trận trước, mời Kịch Tân ra hội diện. Kịch Tân cũng cỡi xe đi ra, Bàng Noãn ở trong xe cúi chào nói rằng:

    - Xin mừng tướng quân răng tóc vẫn không việc gì?

    Kịch Tân nói:

    - Nhớ khi xưa tôi từ biệt ngài bỏ nước Triệu mà đi, thấm thoát đã hơn bốn mươi năm rồi, tôi đã già yếu mà ngài cũng đã có tuổi, người ta ở đời cực ngắn ngủi chẳng được là bao!

    Bàng Noãn nói:

    - Tướng quân thấy Chiêu vương biết kính trọng kẻ sĩ, bỏ Triệu sang Yên, nhất thời các tay hào kiệt theo về rất đông. Nhưng nay đền Hoàng kim cỏ mọc đã dày, mộ Chiêu vương cây đã vừa ôm; Tô Đại, Trâu Diễn, cũng đã nối gót qua đời, Xương Quốc quân cùng về với nước tôi. Khí vận nước Yên, coi đó cũng đủ biết. Lão tướng quân tuổi ngoại sáu mươi, cô quạnh ở trong triều của một vị vua đã gần suy, thế mà còn tham luyến binh quyền, cầm hung khí mà làm việc nguy hiểm, để làm gì vậy?

    Kịch Tân nói:

    - Tôi chịu hậu ân ba đời vua Yên, dù thịt nát xương tan cũng khó báo đền; nhân lúc tuổi thừa này, muốn vì nước nhà rửa cái thù Lật Phúc.

    Bàng Noãn nói:

    - Lật Phúc vô cớ, đánh ấp Cảo nước tôi, tự mua lấy cái thua, đó là tự Yên phạm Triệu chứ không phải Triệu phạm Yên.

    Hai bên ngồi trong xe, kẻ nói đi người nói lại, Bàng Noãn bỗngnói to lên rằng:

    - Ai lấy được đầu Kịch Tân, thì thưởng ba trăm lạng vàng!

    Kịch Tân nói:

    - Sao túc hạ khinh tôi quá thế? Tôi há lại không lấy được đầu túc hạ sao?

    Rồi cầm lệnh tiễn vẫy một cái, Lật Nguyên dẫn quân xông ra đánh. Tức thì hai bên cùng ra sức đánh nhau. Quân Yên bị hại nhiều hơn quân Triệu. Trời tối, hai bên cùng thu quân. Kịch Tân về dinh buồn bã không vui, đang lo tính phân vân, bỗng thấy quân báo là Bàng Noãn sai người đến đưa thư. Kịch Tân sai người ra cầm vào, thấy bức thư phong kính hai ba lần, mở ra xem, đại lược nói:

    - “Tướng giữ Đại châu là Lý Mục đem quân đánh úp Đốc cương, chẹn sau lưng ngài, ngày nên về ngay, nếu không thì không kịp, tôi nghĩ đến chút giao tình ngày trước, xin bảo thật để ngài biết”.

    Kịch Tân nói:

    - Bàng Noãn chỉ muốn làm nao lòng quân ta mà thôi, cho dù quân Lý Mục đến thật, ta có sợ gì?

    Rồi viết thư trả lời nói ngày mai lại quyết chiến. Sứ Triệu về rồi, Lật Nguyên ngỏ lời rằng:

    - Lời Bàng Noãn không nên không tin, Vạn nhất Lý Mục dẫn quân đánh úp sau lưng, quân ta trước sau đều bị đánh thì phải làm thế nào?

    Kịch Tân cười nói rằng:

    - Ta cũng nghĩ đến điều đó. Vừa rồi ta nói là để cho vững lòng quân mà thôi.

    Rồi bảo Lật Nguyên mật truyền quân lệnh, luôn ban đêm rút lui về. Còn mình đi đoạn hậu, để chống quân đuổi theo. Không ngờ Bàng Noãn dò biết việc ấy, cùng Nhạc Thừa, Nhạc Gian chia ba đường đuổi theo. Kịch Tân vừa đánh vừa chạy, đến song Long toàn, bỗng có thám tử báo là mặt trước có quân Đại châu kéo đến, Kịch Tân sợ quá, cho là Bàng Noãn quả không nói dối, bèn không dám đi về phía bắc, dẫn quân đi về phia đông, muốn theo đường Phụ thành, chạy về Liên dương. Bàng Noãn đuổi kịp, hai bên lại đại chiến ở song Hồ lư. Kịch Tân bị thua than rằng:

    - Ta còn mặt mũi nào làm tù nước Triệu nữa!

    Rồi tự đâm cổ mà chết. Lật Nguyên bị Nhạc Gian chém chết, hơn ba vạn quân bị giét, còn đều tan chạy hoặc đầu hang. Quân Triệu đại thắng. Bàng Noãn lại cùng Lý Mục hợp quân đánh lấy Vũ trại và Phương thành. Vua Yên phải than hành đến nhà Tương Cừ, cầu đứng làm sứ đi sang quân Triệu nhận tội xin hòa. Bàng Noãn nễ Tương Cừ, cho hòa rồi kéo quân về, còn Lý Mục vẫn ở lại giữ Đại châu. Vua Triệu ra tận ngoài thành đón Bàng Noãn, khen rằng:

    - Tướng quân vũ dũng như thế, thì cũng như Liêm Pha, Lạn Tương Như còn ở nước Triệu vậy.

    Bàn Noãn nói:

    - Người Yên đã phục, nhân lúc này nên hợp tung các nước để cùng chống Tần.​
     
  3. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,685
    Đông Chu Liệt Quốc
    Tác giả: Phùng Mộng Long
    Chương 103: Lý quốc cữu tranh quyền giết hoàng yết phàn ô kỳ truyền lệnh đánh vua tần

    Dịch giả: Nguyễn Đỗ Mục.
    Nguồn: NXB Văn Học

    Bàng Noãn muốn nhân cái oai vừa đánh được nước Yên, mà hợp tung các nước lại để cùng cự Tần. Trừ nước Tề đã theo Tần, còn Hàn, Ngụy, Sở, Yên, đều phát binh, nhiều thì bốn năm vạn, ít cũng hai ba vạn, cùng suy tôn tướng quốc nước Sở là Xuân Thân quân làm thượng tướng. Hoàng Yết không theo như các quân đánh Tần bấy lâu chỉ tiến đến cửa Hàm cốc, mà cùng chư tướng chia quân làm năm đạo tiến đánh Đông quan, muốn nhắm chỗ quân Tần không để ý phòng bị, mà đánh vào. Thừa tướng Tần là Lã Bất Vi sai các tướng Mông Ngao, Vương Tiễn, Hoàn Xỉ, Lý Tín, nội sử Đằng đều đam năm vạn quân ra đối địch. Bất Vi theo như kế của Vương Tiễn, cho rằng quân Sở đã hơn ba mươi năm nay không đánh nhau với nước nào, không quen chiến trận, nếu hợp cả quân năm dinh lại đánh một mình quân Sở, thì Sở tất thua, Sở thua thì quân bốn nước kia cũng phải rút. Bấy giờ Lý Tín vì có lương thảo chở đến chậm chạp, muốn chém viên tướng đốc lương là Cam Hồi, chư tướng hết sức xin mới tha nhưng phạt đánh hơn trăm roi, Cam Hồi căm giận, đêm chạy sang quân Sở, đem kế Vương Tiễn bảo cho biết. Hoàng Yết sợ quá, không kịp báo các dinh, chỉ truyền lệnh riêng cho quân Sở rút lui. Vương Tiễn biết quân Sở đã trốn, liền đem quân đánh dinh Triệu, các quân Yên, Hàn, Ngụy đều đến cứu, chỉ có quân Sở là không thấy. Bàng Noãn cho dò xét biết là quân Sở đã bỏ trốn rồi, bèn than rằng:

    - Việc hợp tung từ nay thế là thôi!

    Rồi cùng các nước rút quân về. Hoàng Yết về Sính thành, bốn nước đều sai người đến trách rằng Sở làm tung ước trưởng, làm sao không báo cho quân các nước biết mà lại bỏ về trước. Vua Sở trách Hoàng Yết, Hoàng Yết vừ thẹn, vừa sợ, không biết đáp lại thế nào.

    Lại nói vua Sở ở ngôi đã lâu mà không có con, Hoàng Yết cho tìm những người đàn bà có tướng nhiều con để dâng nhưng cũng không thấy người nào có chửa cả. Có người nước Triệu là Lý Viên, làm xá nhân ở trong nhà Hoàng Yết, có người em gái là Lý Yên có nhan sắc, muốn tiến lên vua Sở, lại sợ lâu ngày không có con thì không được vua yêu mãi, trong long trù trừ, muốn trước hãy đem em gái dâng Hoàng Yết, đợi có mang rồi sẽ dâng lên vua Sở, may mà sinh con trai, về sau tất được làm vua Sở, tức là cháu mình vậy, lại nghĩ nếu mình tự đem em gái dâng, thì không được quí trọng, phải nghĩ ra một kế để tự Hoàng Yết phải cầu mình. Nghĩ vậy rồi xin phép năm ngày về nhà, cố ý trễ hạn, đợi mười ngày rồi mới đến. Hoàng Yết hỏi sao đến trễ, Lý Viên nói:

    - Tôi có đứa em gái tên là Yên có chút nhan sắc, vua Tề nghe tiếng sai sứ đến tìm, tôi cùng sứ giả uống rượu vài ngày, cho nên sai hẹn.

    Hoàng Yết nghĩ thầm con gái mà tiếng đồn đến tận nước Tề, chắc phải đẹp lắm, bèn hỏi rằng:

    - Đã nhận lễ chưa?

    Lý Viên nói:

    - Còn đương bàn, chưa có lễ đem đến.

    Hoàng Yết nói:

    - Có thể cho ta xem mặt được không?

    Viên nói:

    - Tôi đã vào cử ngài, thì em gái tôi cũng là hạng tì thiếp nhà ngài, tôi đâu dám không dâng mệnh.

    Rồi về nhà bảo em gái trang sức lịch sự mà đưa vào tướng phủ. Hoàng Yết trông thấy cả mừng, ngay đêm ấy cho Lý Viên hai đôi bạch bích, ba trăm cân vàng, bảo để em gái ở lại làm thiếp. Chưa được ba tháng, nàng Lý Yên đã thụ thai, Viên hỏi riêng em gái rằng:

    - Làm thiếp với làm phu nhân đằng nào sang hơn?

    Yên cười nói:

    - Làm thiếp bằng thế nào được làm phu nhân.

    Viên lại hỏi:

    - Làm phu nhân với làm vương hậu đằng nào sang hơn?

    Yên lại cười nói:

    - Vương hậu sang hơn chứ!

    Viên nói:

    - Mày ở trong tướng phủ chẳng qua chỉ là một người thiếp yêu, nay vua Sở không có con trai, mà mày thì có thai, nếu tiến vào vua Sở, ngày sau nếu sinh con trai, tất được làm vua, mày sẽ được làm thái hậu, há chẳng hơn làm thiếp ư?

    Bèn dạy cách nói năng, dặn khi hầu hạ, chăn gối, cứ nói như thế, tất Hoàng Yết phải nghe theo. Lý Yên vâng lời, đến đêm, trong lúc nằm hầu, bèn nói với Hoàng Yết rằng:

    - Vua Sở yêu mến tướng quốc, dẫu an hem ruột cũng không bằng. Nay tướng quốc cầm quyền nước Sở đã hơn hai mươi năm, mà vua Sở chưa có con, một mai vua mất đi, tất dựng anh em lên, an hem vua đối với tướng quốc không có ân tình gì, tất sẽ lập người thân yêu của mình lên làm tướng quốc, bấy giờ tướng quốc hẳn chẳng còn quyền thế gì nữa!

    Hoàng Yết nghe nói đang ngẫm nghĩ chưa đáp, thì nàng Yên lại nói:

    - Thiếp không những chỉ lo thế mà thôi đâu. Tướng quốc cầm quyền lâu ngày, nhiều lúc thất lễ với anh em vua, họ mà được lập lên, thì họa sẽ đến thân tướng quốc ngay, há chỉ phải mất cái phong ấp ở Giang đông mà thôi ư?

    Hoàng Yết ngạc nhiên nói:

    - Nàng nói rất phải. Thế mà ta không nghĩ đến. Vậy biết tính thế nào?

    - Thiếp có một kế không những khỏi họa mà lại còn sinh phúc, nhưng nghĩ cũng thẹn thùng, khó nói ra lời, mà nói ra chưa chắc tướng quốc đã nghe cho, nên thiếp lại không dám nói.

    Hoàng Yết nói:

    - Nàng vì ta nghĩ kế, khi nào ta lại không nghe.

    Lý Yên nói:

    - Thiếp nay thấy trong mình đã có thai, mà người ngoài còn chưa biết. Lại may thiếp hầu tướng quốc cũng chưa lâu. Nếu tướng quốc đem dâng thiếp lên vua Sở, vua tất yêu thiếp, nhờ trời sinh được con trai, ngày sau tất làm con đích, thế là con trai tướng quốc sẽ được lên làm vua; như vậy tướng quốc chiếm được cả nước Sở, chẳng hơn chịu cái họa tài trời ư?

    Hoàng Yết nghe nói như người mê ngủ mới tỉnh, cả mừng nói rằng:

    - Thiên hạ có người đàn bà khôn ngoan như thế ,thực hơn bọn đàn ông nhiều.

    Hôm sau, Hoàng Yết cho đòi Lý Viên vào nói cho biết ý ấy, rồi mật đem Lý Yên ra ở nhà riêng. Hoàng Yết vào nói với vua Sở rằng:

    - Tôi có nghe nói em gái Lý Viên tên là Yên, có nhan sắc đẹp, thầy tướng đều nói là dễ sinh nở, vua Tề đang sai người đến tìm. Đại vương nên cho người đến trước, đòi ngay vào cung.

    Vua Sở liền sai nội thị ra đòi Lý Yên vào cung, Yên vốn khéo chiều, được vua Sở rất yêu chuộng. Đến kỳ ở cữ, Yên sinh đôi được hai con trai, trưởng là Hàn, thứ là Do. Vua Sở mừng quá, bèn lập Lý Yên làm vương hậu, con trưởng là Hàn làm thái tử, Lý Viên làm quốc cữu, được tin dùng ngang với Hoàng Yết. Lý Viên là người có nhiều trá thuật, ngoài mặt thì phụng sự Hoàng Yết rất kính cẩn, mà trong lòng thì thực ghen ghét. Kịp khi vua Sở ốm nặng mãi không khỏi, Lý Viên nghĩ đến việc em gái có mang sẳn, chỉ có Hoàng Yết biết, ngày sau thế tử làm vua, xử trí không tiện, chi bằng tìm cách giết đi cho kín chuyện. Bèn sai người đi tìm các tay dũng sĩ, đem về nuôi ở trong nhà, cho ăn mặc rất hậu để lấy long. Người khách là Chu Anh dò biết mưu ấy bèn đến yết kiến Hoàng Yết nói rõ cho biết và xin Hoàng Yết giết chết Lý Viên để khỏi hại về sau. Hoàng Yết vút râu cười khà khà nói rằng:

    - Lý Viên là người hèn yếu, vả lại thờ ta rất kính cẩn, khi nào lại có việc ấy!

    Chuc An nói:

    - Bây giờ ngài không nghe tôi, lúc hối thì đã muộn rồi!

    Hoàng Yết bảo Chu Anh hãy lui về, để xét xem sao đã, nếu cần sẽ cho mời đến. Chu Anh lui ra, cách ba ngày vẫn không thấy Hoàng Yết làm gì, biết là Hoàng Yết không nghe lời mình, sợ ở lại sẽ bị vạ lây, liền chẳng từ biệt, bỏ đi đến ẩn ở Ngũ hồ. Chu Anh đi được mười bảy ngày thì vua Sở chết. Lý Viên đã dặn sẳn nội thị, nếu có sự biến thì trước hết báo cho mình biết, lúc ấy được tin, liền đi ngay vào cung giữ kín không phát tang, đoạn sai tử sĩ phục ở trong cửa, đợi đến lúc mặt trời lặn mới sai người ra báo Hoàng Yết. Hoàng Yết kinhngạc, không bàn với Tân khách, liền sai sắp xe đi ngay, mới đến cửa, thì tử sĩ hai bên xông ra, miệng nói vâng theo mật chỉ của vương hậu, giết kẻ mưu phản là Hoàng Yết. Hoàng Yết biết có việc biến, vội quay x era, các thủ hạ đã bị đánh chạy tan cả. Lý Viên bèn chém đầu Hoàng Yêt quăng ra ngoài thành, đóng chặt cửa lại rồi mới phát tang, lập thái tử Hàn lên ngôi, đó là U vương, bấy giờ mới lên sáu tuổi. Lý Viên tự làm tướng quốc, một mình chuyên chính, tôn Lý Yên làm vương thái hậu, truyền lệnh giết hết cả họ Hoàng Yết, thu lại ấp ăn lộc. Từ khi Lý Viên cầm quyền, các tân khách của Hoàng Yết đều tan đi hết, các công tử cũng đều bị xa bỏ, không được làm việc gì, vua thì còn bé, vương hậu thì góa bụa, chính sự ngày thêm rối loạn, nước Sở càng ngày càng suy.

    Lại nói Lã Bất Vi giận việc năm nước hợp binh đánh Tần mà chủ mưu là Bàn Noãn nước Triệu, bèn sai Mông Ngao cùng Trương Đường đốc năm vạn quân đi đánh Triệu, lại sai Trường An quân là Thành Kiệu cùng Phàn Ô Kỳ đem năm vạn quân đi sau tiếp ứng. Có người khách hỏi Bất Vi rằng:

    - Trường An quân còn bé, e không thể làm đại tướng!

    Bất Vi mỉm cười nói rằng:

    - Điều đó không phải nhà ngươi có thể biết được!

    Vua Triệu được tin quân Tần đến đánh, lại cử Bàng Noãn làm đại tướng đem mười vạn quân chống cự. Bàng Noãn vốn là tay kiện tướng có nhiều mưu trí, lại được quân Triệu đều một lòng quyết chiến, bổ vây được tướng Tần là Trương Đường ở Đô sơn, Mông Ngao đến cứu lại càng ra sức phòng giữ, bọn Mông Ngao không sao đánh được, phải sai sứ giả trở lại Đồn lưu giục Trương An quân kíp đem quân đến..

    Trường An quân Thành Kiệu mới có mười bảy tuổi, không hiểu việc quân, bèn triệu Phàn Ô Kỳ vào bàn. Ô Kỳ vốn biết việc Bất Vi đem người con thiếp có chửa sẳn dâng vua Tần để mưu chiếm nước, bèn đuổi các tả hữu ra ngoài rồi kể rõ đầu đuôi việc ấy cho Thành Kiệu nghe và nói:

    - Vua nay không phải là cốt huyết của tiên vương, chính ngài mới là đích tử. Văn Tín hầu ngày nay đem binh quỳen trao cho ngài, không phải là có ý tốt đâu, mà chỉ vì sợ việc tiết lậu, tất ngài sẽ làm khó khăn cho vua bây giờ, cho nên giả cách tin dung, thực là muốn đuổi ngài ra bên ngoài. Văn Tín hầu ra vào cung cấm cùng thái hậu thông dâm, không còn ai ngăn cấm. Vợ chồng cha con hội hợp một nơi, chỉ ghen ghét một mình ngài mà thôi. Nếu Mông Ngao bị thua thì tất họ sẽ mượn cớ ấy để bắt tội ngài, nhẹ thì tước tịch, nặng thì giết chết, cơ đồ họ Doanh sang tay họ Lã, người trong nước ai nấy đều cho đó là việc tất nhiên. Ngài không kịp thời mưu tính thì không được!

    Thành Kiệu nói:

    - Nếu túc hạ không nói ra, thì tôi không biết đấy. ngày nay nên làm thế nào?

    Phàn Ô Kỳ nói:

    - Nay Mông Ngao bị khốn ở Triệu, chưa về được mà ngài tay cầm trọng binh, nếu truyền hịch kể tội gian dâm của chúng và nói rõ việc gian trá ở trong cung đình, thì thần dân tất sẽ vui theo mà tôn ngài lên ngôi để làm chủ xã tắc!

    Thành Kiệu hăng hái vỗ gươm nói rằng:

    - Đại trượng phu dẫu chết thì thôi chứ khi nào lại chịu khuất tất làm tôi tớ con thằng lái buôn! Việc ấy xin tùy tướng quân mưu tính!

    Phàn Ô Kỳ bèn nói dối sứ giả về báo Mông Ngao là đại quân sắp đến, nên phòng giữ cẩn mật. Sứ giả đi rồi, Phàn Ô Kỳ liền thảo tờ hịch phát đi các nơi, trong hịch dung lời Thành Kiệu để kể tội Bất Vi, và xin cùng thần dân đứng lên trừ kẻ gian tặc, lời lẽ hùng hồn và thống thiết lắm. Hịch văn đã phát đi, Phàn Ô Kỳ liền đánh lấy hai thành Trường tử và Hồ quan để được mạnh thêm thế lực. Người nước Tần vẫn nghe việc Lã Bất Vi dâng thiếp, lúc ấy lại nghe những lời kể trong tờ hịch thì đều tin là thực, nhưng đều sợ oai Lã Bất Vi, không nơi nào dám hưởng ứng cả. Trương Đường được tin Thành Kiệu làm phản, vội chạy về Hàm dương cáo cấp. Vua Tần thấy tờ hịch thì nổi giận, đòi Lã Bất Vi vào bàn kế. Bất Vi nói:

    - Thành Kiệu ít tuổi, không biết gì, chắc là Phàn Ô Kỳ xui xiểm. Ô Kỳ hữu dũng vô mưu, hễ đem quân đến là bắt được ngay, không can chi phải quá lo.

    Bèn cử Vương Tiễn làm đại tướng, Hàn Xỉ, Vương Bí làm tả hữu tiên phong, đem một vạn quân đi đánh Trường An quân.

    Lại nói Mông Ngao chống nhau với Bàng Noãn, chờ mãi không thấy TrườngAn quân đến tiếp ứng, còn đang nghi hoặc bỗng tiếp được hịch văn, cả sợ nói rằng:

    - Ta cùng Trường An quân đồng sự, nay đánh Triệu không công mà Trường An quân lại làm phản, tất ta cũng bị tội lây, chi bằng ta quay lại đánh kẻ nghịch tặc ấy để gở tội cho mình.

    Bèn truyền lệnh rút quân, chi làm ba đội tự mình đi đoạn hậu, không ngờ đi đến giữa chừngbị quân Triệu phục ở hai bên đường xông ra đánh. Mông Ngao mình bị trọng thương, còn ra sức giết chết được vài chục người, tự tay bắn đại tướng Triệu là Bàng Noãn trúng sườn. Quân Triệu vây mấy vòng, tên bắn tua tủa như lông nhím. Mông Ngao bị thương nặng chết ở dưới núi Thái Hàng. Bàng Noãn đắc thắng đem quân về Triệu, vì vết thương không khỏi nên chẳng bao lâu cũng chết.

    Lại nói bọn Trương Đường, Vương Tiễn đem quân đến Đồn Lưu. Thành Kiệu sợ quá, Phàn Ô Kỳ nói:

    - Vương tử ngày nay đã ở cái thế cỡi hổ, không xuống được nữa. Phương chi ta còn có mười lăm vạn quân, có thể liều đánh một trận, chưa biết ai được ai thua, can chi mà sợ? Bèn bày trận ở dưới thành để đợi. Vương Tiễn cũng bày trận đánh, rồi bảo Phàn Ô Kỳ rằng:

    - Nước nhà có phụ gì mày, mà mày lại dụ Trường An quân làm phản?

    Phàn Ô Kỳ đáp:

    - Tần Chính tức là con gian sinh của Lã Bất Vi, ai cũng biết thế. Chúng ta mấy đời chịu ơn nước, nở nào nhìn hương quả họ Doanh vào tay họ Lã! Trường An quân mới thật là con của tiên vương, nên ta cùng kéo quân thẳng vào Hàm dương, trừ đứa dâm, giết vua ngụy, tôn lập Trường an quân làm vua, tướng quân không mất vị phong hầu, cùng hưởng phú quí, há chẳng hay lắm ru?

    Vương Tiễn nói:

    - Thái hậu có mang mười tháng mới sinh, vậy nay tức là con tiên vương đẻ ra, mày dám đặt đều ô miệt đại vương, gây nên cái vạ diệt tộc ấy, lại còn nói khéo, làm rối lòng quân, hễ bắt được sẽ chạt thây làm mười đoạn!

    Phàn Ô Kỳ cả giận, hằm hằm múa dao xông vào, quân Tần thấy Ô Kỳ dữ tợn quá, đều tan chạy cả. Vương Tiễn thấy Ô Kỳ kiêu dũng như thế, khó đã đánh được, nghĩ thầm phải dùng kế bắt sống. Rồi một mặt sai Dương Đoan Hòa là khách cũ của Trường An quân đem thư đến thành Đồn Lưu, lẻn giao cho Trường An.​
     
  4. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,685
    Đông Chu Liệt Quốc
    Tác giả: Phùng Mộng Long
    Chương 104: Cam la còn bé làm quan lớn lao ái gian dâm loạn cung tần

    Dịch giả: Nguyễn Đỗ Mục.
    Nguồn: NXB Văn Học

    Lại nói Vương Tiễn đóng quân ở núi Phục long, Phàn Ô Kỳ luôn mấy ngày đều đem hết quân tinh nhụê đến khiêu chiến, nhưng Vương Tiễn bền giữ không ra. Ô Kỳ cho là Vương Tiễn nhát, toan chia quân đi cứu Trường Tử, Hồ Quan, thì được tin hai thành ấy đã thất thủ, sợ quá, bèn lập đồn ở ngoài thành để Trường An quân được yên long. Vương Tiễn đã lấy được hai thành Trường tử và Hồ quan, chắc thành Đồn lưu cô thế, định kéo đại binh đi đánh, thì vua Tần sai sứ đến, một là để khoa thưởng quân sĩ, hai là báo cho Vương Tiễn biết về vua Tần rất căm giận Ô Kỳ cần phải bắt sống giải về để tự tay vua Tần chém chết mới hả lòng. Vương Tiễn dẫn đại binh đến đánh Đồn lưu. Thành Kiệu nghe tin mất hai thành, sai người kíp đòi Phàn Ô Kỳ vào bàn. Ô Kỳ nói:

    - Chỉ trong sớm tối là ta sẽ đánh một trận quyết định. Nếu đánh không được, tôi xin cùng vương tử chạy sang nước Yên, nước Triệu, lien hợp chư hầu cùng giết vua Tần để yên xã tắc.

    Nói xong, Ô Kỳ lại trở về bản dinh. Được tin tướng Tần là Tần Thắng đến khiêu chiến, Ô Kỳ liền mang quân ra đón đánh. Chừng vài hợp, Tần Thắng bỏ chạy. Ô Kỳ cậy khỏe đuổi theo, được chừng năm dặm, gặp hai toán phục binh xong ra đánh. Ô Kỳ thua to, vội thu quân về, thì Vương Tiễn đã giàn khắp dưới thành. Ô Kỳ hăng hái ra oai, mở một con đường máu để vào trong thành. Vương Tiễn liền hợp quân lại bổ vây bốn mặt, đánh phá rất gấp. Ô Kỳ tự than đi tuần thành, luôn ngày đêm không biết mỏi mệt. Dương Đoan Hòa ở trong thành thấy sự thế đã nguy lắm rồi, nhân ban đêm liền xin vào yết kiến Thành Kiệu, nói rõ lẽ lợi hại, thế mạnh yếu của Thành Kiệu đối với vua Tần và nói Thành Kiệu nghe Phàn Ô Kỳ mà đánh lại vua Tần là đã làm một việc rất nguy hiểm. Thành Kiệu tỏ ý hối hận và hỏi nên làm thế nào. Đoan Hòa liền đưa ra bức mật thư của Vương Tiễn. Thành Kiệu mở ra xem, đại ý nói rằng:

    - “Như ngài, kể thân thì em vua, kể quí thì là phong hầu, cớ sao lại nghe lời nói không đâu ,làm cái việc bất trắc, tự gây cái chết cho mình, há chẳng đáng tiếc lắm ru? kẻ thủ xướnglà Phàn Ô Kỳ, nếu ngài chém lấy đầu nó đem nộp, rồi bó tay chịu tội, thì tôi xin bảo tấu và nhà vua tất sẽ tha ngài. Nếu còn trù trừ không quyết thì hối không kịp nữa!”

    Thành Kiệu xem xong, chảy nước mắt nói rằng:

    - Phàn tướng quân là người trung nghĩa, sao ta nở long giết cho được?

    Đoan Hòa thấy Thành Kiệu không nghe lời, toan bỏ đi, Thành Kiệu cố lưu lại. Hôm sau Phàn Ô Kỳ vào yết kiến Thành Kiệu, nói rằng:

    - Quân Tần thế mạnh, long người sợ hãi, thành này mất đến nơi rồi. Tôi xin cùng vương tử chạy sang Yên, Triệu để tính cuộc sau này vậy.

    Thành Kiệu nói:

    - Họ hang tôi đều ở Hàm dương, nay đi nước khác biết người ta có nhận không?

    Phàn Ô Kỳ nói:

    - Các nước đều đang cay đắng về sự hung bạo của nước Tần, lo gì người ta chẳng nhận!

    Đang nói, có tin báo là quân Tần khiêu chiến ở cử nam. Phàn Ô Kỳ thúc gịuc mấy lần bảo rằng:

    - Bây giờ vương tử không đi, sau này không thể ra được nữa!

    Thành Kiệu do dự không quyết, Phàn Ô Kỳ lại phải cầm đao lên xe đi ra cửa nam đánh nhau với quân Tần. Dương Đoan Hòa bảo Thành Kiệu lên thành xem đánh nhau, thì thấy Ô Kỳ không chống nổi, phải chạy về dưới thành, và đang gọi to bảo mở cửa. Dương Đoan Hòa cầm kiếm đứng bên Thành Kiệu, thét rằng:

    - Trường An quân đã đem cả thành đầu hang rồi, Phàn Ô Kỳ đi đâu thì đi, đứa nào dám mở cửa thành thì sẽ chém đầu!

    Nói rồi bèn lấy ở trong tay áo ra một lá cờ trên có chữ “hàng”. Những người xung quanh đều là than thích với Đoan Hòa, liền dựng lá cờ “hang” lên, không kể gì đến Thành Kiệu. Thành Kiệu chỉ biết chảy nước mắt mà thôi. Ô Kỳ thở dài nói rằng:

    - Thằng nhãy con này không bõ giúp!

    Quân Tần vây Ô Kỳ mấy vòng, vì có lệnh của vua Tần bảo phải bắt sống Ô Kỳ nên quân Tần không dám bắn tên ngầm. Ô Kỳ lại liều chết đánh lấy lối ra, chạy sang nước Yên. Vương Tiễn đuổi theo không kịp. Dương Đoan Hòa bảo Thành Kiệu mở cửa để đón quân vào thành. Vương Tiễn sai đem giam Thành Kiệu vào công quán, khiến người về Hầm dương báo tiệp và xin nghị xử Thành Kiệu như thế nào. Tần thái hậu xõa tóc xin tha chết cho Thành Kiệu, và xin Lã Bất Vi nói hộ. ần Vương Chính giận nói rằng:

    - Không giết đứa phản tặc đi, thì bọn cốt nhục chúng nó sẽ làm phản hết!

    Rồi sai truyền lệnh cho Vương Tiễn chém Thành Kiệu bêu đầu ngay ở Đồn lưu, phàm quân lính và quan lại theo Thành Kiệu đều bị chém cả. Nhân dân ở trong thành ấy đều dời đến Lâm thao; một mặt treo thưởng mua Phàn Ô Kỳ, ai bắt được đem nộp thưởng cho năm thành. Sứ giả đến Đồn lưu truyền mệnh vua Tần, Thành Kiệu nghe không được tha, tự thắt cổ chết ở quán xá. Vương Tiễn sai chặt đầu đem bêu ở cử thành, quân lính và quan lại bị giết chết đến vài vạn người, nhân dân bị dời đi hết, trong thành sạch không.

    Lại nói Tần Vương Chính tuổi đã trưởng thành, mình dài tám thước năm tấc, thông minh lỗi lạc, anh vĩ khác thường, việc gì cũng biết tự chủ trương lấy, không để thái hậu và Lã Bất Vi quyết định nữa. Cái loạn Trường An quân đã dẹp xong, Tần vương lại muốn báo thù cho Mông Ngao bèn hợp quần thần bàn việc đánh Triệu. Thái Trạch hiến kế, xin tự mình sang dụ nước Yên bỏ Triệu mà theo Tần, để cho Triệu phải cô thế, rồi sẽ cùng đánh Triệu. Kế ấy thành, vua Yên bèn sai thái tử Đan làm con tin ở Tần và xin Tần cho một viên đại thần sang làm tướng nước Yên. Lã Bất Vi muốn sai Trương Đường đi, Trương Đường nghĩ mình mấy lần đánh Triệu, người Triệu thù oán lắm, nay sang Yên, tất phải đi qua Triệu, vậy không thể đi được. Bất Vi hai ba lần này ép, Trương Đường vẫn một mực không nghe. Bất Vi trở về phủ, có vẽ buồn bã không vui. Môn khách có Cam La, tức là cháu Cam Mậu, mới mười hai tuổi, hỏi rằng:

    - Thừa tướng có điều gì nghĩ ngợi thế?

    Bất Vi nói:

    - Trẻ con biết gì mà dám hỏi ta!

    Cam La nói:

    - Đã làm khách ở nhà ngài đây, là phải cùng ngài chia lo sẻ buồn. Ngài có việc mà không cho tôi biết, dù tôi có muốn hết lòng cũng không làm sao được.

    Bất Vi nói:

    - Nay Yên đã theo Tần, và đã sai thái tử Đan sang làm con tin rồi, ta muốn sai Trương Đường sang làm tướng nước Yên, mà hắn không chịu đi, nên ta lấy làm buồn lắm.

    Cam La nói:

    - Đó là việc nhỏ, sao không nói trước, để tôi đi bảo cho.

    Bất Vi nổi giận mắng rằng:

    - Bước! Bước! Ta tự đến nhà bảo mà hắn còn chẳng nghe, nữa là thằng trẻ con mà lại bảo hắn được à?

    Cam La nói:

    - Xưa kia Hạng Thác lên bảy tuổi đã làm thầy Khổng Tử, nay tôi mười hai tuổi, còn lớn hơn Thác năm tuổi, hãy cứ để tôi đi, nếu không được việc, bấy giờ ngài sẽ mắng. Sao ngài lại quá khinh kẻ sĩ mà làm mặt giận dữ như vậy?

    Bất Vi nghe nói lấy làm lạ, bèn đổi sắc mặt mà tạ rằng:

    - Nếu cậu có thể khiến Trương Khanh đi được, việc thành tôi sẽ cử cậu làm quan khanh.

    Cam La hớn hở ra đi, đến yết kiến Trương Đường. Dẫu biết Cam La là môn khách nhà Văn Tín hầu, Trương Đường cũng khinh là trẻ con, mới nói rằng:

    - Cậu đến đây có việc gì?

    Cam La nói:

    - Tôi đến viếng ngài đây!

    Trương Đường nói:

    - Tôi có việc gì mà viếng?

    Cam La nói:

    - Công của ngài ví với Vũ An quân thế nào?

    Đường nói:

    - Công Vũ An quân to lắm, tôi đây không bằng một phần mười.

    Cam La nói:

    - Vậy thì Ứng hầu làm thừa tướng ở Tần, so với Văn Tín hầu, ai được chuyên quyền hơn?

    Trương Đường nói:

    - Ứng hầu không được chuyên quyền bằng Văn Tín hầu.

    Cam La nói:

    - Ngài biết rõ quyền của Văn Tín hầu trọng hơn Ứng hầu đáy chứ?

    Đường nói:

    - Làm sao không biết?

    Cam La nói:

    - Xưa Ứng hầu muốn sai Võ An quân đi đánh Triệu. Võ An quân không chịu đi; vì Ứng hầu giận, mà Võ An quân phải bỏ Hàm dương đi, chết ở Đỗ Bưu. Nay Văn Tín hầu tự mời ngài sang làm tướng nước Yên, mà ngài không chịu đi, cái điều mà Ứng hầu không thể dung được ở Võ An quân, Văn Tín hầu lại dụng được ở ngài ư? Vậy ngài sắp chết đến nơi rồi đó!

    Trương Đường rợn người, thất sắc, nói rằng:

    - Cậu cứu tôi với!

    Bèn nhờ Cam La tạ tội với Bất Vi, và lập tức sai sắm sửa hành trang để sang Yên. Cam La vào yết kiến Bất Vi nói rằng:

    - Trương Đường nghe lời tôi, bất đắc dĩ mà phải đi sang Yên, nhưng trong long vẫn sợ Triệu. Xin cho tôi mượn năm cỗ xe để tôi vì Trương Đường sang bảo nước Triệu trước.

    Bất Vi đã biết tài Cam La, bèn vào nói với vua Tần rằng:

    - Cháu Cam Mậu, tên là Cam La, tuổi dẫu bé, nhưng là con cháu danh gia, rất có mưu trí và tài ăn nói, nay Trương Đường xưng mệnh không chịu đi làm tướng nước Yên, Cam La đến nói Trương Đường phải đi ngay. Cam La lại xin đi bảo vua Triệu trước, xin đại vương truyền lệnh cho đi!

    Vua Tần cho đòi Cam La vào triều kiến, thấy Cam La mình cao chỉ năm thước, mặt mày thanh tú, xinh đẹp như vẽ. Vua Tần mừng lắm, hỏi rằng:

    - Cậu bé sang yết kiến vua Triệu thì nói thế nào?

    Cam La nói:

    - Xét xem vẽ mừng sợ, liệu chiều mà nói, như sóng nổi theo gió mà chuyển, không thể định trước được.

    Vua Tần bèn cấp cho Cam La mười cổ xe, trăm người hầu đi theo sang Triệu.

    Vua Triệu đã nghe tin hai nước Yên, Tần thong hiếu, đang sợ hai nước hợp sức đánh Triệu. Bỗng có tin sứ Tần đến, vua Triệu mừng quá, bè ra khỏi thành hai mươi dặm đón tiếp. Khi thấy Cam La người bé tí, vua Triệu trong lòng lấy làm lạ, hỏi rằng:

    - Xưa kia có người họ Cam thong đường Tam xuyên cho Tần, đối với tiênn sinh là thế nào?

    Cam La nói:

    - Đó là ông nội tôi.

    Vua Triệu hỏi:

    - Tiên sinh năm nay bao nhiêu tuổi?

    Cam La nói:

    - Tôi mười hai tuổi.

    Vua Triệu nói:

    - Bên Tần người lớn không làm sứ giả được hay sao mà vua Tần lại phải cử đến tiên sinh?

    Cam La nói:

    - Vua Tần dung người đều tùy vào sức mà giao việc, người lớn thì giao việc lớn, người bé thì giao việc bé. Tuổi tôi bé nhất, cho nên vua Tần sai sang sứ nước Triệu.

    Vua Triệu thấy Cam La nói năng lỗi lạc, lại càng lấy làm lạ, hỏi rằng:

    - Tiên sinh chiếu cố mà đến nước tôi, có điều gì dạy bảo?

    Cam La nói:

    - Đại vương có nghe thái tử Đan nước Yên vào làm con tin ở Tần không?

    Vua Triệu nói:

    - Tôi có nghe tin.

    Cam La nói:

    - Đại vương có nghe Trương Đường sang làm tướng nước Yên không?

    Vua Triệu nói:

    - Tôi cũng đã nghe tin.

    Cam La nói:

    - Thái tử Đan vào làm con tin ở Tần, thế là Yên không lừa Tần; Trương Đường sang làm tướng Yên, đó là Tần không lừa Yên. Yên, Tần không lừa dối nhau thì Triệu nguy mất.

    Vua Triệu nói:

    - Vì lẽ gì Tần lại thân Yên?

    Cam La nói:

    - Tần mà thân Yên, là muốn cùng Yên đánh Triệu, để mở rộng đất Hà gian. Nếu đại vương cắt năm thành dâng Tần để mở rộng đất Hà Gian, thì tôi xin nói với vua Tần bãi việc sai Trương Đường đi Yên, đoạn tuyệt với Yên mà kết hiếu với Triệu. Thử xem, Triệu thì mạnh, Yên thì yếu,Triệu đánh Yên, mà Tần không cứu Yên, thì cái lợi của Triệu há chỉ năm thành thôi ư?

    Vua Triệu bằng lòng lắm, cho Cam La trăm cân hoàng kim, hai đôi bạch bích, đem địa đò năm thành giao cho, sai về báo vua Tần. Vua Tần nói rằng:

    - Thế là Hà gian nhờ thằng bé mà rộng thêm ra được! Trí khôn của thằng bé thực to hơn người nó!

    Bèn bãi việc sai Trương Đường đi nước Yên, Trương Đường cũng cảm ơn Cam La lắm. Triệu nghe Trương Đường không đi, biết Tần không giúp Yên nữa, bèn sai Bàng Noãn, Lý Mục hợp quân đánh Yên, lấy được ba mươi thành Thượng cốc, Triệu giữ mười chin thành và đem mười một thành nộp Tần. Vua Tần phong Cam La làm thượng khanh, lại lấy ruộng và nhà phong cho Cam Mậu ngày trước ban cho. Tục truyền Cam La mười hai tuổi làm thừa tướng là gốc ở chuyện ấy.

    Thái tử Đan nước Yên ở Tần, nghe Tần đã bỏ Yên mà than thiện với Triệu, áy náy lo sợ, muốn trốn về lại sợ không ra lọt cửa quan được, bèn cầu làm bạn với Cam La, muốn nhờ mưu hộ kế trở về Yên. Bỗng một đêm, Cam La nằm mộng thấy người mặt áo tía, cầm thẻ nhà trời đi đến nói là vâng mệnh thượng đế đòi về trời. Rồi Cam La không đau ốm gì mà mất. Tài cao không sống lâu, tiếc thay!

    Thái tử Đan đành chịu ở lại nước Tần.

    Lại nói Lã Bất Vi sức khỏe, được Trang Tương hậu yêu lắm. Bất Vi ra vào cung cấm, không kiêng sợ gì. Khi thấy vua Tần đã trưởng thành lại thong minh hơn người, Bất Vi mới có ý sợ, nhưng thái hậu càng ngày càng đa dâm, thường đòi Bất Vi vào cung Cam toàn. Bất Vi sợ lỡ ra việc bị phát giác thì họa đến than, muốn tiến một người để thay mình sao cho được vừa long thái hậu, nhưng khó tìm người lắm. Nghe nói có người ở chợ tên là Lao Ái, được những kẻ dâm phụ ở trong xóm tranh nhau theo. (Tiếng nước Tần gọi kẻ vô hạnh là “Ái”, nên gọi là Lao Ái). Lao Ái phạm tội dâm, Bất Vi cũng buông long phép nước mà tha cho, lại giữ làm xá nhân ở trong phủ. Thái hậu nghe việc ấy, bèn hỏi Lã Bất Vi, dường như có ý mến. Bất Vi nói:

    - Thái hậu muốn thấy người ấy thì để tôi xin tiến vào.

    Thái hậu cười mà không đáp, hồi lâu mới nói rằng:

    - Nhà ngươi nói đùa đấy ư? Người ngoài khi nào lại vào được nội cung.

    Bất Vi nói:

    - Tôi có một kế, là sai người phát giác tội cũ của nó, bắt đem thiến đi. Thái hậu sẽ đút nhiều tiền cho kẻ hành hình, bảo thiến vờ, rồi cho nó làm hoạn quan vào hầu trong cung, như thế mới được lâu dài.

    Thái hậu mừng quá nói rằng:

    - Kế ấy rất diệu!

    Bèn lấy trăm nén vàng giao cho Lã Bất Vi, Bất Vi mật gọi Lao Ái vào bảo cho biết, Ái vốn tính dâm, hớn hở cho là một sự kỳ ngộ. Bất Vi quả sai người phát giác tội dâm của nó, bắt phải đem thiến.

    Rồi Lao Ái giả làm hoạn quan, đi lẫn trong bọn nội thị, vào hầu hạ trong cung thái hậu. Đêm đến Lao Ái hầu ngủ, thái hậu thấy vừ lòng lắm, bèn thưởng cho Bất Vi rất hậu để đền lại công lao. Tự đó Bất Vi mới thoát.

    Thái hậu cùng Lao Ái ở với nhau như vợ chồng, không bao lâu đã coa mang. Thái hậu sợ khi sinh nở không thể dấu được, bèn nói dối là có bệnh, sai Lao Ái đem tiền đút cho thầy bói, bảo nói dối là ở trong cung có ma, nên tránh ra ngoài hai trăm dặm ở phương tây. Vua Tần hơi nghi về việc Lã Bất Vi, nay thái hậu đòi đi ở xa thì xem đó là cơ hội để tuyệt đường đi lại giữa hai người. Nhân Ung châu cách Hàm dương hai trăm dặm có cung điện sẵn, bèn mời thái hậu ra ở đó. Thái hậu liền đi ra Ung thành, ở một òta cung điện cũ, gọi là Đại trịnh cung, Lao Ái và thái hậu lại càng than mật nhau, không còn kiên nể gì. Trong hai năm thái hậu đẻ luôn hai đứa con trai, phải làm một cái nhà kín để nuôi. Thái hậu lại ước riêng với Lao Ái là mai sao vua mấtthì sẽ chọn một đứa con trai làm nối dõi. Người ngoài có biết nhưng không ai dám nói. Thái hậu tâu lên vua Tần nói Lao Ái thay vua phụng dưỡng có công, xin phong đất cho. Vua Tần vâng mệnh thái hậu, phong Lao Ái làm Trường Tín hầu, cho đất Sơn dương. Ái bỗng chốc được quí hiển, lại càng hung hăng, thái hậu lại mỗi ngày ban thưởng cho rất nhiều cửa nhà, xe ngựa, săn bắn, chơi bời, Lao Ái muốn làm gì mặc ý; bất cứ công việc lớn nhỏ, đều do Lao Ái quyết định. Ái lại nuôi vài nghìn tên gia đồng; các tân khách cầu được tiến đạt, đến xin làm xá nhân, cũng hơn nghìn người; Ái lại bỏ tiền giao kết với những người có thế lực trong triều để gây bè phái; được những kẻ xu phụ quyền thế thi nhau đến theo, thanh thế lại to hơn Văn Tín hầu Lã Bất Vi.

    Mùa xuân năm thứ chin, có sao chổi mọc, đuôi dài khắp trời, thái sử xem đoán trong nước sẽ có binh biến. Thái hậu ở Ung thành, vua Tần mỗi năm đến kỳ giao tế, đến đó triều kiến và làm lễ tế giao nhận thể. Tại đó đã có cung Kỳ niên để vua ở. Năm ấy vừa đến kỳ tế giao, nhân lại có biến sao chổi, nên vua Tần khi ra đi, sai đại tướng Vương Tiễn diễn binh ở Hàm dương ba ngày, và giao cho cùng Lã Bất Vi giữ kinh thành. Lại sai Hoàn Xỉ dẫn ba vạn quân đóng ở Kỳ sơn, rồi mới đi. Bây giờ vua Tần đã hai mươi sáu tuổi, còn chưa làm lễ đội mũ. Thái hậu sai làm lễ đội mũ đeo gươm cho vua ở miếu Đức công, cho trăm quan uống rượu luôn năm ngày. Thái hậu cũng cùng vua Tần ăn yến ở cung Đại trịnh. Lao Ái cùng các tả hữu quí thần đánh bạc uống rượu. Đến ngày thứ tư, Lao Ái cùng quant rung đại phu Nhan Tiết đánh bạc, Lao Ái bị thua luôn. Rượu say rồi, Lao Ái lại đòi đánh nữa. Tiết say rượu không chịu đánh, Lao Ái chạy đến nắm lấy tay Nhan Tiết, tát vào má, Tiết không chịu, cũng giật lấy giải mũ của Lao Ái. Ái giận lắm trợn mắt mắng rằng:

    - Ta đây là giả phụ của vua, mày là con nhà hèn mạt, lại dám chống với ta à?

    Nhan Tiết sợ chạy ra, thì gặp vua Tần, vừa uống rượu ở trong cung thái hậu đi ra. Nhan Tiết phục xuống đát, đạp đàu kêu khóc xin chết. Vua Tần là người có tâm cơ, không nói gì, dắt Tiết đến cung Kỳ niên rồi mới hỏi. Nhan Tiết đem việc Lao Ái tát mình và tự xưng là giả phụ, kể hết một lượt, lại tâu Lao Ái không thực là hoạn quan, mà giả vờ bị tội thiến, vào chầu riêng thái hậu, hiện đã có hai con nuôi ở trong cung, không bao lâu sẽ mưu cướp nước. Vua Tần nghe nói giận quá, mật lấy binh phù, sai đi triệu Hoàn Xỉ lập tức đem quân đến.

    Có viên nội sứ tên Tứ và viên tá dặc tên Kiệt vốn lấy nhiều tiền của thái hậu và Lao Ái, cùng thề sống chết có nhau, biết việc nguy cấp chạy vào báo Lao Ái. Bấy giờ Lao Ái đã tỉnh rượu, sợ quá, đêm vào gõ cử cung Đại trịnh, yết kiến thái hậu, kể rõ sự tình và xin với thái hậu, nên nhân lúc Hoàn Xỉ chưa đem quân đến, đem hết quân cung kỵ và tân khách xá nhân, đánh vào cung Kỳ niên, may mà phá được thì hai người còn có thể có nhau. Thái hậu nói:

    - Quân cung kỵ khi nào chịu nghe lệnh ta?

    Lao Ái nói:

    - Tôi xin mượn ấn ngọc của thái hậu, giả làm ngự bảo đem dung, nói dối là cung Kỳ niên có giặc, vua đòi tất cả quân cung kỵ đến cứu giá, chắc chúng nó phải nghe.

    Thái hậu bấy giờ tâm thần bối rối bèn nói:

    - Mặc chàng làm gì thì làm!

    Bèn lấy ấn giao cho Lao Ái, Ái giả làm ngự thư của vua Tần lại thêm tỉ văn của thái hậu, cho triệu tất cả quân cung kỵ, vệ tốt và các tân khách xá nhân đến. Đến giờ ngọ hôm sau mới hợp được đủ. Lao Ái cùng nội sử Tứ, tá dặc Kiệt chia nhau thống suất, kéo đến vây cung Kỳ niên. Vua Tần trèo lên đài hỏi quân sĩ vì cớ gì lại đến vây cung. Mọi người đều nói:

    - Trường Tín hầu truyền nói là hành cung có giặc nên chúng tôi đến để cứu giá.

    Vua Tần nói:

    - Trường Tín hầu là giặc đó, chứ trong cung làm gì có giặc!

    Cung kỵ, vệ tốt nghe nói. một nữa tan đi, còn một nữa ở lại dở giáo cùng bọn tân khách xá nhân đánh nhau. Vua Tần hạ lệnh, ai bắt sống được Lao Ái, thưởng tiền trăm vạn, giết chết đem đầu nộp thưởng tiền năm mươi vạn, chém được đầu một đứa phản nghịch cho tước một bậc. Được lệnh, bọn hoạn quan và bọn chăn súc, chăn ngựa đều liều chết mà đánh. Nhân dân nghe tin Lao Ái làm phản cũng cầm gậy đến giúp sức quân nhà vua. Bọn tân khách xá nhân bị giết chết đến vài trăm người. Lao Ái bị thua, đánh tháo ra lối cửa đông chạy chốn, thì vừa gặp đại binh Hoàn Xỉ kéo đến, bắt trói lại. Cả bọn nội sử Tứ, tá dặc Kiệt cũng đều bị bắt, giao cho ngục quan tra hỏi. Chúng đều thú thực cả. Vua Tần bền tự đến cung Đại trịnh sục tìm, bắt được hai đứa con gian sinh của Lao Ái ở trong nhà kín, sai tả hữu bỏ vào túi vải đem quật chết. Thái hậu đau xót ngấm ngầm không dám ra cứu, chỉ đóng cử khóc lóc mà thôi. Vua Tần không vào triều yết mẹ, trở về cung Kỳ niên, cho là lời quan thái sử nói nghiệm, ban cho mười vạn tiền. Ngục quan dâng lời cung của Lao Ái, nói việc giả thiến vào cung đều là mưu kế của Văn Tín hầu Lã Bất Vi, bọn đồng đảng như nội sử Tứ, tá dặc Kiệt tất cả hơn hai mươi người. Vua Tần sai dung xe xé xác Lao Ái ở ngoài cửa đông, giết cả ba họ. Bọn Tứ, Kiệt đều bị bêu đầu, bọn tân khách xá nhân của Lao Ái theo làm phản, đánh nhau với quan quân đều bị giết, dù không dự vào việc làm loạn cũng bị dời ra xa đất Thục, tất cả hơn bốn nghìn nhà. Thái hậu đưa ấn ngọc cho bọn nghịch, không đáng làm quốc mẫu, giảm bớt lộc nuôi, dời ra cung Hoắc dương, là một li cung rất nhỏ, có ba trăm quân canh giữ, phàm có người ra vào đều phải xét hỏi rất cẩn thận. Thái hậu bấy giờ không khác gì một người tù vậy. Vua Tần dẹp yên loạn Lao Ái, trở về Hàm dương. Lã Bất Vi sợ tội, giả cách xưng bệnh, không dám ra yết, vua Tần muốn giết nốt,bèn hỏi ý quần thần. Nhiều người về cánh với Bất Vi, đều nói Bất Vi phù lập tiên vương, có công lớn với xã tắc. Phương chi Lao Ái chưa từng được đem đối chất, hư thực không bằng cớ, không nên bắt tội lây.​
     
  5. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,685
    Đông Chu Liệt Quốc
    Tác giả: Phùng Mộng Long
    Chương 105: Mao Tiên Cởi áo Can Vua Tần Lý Mục Dùng Kế Lui Hoàn Xỉ

    Dịch giả: Nguyễn Đỗ Mục.
    Nguồn: NXB Văn Học

    Lại nói sau khi Trần Trung bị giết, quần thần có nhiều người không sợ lại càng cố can vua Tần, nhưng ai can cũng bị vua Tần giết chết, phơi thây ở dưới cửa khuyết, trước sau cộng hai mươi bảy người. Bấy giờ vua Tề, vua Triệu cùng đến chầu, trông thấy đống thây, hỏi biết nguyên do, thì đều than thở, chê thầm vua Tần là người bất hiếu. Có người Thường châu tên là Mao Tiêu, nhân đến chơi Hàm dương, ở trong nhà trọ, nghe người cùng trọ nói đến việc ấy, Mao Tiêu căm tức mà nói rằng:

    - Con mà giam mẹ thì còn trời đất gì nữa!

    Rồi bảo chủ trọ cho nước nóng để tắm gội, sớm hôm sau sẽ vào can vua Tần. Người cùng trọ can rằng:

    - Hai mươi bảy người kia đều là bề tôi thân tín của nhà vua thế mà còn không được, đều bị giết liền tay, huống chi nhà ngươi!

    Mao Tiêu nói:

    - Chỉ có hai mươi bảy người can thì vua Tần không nghe, nếu có người nữa can, thì vua Tần nghe cũng không biết chừng!

    Những người cùng trọ đều cười là ngu. Sáng hôm sau vào trống canh năm, Mao Tiêu gọi chủ trọ lấy cơm ăn thật no để đi. Chủ trọ nắm áo giữ lại, Mao Tiêu dứt áo ra đi. Các người cùng trọ chắc là Mao Tiêu tất chết, bèn đem hành trang của Mao Tiêu ra chia nhau. Mao Tiêu đi đến dưới cửa khuyết, phục vào đống thây kêu to rằng:

    - Tôi là khách nước Tề tên là Mao Tiêu, xin dâng lời can đại vương.

    Vua Tần sai nội thị ra hỏi là can việc gì, có dính dáng đến việc thái hậu không?

    Mao Tiêu nói:

    - Tôi chính vì việc ấy mà đến!

    Nội thị vào tâu, vua Tần nói:

    - Mầy nên chỉ đống thây ở dưới cửa cho nó biết!

    Nội thị ra bảo Mao Tiêu rằng:

    - Khách không thấy thây xác chồng đống đấy ư? Sao không sợ chết như thế?

    Mao tiêu nói:

    - Tôi nghe trên trời có hai mươi tám ngôi sao, giáng sinh xuống đất thì làm chính nhân. Nay số chết đã hai mươi bảy người rồi, còn thiếu một, nên tôi đến đây muốn cho đủ số ấy. Thánh hiền ngày xưa ai la không chết, tôi đây lại sợ chết ư?

    Nội thị vào tâu vua Tần cả giận nói rằng:

    - Thằng cuồng dám phạm lệnh cấm của ta!

    Rồi sai đặt chảo nước sôi ở sân, nói rằng:

    - Ta sẽ luộc sống thằng này, để nó không được cùng chết vào đống thây cho đủ số hai mươi tám.

    Nói xong vua Tần chống gươm ngồi, long mày trợn ngược, bọt miếng phì ra, cơn giận nổi lên sùng sục, gọi lên mấy tiếng cho đòi thằng cuồng vào để luộc. Nội thị ra đòi Mao Tiêu, Mao Tiêu cố ý đi rón rén. Nội thị giục đi nhanh, Mao Tiêu nói:

    - Tôi đến trước mặt vua thì phải chết ngay, vậy hoãn cho tôi chốc lát, có hại gì!

    Nội thị thương tình, dìu dắt đi vào. Mao Tiêu đến dưới thềm lạy hai lạy dập đầu tâu rằng:

    - Tôi nghe nói: “kẻ sống không kiêng nói đến cái chết; kẻ có nước không kiêng nói đến chuyện mất nước; kiêng nói mất nước cũng không làm cho nước còn được, kiêng nói cái chết cũng không làm cho mình sống được”. Cái kế sống chết mất còn, đức minh chủ cần phải biết. Chẳng hay đại vương có muốn nghe không?

    Vua Tần nét mặt hơi dịu nói rằng:

    - Mày có kế gì thử nói ta nghe:

    Mao Tiêu nói:

    - Kẻ trung thần không tiến lời nói a dua; đứng minh chủ không có việc làm cuồng bội. Vua làm việc cuồng bội mà bầy tôi không nói là bầy tôi phụ vua; bề tôi có lời ngay thẳng mà vua không nghe là vua phụ long bề tôi. Đại vương có việc làm trái đạo trời mà không tự biết; kẻ bề tôi hèn mọn này có lời nói ngay thẳng trái tai, mà vua lại không muốn nghe. Cho nên tôi e rằng nước Tần từ đây nguy mất!

    Vua Tần sợ hãi hồi lâu, sắc mặt càng dịu, nói rằng:

    - Nhà ngươi định nói việc gì ta bằng lòng nghe.

    Mao tiêu nói:

    - Có phải đại vương ngày nay đang quan tâm đến việc khắp thiên hạ đó không?

    Vua Tần nó:

    - Phải

    Mao Tiêu nói:

    - Thiên hạ sở dĩ tôn Tần, không phải chỉ vì sợ oai lực của đại vương, mà cũng vì cho rằng đại vương là hùng chủ cả thiên hạ, và trung thần, liệt sĩ, đều tập hợp ở triều đình Tần vậy. Nay đại vương xé thây giả phụ, là bất nhân; đập chết hai em là bất hữu, đày mẹ ở cung Hoắc dương là bất hiếu, giết hại những người can ngăn, bày thây ở dưới cửa khuyết, thực không khác gì Kiệt, Trụ! Quan tâm đến việc toàn thiên hạ mà làm như thế, thì sao cho thiên hạ phục được? Xưa kia vua Thuấn thờ bà mẹ ác nghiệt hết đạo mà được làm vua, vua Kiệt giết Long Bàng, vua Trụ giết Tỉ Can, mà thiên hạ đều làm phản cả. Tôi tự biết là tất chết, nhưng e rằng sau khi tôi chết rồi, sẽ không còn ai dám nói nữa, rồi ra lời nguyền rủa ngày càng them, những người có trung mưu không dám bày tỏ, trong lìa ngoài tan, chư hầu sẽ làm phản hết! Tiếc thay đế nghiệp của Tần đã gần thành, mà tự đại vương lại làm cho hỏng đi. Tôi nói hết rồi, xin chịu tội luộc!

    Mao Tiêu nói xong lập tức đứng dậy cởi áo chực nhảy vào chảo nước sôi. Vua Tần vội chạy xuống, tay trái nắm lấy Mao Tiêu, tay phải vẫy tả hữu bảo cất vạc nước sôi đi.

    Mao Tiêu nói:

    - Đại vương đã yết bảng cự người can, không luộc tôi thì còn ai sợ?

    Vua Tần lại sai cất bỏ bảng đi. Rồi say tả hữu đưa áo cho Mao Tiêu mặc, mời ngồi nói rằng:

    - Những người can trước chỉ kể tội quả nhân, chưa hề nói rõ cái lẽ còn mất. Nay trời sai tiên sinh đến mở bảo sự ngu tối cho quả nhân,quả nhân xin kín theo như lời!

    Mao Tiêu lạy hai lạy nói rằng:

    - Đại vương đã nghe lời tôi, thì xin lập tức đi đón thái hậu về; đống thây chết ở dưới cửa khuyết, đều là cốt huyết trung thần, xin cho thu táng.

    Vua Tần liền sai quan tư lý thu nhặt tử thi hai mươi bảy người, đều sắm quan quách đem đi chôn ở núi Long thú, gọi là “Hội trung mộ”. Ngay hôm ấy tự vua Tần đi đón thái hậu, sai Mao Tiêu ngự xe đến Ung châu. Khi gần đến cung Hoắc dương, vua Tần sai sứ giả vào báo trước, rồi mình quì gối đi vào, trông thấy thái hậu thì dập đầu khóc òa lên, thái hậu cũng khóc mãi. Vua Tần dẫn Mao Tiêu vào yết kiến thái hậu, trỏ mà nói rằng:

    - Đây là Dĩnh Khảo Thúc(1) của con đây!

    Đêm ấy vua Tần ngủ ở lại cung Hoắc dương. Hôm sau mời thái hậu lên kiệu đi trước, vua Tần theo sau, nghìn xe muôn ngựa đi theo ủng hộ chật đường. Người đi xem ai nấy đều khen ngợi vua Tần là có hiếu. Về đén Hàm dương vua Tần ssai đặt tiệc rượu ở cung Cam toàn. Mẹ con vui uống, thái hậu lại đặt tiệc rượu để đãi Mao Tiêu, tạ rằng:

    - Khiến cho mệ con ta lại được gặp nhau, là đều nhờ sức của Mao quân!

    Vua Tần bèn cho Mao Tiêu là thái phó, tước thượng khanh.

    Vua Tần lại sợ Bất Vi vào ra nơi cung cấm như trước, bèn truyền cho dời khỏi đô thành, đến ở đất phong tại Hà nam. Các nước nghe Bất Vi đến đất phong, đều sai sứ đến vấn an, tranh nhau mời làm tướng, sứ giả đi lại không ngớt. Vua Tần sợ nước khác dung Lã Bất Vi thì có hại cho Tần, bèn tự tay viết một phong thư đưa cho Lã Bất Vi, đại lược nói rằng:

    “Nhà ngươi có công gì với Tần, mà được phong mười vạn hộ? Nhà ngươi có than gì với Tần mà được gọi là thượng phụ? Thế là Tần gia ơn cho nhà ngươi to lắm đấy! Cái loạn Lao ái, do nhà ngươi gây nên, quả nhân không nở giết, cho nhà ngươi được đến ở đất phong. Nhà ngươi không hối quá, lại cùng sứ giả chư hầu giao thong, như vậy không đúng cái ý quả nhân khoan đãi nhà ngươi. Vậy nhà ngươi khá cùng gia quyến dời đến Thục quận, lấy một thành huyện Tỉ, để làm chỗ hưởng than trọn đời”.

    Lã Bất Vi tiếp thư đọc xong, giận nói rằng:

    - Ta phá hết gia tài để phù lập tiên vương, công ấy ai bằng ta? Thái hậu trước kia gởi thân cho ta mà có thai, vua tức là con ta đẻ ra, ai thân bằng ta? Nhà vua sao nở phụ ta quá như thế?

    Một lát lại thở dài mà nói rằng:

    - Ta vốn con nhà lái buôn, mà mưu đoạt nước người, gian dâm vợ người, giết vua người, tuyệt tự người, trời nào lại có dung ta, đến nay mới chết kể cũng là chậm lắm rồi!

    Bèn bỏ thuốc đọc vào trong rượu uống mà chết; Tân khách trong nhà vốn chịu ơn Bất Vi, cùng nhau đem trộm thây chôn giấu ở dưới núi Bắc mang, cùng người vợ hợp táng. Vua Tần nghe Bất Vi chết đòi lấy thây không được, bèn đuổi hết tân khách của Bất Vi, lại hạ lệnh không cho những du khách phương khác trú ngụ ở Hàm dương nữa, ai làm quan rồi thì cách chức, trong ba ngày đều đuổi ra khỏi cõi cả, nhà nào chứa giữ nhất luật bị tội.

    Có người nước sở tên là Lý Tư, học trò của bậc danh hiền Tuân Khanh, có học vấn rộng, trước kia đến nước Tần, được làm khách khanh. Bấy giờ vì có lệnh trục khách, Lý Tư cũng vào số bị đuổi, đã ra khỏi thành Hàm dương rồi. Lý Tư ở giữa đường, có viết một bài biểu, nói thác là có việc cơ mật, sai trạm truyền dâng lênh vua Tần, trong thư kê những tay du khách đã gíup các đời vua Tần làm nên cường thịnh, lời lẽ rất thống thiết. Vua Tần xem thư mới tỉnh ngộ, bèn bãi lệnh trục khách, sai người theo mời Lý Tư ở lại, cho làm quan như cũ.

    Lý Tư bèn tâu vua Tần nhân lúc nước Tần đang mạnh, các nước đều suy kém, đem quân thôn tính cả sáu nước mà lập một cuộc thống nhất. Lý Tư lại tâu nên đánh nước Hàn trước. Vua Tần bèn sai nội sử Đằng đem mười vạn quân đánh Hàn. Bấy giờ nước Hàn có công tử Phi giỏi về cái học “hình danh” (pháp luật), thấy nước Hàn suy kém mấy lần dâng thư lên vua Hàn, vua đều không dung. Đến lúc quân Tần đánh Hàn, vua Hàn sợ. Công tử Phi cậy tài muốn cầu dụng ở nước Tần, bèn xin vua Hàn cho mình sang sứ Tần để cầu hòa. Phi đến Hàm dương vào yết kiến vua Tần, nói vua Hàn xnộp đất làm phiên thuộc. Vua Tần mừng lắm. Phi nhân đó nói rằng:

    - Tôi có kế có thể phá được tung ước của các nước, hoàn thành được mưu kiêm tính của Tần. Đại vương dung kế của tôi nếu không thu phục được các nước, thì xin chém tôi, đem rao khắp nước để làm gương cho những kẻ bề tôi bất trung.

    Rồi đem dâng những bộ sách chủ mình như: “Thuyết nan”, “Cô phẫn”, Ngũ đố”, Thuyết lâm”, tất cả hơn năm mươi vạn chữ. Vua Tần xem lấy làm hay, muốn dùng làm khách khanh, cùng bàn việc nước. Lý Tư có long ghen tài, gièm với vua Tần rằng:

    - Các công tử chư hầu, đều than người than của mình, khi nào lại để cho người khác lợi dụng. Tần đánh Hàn, vua Hàn sợ mà sai Phi vào Tần, biết đâu Hàn chẳng dùng kế phân gián, vậy không nên dung.

    Vua Tần nói:

    - Vậy đuổi đi ư?

    Lý Tư nói:

    - Xưa kia công tử Vô Kỵ nước Ngụy, công tử Bình Nguyên nước Triệu đều đã từng ở Tần, Tần không dung mà thả cho về nước, rồi sau làm hại cho Tần. Phi có tài, chi bằng giết đi, để cắt cánh nước Hàn.

    Vua Tần bèn giam Phi ở Hàm dương, sắp đem giết, Phi nói:

    - Ta có tội gì?

    Ngục lại nói:

    - Một chỗ đậu không thể dung được hai con chim. Đời bây giờ, người có tài, nếu không dung thì tất đem giết chết, cứ gì phải có tội!

    Hàn Phi bèn khẳng khái ngâm thơ, đêm ấy lấy giải mũ tự thắt cổ mà chết. Vua Hàn nghe tin Phi chết, càng sợ, xin đem cả nước phụ theo Tần, xưng làm tôi. Vua Tần bèn hạ lệnh bãi quân đánh Hàn.

    Vua Tần một hôm cùng Lý Tư bàn việc, khen tài Hàn Phi ngỏ ý tiếc rằng Phi đã chết.

    Lý Tư nói:

    - Tôi xin tiến cử một người họ Úy tên Liêu, người ở Đại Lương, lầu thông binh pháp tài gấp mười Hàn Phi.

    Vua Tần nói:

    - Người ấy ở đâu?

    Lý Tư nói:

    - Hiện nay người ấy ở Hàm dương. Nhưng người ấy rất tự phụ, không thể lấy lễ bề tôi mà khuất được.

    Vua Tần bèn cho đi mời theo lễ tân khách, Úy Liêu, thấy vua Tần vái dái không lạy. Vua Tần đáp lễ mời ngồi ghế trên, gọi là tiên sinh. Úy Liêu nói:

    - Đối với một nước mạnh như Tần, hhễ các nước lìa nhau thì dễ lấy hết, mà hợp lại với nhau thì khó đánh, điều đó đại vương cần phải nghĩ đến.

    Vua Tần nói:

    - Muốn cho các nước lìa nhau mà không hợp được nữa, tiên sinh có kế gì không?

    Úy Liêu nói:

    - Nay việc các nước đều do bọn hào thần quyết định, mà bọn hào thần có phải đều là người trung trí cả đâu, chẳng qua chỉ cốt được nhiều tiền của để vui chơi mà thôi. Nếu đại vương không tiếc của trong kho, đem đút lót cho bọn hào thần các nước để làm rối cái mưu của họ, thì chỉ mất độ ba mươi vạn cân vàng mà có thể lấy hết được đó!

    Vua Tần bằng lòng lắm, tôn Úy Liêu làm thượng khách cho ăn mặc như mình, và thời thường đến quán xá, quì xin dạy bảo.

    Úy Liêu nghĩ:

    - Ta xét kỹ vua Tần, mũi to, mắt dài, ngực ưỡn, tiếng gầm, là người tàn khắc ít ân, lúc có việc thì chịu khuất người, lúc xong việc thì khinh bỏ người. Nay thiên hạ chưa thống nhất, cho nên chịu khuất than với kẻ áo vải, nếu đắc chí rồi, thì người trong thiên hạ đều sẽ bị làm cá thịt cả mà thôi!

    Một đêm, Úy Liêu bỗng bỏ đi, không từ biệt gì cả. Kẻ coi quán vội báo vua Tần, vua Tần như mất cánh tay, vội sai người đuổi theo mời lại, rồi cùng Úy Liêu lập lời thề, bái làm thái úy, chủ việc binh, đệ tử đều được làm đại phu. Rồi trích nhiều tiền kho, sai các sứ giả đi đến các nước, xem người bề tôi nào được vua yêu mến hiện cầm quyền chính, thì đút lót cho nhiều tiền để dò xét tình hình. Vua Tần lại hỏi Úy Liêu nên lần lượt kiêm tính nước nào trước, nước nào sau.

    Úy Liêu nói:

    - Hàn yếu dễ dánh, nên đánh trước, thứ đến Triệu, Ngụy. Đã lấy được ba nước ấy rồi thì đem quân đi đánh Sở, Sở mất thì Tề cũng chẳng còn.

    Vua Tần muốn đánh Triệu, nhưng nghĩ Triệu đang htông hiếu với Tần, không lấy cớ gì mà đánh được. Úy Liêu biết Triệu có người bề tôi được vua yêu chuộng là Quách Khai tham lam hay ăn của đút, bè lấy kế đem quân đi đánh Ngụy trước, rồi sai đệ tử là Vương Ngao sang bảo vua Ngụy cắt Nghiệp thành dâng Triệu để cầu cứu, lại đút lót ba nghìn cân vàng cho Quách Khai bảo xúi vua Triệu nên nhận đất đem quân cứu Ngụy, rồi Tần sẽ lấy cớ ấy mà đánh Triệu. Quả nhiên vua Triệu mắc mưu, sai Hồ Tiếp mang năm vạn quân đến nhận đất Nghiệp thành của Ngụy. Vua Tần liền sai Hoàn Xỉ tiến đánh, quân Triệu bị thua to. Vuaởpiệu được tin đó, thì hợp quần thần lại để bàn kế, mọi người đều nói Liêm Pha có thể chống được quân Tần, nên sang Ngụy đón về. Quách Khai vốn có thù với Liêm Pha, sợ Pha lại được dùng, bèn dèm với vua Triệu rằng:

    - Liêm tướng quân tuổi gần bảy mươi, gân sức đã suy, đại vương nên sai người đến dò xem, nếu quả sức chưa suy, sẽ triệu về cũng chưa muộn.

    Vua Triệu nghe lời, sai nội thị là Đường Cửu đem một bộ áo giáp tốt, bốn con ngựa tốt sang cho Liêm Pha và dò xét xem thế nào.

    Quách Khai bèn đút tiền cho Đường Cửu, dặn sang hễ thấy Liêm Pha già yếu thì thôi, nếu còn khỏe mạnh, thì cũng cớ nói là già nua không dùng được, để vua Triệu khỏi đón về. Đường Cửu vâng lời đi sang nước Ngụy, vào yết kiến Liêm Pha, thuật lời vua Triệu, Liêm Pha hỏi:

    - Quân Tần đánh Triệu ư?

    Đường Cửu hỏi:

    - Làm sao tướng quân lại biết?

    Liêm Pha nói:

    - Tôi ở nước Ngụy đã vài năm, vua Triệu không hề có một chữ hỏi thăm, nay bỗng đem cho áo giáp và ngựa tốt, tất có việc dung tôi nên tôi biết.

    Đường Cửu nói:

    - Tướng quân không giận Triệu ư?

    Liêm Pha nói:

    - Tôi đang ngày đêm tưởng nhớ người Triệu, khi nào lại dám giận vua Triệu.

    Rồi giữ Đường Cửu lại cùng ăn cơm, ở trước mặt Đường Cửu cố ý làm ra hăng hái khỏe mạnh, ăn một bữa hết đấu gạo, hơn mười cân thịt, ngốn ngáo như hùm beo một hồi, khi no rồi thì mặt áo giáp của vua Triệu cho, nhảy phắt lên ngựa, dong ruổi như bay; lại ngồi trên lưng ngựa múa mấy hồi dáo dài, rồi mới nhảy xuống, bảo Đường Cửu rằng:

    - Ta so với lúc còn trẻ thế nào? Phiền người về tâu với vua Triệu, ta đây còn có thể đem cái tuổi thừa để báo Triệu được!

    Đường Cửu thấy rõ Liêm Pha tinh thần còn cường tráng lắm, nhưng đã ăn đút của Quách Khai, về đến Hàm đan, tâu với vua Triệu rằng:

    - Liêm tướng quân tuổi dẫu già mà còn ăn thịt được nhiều lắm; nhưng xem ra có bệnh tì, cùng tôi ngồi cùng ngồi, trong chóc lát ba lần són phân ra.

    Vua Triệu than rằng:

    - Khi chiến tranh mà như thế thì làm việc gì được? Liêm Pha quả đã già rồi!

    Rồi không triệu Liêm Pha về nữa, lại phái them quân giúp Hồ Tiếp để chống quân Tần. Về sau vua Sở biết Liêm Pha ở Ngụy, sai người đến đón. Pha lại sang Sở làm tướng, nhưng thấy quân Sở không bằng quân Triệu, Liêm Pha uất ức mà chết.

    Bấy giờ Vương Ngao còn ở Triệu, biết rõ Quách Khai là kẻ tham lợi, chứ tuyệt không có long vì nước, bèn dò hỏi Quách Khai rằng:

    - Vạn nhất nước Triệu mất thì ngài đi đâu?

    Quách Khai nói:

    - Trong hai nước Tề, Sở tôi sẽ chọn một nước mà thoát than.

    Vương Ngao bèn xui Quách Khai nên đem than mà gởi cho Tần và nói thực rằng:

    - Vua Tần biết ngài có quyền ở Triệu, cho nên sai tôi kết hoan với ngài. Số vàng mà tôi dâng cho ngài là của vau Tần cả. Nếu Triệu mất, ngài theo về Tần, tất sẽ được làm thượng khanh; những ruộng tốt nhà đẹp ở Triệu, cũng tùy ý ngài chọn lấy.

    Quách Khai xin vâng, Vương Ngao lại đem bảy nghìn cân vàng giao cho Khai nói là vua Tần nhờ dung để kết giao với các tướng văn, tướng võ ở Triệu. Quách Khai cả mừng nói rằng:

    - Khai này được vua Tần ban cho quá hậu, nếu không hết long giả ơn, thì không phải là người!

    Vương Ngao bèn từ biệt Quách Khai về Tần, đem bốn vạn cân vàng thừa nộp lại nói rằng:

    - Tôi dung một vạn cân vàng mà tính xong Quách Khai, dung một Quách Khai mà tính xong nước Triệu vậy.

    Vua Tần biết Triệu không dung Liêm Pha, bèn dục Hoàn Xỉ tiến đánh. Vua Triệu sợ quá thành bệnh mà chết. Vua Triệu đã có con cả là Gia, sau lại say mê một người con hát, lưu ở trong cung, đẻ được một con trai là Thiên, vua Triệu quá yêu người ca xướng và đứa bé, bèn bỏ Gia mà lập thiên làm thái tử, cử Quách Khai làm thái phó. Thiên vốn không thích học, Quách Khai lại dạy cho các trò chơi, hai người rất than yêu nhau. Lúc vua Triệu mất, Quách Khai rướt Thiên lên ngôi, lấy ba trăm hộ phong cho công tử Gia, lưu ở trong nước. Quách Khai làm tướng quốc. Hoàn Xỉ nhân lúc Triệu có tang, đánh phá quân Triệu ở Nghi an, chém được Hồ Tiếp, giết được hơn vạn người, tiến sát đến Hàm đan. Vua Triệu từ khi làm thái tử vốn nghe tài Lý Mục, vội cho sứ đến Đại châu đòi Lý Mục đem quân đến cứu, cho Lý Mục được tùy nghi làm việc, lại lấy hết mười vạn tinh binh trong nước sai Triệu Thông, Nhan Tụ mỗi người đem năm vạn quân, chịu quyền Lý Mục tiết chế. Lý Mục vâng mệnh, đóng trại ở Phì lũy, giữ vững không đánh, ngày ngày mỗ trâu khao quân, cho chia ra từng đội để bắn thi với nhau. Quân sĩ ngày nào cũng được khao thưởng, bèn xin cho ra đánh. Lý Mục nhất định không cho. Đại tướng Tần là Hoàn Xỉ thấy Lý Mục giữ vững không đánh, bèn chia một nữa quân đi đánh úp Cam toàn thị, Lý Mục chắc là dinh quân Tần lúc ấy có ít quân, lại không có phòng bị, bèn chia quân ra làm ba đạo đang đêm kéo đén đánh úp. Quân Tần không ngờ quân Triệu chợt đến không kịp chống đánh đều tan vỡ cả. quân Triệu giết được hơn mười viên tướng danh tiếng của Tần và vô số quân lính. Hoàn Xỉ ở Cam toàn thị được tin, giận quá, lại đem hết quân đến đánh. Lý Mục đốc.​
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Thành viên đang xem bài viết (Users: 0, Guests: 0)