LS Q.Sự Đông Chu Liệt Quốc - Tác giả: Phùng Mộng Long - FULL 108C

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,685
    Đông Chu Liệt Quốc
    Tác giả: Phùng Mộng Long
    Chương 96: Lạn tương như hai lần khuất vua tần mã phục quân một mình giải vây triệu

    Dịch giả: Nguyễn Đỗ Mục.
    Nguồn: NXB Văn Học

    Lại nói Huệ Văn vương nước Triệu yêu dùng một nội thị là Mục Hiền, cho làm chức hoạn giả lệnh, được dự việc chính. Một hôm có người đem bán một viên bạch bích. Mục Hiền thấy hòn ngọc sáng nhoáng mà không có dấu vết, thì ưa lắm liền bỏ năm trăm vàng mua được, đem phô với người thợ ngọc. Thợ ngọc kinh ngạc nói rằng:

    - Đây thực là viên ngọc bích họ Hoà. Tướng Sở là Chiêu Dương trong lúc ăn yến bỗng mất viên Ngọc này, ngờ cho Tương Nghi lấy trộm, tra đánh gần chết, Trương Nghi vì thế mới bỏ sang Tần. Sau Chiêu Dương treo thưởng nghìn vàng để mua lại ngọc bích này, kẻ lấy trộm không dám đem ra, nên chịu không sao thấy được. Ngày nay không ngờ lại lọt vào tay ngài. Viên ngọc này thực là một vật quí vô giá, nên cất kỹ, chớ nên khinh thường đem phô với mọi người.

    Mục Hiền nói:

    - Đành thế, nhưng viên ngọc này quí ở chỗ nào?

    Thợ ngọc nói:

    - Viên ngọc này để ở chỗ tối tự nhiên có ánh sang, có thể trừ được trần ai, đuổi được ma quỉ, nên gọi là viên ngọc dạ quang; để chỗ ngồi, mùa đông thì ấm, có thể thay cho lò sưởi; mùa hạ thì mát, trong trăm bước ruồi nhặng không dám vào. Viên ngọc có những đức tính lạ lùng như vậy mà các ngọc khác không có, cho nên là vật chí bảo.

    Mục Hiền thử xem, quả đúng như thế, bèn làm một cái hộp để đựng, cất kỹ trong hòm. Không ngờ có kẻ đem việc ấy nói với vua Triệu. Vua Triệu hỏi Mục Hiền, có ý muốn lấy, nhưng Hiền không chịu đem dâng; vua Triệu giận, nhân lúc đi săn, vào nhà Hiền, sục tìm bắt được rồi lấy đem về. Mục Hiền sợ vua Triệu trị tội giết chết, muốn bỏ trốn đi. Xa nhân là Lạn Tương Như túm áo hỏi rằng:

    - Ngài đi đâu bây giờ?

    Mục Hiền nói muốn chạy sang Yên.

    Tương Như nói:

    - Ngài được vua Yên biết đến như thế nào mà vội vã đến nương nhờ vậy?

    Mục Hiền nói:

    - Năm trước ta có đi theo đại vương hội diện cùng vua Yên ở ngoài cõi, nhân khi vắng người vua Yên nắm tay ta mà nói rằng: “Xin cùng ngài kết giao”. Thế là vua Yên biết ta, cho nên ta muốn sang đấy.

    Tương Như can rằng:

    - Ngài lầm rồi, Triệu mạnh mà Yên yếu, ngài được vua Triệu yêu. Vua Yên muốn cùng ngài kết giao, đó không phải là vua Yên có hậu tình với ngài đâu, mà muốn nhân ngài để hậu giao với vua Triệu vậy. Nay ngài bị tội với vua ta, mà lại chạy sang Yên, Yên sợ Triệu đánh, tất sẽ bắt trói ngài đem nộp để cầu thân với Triệu, như vậy thì ngài nguy lắm.

    Mục Hiền nói:

    - Thế thì biết làm thế nào?

    Tương Như nói:

    - Ngài có tội gì to, chỉ là không sớm dâng ngọc bích đó thôi. Nay nếu tự vào dập đầu xin chịu tội, vua tất tha cho ngài!

    Mục Hiền theo lời mà làm. Quả nhiên vua Triệu không bắt tội. Hiền trọng trí sang suốt của Tương Như, cho làm thượng khách.

    Lại nói người thợ ngọc bỗng đi sang nước Tần, vua Tần sai sửa ngọc, thợ ngọc nhân nói đến viên ngọc bích họ Hòa nay lại về nước Triệu. Vua Tần hỏi viên ngọc ấy có những cái gì quý, thợ ngọc lại nói như trước. Vua Tần liền đem lòng ham mến, muốn được thấy viên ngọc bích ngay. Bấy giờ cậu vua Tần là Ngụy Nhiễm làm thừa tướng, nói rằng:

    - Đại vương muốn được thấy viên ngọc ấy, sao không đem mười lăm thành Đậu dương mà đổi cho nước Triệu?

    Vua Tần lấy làm lạ, nói rằng:

    - Mười lăm thành là đất nước của quả nhân, khi nào ta lại đem đổi lấy một viên ngọc.

    Ngụy Nhiễm nói:

    - Đã lâu Triệu vẫn sợ Tần, nếu đại vương đem thành đổi ngọc, thì Triệu tất phải đem ngọc đến, họ đem đến thì ta giữ lấy, như vậy đổi thành chỉ là cái tiếng, mà được ngọc là sự thực vậy.

    Vua Tần cả mừng, liền đưa thư cho vua Triệu, sai khách khanh là Hồ Thương làm sứ. Trong thư đại ý nói:

    “Đã lâu nay quả nhân vẫn hâm mộ ngọc bích họ Hòa, mà chưa được thấy bao giờ. Nghe nói quân vương hiện có viên ngọc ấy ở trong tay, quả nhân không dám xin không, muốn đem mười lăm thành Đậu dương để tạ ơn, mong rằng quân vương sẽ vui lòng cho đổi.”

    Vua Triệu được thư, liền triệu bọn đại thần là Liêm Pha đến bàn. Muốn đem cho Tần thì e bị Tần lừa, ngọc mất mà thành không được; muốn không cho thì lại sợ Tần giận. Các đại thần người nói nên cho, người nói không nên, bối rối không biết quyết định thế nào. Lý Khắc nói:

    - Nên kén một người trí dũng, dắt ngọc bích đem đi, được thành thì trao ngọc cho Tần, nếu không được thành thì lại đem ngọc về Triệu, như thế mới là lưỡng toàn.

    Vua Triệu nhìn Liêm Pha, Pha cuối đầu không nói.

    Hoạn giả lệnh là Mục Hiền nói:

    - Tôi có một xá nhân tên là Lạn Tương Như, người ấy có sức khỏe lại có mưu trí, nếu cần người đi sứ Tần thì không ai hơn người ấy.

    Vua Triệu liền sai Mục Hiền đòi Lạn Tương Như đến.

    Tương Như bái yết xong, vua Triệu hỏi rằng:

    - Vua Tần xin đem mười lăm thành đổi lấy ngọc bích của quả nhân, tiên sinh nghĩ có nên cho không?

    Tương Như nói:

    - Tần mạnh Triệu yếu, không thể không cho được.

    Vua Triệu nói:

    - Nếu đem ngọc đi mà không lấy được thành thì làm thế nào?

    Tương Nhu nói:

    - Tần đem mười lăm thành mà đổi lấy ngọc bích, giá ấy đã hậu lắm, vậy mà Triệu không cho ngọc, thì lỗi ở Triệu; nay Triệu không đợi giao thành mà dâng ngọc ngay, theo lễ như thế là cung kính lắm, Tần lại còn không cho thành thì đó là cái lỗi ở Tần.

    Vua Triệu nói:

    - Quả nhân muốn kén một người đi sứ Tần để bảo hộ viên ngọc ấy, tiên sinh có thể vì quả nhân mà đi được không?

    Tương Như nói:

    - Nếu đại vương quả không có người nào sai được, thì tôi xin đem ngọc bích đi. Nếu Triệu được thành thì tôi để ngọc bích ở Tần; bằng không tôi xin giữ vẹn được ngọc đem về Triệu.

    Vua Triệu cả mừng, liền phong cho Tương Như làm đại phu, giao ngọc cho. Tương Như đem ngọc bích đi sang Hàm dương.

    Vua Tần nghe báo ngọc bích đã đến, cả mừng, ngồi trên Chương đài, họp cả quần thần lại, đòi Tương Như vào. Tương Như để cái hộp lại chỉ dùng bao gấm, hai tay nâng ngọc bích, vái hai vái. Vua Tần mở bao gấm lấy ngọc ra xem, quả thấy ngọc trắng nõn không có dấu vết gì, ánh sáng lấp lánh, những chỗ trạm khắc tinh xảo lạ thường, thực là của quý ít có trên đời. Vua Tần xem ngắm hồi lâu, nức nở khen ngợi, rồi giao cho quần thần chuyền tay nhau xem. Quần thần xem xong đều vái lạy hô vạn tuế. Vua Tần lại để viên ngọc vào bao gấm, sai nội thị mang vào cho các mỹ nhân ở trong cung xem, hồi lâu mới đưa ra, để trên ngự ấn. Lạn Tương Như đứng cạnh chờ đợi hồi lâu, không nghe nói đến chuyện đổi thành, liền nghĩ ra một kế, chạy đến trước mặt vua Tần tâu rằng:

    - Viên ngọc ấy có tì vết, tôi xin chỉ cho đại vương xem.

    Vua Tần sai tả hữu đem ngọc bích giao cho Tương Như, Tương Như lấy lại được ngọc bích rồi, lùi ra mấy bước, đứng tựa vào cột điện, giương to hai mắt, hầm hầm nổi giận bảo vua Tần rằng:

    - Ngọc bích họ Hòa là của quí trong thiên hạ; đại vương muốn được ngọc bích gửi thư đến Triệu, vua nước tôi triệu hết quần thần đến để bàn, quần thần đều nói Tần tự cậy sức mạnh đem lời nói không để cầu ngọc bích, sợ ngọc mất mà thành không được, chi bằng không cho. Riêng tôi nói rằng bọn áo vải chơi với nhau còn không nở lừa nhau, phương chi là ông vua một nước, cớ sao lại đem lòng bất tiếu đãi người để được tội với đại vương? Quân vương tôi bèn trai giới năm ngày, rồi mới say tôi đem ngọc bích sang dâng, là tỏ ý kính cẩn lắm. Nay đại vương tiếp tôi rất là ngạo mạn, ngồi mà nhận ngọc, đưa cho tả hữu xem chán rồi lại đưa vào cho các mỹ nhân ở hậu cung xem, khinh nhờn quá lắm, coi đó đủ biết đại vương không có thực ý đổi thành, cho nên tôi phải lấy lại ngọc bích vậy. Nếu đại vương muốn bách tôi, thì cái đầu tôi đây xin cùng với ngọc bích mà tan nát ở nơi cột này, tôi thề chết chứ không để cho Tần được ngọc!

    Nói xong, cầm ngọc bích phăm phăm chực đập vào cột. Vua Tần tiếc ngọc bích, sợ Tương Như đập nát mất, bèn xin lỗi rằng:

    - Đại phu chớ làm thế, quả nhân khi nào dám thất tín với Triệu!

    Lập tức sai bách quan đem địa đồ ra, vua Tần chỉ vào và nói từ chỗ này đến chỗ này cộng mười lăm thành sẽ cắt cho Triệu. Tương Như nghĩ thầm đó là vua Tần nói dối chứ không phải thực tình, bèn nói rằng:

    - Quân vương tôi không dám tiếc của rất quý này để có tội với đại vương, cho nên khi sắp sai tôi đi, phải trai giới năm ngày, rồi đòi khắp quần thần cùng vái rồi mới cho đi; vậy đại vương cũng nên trai giới năm ngày, bày đặt nghi lễ để tiếp rước, bấy giờ tôi mới dám dâng ngọc bích.

    Vua Tần xin vâng, bèn sai sửa soạn tai giới năm ngày, đưa Tương Như ra nghỉ ở công quán. Tương Như mang ngọc bích ra đó, lại nghĩ thầm ta từng nói khoe trước mặt vua Triệu rằng nếu Tần không đổi thành thì xin đem ngọc bích về Triệu; nay vua Tần dẫu trai giới, nhưng nếu sau khi được ngọc mà vẫn không chịu đổi thành thì ta còn mặt nào về thấy vua Triệu nữa. bèn sai tên hầu than cận mặc áo vải xấu, giả làm người nghèo, bỏ ngọc bích vào cái túi vải buột chặt vào sau lưng, theo đường tắt trốn về tâu với vua Triệu rằng xét ra Tần quả không có ý đổi thành, quan đại phu sợ bị lừa nên sai mang ngọc bích về trả lại, còn mình xin ở đó để đợi Tần làm tội, thề chết chứ không chịu nhục mệnh.

    Vua Triệu nói:

    - Tương Như quả không phụ lời nói với ta!

    Lại nói vua Tần nói dối là trai giới, qua năm ngày, lên điện sai bày lễ nghi, triệu các sứ giả chư hầu đến dự hội, để cùng xem nhận ngọc bích, ý muốn khoe khoang với các nước. Viên tán lễ dẫn sứ thần nước Triệu lên điện. Lạn Tương Như ung dung bước vào. Khi đã bái yết xong, vua Tần trông tay Tương Như không thấy có ngọc bích bèn hỏi rằng:

    - Quả nhân đã trai giới năm ngày xin nhận ngọc bích, nay sứ giả lại không cầm ngọc vào là cớ làm sao?

    Tương Như nói:

    - Nước Tần từ đời Mục công đến bây giờ, cộng hơn hai mươi vua, đều lấy trá thuật làm việc, kể xa thì Kỷ Tử lừa Trịnh, Mạnh Minh lừa Tấn, kể gần thì Thương Ưởng lừa Ngụy, Trương Nghi lừa Sở, việc trước đó còn rành rành, đều là không có tín nghĩa. Tôi nay lại sợ bị lừa với đại vương để đến nổi phụ long quân vương tôi, nên sai kẻ theo hầu mang ngọc bích theo đường tắt về Triệu rồi, vậy tôi xin chịu tội chết!

    Vua Tần nổi giận, nói rằng:

    - Sứ giả bảo quả nhân bất kính, nên quả nhân đã trai giới để nhận ngọc bích; sứ giả lại cho người lẻn đem ngọc về Triệu, rõ ràng là muốn đánh lừa quả nhân.

    Nói rồi bèn sai tả hữu trói Tương Như lại. Tương Như không hề sợ hãi tâu rằng:

    - Xin đại vương nguôi giận, tôi xin bày tỏ một lời. Cái thế ngày nay, chỉ có Tần phụ Triệu chứ không khi nào Triệu dám phụ Tần; nếu đại vương thực muốn ngọc bích thì xin trước cắt mười lăm thành cho Triệu rồi sai sứ giả cùng tôi sang Triệu để lấy ngọc bích. Khi nào Triệu dám lấy thành mà giữ ngọc, chịu cái tiếng bất tín để có tội với đại vương! Tôi tự biết cái tội đánh lừa đại vương thực đáng muôn chết, nên tôi đã gởi lời về tâu với quốc vương là không mong được sống mà về. Vậy xin đại vương cứ việc bỏ tôi vào vạc dầu, để chư hầu đều biết rằng vì muốn được ngọc bích mà tần giết sứ Triệu, phải trái ở đâu mọi người đều biết.

    Vua Tần và các quần thần nhìn nhau, không ai nói được câu nào. Các sứ giả chư hầu đứng bên xem, đều lấy làm nguy cho Tương Như lắm. Những người tả hữu chực dắt Tương Như đi. Vua Tần thét bảo thôi, rồi nói với quần thần rằng:

    - Nếu giết Tương Như, cũng chưa thể lấy được ngọc bích, chỉ mang cái tiếng bất nghĩa mà tuyệt tình giao hiếu của hai nước Tần, Triệu mà thôi!

    Rồi hậu đãi Tương Như, theo như lễ các sứ thần, và cho trở về nước Triệu.

    Lạn Tương Như về đến Triệu, vua Triệu khen ngợi cho thăng làm quan thượng đại phu. Về sau Tần quả chẳng cắt mười lăm thành cho Triệu, mà Triệu cũng chẳng dâng ngọc bích cho Tần. Vua Tần trong long vẫn e Triệu lắm, lại sai sứ ước với vua Triệu cùng đến họp ở Thằng trì, vua Triệu nói:

    - Tần dùng lối hội kiến đánh lừa Sở Hoài vương rồi giam lại ở Hàm dương, nên nay người Sở vẫn đau long; nay lại hội ước với quả nhân, có lẽ cũng muốn đãi quả nhân như Hoài vương chăng?

    Liêm Pha và Lạn Tương Như cùng bàn rằng nếu nhà vua không đi tức là tỏ ra cho Tần biết mình yếu, rồi cùng tâu rằng:

    - Hạ thần là Tương Như xin đi theo để bảo hộ xa giá, hạ thần là Liêm Pha xin ở lại giúp thái tử giữ nước.

    Vua Triệu mừng rằng:

    - Tương Như còn giữ toàn được ngọc bích đem về, phương chi là quả nhân.

    Bình Nguyên quân tâu rằng:

    - Xưa kia Tống Tương công vì dùng một cổ xe đến hội, bị nước Sở cướp; vua Lỗ cùng Tề hội ở Giáp cốc phải mang cả tả hũu tư mã đi theo. Nay bảo giá dẫu có Tương Như nhưng cũng nên kén năm nghìn quân tinh nhuệ theo đi để phòng có sự bất trắc, lại nên cử đại quân đóng cách xa ba mươi dặm, mới được vẹn toàn.

    Vua Triệu hỏi:

    - Ai có thể làm tướng đốc suất năm nghìn quân tinh nhuệ ấy được?

    Triệu Thắng thưa rằng:

    - Tôi có biết viên điền bộ tên là Lý Mục, thực là người có tài làm tướng.

    Vua Triệu hỏi sao biết là có thể làm tướng được?

    Bình Nguyên quân nói:

    - Lý Mục làm chức điền bộ, bọn lại thu thuế ruộng nhà tôi quá kỳ không nộp, Mục cứ theo phép mà trị giết mất chín người coi việc của tôi, tôi giận và quở trách. Mục bảo tôi rằng: “Nước trị được là nhờ có phép, nay dung túng cho người nhà ngài mà không theo phép công thì hỏng, phép hỏng thì nước yếu, chư hầu sẽ đến lấn nước ngay, như vậy Triệu còn không chắc giữ được nước, ngài chắc gì giữ được nhà? Ở địa vị tôn quí của ngài mà biết giữ phép công, phép vững thì nước mạnh, có thể giữ bền được phú quý, há chẳng hay lắm ru?” Kiến thức ấy thực là khác thường, nên tôi mới biết là có thể làm tướng được.

    Vua Triệu liền dung Lý Mục làm trung quân đại phu, sai đốc suất năm nghìn quân tinh nhuệ đi theo sang Tần, Bình Nuyên quân đem đại quân đi theo sau. Liêm Pha đưa tiễn đến biên giới, nói với vua Triệu rằng:

    - Đại vương đi vào cái nước hổ lang ấy, thực là nguy hiểm; vậy xin ước cùng đại vương: cứ tính đường đi lại và khi hội kiến xong, không quá ba mươi ngày; nếu quá ngày không về, thì tôi xin theo như việc cũ nước Sở, lập thái tử làm vua để tuyệt long trông ngóng của người Tần.

    Vua Triệu bằng long, bèn đi đến Thằng trì, vua Tần cũng đến, đều về ở quán dịch.

    Đến kỳ, hai vua theo lễ chào nhau và đặt tiệc rượu làm vui. Uống rượu đến nửa chừng, vua Tần nói:

    - Quả nhân nghe nói vua Triệu giỏi âm nhạc lắm, quả nhân có mang theo đàn bảo sắt đến đây, dám xin đại vương gảy cho nghe một khúc!

    Vua Triệu mặt đỏ, nhưng không dám chối. Người thị vệ nước Tần đem đàn bảo sắt đặt trước mặt vua Triệu. Vua Triệu gảy một khúc Tương linh, vua Tần khen mãi không thôi. Gảy xong, vua Tần nói:

    - Quả nhân thường nghe nói thủy tổ nước Triệu là liệt hầu, thích âm nhạc lắm, đại vương thực được nghề gia truyền vậy.

    Nói xong, ngoảng lại bảo tả hữu đòi quan ngự sử sai ghi chép việc ấy; quan ngự sử cầm bút lấy thẻ viết rằng: “Năm tháng ngày mỗ, vua Tần cùng vua Triệu họp ở Thằng trì, sai vua Triệu gảy đàn sắt”. Lạn Tương Như tiến lên nói rằng:

    - Vua Triệu nghe nói vua Tần giỏi âm nhạc Tần, vậy xin kính dâng cái phẫu sành, mong vua Tần đánh lên để cùng vui.

    Vua Tần giận tái mặt đi, nhưng không nói gì. Tương Như liền lấy cái phẫu sành đựng rượu, quỳ dâng ở trước mặt vua Tần. Vua Tần không chịu đánh. Tương Như nói:

    - Đại vương cậy nước Tần mạnh chăng? Ngay bây giờ trong khoảng năm bước chân, Tương Như này được đem máu cổ vây vào mình đại vương đó!

    Tả hữu đều mắng Tương Như là vô lễ, muốn sấn vào bắt, Tương Như trợn mắt mắng lại, râu tóc đều dựng cả lên, tả hữu sợ quá đều phải lùi lại vài bước. Vua Tần ý không vui, nhưng trong long sợ Tương Như, miễn cưỡng đánh vào phẫu một cái. Tương Như mới đứng vậy, đòi ngự sử nước Triệu đến bảo cũng biên vào thẻ rằng: “Năm, tháng, ngày mỗ, vua Triệu cùng vua Tần họp ở Thằng trì, sai vua Tần đánh cái phẫu”. Quần thần nước Tần đều bất bình, cùng đứng lên xin với vua Triệu rằng:

    - Hôm nay vua Triệu hạ cố đến đây, xin nhà vua cắt mười lăm thành để mừng thọ vua Tần.

    Tương Như cũng tâu vua Tần rằng:

    - Có đi phải có lại, nếu Triệu đã dâng mười lăm thành cho Tần, Tần không thể không đáp lại. Vậy xin lấy đất Hàm dương của Tần để mừng thọ vua Triệu!

    Vua Tần nói:

    - Hai vua chúng ta làm lễ hòa hiếu, các ngươi chớ nói nhiều lời!

    Nói xong sai tả hữu lại dâng rượu mời vua Triệu cùng uống, giả ý thật vui say bãi hội. Khách khanh Tần là bọn Hồ Thương mật xui vua Tần giữ vua Triệu và Lạn Tương Như lại. Vua Tần nói:

    - Tin thám mã báo là nước Triệu phòng bị rất chu đáo vạn nhất việc làm không thành lại bị thiên hạ chê cười.

    Rồi tỏ long kính trọng vua Triệu, ước làm anh em, không bao giờ đánh lẫn nhau; sai con trai của thái tử An Quốc quân tên là Dị Nhân sang làm con tin ở Triệu. Quần thần đều nói giao hiếu là đủ, cần gì phải đưa con tin nữa.

    Vua Tần cười mà nói rằng:

    - Nước Triệu đang mạnh, chưa có thể làm gì được, nếu không đưa con tin sang thì Triệu không tin; Triệu tin ta thì tình giao hiếu càng bền, ta mới được chuyên việc mưu lấy nước Hàn vậy.

    Quần thần đều phục.

    Vua Triệu tạ vua Tần về nước, thì vừa đúng ba mươi ngày. Vua Triệu nói:

    - Quả nhân được Lạn Tương Như, thân yên như Thái sơn, nước vững như chin đỉnh. Tương Như công rất cao quần thần không ai bằng.

    Liêm Pha giận nói rằng:

    - Ta có công đánh thành cướp đất, Tương Như thì chỉ có chút công miệng lưỡi mà vị thứ lại ở trên ta. Vả lại hắn là xá nhân của kẻ hoạn giả, xuất than hèn mọn, ta há lại ở dưới hắn ư? Nếu gặp Tương Như, ta tất phải giết chết.

    Tương Như nghe biết vậy, mỗi khi gặp buổi công triều, bèn thác bệnh không đi, không chịu cùng Liêm Pha gặp mặt. Xá nhân đều cho Tương Như là nhát, cùng chê bai ngấm ngầm. Bỗng một hôm Tương Như đi ra ngoài, Liêm Pha cũng đi, Tương Như trông thấy toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội sai ngự giả 1 đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi cho Liêm Pha đi rồi mới ra. Bọn xá nhân thấy thế lại càng giận, rủ nhau đến nói với Tương Như rằng:

    - Chúng tôi bỏ làng xóm, xa thân thích đến nương cửa ngài, vì coi ngài bậc trượng phu, cho nên yêu mến mà theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hang mà ban thứ lại còn ở trên. Liêm tướng quân nói dọa, ngài không báo lại, đã tránh ở trong triều, lại tránh ở ngoài đường, sao ngài lại sợ quá như thế? Chúng tôi lấy làm xấu hổ thay cho ngài, không muốn ở đây nữa. Xin ngài cho chúng tôi đi!

    Tương Như ngăn lại nói rằng:

    - Ta sở dĩ tránh Liêm tướng quân là có cớ, các ngươi chưa xét biết đó thôi!

    Bọn xá nhân nói:

    - Chúng tôi ngu dốt không biết, xin ngài nói rõ cớ gì cho nghe.

    Tương Như hỏi:

    - Các ngươi xem Liêm tướng quân có hơn vua Tần không?

    Bọn xá nhân đều nói:

    - Không hơn được.

    Tương Như nói:

    - Thử xem cái oai của vua Tần, thiên hạ không ai dám chống, mà Tương Như này dám mắng vua ở giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nước Tần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân hay sao? Nhưng ta nghĩ lại, nước Tần sở dĩ không dám đánh Triệu, là vì e có hai người chúng ta; nay hai con hổ đánh nhau, thế không cùng sống, người Tần nghe tin, tất sẽ thừa cơ mà đánhTriệu. Ta sở dĩ chịu nhục mà tránh Liêm tướng quân, là coi việc nước làm trọng mà thù riêng làm khinh vậy.

    Bọn xá nhân đều kính phục. Không bao lâu, xá nhân họ Lạn cùng khách họ Liêm, một hôm gặp nhau ở trong hang rượu, hai bên tranh nhau chỗ ngồi; xá nhân họ Lạn nói:

    - Chủ quân ta vì việc nước mà phải nhường Liêm tướng quân, chúng ta cũng nên theo ý chủ nhân mà nhường khách họ Liêm.

    Bởi vậy Liêm Pha càng kiêu. người Hà đông là Ngu Khanh đến chơi Triệu, nghe bọn xá nhân thuật lời nói của Tương Như, bèn bảo vua Triệu rằng:

    - Trọng thần của vua ngày nay, có phải Liêm Pha và Lạn Tương Như không?

    Vua nói phải.

    Ngu Khanh nói:

    - Tôi nghe các người bày tôi đời trước, đều một long một đức cùng yêu kính nhau để trị nước, nay đại vương cậy có hai trọng thần mà để hai người thù ghét nhau, thực không phải là phúc cho xã tắc vậy. Họ Lạn càng nhường, mà họ Liêm thì không biết lượng tình; Họ Liêm càng kiêu mà họ Lạn thì không dám đánh gãy cái kiêu khí ấy; ở triều có việc mà không bàn với nhau, làm tướng có nguy mà không cứu nhau, tôi lấy làm lo cho đại vương lắm. Vậy tôi xin nối cái giao tìnhcủa Liêm, Lạn để giúp đại vương.

    Vua Triệu khen phải. Ngu Khanh bèn đến yết kiến Liêm Pha, trước hết hãy ca tụng công lớn của Liêm Pha, Liêm Pha mừng lắm, Ngu Khanh nói:

    - Kể công thì không ai bằng tướng quân thật, nhưng kể đến lượng thì chỉ có Lạn quân mới có.

    Liêm Pha cau mặt nói rằng:

    - Nó là đứa hèn nhát, nhờ miệng lưỡi mà được công danh, có gì là lượng!

    Ngu Khanh nói:

    - Lạn quân không phải là người hèn nhát đâu. Lạn quân chỉ nghĩ đến việc lớn đó thôi!

    Rồi thuật lại lời của Tương Như bảo bọn xá nhân cho Liêm Pha nghe và nói:

    - Tướng quân không gởi thân ở nước Triệu thì thôi, nếu muốn gởi thân ở nước Triệu, mà hai vị đại thần, một người nhường, một người kiêu, tôi e cái tiếng tốt kia sẽ không về phần tướng quân vậy.

    Liêm Pha cả thẹn nói rằng:

    - Nếu tiên sinh không nói, thì tôi không bao giờ được nghe điều lỗi của tôi. Tôi thực ké Lạn quân xa lắm!

    Rồi nhờ Ngu Khanh đến nói ý trước với Tương Như, lại tự để trần tay áo và cầm roi đi đến cửa họ Lạn, tạ rằng:

    - Bỉ nhân chí lượng hẹp hòi, không biết rằng tướng quốc khoan dung đến thế, dù chết cũng không đủ chuộc tội vậy.

    Rồi cứ quì mãi ở giữa sân, Tương Như chạy ra dắt dậy nói rằng:

    - Hai ta sánh vai thờ chúa, làm tôi xã tắc, tướng quân biết long cho nhau đã là may mắn, còn tạ làm chi.

    Liêm Pha nói:

    - Tôi tính thô bạo, đội ơn tướng quốc bao dung, nghĩ lại lấy làm hổ thẹn quá!

    Nói rồi nắm tay Tương Như mà khóc, Tương Như cũng khóc. Liêm pha nói:

    - Từ nay xin kết làm bạn sống chết, dù có cắt cổ cũng không dám đổi lòng!

    Pha sụp xuống lạy trước, Tương Như lạy đáp lại, rồi đặt tiệc khoản đãi, cùng uống đến sáng mới thôi. Vua Triệu nghĩ công Ngu Khanh, ban cho trăm dật hoàng kim, cử làm chức thượng khanh.

    Bấy giờ đại tướng quân nước Tần là Bạch khởi, đánh phá quân Sở, lấy Sính đô, đặt làm Nam quận, va Sở thua chạy. Đại tướng Tần là Ngụy Nhiễm lại đánh lấy Kiềm trung, đặt ra quận Kiềm trung. Sở càng suy kém, bèn sai thái phó Hoàng Yết đưa thái tử Hùng Hoàn vào làm con tin ở Tần để cầu hòa. Bọn Bạch Khởi lại đánh Ngụy, Ngụy thua to, phải dâng ba thành để cầu hòa. Tần phong Bạch Khởi làm Võ An quân. Không bao lâu Tần lại đánh Ngụy, lấy được đất Nam dương, đặt ra quận Nam dương, vua Tần lấy Ngụy Nhiễm gọi là Nhương hầu. Tần lại đánh Hàn, vây thành Ô dư, vua Hàn sai sứ sang Triệu cầu cứu, vua Triệu hỏi quần thần có nên cứu Hàn không, Lạn Tương Như, Liêm Pha, Nhạc Thừa đều nói thành Ô dư đường hiểm và hẹp, e cứu không tiện. Bình Nguyên quân nói:

    - Hàn, Triệu như môi răng che giữ nhau, không cứu thì khi quân Tần quay về sẽ đánh Triệu ngay.

    Triệu Xa lặng yên không nói gì. Vua Triệu hỏi, Xa thưa rằng:

    - Đường hiểm và hẹp, ví như hai con chuột đánh nhau ở trong hang, bên nào tướng mạnh là được.

    Vua Triệu bèn kén năm vạn quân, sai Triệu Xa đốc suất đi cứu Hàn. Quân ra Khỏi cửa đông Hàm đan ba mươi dặm, Triệu Xa sai đóng dinh trại lại, xếp đặt đã xong ra lệnh rằng:

    - Kẻ nào nói đến việc quân thì chém.

    Quân Triệu đóng cửa nằm yên, trong quân im lặng như tờ. Quân Tần reo hò tiến binh, tiếng như sấm sét, trong thành Ô dư ngói trên nóc nhà đều rung động, một tên quân đến báo khí thế quân Tần như thế, Triệu Xa cho là phạm lệnh, lập tức đem chém để rao quân, rồi lưu lại đó hai mươi tám ngày không đi, ngày ngày sai đắp thêm hào lũy để làm kế giữ vững. Tướng Tần là Hồ Thương nghe có quân Triệu đến cứu Hàn mà không thấy đến, sai người dò thám, thám mã về báo rằng: Triệu quả có đem quân cứu nhưng đại tướng là Triệu Xa ra khỏi Hàm đan ba mươi dặm liền đóng trại không tiến nữa. Hồ Thương sai sứ bảo Triệu Xa rằng:

    - Tần đánh Ô dư,sắp hạ thành đến nơi, tướng quân có đánh thì lại ngay.

    Triệu Xa nói:

    - Quốc vương tôi gì thấy nước láng giềng cáo cấp, sai tôi phòng bị, khi nào tôi lại dám đánh nhau với Tần.

    Nói xong sai dọn cơm rượu hậu đãi sứ giả rồi cho đi xem các đồn lũy. Sứ giả về báo, Hồ Thương cả mừng nói rằng:

    - Quân Triệu cách nước mới ba mươi dặm mà đã đắp thêm lũy để giữ, không có ý đánh nhau, thành Ô dư tất về tay ta.

    Vì vậy không để ý phòng Triệu, chỉ một mặt chuyên đánh Hàn. Triệu Xa đã cho sứ Tần về, liệu chừng ba ngày sứ mới về đến dinh quân Tần, bèn hạ lệnh kéo một vạn quân kỵ bắn giỏi, quen đánh trận, làm tiên phong, đại quân theo sau, ngậm tăm cuốn giáp đi luôn ngày đêm, vừa một ngày một đêm thì đến cõi đất Hàn, cách thành Ô dư mười lăm dặm, lại lập quân lũy. Hồ Thương cả giận, lưu một nữa vây thành, còn đem hết đi dón đánh. Dinh Triệu có một người tên là Hứa Lịch, viết một cái thẻ, trên có hai chữ “Xin can” quỳ dâng trước dinh. Triệu Xa lấy làm lạ, sai bỏ cái lệnh cấm nói việc binh trước kia, đòi vào hỏi rằng*

    - Mày muốn nói gì?

    Hứa Lịch nói:

    - Người Tần không ngờ quân Triệu đến cho nên hăng máu muốn đánh, nguyên súy tất phải lập thế trận cho vững để phòng xung đột, không thì tất thua.

    Triệu Xa theo lời, liền truyền lệnh bày trận để đợi. Hứa Lịch lại nói:

    - Binh pháp nói ai được địa lợi thì thắng. Hình thế Ô dư chỉ có Bắc sơn là rất cao mà tướng Tần không biết chiếm giữ, còn để đó chờ nguyên súy, nguyên súy nên chiếm ngay lấy. Triệu Xa lại theo lời, liền sai Hứa Lịch dẫn một vạn quân, đóng giữ trên đỉnh Bắc sơn, phàm quân Tần hành động gì, chỉ trông thoáng là biết hết. Quân Hồ Thương đến, chực tranh lấy núi, nhưng htế núi chênh vênh, quân Tần có mấy tên to gan dám trèo lên, đều bị quân Triệu lăn đá xuống đánh bị thương. Hồ Thương gầm thét cả giận, chỉ huy quân tướng tìm đường lên, bỗng nghe tiếng trống đánh vang, Triệu Xa dẫn quân xông đến, Hồ Thương chia quân chống cự, Triệu Xa đem quân bắn giỏi chia làm hai đội, tả hữu đều năm nghìn người, nhằm quân Tần bắn tràn vào; Hứa Lịch lại dồn vạn quân từ trên đỉnh núi thừa thế kéo xuống, tiếng reo hò như sấm, trước sau giáp đánh, chém giết quân Tần như trời long đất lở. Quân Tần không nơi trốn tránh, bỏ chạy tán loạn. Hồ Thương vì ngựa què suýt bị quân Triệu bắt được, may gặp binh húy là Tư Ly dẫn quân chợt đến, liều chết cứu ra. Triệu Xa duổi theo đến năm mươi dặm, quân Tần đóng lại không được, phải bỏ chạy về phía tây, bèn giải được vây cho thành Ô dư. Vua Hàn thân hành đến khao quân, đưa thư tạ ân vua Triệu. Vua Triệu phong Xa làm Mã Phục quân, ngang hang với Lạn Tương Như và Liêm Pha. Triệu Xa tiến cử Hứa Lịch, vua Triệu cho làm quốc úy. Con trai Triệu Xa là Triệu Quát, từ bé thích nói binh pháp, những sách lục thao tam lược gia truyền đều xem một lần là thuộc hết, thường cùng cha bàn việc binh, chỉ trời vạch đất, có ý không coi ai ra gì, dẫu Triệu Xa cũng không vặn bẻ được điều nào. Người mẹ mừng rằng:

    - Có con như thế có thể nói là cử tướng lại xuất tướng vậy.

    Triệu Xa cau mặt không vui nói rằng:

    - Quát không thể làm tướng được, nước Triệu không dung Quát là phúc cho xã tắc.

    Người mẹ nói:

    - Quát học hết sách của cha, khi nghị luận quân sự thì cho thiên hạ không ai bằng mình, nay ông lại bảo nó không làm tướng được là cớ gì?

    Triệu Xa nói:

    - Quát tự nói là thiên hạ không ai bằng mình, chính vì thế mà không thể dùng làm tướng được. Việc binh là việc chết sống, phải lo lắng sợ hãi, rộng hỏi mọi người, còn e có điều sai sót, mà Quát cho là dễ dàng; nếu giữ được binh quyền, thì chắc cứ tự ý làm, điều phải kế hay không sao lọt vào tay được, như vậy thì chắc là hỏng việc.

    Người mẹ đem những lời nói ấy bảo Quát.

    Quát nói:

    - Cha tuổi già sinh nhút nhát nên mới nói thế!

    Hai năm sau, Triệu Xa đau nặng, dặn Quát rằng:

    - “Binh chiến nguy”, người xưa vẫn răn như thế. Cha mày làm tướng mấy năm trời, ngày nay mới mừng khỏi cái nhục thua trận, chết cũng được nhắm mắt. Mày không có tài làm tướng, chớ nên nhận càng chức ấy, làm hại cửa nhà.

    Lại dặn người mẹ Quát rằng:

    - Sau này nếu vua Triệu có vời Quát làm tướng, bà nên kể lại lời nói của tôi mà từ chối. Mất quân nhục nước, tội ấy to lắm đấy!

    Nói xong thì mất. Vua Triệu nghĩ công của Xa, cho Quát được nối chức Mã Phục quân.​
     
  2. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,685
    Đông Chu Liệt Quốc
    Tác giả: Phùng Mộng Long
    Chương 97: Phạm chuy gỉa chết trốn sang tần tu giả thoát tội bỏ về nguỵ

    Dịch giả: Nguyễn Đỗ Mục.
    Nguồn: NXB Văn Học

    Phạm Chuy tên tự là Thúc, quê ở Đại Lương, có tài bàn trời nói đất, có chí định nước yên dân, muốn làm quan với vua Nguỵ, nhưng vì nhà nghèo không có ai tiến dẫn, bèn trước đến xin theo hầu quan trung đại phu là Tu Giả, được làm xá nhân. Trước kia vì Tề Mân vương vô đạo. Nhạc Nghị họp bốn nước cùng đánh Tề, Nguỵ cũng phái quân gíup Yên; đến khi Điền Đan phá được quân Yên mà khôi phục nước Tề, Tương vương lên ngôi, vua Nguỵ sợ Tề báo thù, bèn cùng nước Tề, Tương vương lên ngôi, vua Nguỵ sợ Tề báo thù, bèn cùng tướng quốc là Nguỵ Tề bàn kế, sai Tu Gỉa sang Tề thông hiếu. Giả đem Phạm Chuy đi theo. Tương vương hỏi Tu Giả rằng :

    - Xưa kia tiên vương ta cùng Nguỵ hợp quân đánh Tống thực là đồng thanh đồng khí, vậy mà khi người Yên tuyệt diệt nước Tề, Nguỵ thực có dự vào, quả nhân nghĩ cái thù của tiên vương, đang còn nghiến răng đau ruột. Nay Nguỵ lại đem lời nói suông đến dụ quả nhân, Nguỵ thực là phản phúc vô thường, làm sao quả nhân dám tin ?

    Tu Giả không biết đáp thế nào, Phạm Chuy đứng bên thay lời mà nói rằng :

    - Đại vương nói sai rồi. Trước kia quả nhân theo Tề đánh Tống là vâng mệnh quý quốc đó. Vốn hẹn với nhau chia ba nước Tống, thế mà quý quốc bội ước, một mình lấy cả đất đai nước Tống. Không những thế, mà lại còn đem quân đánh phá nước chúng tôi. Đó là một điều thất tín của nước Tề. Chư hầu sợ Tề kiêu bạo, nên phải thân cận với Yên; trận đánh ở Tế Tây, cả năm nước cùng chung một kẻ thù, có một mình gì nước chúng tôi ? Nước chúng tôi không nỡ làm quá, nên không dám theo quân Yên đến Lâm Tri, đó là tệ ấp có lễ với nước Tề vậy. Nay đại vương anh võ hơn đời, báo thù rửa hổ, rạng mở nền vua, quả nhân cho là cái công nghiệp to tát của Hoàn, Uy tất lại lập nên, có thể che được cái lỗi của Mãn vương mà để phúc lại đến vô cùng, cho nên sai hạ thần là Gỉa này đến nối lại tình giao hiếu ngày trước, e rằng cái dấu xe đổ của Mãn vương lại thấy ở ngày nay vậy!

    Vua Tề ra ý sợ, đứng lên tạ rằng :

    - Đó là lỗi của quả nhân !

    Liền hỏi Tu Giả người ấy là ai.

    Tu Giả nói :

    - Đó là xá nhân của hạ thần tên là Phạm Chuy.

    Vua Tề ngoảnh nhìn hồi lâu, rồi sai đưa Tu Giả ra ngoài công quán, cung đãi rất hậu; lại sai người ngầm bảo Phạm Chuy rằng :

    - Quả nhân mến đại tài của tiên sinh, muốn lưu tiên sinh ở Tề dùng làm khách khanh, mong rằng tiên sinh chớ từ chối.

    Phạm Chuy từ rằng :

    - Hạ thần với sứ giả cùng đi mà không cùng về là bất tín vô nghĩa, thì còn làm người thế nào được nữa !

    Vua Tề lại càng yêu trọng, sai người đem cho Phạm Chuy mười cân hoàng kim và trâu, rượu. Chuy cố từ chối không nhận, sứ giả hai ba lần tỏ bày cái ý kính mến của vua Tề, nhất định không chịu trở về, Chuy bất đắc dĩ phải nhận trâu, rượu mà trả lại vàng. Sứ giả lấy làm kính phục rồi ra về.

    Nào ngờ có người đã đem việc ấy nói với Tu Giả, Tu Giả đòi Phạm Chuy đến hỏi rằng :

    - Sứ Tề đến làm gì thế ?

    Phạm Chuy nói :

    - Vua Tề đem mười cân vàng và trâu, rượu cho tôi, tôi không dám nhận, nài ép mãi, tôi chỉ lấy có trâu, rượu mà thôi.

    Tu Gỉa nói :

    - Vì cớ gì mà vua Tề lại cho nhà ngươi ?

    Chuy nói :

    - Tôi không biết, hoặc giả thấy tôi là người tả hữu của đại phu, nên kính đại phu mà đoái đến tôi chăng !

    Tu Giả nói :

    - Lễ vật không đem cho sứ giả mà lại chỉ cho riêng nhà ngươi, tất là nhà ngươi có tư thông gì với Tề ?

    Phạm Chuy nói :

    - Vua Tề trước có sai sứ mời tôi ở lại làm khách khanh, tôi cự tuyệt, lấy điều tín nghĩa tự thề, khi nào tôi lại dám tư thông !

    Tu Gỉa càng đem lòng ngờ. Sứ mệnh đã xong, Tu Giả cùng Phạm Chuy trở về Nguỵ. Giả bèn nói với tướng quốc Nguỵ Tề rằng :

    - Vua Tề muốn lưu xá nhân của tôi là Phạm Chuy làm khách khanh, lại tặng vàng và trâu, rượu, tôi ngờ là Chuy có đem việc kín trong nước bảo cho Tề biết, nên mới được vua Tề ban cho hậu như thế !

    Nguỵ Tề cả giận, bèn họp tân Khách, sai người bắt Phạm Chuy để tra hỏi.

    Chuy đến phủ phục ở dưới thềm. Nguỵ Tề thét hỏi rằng :

    - Mày đem việc mật mà nói với nước Tề phải không ?

    Phạm nói :

    - Khi nào tôi dám thế!

    Nguỵ Tề hỏi :

    - Nếu mày không tư thông gì với Tề, sao vua Tề lại muốn lưu mày lại ?

    Chuy nói :

    - Việc lưu lại quả có, nhưng Chuy này không theo.

    Nguỵ Tề nói :

    - Vậy thế vàng và trâu, rượu, sao mày lại nhận ?

    Chuy nói :

    - Sứ giả cứ ép mãi, sợ phất ý vua Tề, bất đắc dĩ tôi chỉ nhận có trâu, rượu, còn mười cân vàng thực sự tôi không lấy.

    Nguỵ Tề hầm hừ rồi hét to rằng :

    - Thằng giặc bán nước lại còn già mồm cãi, dù vua Tề chỉ cho trâu, rượu cũng không phải là không có cớ !

    Bèn gọi ngục tốt trói Phạm Chuy lại, bảo đánh đủ một trăm roi, bắt phải cung nhận tội thông Tề.

    Phạm Chuy nói :

    - Tôi thực không có sự tư thông, thì biết cung xứng điều gì ?

    Nguỵ Tề càng giận nói rằng :

    - Đánh chết thằng này cho ta, chớ để lại cái mầm tai hoạ !

    Ngục tốt cứ lệnh truyền, đánh lấy đánh để. Chuy bị đánh gãy cả răng, máu chảy đầy mặt, đau quá không chịu được, gào khóc kêu oan. Các tân khách thấy tướng quốc đang cơn cả giận, không dám khuyên can. Nguỵ Tề sai lính hầu một mặt dùng chén lớn rót rượu uống, một mặt sai ngục tốt giơ roi đánh mãi từ giờ thìn đến giờ mùi. Phạm Chuy bị đánh, khắp mình thâm tím, máu thịt dây cả ra đất; xương sườn cũng bị gãy, đánh "cắc" một tiếng. Chuy kêu rú lên rồi chết ngất đi. Lính hầu bẩm là Phạm Chuy chết rồi. Nguỵ Tề chạy xuống nhìn xem, thấy Chuy gãy răng và xương sườn, khắp mình không còn chỗ nào không có vết roi, nằm thẳng trong vũng máu, không cựa quậy, thì chỉ mặt mà mắng rằng :

    - Thằng giặc bán nước, chết thực đáng kiếp nhé! Đáng để làm gương cho kẻ sau !

    Rồi sai ngục tốt lấy mê cói cuốn chặt cái thây lại, khiêng để trong chuồng xí, bảo tân khách đại tiện, tiểu tiện lên trên, chớ để cho nó được làm con ma trong sạch. Chẳng mấy chốc trời đã tối. Phạm Chuy mạng còn chưa tuyệt, đã chết mà lại sống lại, từ trong mê cói giương mắt nhìn trộm, chỉ thấy một tên lính đứng canh giữ bên cạnh. Phạm Chuy thở dài một tiếng. Tên lính nghe thấy vội chạy lại xem, Phạm Chuy bảo rằng :

    - Tôi bị thương nặng thế này, dẫu có tạm tỉnh cũng không sao sống được, nếu anh có cách nào khiến cho tôi được chết ở nhà tôi, để được khâm liệm, thì nhà tôi có vài lạng vàng xin biếu cả anh để tạ ơn.

    Tên lính canh tham lợi, bảo rằng :

    - Vậy thì nhà ngươi lại cứ làm như chết rồi, ta sẽ vào bẩm.

    Nguỵ Tề và tân khách lúc ấy đều đã say quá, tên lính vào bẩm rằng :

    - Người chết ở chuồng xí đã có mùi hôi thối khó chịu, xin cho khiêng bỏ đi.

    Tân khách đều nói :

    - Phạm Chuy dẫu có tội, tướng quốc xử trị như thế cũng đã đủ rồi.

    Nguỵ Tề nói :

    - Quẳng bỏ nó ra ngoài bãi, để cho diều ăn hết thịt nó đi !

    Đoạn tân khách đều tan về. Nguỵ Tề cũng trở vào nhà trong. Tên lính canh chờ đến lúc hoàng hôn, người vắng, bèn cõng Phạm Chuy về nhà, vợ con Chuy trông thấy xiết bao đau xót! Phạm Chuy sai lấy vàng tạ ơn người lính, lại sai bỏ cái mê cói ra, giao cho y, bảo đem quăng ra ngoài bãi, để che mắt mọi người. Tên lính canh đi rồi, vợ con Chuy rửa bỏ máu và thịt nát ra, rịt bọc những vết thương lại, rồi đem cơm rượu cho Chuy ăn uống.

    Phạm Chuy bảo vợ rằng :

    - Nguỵ Tề căm giận ta lắm, dẫu biết ta chết, nhưng còn có lòng ngờ, ta về được là nhân lúc nó say. Ngày mai nó tìm thây ta không thấy, tất đến nhà tìm, như vậy thì ta sẽ không sống được. Ta có người anh em kêt nghĩa là Trịnh An Bình, nhà ở ngõ hẹp trong cửa tây, nàng nên nhân lúc ban đêm đưa ta đến đó, chớ nên tiết lộ, đợi hơn một tháng ta khỏi đau rồi, sẽ trốn đi nơi khác. Sau khi đã đem ta đi rồi, trong nhà nên phát tang coi như là ta đã chết thật, để tuyệt cái lòng ngờ của Nguỵ Tề.

    Người vợ theo lời, sai tên đầy tớ đến trước báo cho Trịnh An Bình. Trịnh An Bình đi đến ngay nhà Chuy thăm xem, rồi cùng người nhà cõng Chuy đem về nhà. Hôm sau Nguỵ Tề quả nhiên còn sợ Phạm Chuy sống lại, sai người đến xem chỗ quãng thây, tên lính canh về báo là cái thây quăng ở bãi vắng, giờ chỉ còn có cái mê cói không, chắc là bị chó tha đi hết rồi. Nguỵ Tề lại sai người đến nhà xem, thấy cả nhà Chuy đều để trở, bấy giớ mới yên lòng.

    Lại nói Phạm Chuy ở nhà Trịnh An Bình rịt thuốc dần dần bình phục. An Bình lại cùng Pha5m Chuy đến ở giấu trong núi Cụ Thứ. Phạm Chuy đổi họ tên là Trường Lộc, người trong núi không ai biết. Quá nửa năm có quan yết giả nước Tần là Vương Kê vâng mệnh vua Tần sang sứ nước Nguỵ, ở trong công quán, Trịnh An Bình giả làm tên dịch tốt vào hầu Vương Kê, ứng đối nhanh nhẹn, Vương Kê yêu lắm, có hỏi riêng nước Nguỵ còn có ai là hiền tài mà chưa ra làm quan không. An Bình nói :

    - Ngưoì hiền tài thực hiếm có lắm, trước có Phạm Chuy là người có nhiều mưu trí, nhưng bị tướng quốc đánh đến chết...

    Nghe nói chưa xong, Vương Kê đã than rằng :

    - Tiếc thay, con người ấy không đến nước Tần, không được tỏ cái tài lớn ra với đời !

    An Bình nói :

    - Nay trong xóm tôi có Trương Lộc tiên sinh, tài chẳng kém gì Phạm Chuy, ngài có muốn được thấy người ấy không ?

    Vương kê nói :

    - Đã có người ấy, sao không mời đến đây họp mặt cùng ta ?

    An Bình nói :

    - Người ấy có kẻ thù trong nước, không dám đi ban ngày. Nếu không thì người ấy đã làm quan nước Nguỵ từ lâu rồi, không phải đợi đến ngày nay.

    Vương Kê nói :

    - Đêm đến cũng được, ta xin sẵn lòng chờ đợi.

    An Bình bèn trở về, bảo Trương Lộc cũng cải trang làm tên dịch tốt, đêm khuya đến công quán yết kiến Vương Kê. Vương kê hỏi qua về đại thế thiên hạ, Phạm Chuy bày tỏ rõ ràng như ở trước mắt.

    Vương Kê mừng rằng :

    - Tôi biết tiên sinh không phải là người thường, tiên sinh có thể cùng tôi qua chơi nước Tần không ?

    Phạm Chuy nói :

    - Tôi có kẻ thù, không thể ở yên trong nước được, nếu ngài có thể đem tôi đi theo, thực là điều tôi rất mong.

    Vương Kê tính đốt ngón tay nói rằng :

    - Tôi còn năm ngày nữa thì việc đi sứ xong. Đến kỳ, tiên sinh nên đợi tôi ở gò Tam Đình vào chỗ vắng người, tôi sẽ đưa tiên sinh lên xe cùng đi.

    Qúa năm ngày, Vương Kê từ biệt vua Nguỵ, quần thần đều đi tiễn ra ngoài thành rồi mới trở về. Vương Kê ruổi xe đến gò Tam Đình, bỗng thấy trong rừng có hai người chạy ra, tức là Trương Lộc và Trịnh An Bình. Vương Kê mừng quá, như bắt được của quí, mời Trương Lộc và An Bình lên xe cùng đi, dọc đường trò chuyện rất hợp ý nhau, nên thân yêu nhau lắm. Không mấy ngày đã đến địa giới nước Tần. Khi vào đến Hồ Quan, bỗng thấy đằng trước có bụi bay mù, một đoàn xe ngựa từ phía tây đi đến. Phạm Chuy hỏi đó là ai. Vương Kê nhận ra được đội tiền khu, nói đó là thừa tướng Nhương Hầu đi kinh lý các quận ấp ở phía đông. Nguyên Nhương Hầu tên là Nguỵ Nhiễm, là em trai Tuyên Thái hậu, mà thái hậu lại là con gái họ Thiên nước Sở và là mẹ Chiêu Tương vương. Khi Chiêu Tương vương lên ngôi, vì còn bé nên thái hậu ra triều quyết định mọi việc chính, dùng em trai là Nguỵ Nhiễm làm thừa tướng, phong làm Nhương hầu, em thứ là Thiên Nhung cũng phong là Hoa Dương quân, đều coi việc nước. Đến sau Chiêu Tương vương đã lớn tuổi, lòng sợ thái hậu, liền phong em trai là công tử Khôi làm Kinh Dương quân, công tử Thị làm Cao Dương quân, muốn để chia quyền của họ Thiên, trong nước gọi là Tứ Qúi, nhưng tôn quí nhất là thừa tướng. Mỗi năm thừa tướng lại thay vua đi khắp quận quốc, điều tra quan lại, xem xét thành trì, điểm duyệt xe ngựa, yên vỗ nhân dân, đó là theo lệ thường, nên lúc ấy Vương Kê trông thấy đội tiền khu liền nhận ra ngay được.

    Phạm Chuy nói :

    - Tôi nghe Nhương hầu chuyên quyền ở nước Tần, ghen người hiền, ghét kẻ tài, không muốn dung tân khách các nước, cho nên tôi sợ bị nhục, vậy xin hãy ẩn vào trong hòm để lánh mặt.

    Một lát Nhương hầu đến, Vương Kê xuống xe đón chào, Nhương hầu cũng xuống xe đáp lễ và yên ủi rằng :

    - Ngài thực đã khó nhọc vì việc nước !

    Rồi cùng đứng ở trước xe nói chuyện. Nhương hầu hỏi Quan Đông gần đây có việc gì.

    Vương Kê đáp không có, Nhương hầu mắt nhìn vào trong xe hỏi rằng :

    - Ngài có đem người khách chư hầu nào cùng về đấy chăng ?

    Bọn ấy chỉ lấy miệng lưỡi du thuyết nước người, để cầu giàu sang, đều không có thực dụng đâu.

    Vương Kê đáp rằng :

    - Tôi đâu dám đeo theo bọn ấy về !

    Khi Nhương hầu từ biệt đi rồi, Phạm Chuy ở trong hòm xe chui ra, toan xuống xe chạy.

    Vương Kê nói :

    - Thừa tướng đi rồi, tiên sinh có thể yên lòng cùng đi với tôi.

    Phạm Chuy nói :

    - Tôi có nhìn trộm mặt Nhương hầu, thấy mắt trắng dã mà trông không thẳng, con người như vậy thì tính hay đa nghi mà hiểu việc chậm. Lúc nãy Nhương hầu nhìn vào trong xe là đã có ý nghi rồi, nhất thời chưa sục tìm ngay, nhưng lâu tất lấy làm hối, hối tất sẽ trở lại để tìm, chi bằng tôi tránh trước là hơn.

    Rồi bảo Trịnh An Bình cùng chạy lên trước, xe của Vương Kê đi sau. Được chừng mười dặm, sau lưng thấy có tiếng ngựa chạy, nhìn xem thì thấy có hai mươi tên kỵ binh đương từ phía đông phi ngựa đến, đuổi theo xe Vương Kê, nói vâng mệnh thừa tướng, sợ quan đại phu có mang kẻ du khách nào về theo, nên phải trở lại để khám xét.

    Rồi cùng khám xét khắp xe của Vương Kê, thấy quả không có người ngoại quốc nào, mới quay đi. Vương Kê than rằng :

    - Trương tiên sinh quả là người có trí, ta thật không bằng !

    Liền giục xe đi mau, chừng năm sáu dặm, thì gặp Trương Lộc và Trịnh An Bình, mời lên xe cùng đi vào Hàm Dương. Vương Kê vào triều tiến vua Tần, phục mệnh xong, liền nói :

    - Nước Nguỵ có một người tên là Trương Lộc, trí mưu hơn người, thực chất là bậc kỳ tài trong thiên hạ; người ấy có nói với hạ thần về cái nguy cơ của nước Tần, và bảo có thuật làm cho yên được; nhưng tất phải đến đây mà giải bày ở trước mặt đại vương mới được, cho nên hạ thần đem theo cùng về.

    Vua Tần nói :

    - Các khách chư hầu thường hay nói quá cao; nhưng mà ngươi đã mang về, thì hãy để cho ở trong khách xá.

    Vương Kê vâng mệnh đưa Trương Lộc đến ở khách xá, ròng rã hơn một năm không thấy vua Tần cho triệu vào. Một hôm Phạm Chuy bỗng ra chơi ngoài chợ, thấy Nhương hầu đương trưng binh đi đánh.

    Phạm Chuy hỏi riêng rằng :

    - Thừa tướng định đi đánh nước nào ?

    Có một ông già nói rằng đó là muốn đánh đất Cương Thọ của Tề. Phạm Chuy hỏi quân Tề có phạm vào đất Tần chăng ?

    Ông già nói :

    - Không.

    Phạm Chuy nói :

    - Tần cùng Tề đông tây cách xa nhau, khoảng giữa có Hàn, Nguỵ ngăn cách. Tề không phạm Tần, sao Tần lại vượt xa để đánh Tề ?

    Ông già dẫn Phạm Chuy đến chỗ vắng nói rằng :

    - Đánh Tề không phải là ý vua Tần. Chỉ vì Đào Sơn ở trong phong ấp của thừa tướng, mà Cương Thọ ở gần Đào Sơn, cho nên thừa tướng muốn sai Võ An quân đem quân đi đánh lấy, để mở rộng phong ấp của mình đó thôi !

    Phạm Chuy trở về khách xá, thảo một bức thư dâng lên vua Tần, đại ý nói :

    "Kẻ bề tôi gửi trọ (người ngoại quốc đến ở nhờ nước Tần) là Trương Lộc dám dâng lời tâu này, tội thật đáng giết. Tôi nghe nói rằng minh quân trị nước, người có công thì thưởng, kẻ có tài thì cho làm quan, công to thì lộc hậu, tài cao thì chức trọng, cho nên kẻ bất tài không dám lạm chức mà người có tài không đến bị bỏ sót. Tôi nay đợi mệnh ở hạ xá đã hơn một năm; nếu nhà vua cho tôi là có thể dùng được, xin cho tôi được chút thì giờ để giải bày những điều tôi muốn nói; nhược bằng nhà vua cho tôi là vô dụng thì lưu tôi lại làm gì ? Quyền nói là ở tôi, quyền nghe là ở nhà vua, nếu tôi nói mà không đúng, thì bấy giờ sẽ xin chịu tội. Vậy chớ nên vì cớ khinh tôi mà khinh cả người tiến cử tôi vậy !"

    Vua Tần đã quên Trương Lộc, khi thấy bức thư, liền cho đòi đến ly cung (cung làm riêng ở một nơi) triều kiến. Vua Tần chưa đến. Phạm Chuy đến trước, trông thấy xe ngựa vua Tần đang đi đến, giả ý không biết, cố ý đi vào trong một cái ngõ. Kẻ hoạn giả đi trước thét đuổi nói :

    - Có vua đến.

    Phạm Chuy cố ý nói :

    - Tần chỉ có thái hậu và Nhương hầu, làm gì có vua !

    Nói rồi đi thẳng, không kể đến lời kẻ hoạn giả. Đang lúc cãi nhau, vua Tần đã đi đến, hỏi kẻ hoạn giả vì cớ gì lại cãi nhau với khách, kẻ hoạn giả thuật lại lời nói của Phạm Chuy. Vua Tần cũng không giận bèn đón vào nội cung, đãi làm thượng khách. Phạm Chuy nhún nhường. Vua Tần đuổi bỏ các người tả hữu ra ngoài, quì xuống mà nói rằng :

    - Tiên sinh có điều gì dạy bảo quả nhân ?

    Phạm Chuy nói :

    - Dạ, dạ !

    Một lát, vua Tần lại quì xuống mà nói như trước. Phạm Chuy lại "dạ, dạ" như thế đến ba lần.

    Vua Tần nói :

    - Tiên sinh không dạy bảo quả nhân, có lẽ cho quả nhân là không đủ cùng nói chăng ?

    Phạm Chuy nói :

    - Không dám thế, xưa kia Lã Thượng câu ở sông Vị, khi gặp Văn vương chỉ nói một lời mà Văn vương tôn là Thượng phụ, tin dùng mưu kế, nhờ đó diệt nhà Thương mà có thiên hạ; còn Cơ Tử, Tỉ Can, là thân thích của vua Trụ, hết lời can ngăn mà vua Trụ không nghe, rồi người bị tù, người bị chết, vua Trụ thì mất nước, vì đó mà nhà Thương diệt vong. Điều đó không có gì lạ, chỉ là tin với không tin mà thôi. Lã Thượng dẫu là người xa mà Văn vương tin dùng, nên vương nghiệp nhà Chu, mà Lã Thượng cũng được phong hầu truyền mãi đời đời; Cơ Tử, Tỉ Can dẫu là thân thích mà không được vua Trụ tin, cho nên thân không khỏi cái chết, cái nhục mà lại không cứu được nước. Nay tôi là kẻ gửi trọ, ở vào địa vị người dưng, mà những điều muốn nói thì lại là quốc gia đại kế, hoặc quan hệ đến tình cốt nhục của người ta, không nói thắm thiết thì không bổ cứu gì cho Tần, mà muốn nói thâm thiết, thì cái hoạ Cơ Tử, Tỉ Can e sẽ theo sau, cho nên nhà vua ba lần hỏi mà tôi không dám đáp, là vì tôi chưa xét được lòng vua có tin hay không tin.

    Vua Tần lại quì xuống mà nói rằng :

    - Tiên sinh nói gì thế ? Qủa nhân hâm mộ đại tài của tiên sinh, cho nên đuổi bỏ những kẻ tả hữu ra ngoài, để được chuyên nghe lời dạy. Phàm việc đáng nói thì trên từ thái hậu, dưới đến đại thần, xin tiến sinh cứ nói hết, không can gì mà phải giấu giếm.

    Vua Tần sở dĩ nói câu ấy, là vì lúc đi vào lối ngõ, nghe tên hoạn giả thuật lời Phạm Chuy nói "Tần chỉ có thái hậu và Nhương hầu chứ không nghe có vua", nên trong lòng nghi hoặc, vì thế mới nóng lòng xin Phạm Chuy dạy bảo cho. Mà Phạm Chuy thì lại e buổi đầu vào yết kiết vua Tần, nếu vạn nhất có nói câu nào không hợp ý vua Tần thì sẽ tuyệt đường tiến ngôn về sau. Phương chi tả hữu tất có nhiều kẻ nghe trộm, e họ truyền nói đi, tất sẽ gây vạ cho mình, nên mới đem sự tình bên ngoài nói qua một lượt để mở đầu câu chuyện, rồi mới thưa rằng :

    - Nay đại vương cho thần được nói hết, đó chính là ý muốn của thần.

    Nói rồi, sụp xuống lạy, vua Tần cũng lạy đáp lại. Đoạn ai ngồi vào chỗ nấy. Phạm Chuy nói :

    - Đất Tần hiểm trở không nước nào bằng, giáp binh cường tráng cũng không nước nào địch nổi, vậy mà Tần muốn kiêm tính các nước không xong, nghiệp bá vương không thành được, há chẳng phải là đại thần nước Tần có mưu tính sai lầm điều gì chăng ?

    Vua Tần cung kính hỏi :

    - Xin nói cho biết chỗ sai lầm ?

    Phạm Chuy nói :

    - Tôi nghe Nhương hầu sắp vượtHàn, Nguỵ mà đánh Tề, việc ấy sai lầm. Tề cách Tần rất xa, lại có Hàn, Nguỵ ngăn cách, đem ít quân đi thì không có đủ làm hại Tề, đem nhiều quân đi thì làm hại Tần trước. Trước khi Nguỵ vượt qua Triệu mà đánh Trung Sơn, lấy được ngay đất ấy nhưng liền đó lại bị Triệu chiếm mất. Là cớ sao ? Là vì Trung Sơn gần Triệu mà xa Nguỵ vậy. Nay đánh Tề mà không được là cái nhục lớn cho Tần, mà cho dù có đánh được thì cũng chỉ lợi cho Hàn, Ngụy chứ Tần chẳng có lợi gì ! Chi bằng ngày nay nên kết giao nước xa mà chuyên đánh nước gần. Kết giao nước xa để lìa tình thân của người, chuyên đánh nước gần để rộng đất cõi của ta; từ gần đến xa, như tầm ăn lá, lấy hết được cả thiên hạ cũng chẳng khó gì.

    Vua Tần lại hỏi :

    - Cách kết giao nước xa, chuyên đánh nước gần như thế nào ?

    Phạm Chuy nói :

    - Kết giao nước xa thì không nước nào bằng Tề, Sở; đánh lấy nước gần thì không nước nào bằng Hàn, Nguỵ. Đã lấy được Hàn, Nguỵ thì Tề, Sở, cũng không thể còn được.

    Vua Tần vỗ tay khen phải, liền bái Phạm Chuy làm khách khanh, gọi là Trương khanh, tin dùng mưu kế, đông đánh Hàn, Nguỵ, bãi đạo quân Bạch Khởi đi đánh Tề, Nguỵ Nhiễm cùnng Bạch Khởi, một tướng văn, một tướng võ, cầm quyền đã lâu, thấy Trương Lộc mau được vua yêu, đều có ý không bằng lòng. Nhưng vua Tần càng tin Phạm Chuy, cách đối đãi càng ngày càng hậu, thường thường đêm khuya cho đòi riêng vào để bàn việc, Phạm Chuy nói gì cũng noi theo. Phạm Chuy biết vua Tần thực đã tin dùng mình, nhân lúc chầu riêng, xin đuổi các người tả hữu ra ngoài rồi nói rằng :

    - Tôi đội ơn đại vương quá nghe, cho được cùng bàn việc, tôi dù tan xương nát thịt cũng không đủ báo đền. Tuy nhiên tôi có cái kế yên nước Tần, còn chưa dám nói hết với đại vương.

    Vua Tần quì hỏi rằng :

    - Quả nhân đem nước nhờ cậy tiên sinh, tiên sinh đã có kế yên Tần, sao không nói ngay cho biết, còn đợi đến bao giờ ?

    Phạm Chuy nói :

    - Trước kia tôi ở Sơn Đông, nghe nói ở Tề chỉ có Mạnh thường quân chứ không có vua Tề. Nay ở nước Tần cũng chỉ nghe nói có thái hậu, Nhương hầu, Hoa Dương quân, Cao Lăng quân, Kinh Dương quân, chứ không nghe nói có vua Tần. Đại phàm giữ quyền trị nước, ấy là vua, cho nên các quyền sinh sát, dữ, đoạt, người khác không được chuyên dùng. Nay thái hậu cậy mình là quốc mẫu, chuyên quyền không nể đã bốn mươi năm rồi; Nhương hầu một mình làm tướng Tần, Hoa Dương giúp sức, Kinh Dương, Cao Lăng đều có vây cánh, sinh sát tự do, tài sản của tư gia gấp mười nhà nước, đại vương chỉ chắp tay mà giữ cái tiếng là vua không, chẳng cũng nguy lắm ru ? Trước kia Thôi Trữ chuyên quyền ở Tề rồi giết Trang công. Lý Đoái chuyên quyền ở Triệu rồi giết chủ phụ, nay Nhương hầu trong thì cậy thế thái hậu, ngoài thì trộm oai đại vương, dụng binh thì chư hầu sợ, giải giáp thì chư hầu mừng, đặt kẻ tai mắt làm tả hữu vua, tôi thấy đại vương đứng một mình ở trong triều đã bao nhiêu lâu rồi, e rằng sau khi đại vương trăm tuổi đi thì kẻ làm vua nước Tần không còn phải là con cháu đại vương nữa !

    Vua Tần nghe nói, bất giác buốt xương, rợn lòng, liền vái hai cái mà nói rằng :

    - Những điều tiên sinh nói đó đều là lời nói tim gan, quả nhân tiếc là không nghe được từ trước !

    Hôm sau lập tức cho thu tướng ấn của Nhương hầu, Nguỵ Nhiễm, bắt phải về ngay ấp phong. Nhương hầu lấy xe bò nhà nước để chở gia tài đến hơn một nghìn cỗ, còn kỳ trân dị bảo không biết bao nhiêu mà kể, đều là những thứ mà trong kho nước Tần không có. Ngày hôm sau vua Tần lại đuổi Hoa Dương, Cao Lăng, Kinh Dương ra ngoài cửa quan, an trí thái hậu ở thâm cung, không cho tham dự chính sự. Rồi cử Phạm Chuy làm thừa tướng, cho phong ấp ở Ứng Thành, gọi là Ứng hầu. Người Tần đều bảo là Trương Lộc làm thừa tướng, không ai biết đó là Phạm Chuy, chỉ riêng có Trịnh An Bình biết. Chuy dặn phải giữ kién chớ nên tiết lộ. An Bình cũng không dám nói hớ ra.

    Bấy giờ vua Nguỵ là Chiêu vương đã mất mấy năm nay, con là An Ly vương lên ngôi, nghe vua Tần mới dùng mưu của thừa tướng Trương Lộc muốn đánh Nguỵ, thì hội họp quần thần để bàn. Tín Lăng quân Vô Kỵ nói :

    - Quân Tần không đến đánh Nguỵ đã mấy năm nay, nay vô cớ khởi binh, rõ ràng là khinh ta không có sức giữ nước vậy nên phòng bị nghiêm ngặt để đợi quân Tần đến.

    Tướng quốc Nguỵ Tề nói :

    - Không được, Tần mạnh, Nguỵ yếu, đánh tất không lợi. Nghe nói thừa tướng Trương Lộc là người Nguỵ, há lại không có chút tình với nước cũ hay sao ? Nếu sai sứ đem nhiều lễ vật, trước thông với Trương thừa tướng, sau yết vua Tần, xin cho được nộp con tin để cầu hoà, thì có thể giữ được vẹn toàn.

    An Ly vương mới lên ngôi, chưa từng trải sự chiến tranh, bèn dùng kế của Nguỵ Tề, sai trung đại phụ là Tu Giả sang sứ Tần.

    Tu Giả vâng mệnh, khi đến Hàm Dương, ở trong quán dịch. Phạm Chuy mừng nói rằng :

    - Ngày nay Tu Gỉa đến đây tức là ngày ta báo được thù xưa đó.

    Bèn cởi bỏ áo sang, cải trang làm người nghèo khổ rách rưới, ngầm đi ra ngoài tướng phủ, đến thẳng quán dịch, thong thả đi vào, xin được yết kiến Tu Gỉa.

    Tu Gỉa trong thấy, cả sợ nói rằng :

    - Ồ! Phạm Chuy còn sống đấy à ? Ta cứ yên chí nhà ngươi bị Nguỵ tướng đánh chết, làm sao lại còn sống mà sang được đến đây ?

    Phạm Chuy nói :

    - Khi ấy, họ đem thi thể tôi quăng ra ngoài bãi, hôm sau mới hồi lại, may gặp người lái buôn đi qua, nghe tiếng kêu rên, thương mà cứu cho, nên còn được sống. Nhưng tôi không dám về nhà, từ đó lưu lạc sang nước Tần, không ngờ lại được gặp đại phu ở đây.

    Tu Giả hỏi :

    - Có lẽ Phạm thúc muốn sang du thuyết nước Tần chăng ?

    Phạm Chuy nói :

    - Ngày trước tôi có tội với nước Nguỵ, nay trốn sang đến đây, được sống là may, còn dám mở mồm nói gì nữa !

    Tu Giả hỏi :

    - Phạm thúc ở Tần, làm gì để mưu sinh ?

    Chuy nói :

    - Làm thuê, làm mướn để kiếm miếng ăn.

    Tu Giả nghe nói bỗng động lòng thương, giữ lại cùng ngồi, bảo lấy rượu cơm ra cho ăn uống. Bấy giờ là mùa đông, Phạm Chuy mặc áo rách, tay chân run rẩy, coi bộ rét lắm.

    Tu Giả than rằng :

    - Phạm thúc rét đến thế ư ?

    Rồi sai lấy một cái áo bào cho mặc.

    Phạm Chuy nói :

    - Áo của đại phu, khi nào tôi dám mặc !

    Tu Giả nói :

    - Cố nhân cần chi mà phải quá nhũn như thế!

    Phạm Chuy mặc áo vào, hai ba lần tỏ lời cảm tạ, rồi hỏi Tu Giả sang có việc gì ?

    Tu Giả nói :

    - Nay quan thừa tướng nước Tần là Trương quân mới làm việc, ta muốn vào bái yết riêng, nhưng hiềm không có người tiến dẫn. Phạm Thúc ở đây đã lâu, có biết người nào có thể nói trước với Trương thừa tướng cho ta được không ?

    Phạm Chuy nói :

    - Chủ nhân tôi có quen thân với thừa tướng, nên tôi thường đi vào tướng phủ. Thừa tướng hay đàm luận, trong khi bàn đi nói lại việc gì, chủ nhân tôi có câu nào chưa trả lời kịp, tôi thường giúp vào một lời. Thừa tướng cho tôi là người có tài nói, đôi lúc cho ăn uống, nên được thân cận. Nếu đại phu muốn vào yết kiến thừa tướng, tôi xin cùng đi.

    Tu Giả nói :

    - Được thếthì còn gì hay bằng ! Vậy Phạm thúc định hôm nào đưa tôi vào hầu thừa tướng ?

    Phạm Chuy nói :

    - Thừa tướng thường bận việc lắm, hôm nay may ngài được nhàn rỗi, sao không đi ngay ?

    Tu Giả nói :

    - Tôi đi xe tứ mã đến, nhưng hiện ngựa đau chân, xe gãy trục, chưa thể đi được.

    Phạm Chuy nói :

    - Chủ nhân tôi cũng có xe, có thể mượn được.

    Phạm Chuy nói rồi, đi về phủ, lấy cỗ xe lớn thắng bốn ngựa, thân đánh xe đến trước quán dịch, rồi vào báo với Tu Giả rằng :

    - Có xe rồi, tôi xin đánh xe để ngài đi.

    Tu Gỉa hớn hở lên xe, Phạm Chuy cầm cương, mọi người đi đường, trông thấy thừa tướng đánh xe đi, hoặc chắp tay đứng ra bên đường, hoặc chạy tránh xa. Tu Giả cứ ngỡ là họ kính trọng mình, có biết đâu là họ vì Phạm Chuy. Khi xe đến trước tướng phủ. Phạm Chuy nói :

    - Đại phu hãy đợi một lát ở đây, tôi xin vào bẩm trước, nếu thừa tướng cho phép, thì có thể vào được.

    Phạm Chuy theo cửa phủ đi vào. Tu Giả xuống xe đứng ở ngoài cửa, đợi rất lâu, nghe trong phủ nổi hiệu trống, lính hầu hô vang lên rằng thừa tướng đã ra công đường. Thuộc lại, xá nhân, đi lại tấp nập, mà không thấy bóng Phạm Chuy đâu. Tu Gỉa liền hỏi tên lính canh cửa rằng :

    - Lúc nãy có người bạn tôi là Phạm thúc vào bẩm trước với thừa tướng đã lâu không thấy ra, nhà ngươi có thể vào giúp tôi được không ?

    Tên canh cửa hỏi :

    - Phạm thúc vào lúc nào ?

    Tu Giả nói :

    - Đó là người đánh xe cho tôi lúc đến đây !

    Tên canh cửa nói :

    - Người đánh xe ấy tức là Trương thừa tướng, thừa tướng đi lẻn qua ngoài quán dịch thăm bạn, cho nên giả làm người thường mà đi, sao lại bảo là Phạm thúc ?

    Tu Giả nghe nói như người đang ngủ bỗng nghe tiếng sét dữ dội, trống ngực đánh thình thình, nói rằng :

    - Ta bị Phạm thúc đánh lừa, chết đến nơi rồi !

    Càng nghĩ càng sợ, đành phải lột áo cởi đai, trút mũ, đi chân không, quì ở ngoài cửa, nhờ lính canh cửa vào nói giúp rằng kẻ có tội nước Nguỵ là Tu Giả ở ngoài xin chịu tội chết. Hồi lâu nữa, có lệnh thừa tướng cho đòi vào. Tu Giả lại càng sợ, cúi đầu, quì gối mà đi, theo cửa bên đi vào, thẳng đến trước thềm, dập đầu, luôn miệng nói tội đáng chết. Phạm Chuy uy phong lẫm liệt, ngồi trên công đường hỏi rằng :

    - Mày biết tội chưa ?

    Tu Gỉa phủ phục thưa rằng :

    - Tôi biết tội rồi.

    Phạm Chuy nói :

    - Mày có bao nhiêu tội ?

    Tu Gỉa nói :

    - Dù nhổ hết tóc tôi để kể, tội tôi cũng chưa hết.

    Phạm Chuy nói :

    - Mày có ba tội. Vì mỗ mã tiên nhân ta ở Nguỵ, nên ta không muốn làm quan ở Tề, vậy mà mày lại nghĩ ta tư thông với Tề, nói bậy với Nguỵ Tề để nó căm giận ta, đó là một tội. Đang khi Nguỵ Tề nổi cơn giận, đánh ta đến gãy răng, gãy xương, mày không hề can ngăn đó là hai tội. Đến khi ta đau quá ngất đi, bị bỏ vào chuồng xí, mày lại đem tân khách ra mà đái vào tao; xưa kia đức Trọng Ni không làm điều thái quá, sao mày lại quá nhẫn tâm báo cái thù trước, nhưng thấy mày thươngta rét mà cho áo, còn có lòng yêu đến người cũ, nên ta rộng dong cho được toàn tính mệnh, mày phải nên biết ơn ta !

    Tu Giả dập đầu lạy tạ mãi không thôi. Phạm Chuy xua tay đuổi đi. Tu Giả khúm núm đi ra, từ đó người Tần mới biết thừa tướng Trương Lộc tức là Phạm Chuy người Nguỵ, trá hình đến nước Tần. Hôm sau Phạm Chuy vào chầu vua Tần, nói nước Nguỵ sợ hãi, sai sứ xin hoà, không dám đánh nhau, đó đều do oai đức của vua Tần mà được. Vua Tần cả mừng, Phạm Chuy lại tâu rằng :

    - Hạ thần có cái tội khi quân, xin đại vương tha thứ cho mới dám nói.

    Vua Tần nói :

    - Khanh có điều gì cứ nói, quả nhân không bắt tội.

    Phạm Chuy tâu rằng :

    - Hạ thần thực không phải Trương Lộc, chính là Phạm Chuy người Nguỵ đó. Từ bé thần mồ côi, nhà nghèo, phải theo quan trung đại phu nước Nguỵ là Tu Giả làm xá nhân, rồi cùng Giả sang sứ Tề. Vua Tề có đem vàng cho riêng hạ thần, hạ thần từ chối không nhận, không ngờ Tu Giả về nói với tướng quốc Nguỵ Tề, đem hạ thần ra đánh đến chết. May mà hạ thần sống lại, đổi tên là Trương Lộc, chạy trốn sang Tần, mong ơn đại vương cho được làm thừa tướng. Nay Tu Giả đã phụng sứ đến đây, họ tên thực của hạ thần đã lộ ra, cần phải lại theo như cũ, cúi mong đại vương thương mà xá tội cho !

    Vua Tần nói :

    - Quả nhân không biết khanh bị oan như thế ! Nay Tu Giả đã đến, thì nên chém đầu để thoả lòng căm giận của khanh.

    Phạm Chuy nói :

    - Tu Gỉa vì việc công mà đến; từ xưa hai nước giao binh, không chém sứ gỉa của nhau, phương chi lại là đến để cầu hoà. Hạ thần há dám vì thù riêng mà làm hại nghĩa công! Vả lại, kẻ nhẫn tâm giết hạ thần chính là Nguỵ Tề, chứ không phải Tu Giả.

    Vua Tần nói :

    - Khanh trước nghĩ đến việc công rồi sau mới nghĩ đến việc tư, có thể nói là người đại trung. Cái thù Nguỵ Tề, quả nhân sẽ báo cho khanh nghĩ xử.

    Phạm Chuy tạ ơn lui ra. Vua Tần chuẩn lời cầu hoà của Nguỵ. Tu Giả vào từ biệt Phạm Chuy, Chuy nói :

    - Người cũ đến đâ, nên phải kính đãi một bữa cơm.

    Rồi truyền xá nhân lưu Tu Giả ở trong phủ, sai bày tiệc rượu to thết đãi. Tu Gỉa nghĩ thầm Phạm Chuy rộng lòng tha tội cho đã là may lắm, không ngờ lại còn cho sửa tiệc để hậu đãi nữa. Phạm Chuy lui vào nhà trong, Tu Giả một mình ngồi ở phòng ngoài, có lính canh giữ, không rời đi đâu, từ giờ thìn đến giờ ngọ, bụng đã đói, nghĩ thầm hôm trước Phạm Chuy ra ngoài quán dịch, mình gọi đem cơm rượu sẵn có ra đãi. Hôm nay Phạm Chuy đãi giả lại, chỗ bạn cũ, tưởng nên cứ xoàng xoàng là được, cần chi phải bày vẽ quá. Một lát, trên nhà bày tiệc đã xong, thấy trong phủ phát ra một cái đơn, mời khắp sứ thần các nước và những tân khách có tiếng ở trong phủ. Tu Giả lại nghĩ thầm, đó là những người Phạm Chuy mời đến để tiếp mình, nhưng không rõ đó là những ai. Lát nữa vào ngồi, mình cũng phải biết phận, không nên ngồi leo, ngồi càn mới được. Tu Gỉa còn đang nghĩ vẩn vơ, đã thấy sứ thần các nước và tân khách tấp nập kéo đến. Người coi tiệc vào báo khách đến đã đủ. Phạm Chuy ở nhà trong bước ra, chào hỏi khắp lượt, rồi cứ theo vị thứ, ai nấy cùng ngồi dự tiệc, dưới tả hữu vu bắt đầu tấu nhạc, mà không thấy mời đến Tu Gỉa. Tu Gỉa bấy giờ vừa đói, vừa khát, vừa khổ, vừa buồn, vừa thẹn vừa tức, nổi bực dọc không sao tả được. Khi rượu đã được ba tuần, Phạm Chuy mới nói :

    - À, còn một cố nhân ở đây, vừa rồi tôi quên mất !

    Các khách đều đứng dậy nói :

    - Thừa tướng đã có vị bạn cũ, chúng tôi theo lễ phải hầu tiếp.

    Phạm Chuy nói :

    - Dẫu là người cũ, nhưng không dám để cùng ngồi với các ngài !

    Rồi sai đặt một bàn nhỏ ở dưới nhà, gọi Tu Giả đến, sai hai tên tù bị tội thích chữ ngồi kèm hai bên. Trên bàn không có cơm rượu, chỉ có thứ đậu đã rang kỹ, hai tên tù bưng mà đút vào mồm cho Tu Giả, như là cho ngựa ăn vậy. Quan khách đều lấy làm ngượng và hỏi rằng :

    - Thừa tướng có điều gì mà lại căm giận người ấy quá như thế ?

    Phạm Chuy thuật lại đầu đuôi việc cũ, các khách đều nói :

    - Như thế, không trách được thừa tướng căm giận !

    Tu Giả dẫu bị nhục, nhưng không dám chống lại, đành cứ phải nhá đậu rang cho khỏi đói. Ăn xong, lại phải tạ ơn. Phạm Chuy trừng mắt nói rằng :

    - Vua Tần dẫu cho Nguỵ hoà, nhưng cái thù Ngụy Tề ta cần phải báo, nay tha chết cho mày, về ngay bảo vua Nguỵ, mau mau chém đầu Nguỵ Tề mang đến nộp ta, và đưa gia quyến ta sang Tần rồi hai nước kết tình giao hiếu cùng nhau. Không thế, ta sẽ tự đem quân đến làm cỏ thành Đại Lương. Bấy giờ dù hối cũng không kịp.

    Tu Giả sợ quá, chẳng còn hồn vía nào, dạ dạ luôn mấy tiếng rồi lui ra.​
     
  3. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,685
    Đông Chu Liệt Quốc
    Tác giả: Phùng Mộng Long
    Chương 98: Vua tần đòi thủ cấp nguỵ tề bạch khởi chôn mấy vạn quân triệu

    Dịch giả: Nguyễn Đỗ Mục.
    Nguồn: NXB Văn Học

    Lại nói Tu Giả được tha, luôn đêm chạy về Đại Lương, vào yết kiến vua Nguỵ, thuật lời nói của Phạm Chuy. Việc đưa gia quyến của Phạm Chuy là việc nhỏ có thể làm được, còn việc đòi chém đầu tướng quốc Nguỵ Tề thì có quan hệ đến thể diện, khó nói ra được. Vua Nguỵ trù trừ chưa quyết. Nguỵ Tề nghe biết tin ấy, bỏ lại tướng ấn, luôn đêm trốn sang nước Triệu, ở nhờ Bình Nguyên quân Triệu Thắng. Vua Nguỵ bèn sắp xe ngựa, một trăm cân vàng, một nghìn tấm lụa, đưa gia quyến Phạm Chuy đến Hàm Dương, và nói thực là Nguỵ Tề nghe tin đã bỏ trốn từ trước rồi, hiện nay ở nhờ Bình Nguyên quân nước Triệu, không dự gì đến việc nước Nguỵ nữa. Phạm Chuy tâu với vua Tần, vua Tần nói :

    - Triệu vốn cùng Tần kết hiếu, Tần lại đem vương tôn Dị Nhân làm con tin ở Triệu, muốn để giữ bền tình giao hiếu. Trước đây quân Tần đánh Hàn, vây thành Ô Dữ, Triệu sai Lý Mục cứu Hàn, làm cho quân Tần phải thua to, quả nhân còn chưa hỏi tội, nay lại tự tiện dung người thù của thừa tướng, kẻ thù của thừa tướng, tức là kẻ thù của quả nhân. Quả nhân quyết ý đánh Triệu, một là báo cái thù Ô Dữ, hai là đòi bắt Nguỵ Tề.

    Bèn thân đem hai mươi vạn quân, sai Vương Tiễn làm đại tướng, đánh Triệu lấy ba thành. Bấy giờ Huệ Văn vương nước Triệu mới mất, con là Hiếu Thành vương lên ngôi, tuổi còn bé, Huệ Văn thái hậu coi việc, nghe quân Tần đã kéo vào sâu, sợ quá. Lạn Tương Như vì có bệnh đã cáo lão; Ngu Khanh lên làm tướng quốc, sai đại tướng Liêm Pha mang quân cự địch, hai bên giữ nhau mãi không phân được thua. Ngu Khanh nói với Huệ Văn thái hậu rằng:

    - Việc gấp lắm rồi, tôi xin đem Trường An Quân sang Tề làm tin để cầu cứu.

    Thái hậu bằng lòng. Nguyên Triệu thái hậu là con gái Mân vương nước Tề, năm ấy Tề vương mới mất, con là thái tử Kiến lên ngôi cũng còn bé, Tề thái hậu cũng phải coi việc. Triệu thái hậu với Tề thái hậu một bên là em chồng, một bên chị dâu, tình nghĩa rất thân; Trường An quân lại là con út rất yêu quí của Triệu thái hậu, nay sang làm con tin ở Tề, Tề thái hậu làm sao chẳng động lòng, bèn sai Điền Đan làm đại tướng đem mười vạn quân đi cứu Triệu. Tướng Tần là Vương Tiễn nói với vua Tần rằng :

    - Nước Triệu có nhiều tướng giỏi, lại có Bình Nguyên quân là người tài chưa dễ đánh được, huống chi quân cứu nước Tề lại sắp đến, chi bằng ta quay quân trở về.

    Vua Tần nói :

    - Không bắt được Nguỵ Tề, quả nhân còn mặt nào trông thấy Ứng hầu nữa.

    Vua Tần bèn sai sứ sang bảo Bình Nguyên quân rằng :

    - Tần đánh Triệu là chỉ cốt bắt Nguỵ Tề, nếu Triệu bắt Nguỵ Tề đem nộp, thì lập tức Tần sẽ lui quân.

    Bình Nguyên quân đáp lại rằng :

    - Nguỵ Tề không có ở nhà tôi, đại vương chớ nên nghe lời người ta nói.

    Sứ giả ba lần đi, Bình Nguyên quân vẫn không chịu nhận. Vua Tần buồn bực không vui, muốn tiến đánh, lại sợ Tề Triệu hợp binh, được thua khó đoán; muốn kéo quân về, thì làm sao bắt được Nguỵ Tề; nghĩ đi nghĩ lại, liền sinh một kế, gửi bức thư tạ vua Triệu, đại ý nói rằng :

    "Quả nhân cùng quân vương là chỗ anh em. Qủa nhân trót nghe lầm người ta nói, mà tưởng rằng Nguỵ Tề ở nhà Bình Nguyên quân, cho nên đem quân đến đòi hỏi. Nếu không, thì khi nào dám lấn vào đất Triệu? Ba thành đã lấy được, xin trả lại Triệu. Quả nhân lại xin nối lại tình giao hiếu, đi lại như thường".

    Vua Triệu cũng sai sứ đáp thư, cảm tạ cái ý lui quân và trả lại thành. Điền Đan nghe quân Tần đã lui cũng trở về Tề. Vua Tần về đến Hàm Cốc, lại sai người gửi một phong thư cho Bình Nguyên quân, đại ý nói :

    - "Quả nhân rất mến tấm òng cao nghĩa của ngài, xin cùng ngài kết giao làm bạn áo vải. Qủa nhân mong ngài sang chơi, quả nhân xin cùng uống rượu trong mười ngày để tỏ tình kính mến."

    Bình Nguyên quân xem thư xong, vào tâu vua Triệu. Vua họp quần thần lại để bàn. Tướng quốc Ngu Khanh nói rằng :

    - Tần là nước hổ lang, trước kia Mạnh Thường quân vào Tần xuýt không được về, huống chi nay Tần đang chờ Nguỵ Tề ở Triệu. Vậy Bình Nguyên quân không nên đi.

    Liêm Pha nói :

    - Trước kia Lạn Tương Như mang ngọc bích một mình sang Tần, còn giữ trọn được ngọc bích mang về Triệu. Tần không có ý lừa Triệu; nếu không đi, thì lại càng làm cho Tần sinh nghi.

    Vua Triệu cũng cho đó là ý tốt của vua Tần, không thể trái được, bèn sai Bình Nguyên quân cùng sứ Tần đi sang Hàm Dương. Vua Tần mới thấy, đã tỏ ý vui mừng, ngày ngày đặc tiệc khoản đãi. Được vài ngày, vua Tần nhân lúc vui, cất chén mời Bình Nguyên quân mà nói rằng :

    - Quả nhân muốn phiền ngài một việc, nếu ngài bằng lòng, xin uống chén rượu này!

    Bình Nguyên quân nói :

    - Đại vương có điều gì sai bảo đến, khi nào Thắng này lại dám không vâng lời ?

    Rồi đón lấy chén rượu, uống một hơi hết ngay. Vua Tần nói :

    - Xưa kia Chu Văn vương được Lã Vọng, phong cho làm Thái công. Tề Hoàn công được Quản Trọng, phong cho làm Trọng phu, nay Phạm quân tức là Lã Vọng, Qủan Trọng của quả nhân này đó! Kẻ thù của Phạm quân là Nguỵ Tề hiện nay ở nhà ngài, ngài nên sai người về chặt lấy đầu đem sang đây để rửa thù cho Phạm quân, như vậy thì quả nhân chịu ơn ngài nhiều lắm !

    Bình Nguyên quân nói :

    - Tôi nghe, sang mà còn nhớ bạn cũ là nghĩ đến khi mình còn hèn; giàu mà còn nhớ bạn cũ là nghĩ đến lúc mình còn nghèo. Nguỵ Tề là bạn cũ của tôi, nếu thực có ở nhà tôi, tôi cũng không nỡ lòng nào mà đem ra được, huống chi là không có.

    Vua Tần biến sắc nói rằng :

    - Nếu ngài không bắt Nguỵ Tề đem đến đây, thì quả nhân cũng không để ngài ra khỏi cửa quan được.

    Bình Nguyên quân nói :

    - Cho ra hay không, đó là cái quyền của đại vương. Nhung đại vương lấy rượu mời tôi đến, nay lại lấy uy mà giữ tôi lại, phải trái đã có thiên hạ phẩm bình.

    Vua Tần biết là Bình Nguyên quân không chịu phụ Nguỵ Tề, bèn đem về Hàm Dương, lưu ở trong quán xá, sai người đưa thư cho vua Triệu, đại ý nói :

    - "Nay em của đại vương là Bình Nguyên quân thì ở Tần, mà kẻ thù của Phạm quân là Nguỵ Tề thì lại ở nhà Bình Nguyên quân. Vậy cái đầu của Nguỵ Tề buổi sáng đem đến Tần, thì Bình Nguyên quân buổi chiều sẽ được về Triệu. Nếu không thì quả nhân sẽ tự đem quân đến Triệu, đánh bắt Nguỵ Tề, mà sẽ không tha cho Bình Nguyên quân về nữa. Điều đó xin đại vương biết cho."

    Vua Triệu được thư sợ quá, bảo quần thần rằng :

    - Quả nhân há vì một kẻ vong thần nước khác mà đổi vị công tử trấn quốc của nước ta hay sao!

    Rồi lập tức phái quân đến vây nhà Bình Nguyên quân để bắt Nguỵ Tề. Tân kh1ch trong nhà Bình Nguyên quân có nhiều người chơi thân với Nguỵ Tề, nhân ban đêm thả cho Nguỵ Tề trốn đi, đến ở nhà tướng quốc Ngu Khanh.

    Ngu Khanh nói :

    - Vua Triệu sợ nước Tần hơn hổ lang, không thể nói được, chi bằng ngài lại chạy về Nguỵ. Tín Lăng quân chiêu hiền nạp sĩ, những kẻ vong mệnh trong thiên hạ đều theo về, và ngài lại là bạn thân của Tín Lăng quân, tất nhiên Tín Lăng quân sẽ che chở cho ngài. Tuy vậy, ngài là người có tội không nên đi một mình, tôi xin đi cùng với ngài.

    Rồi lập tức bỏ giá tướng ấn, làm một bức thư để lại tạ vua Triệu, cùng Nguỵ Tề đi sang Nguỵ. Khi đi đến ngoài thành, Ngu Khanh bảo Nguỵ Tề rằng :

    - Tín Lăng quân là một đấng trượng phu, khẳng khái, hai ta đến đây chắc là ông ta lập tức tiếp đón, không phải chờ lâu.

    Ngu Khanh đi chân không đến cửa nhà Tín Lăng quân, đưa danh thiếp vào. Tín Lăng quân đang xoã tóc sắp gội đầu, thấy danh thiếp thì cả sợ mà nói rằng :

    - Ông này là tướng quốc nước Triệu, sao vô cớ lại đến đây ?

    Rồi sai người nhà ra nói là chủ nhân đang gội đầu, tạm thời vào ngồi đợi, và hỏi đến việc gì. Ngu Khanh nóng ruột, đem đầu đuôi việc Nguỵ Tề đắc tội với Tần, và tự mình bỏ tướng ấn cùng đi sang đây. Người nhà vào nói, Tín Lăng quân trong lòng sợ Tần, không muốn dung Nguỵ Tề, lại nghĩ đến Ngu Khanh vì lòng mến mình, chẳng quản xa xôi mà đến theo mình, nếu cự tuyệt thì không phải, trong lòng do dự không biết tính thế nào. Ngu Khanh nghe Tín Lăng quân có ý khó khăn, không ra tiếp kiến ngay, thì giận quá bỏ đi ngay. Tín Lăng quân hỏi tân khách rằng :

    - Ngu Khanh là người thế nào ?

    Bấy giờ Hầu Sinh ở bên cạnh, cả cười nói rằng :

    - Sao công tử lại tối tăm việc đời đến thế ? Ngu Khanh đem ba tấc lưỡi lấy được tướng ấn nước Triệu, phong vạn hộ hầu, nay Nguỵ Tề cùng khốn mà đến theo Ngu Khanh. Ngu Khanh không ham tước lộc, bỏ chức cùng theo, thiên hạ đã mấy người được như thế ? Thế mà công tử còn chưa biết được là người giỏi hay không ư ?

    Tín Lăng quân cả thẹn, vội quấn tóc đội mũ, sai người đóng xe, kíp ruổi ra ngoài thành đuổi theo.

    Lại nói Nguỵ Tề đứng chờ bên ngoài, mãi chẳng thấy tin tức, thì chắc là việc không xong. Một lát thấy Ngu Khanh đi đến, rơm rớm nước mắt nói rằng :

    - Tín Lăng quân không phải là kẻ trượng phu, sợ Tần mà từ chối ta, tôi xin cùng ngài lẻn đường sang Sở.

    Nguỵ Tề nói :

    - Tôi vì nhất thời không biết suy xét mà đắc tội với Phạm thúc, đã luỵ Bình Nguyên quân rồi, nay lại luỵ đến ngài, thế mà còn để ngài phải vì tôi mà lặn lội, sang cầu chút sống tàn ở nước Sở, không chắc ra thế nào, như vậy còn sống làm gì nữa ?

    Nói xong liền cởi gươm tự đâm cổ mà chết. Ngu Khanh vội chạy lại giật ra, nhưng cuống họng đã đứt rồi. Đang lúc Ngu Khanh thương xót, thì Tín Lăng quân đã đi xe đến. Ngu Khanh trông thấy vội chạy tránh đi, không muốn giáp mặt. Tín Lăng quân trông thấy thi thể Nguỵ Tề, bèn vỗ về và khóc mà nói rằng :

    - Thực là cái lỗi của Vô Kỵ này !

    Bấy giờ vua Triệu không bắt được Nguỵ Tề. Ngu Khanh lại bỏ đi mất. Vua Triệu biết hai người đưa nhau đi, không ở Hàn thì tất ở Nguỵ, mới biết Nguỵ Tề đã tự vẫn, liền tâu vua Nguỵ muốn xin cái đầu Nguỵ Tề để chuộc Bình Nguyên quân về nước. Tín Lăng quân sai khâm liệm thi thể Nguỵ Tề, không nỡ đem cho. Sứ giả nói :

    - Bình Nguyên quân với ngài cũng là một. Bình Nguyên quân yêu Nguỵ Tề cùng một lòng như ngài. Nếu Nguỵ Tề còn thì tôi không dám nói. Nhưng nay ngài tiếc cái nấm xương đã chết, mà để Bình Nguyên quân phải tù ở nước Tần, liệu ngài có yên lòng được chăng ?

    Tín Lăng quân không dừng được, bèn lấy cái đầu Nguỵ Tề đựng vào một cái hòm, trao cho sứ Triệu, còn thây thì chôn ở ngoài bãi. Ngu Khanh đã bỏ tướng ấn, cảm khái tình đời, không muốn làm quan nữa, bèn ẩn ở trong núi Bạch Vân, làm sách chế giễu việc đời, gọi là "Ngu thị xuân thu".

    Vua Triệu đem đầu Nguỵ Tề gửi đến Hàm Dương. Vua Tần đưa cho Phạm Chuy. Phạm Chuy sai đem sơn làm máng đái, chỉ mà nói rằng :

    - Mày cho tân khách say rượu đái vào ta, nay ta bắt mày ở dưới suối vàng phải uống nước đái ta!

    Vua Tần theo như lễ thường đưa Bình Nguyên quân về Triệu. Triệu dùng làm tướng quốc thay Ngu Khanh. Phạm Chuy lại nói với vua Tần rằng :

    - Hạ thần là kẻ hèn hạ, may được đại vương biết đến, cho làm khanh tướng, lại báo thù cho hạ thần, thực là một cái ân lớn không gì sánh nỗi. Nhưng hạ thần không có Trịnh An Bình thì không còn được sống ở Nguỵ, không có Vương Kê thì không được tiến cử ở Tần. Vậy xin đại vương biếm tưóoc trật của hạ thần để trả cho hai người ấy, để được trọn cái lòng báo ơn của hạ thần, thần có chết cũng không còn hối hận gì nữa.

    Vua Tần nói :

    - Thừa tướng không nói ra, xuýt nữa quả nhân quên mất đấy !

    Lập tức dùng Vương Kê làm quan trấn thủ Hà Đông, Trịnh An Bình làm thiên tướng quân; từ đó chuyên dùng mưu của Phạm Chuy, trước đánh Hàn, Nguỵ, mà sai sứ thông hiếu với Tề, Sở.

    Bấy giờ thái tử nước Sở là Hùng Hoàn làm con tin ở Tần, Tần giữ đã mười sáu năm không cho về, gặp lúc sứ Tần sang Sở giao hiếu, Sở cũng sai sứ là Chu Anh cùng đến Hàm Dương đáp lễ. Chu Anh nhân nói vua Sở đau nặng, e không sống được. Thái phó là Hoàng yết nói với Hùng Hoàn rằng :

    - Vua đau nặng mà thái tử lại ở Tần, vạn nhất vua mất đi, thái tử không có ở đó, các công tử tất có người lên nối ngôi, nước Sở e không phải là của thái tử nữa. Tôi xin vì thái tử vào yết kiến Ứng hầu để xin cho thái tử về.

    Hùng Hoàn bằng lòng. Hoàng Yết bèn đi đến tướng phủ nói với Phạm Chuy rằng :

    - Thừa tướng có biết vua Sợ bị đau không ?

    Chuy nói :

    - Sứ giả đã có nói chuyện.

    Hoàng Yết nói :

    - Thái tử Sở ở Tần đã lâu, chơi thân với các tướng văn, tướng võ nước Tần. Nếu vua Sở mất mà thái tử được làm vua, thì tất phải một lòng theo Tần. Nếu thừa tướng nhân lúc này mà cho thái tử về Sở, thái tử tất cảm ơn thừa tướng vô cùng; nếu giữ lại không về, Sở lập vị công tử khác lên làm vua, thì thái tử ở Tần chẳng qua chỉ là một người áo vải ở thành Hàm Dương, mà Sở sẽ vì việc thái tử không được về mà căm giận chẳng chịu theo Tần nữa. Giữ lại một người áo vải, mà dứt tình giao hiếu của hai nước, tôi trộm lấy làm không nên.

    Phạm Chuy bằng lòng vào nói với vua Tần. Vua Tần nói :

    - Nên cho thái phó Hoàng Yết về trước thăm bệnh vua Sở, nếu quả vua Sở đau nặng thật, bấy giờ sẽ cho thái tử về.

    Hoàng Yết nghe thái tử không được cùng về, thì bàn riêng với thái tử :

    - Vua Tần giữ thái tử không cho về, có ý lại muốn làm như việc giữ Hoài vương ngày xưa, nhân lúc nguy cấp để cầu cắt đất. Nếu Sở đến đón thì mắc kế Tần, mà không đến đón thì thái tử trọn đời làm tử ở Tần vậy.

    Thái tử quì hỏi rằng :

    - Vậy thái phó tính thế nào ?

    Hoàng Yết nói :

    - Cứ như ý ngu của tôi, chi bằng thái tử hãy cải trang làm người thường mà trốn về. Nay nhân sứ nước Sở đang đáp lễ sắp về, đó là dịp tốt chớ nên để lỡ. Tôi xin một mình ở lại lấy cái chết mà đối chọi với Tần.

    Thái tử mừng nói rằng :

    - Nếu việc thành, sẽ xin cùng thái phó cùng hưởng chung phú quý ở nước Sở!

    Hoàng Yết liền đến yết kiến riêng Chu Anh, cùng Chu Anh thông mưu. Chu Anh bằng lòng, thái tử Hùng Hoàn bèn đổi mặc quần áo người thường, giả làm tên đánh xe, cùng sứ nước Sở là Chu Anh ra khỏi Hàm Cốc, không ai biết cả. Hoàng yết ở lại lữ xá, vua Tần sai người đến hỏi thăm.

    Hoàng Yết nói :

    - Thái tử vừa bị bệnh, không có người trông nom. Đợi thái tử khỏi, tôi sẽ xin vào bái từ rồi về Sở.

    Hơn nửa tháng, Hoàng yết đoán chắc thái tử ra khỏi cửa quan đã lâu, bèn vào yết vua Tần, đập đầu tạ tội rằng :

    - Tôi sợ vua Sở mất đi, thái tử không được nối ngôi, nên đã tự tiện cho thái tử về. Nay thái tử đã ra khỏi cửa quan rồi, Yết này có tội khi quân, xin chịu tội chết.

    Vua Tần cả giận nói rằng :

    - Người Sở lại hay lừa dối như thế à ?

    Bèn thét tả hữu bắt Hoàng Yết giam lại, sắp đem giết. Thừa tướng Phạm Chuy can rằng :

    - Giết Hoàng Yết không thể bắt lại được thái tử nước Sở nữa, lại chỉ thêm mất lòng Sở. Chi bằng khen ngợi lòng trung của hắn, mà cho hắn về. Vua Sở mất, thái tử nối ngôi, Hoàng Yết tất làm tướng. Vua tôi Sở đều cảm ơn Tần, tất phải một lòng theo Tần.

    Vua Tần lấy làm phải, bèn hậu đãi Hoàng Yết rồi cho về.

    Hoàng Yết về Sở được ba tháng, vua Sở mất. Thái tử Hùng Hoàn lên ngôi, ấy là Khảo Liệt vương, cử thái phó Hoàng Yết làm thừa tướng, phong làm Xuân Thân quân. Bấy giờ Mạnh Thường quân dẫu mất rồi, nhưng Triệu có Bình Nguyên quân, Nguỵ có Tín Lăng quân, đều đua nhau nuôi kẻ sĩ. Hoàng Yết lấy làm hâm mộ, cũng thu dùng tân khách, trong nhà khách ăn thường đến vài nghìn người. Bình Nguyên quân thường sai sứ đến nhà Xuân Thân quân, Xuân Thân quân đãi vào bậc thượng xá. Sứ Triệu muốn khoe khoang với người Sở dùng đồi mồi làm trâm, dùng ngọc châu nạm vỏ gươm và vỏ đao. Khi thấy Xuân Thân quân có ba nghìn khách, thượng khách nhà Xuân Thân quân đều dùng minh châu làm giày đi, thì sứ Triệu cả thẹn. Xuân Thân quân dùng mưu của tân khách, phía bắc kiêm tính đất hai nước Trâu, Lỗ, dùng vị hiền sĩ là Tuân Khanh làm lệnh ở Lan Lãng, sửa lại chính sự, luyện tập quân sĩ, nước Sở lại cường thịnh.

    Lại nói vua Tần đã kết giao với Tề, Sở, bèn sai đại tướng Vương Hạt đem quân đánh Hàn, lấy được thành Gỉa Vương, tướng giữ thành Thượng Đảng là Phùng Đinh liệu thế không giữ được, bèn đem thành Thượng Đảng dâng vua Triệu, để làm cho Tần giận Triệu, tất dời quân đánh Triệu, bấy giờ Triệu phải cùng Hàn hợp sức để chống Tần. Vua Triệu đêm nằm chiêm bao, thấy mình mặc áo mới hai sắc, có con rồng từ trên trời xuống, liền cỡi lên lưng, rồng lập tức bay đi, chưa đến trời thì ngã xuống, thấy hai bên có hai toà núi vàng, núi ngọc, ánh sáng loà cả mắt, tỉnh dậy, đòi quan đại phu là Triệu Vũ nói cho biết. Triệu Vũ thưa rằng :

    - Áo hai sắc là tàn tệ, cưỡi rồng lên trời, chưa đến nơi mà ngã xuống là công việc giữa chừng sinh biến, có danh không thực; vàng ngọc thành núi chỉ trông thấy mà không dùng được, đó là giấc chiêm bao không tốt, nhà vua nên cẩn thận mới được.

    Vua Triệu vì quá tin lời Triệu Vũ, nên không cho lời Cảm là phải. Sau đó ba ngày, bỗng thấy thái thú Thượng Đảng là Phùng Đinh, sai sứ đến dâng thư, đại ý nói Tần đánh Hàn gấp quá, thành Thượng Đảng sắp vào tay Tần, nhưng quan và dân chẳng muốn theo Tần mà muốn theo Triệu. Đinh không dám trái lòng quan và dân, xin đem mười bảy thành thuộc hạt, dâng lên vua Triệu, xin vua Triệu nhận cho. Vua Triệu cả mừng nói :

    - Triệu Vũ nói ta có sự mừng rộng đất thêm của, ngày nay đã nghiệm rồi.

    Bình Dương quân Triệu Bảo can rằng :

    - Vô cớ mà được lợi, đó là cái hoạ xin nhà vua chớ nên nhận.

    Vua Triệu nói :

    - Người ta sợ Tần mà mến Triệu, cho nên theo về, sao lại bảo là vô cớ ?

    Triệu Báo thưa rằng :

    - Tần đánh đất Hàn, lấy thành Giã Vươg, tuyệt đường Thượng Đảng, không cho thông nha7, tự cho Thượng Đảng là vật ở trong tay, ngồi mà lấy được; nay đất ấy lại về Triệu, khi nào Tần chịu thôi. Tần thì ra sức cày mà Triệu được gặt lúa, vì thế nên tôi bảo là cái lợi vô cớ vậy. Vả Phùng Đinh không nộp đất cho Tần mà lại đem nộp cho Triệu, đó là gieo hoạ cho Triệu, để làm chậm sự nguy khốn cho Hàn, mưu ấy sao nhà vua lại không xét đến ?

    Vua Triệu không cho là phải, lại đòi Bình Nguyên quân quyết đón xem nên thế nào. Bình Nguyên quân nói :

    - Đem trăm vạn quân đến đánh nước người, qua năm nọ đến năm kia, chưa lấy được một thành, nay không phí một tên quân, một đấu lương mà được mười bảy thành, đó là mối lợi không gì bằng, đại vương chớ nên bỏ lỡ !

    Vua Triệu cho là phải, bèn sai Bình Nguyên quân đem năm vạn quân đi đến Thượng Đảng nhận đất, phong cho Phùng Đinh ba vạn hộ, gọi là Hoa Lăng quân, vẫn giữ chức thái thú, mười bảy viên huyện lệnh đều phong ba nghìn hộ. Phùng Đinh đóng cửa mà khóc, không cùng Bình Nguyên quân giáp mặt. Bình Nguyên quân cố xin. Phùng Đinh nói :

    - Tôi có ba điều bất nghĩa không thể tiếp kiến sứ giả được. Giữ đất cho chủ mà không giữ được, là một điều bất nghĩa; không do mệnh chủ mà tự tiện đem đất cho Triệu là hai điều bất nghĩa; bán đất của chủ mà được phú quí, là ba điều bất nghĩa.

    Bình Nguyên quân khen là trung thần, đứng đợi ngoài cửa ba ngày không đi. Phùng Đinh cảm động bèn ra tiếp kiến, nhưng vẫn khóc không thôi, xin giao đất mà chọn dùng quan thái thú khác. Bình Nguyên quân hai ba lần an ủi rằng :

    - Tâm sự ngài, Thắng này đã biết rõ. Nếu ngài không làm thái thú thì không phục được lòng dân.

    Phùng Đinh bèn lại nhận chức thái thú như cũ, nhưng không chịu phong. Bình Nguyên quân sắp từ biệt, Phùng Đinh nói rằng :

    - Tôi sở dĩ dâng thành Thượng Đảng cho Triệu là vì độc lực không thể chống được Tần, mong công tử về tâu vua Triệu, kíp cử danh tướng đem đại quân để chống Tần.

    Bình Nguyên quân về. Vua Triệu đặt tiệc rượu mừng được đất, bàn việc ra quân, chưa quyết định. Đại tướng Tần là Vương Hạt tiến quân vây thành Thượng Đảng, Phùng Đinh cố giữ trong hai tháng mà viện binh Triệu vẫn chưa đến, bèn đem dân chạy sang Triệu. Bấy giờ vua Triệu cữ Liêm Pha làm thượng tướng đem hai vạn quân đi cứu Thượng Đảng, đi đến cửa ải Trương Bình thì gặp Phùng Đinh, mới biết là Thượng Đảng đã mất rồi, và quân Tần mỗi ngày một kéo đến gần. Liêm Pha liền dựng dinh đắp luỹ ở dưới núi Kim Môn, chia một vạn quân cho Phùng Đinh giữ thành Quang Lang. Hai vạn quân cho đô uý Cáp Phụ, Cáp Đông chia nhau thống suất, giữ hai mặt đông tây Chương Thành; lại sai tì tướng Triệu Giã đi dò quân Tần. Triệu Giả lĩnh năm nghìn quân bộ tiến ra ngoài cửa Trường Bình chừng hai mươi dặm, thì gặp tướng Tần là Tư Mã Ngạnh cũng vừa dẫn quân đến dọ thám. Triệu Gỉa khinh Tư Mã Ngạnh có ít quân, liền xông vào đánh, đang lúc đánh nhau, toán quân hộ tiễu thứ hai của Tần do Trương Đường thống suất lại kéo đến, Triệu Giả sợ hãi luống cuống, bị Tư Mã Ngạnh chém một đao chết ngay. Quân Triệu tan vỡ, bị giết rất nhiều. Liêm Pha nghe quân tuần tiễu bị thua, hạ lệnh cho các luỹ phải dụng tâm cố giữ, chớ đánh nhau với quân Tần, lại khiến quân lính đào đất sâu vài trượng để lấy nước, trong quân đều không hiểu ý ra thế nào. Đại quân Vương Hạt đã đến, cách núi Kim Môn mười dặm hạ trại, trước chia quân đánh Chương Thành, Cáp Phụ, Cáp Đông ra đánh đều bị thua vỡ. Vương Hạt thừa thắng đánh thành Quang Lang. Tư Mã Ngạnh hăng hái tranh lên trước, đại quân theo sau, Phùng Đinh lại thua chạy, chạy đến đại doanh núi Kim Môn, Liêm Pha cho vào. Quân Tần lại đến đánh luỹ. Liêm Pha truyền lệnh, hễ ai đánh, nếu được cũng chém. Vương Hạt đánh không được, bèn dời dinh trại đến gần, cách quân Triệu chỉ có năm dặm, khiêu chiến mấy lần, quân Triệu cũng không ra.

    Vương Hạt nói :

    - Liêm Pha là một vị lão tướng, hành quân trì trọng, chưa có thể đánh được.

    Tì Tướng là Vương Lăng hiến kế rằng :

    - Dưới núi Kim Môn có cái suối chảy gọi là Dương Cốc, quân Tần, Triệu đều phải lấy nướctừ tây chảy về đông nam, nếu đoạn tuyệt suối ấy, khiến nước không chảy về phía đông, thì quân Triệu không có nước uống, chỉ vài ngày tất sinh loạn. Nhân lúc quân họ loạn mà đánh thì thế nào cũng được. Vương Hạt cho là phải, sai quân lính đắp ngăn nước suối, không ngờ Liêm Pha đã cho đào hố lấy nước mạch từ trước, quân Triệu thừa nước uống. Tần, Triệu giữ nhau trong bốn tháng. Vương Hạt không được đánh một trận, không biết làm thế nào, sai người về tâu vua Tần. Vua Tần đòi Phạm Chuy vào bàn kế, Chuy nói :

    - Liêm Pha là người từng trải, biết quân Tần thế mạnh nên không dám vội đánh, ý hắn cho rằng quân Tần đường xa không thể giữ lâu, muốn làm cho quân ta chán nản rồi mới thừa cơ ra đánh. Nếu không trừ được người ấy đi, thì không thể vào nước Triệu được.

    Vua Tần hỏi :

    - Thừa tướng có kế gì trừ bỏ Liêm Pha đi được không ?

    Chuy đuổi tả hữu ra ngoài rồi nói rằng :

    - Muốn trừ Liêm Pha, phải dùng kế phản gián, như thế, như thế...nhưng không bỏ ra nghìn vàng thì không xong.

    Vua Tần cả mừng, bèn lấy nghìn vàng giao cho Phạm Chuy sai một môn khách tâm phúc theo đường tắt đi sang Hàm Đan, dùng nghìn vàng lễ đút các người tả hữu vua Triệu, lại nói rêu rao khắp nơi rằng tướng Triệu chỉ có Mã Phục quân là giỏi nhất, nghe đâu con trai là Triệu Quát lại giỏi hơn cha, nếu cho làm tướng thì không ai địch được. Liêm Pha già mà nhút nhát, đánh luôn đều thua, hại mất ba bốn vạn quân Triệu, nay bị quân Tần bức bách, chẳng bao lâu sẽ ra hàng.

    Vua Triệu trước kia thấy bọn Triệu Gĩa bị giết, mất luôn ba thành, sai người đến Trường Binh giục Liêm Pha ra đánh, Liêm Pha cứ giữ cái mưu giữ vững đồn luỹ, không chịu ra đánh, vua Triệu đã ngờ là người nhút nhát, đến khi nghe lời phản gián ấy, tin ngay làm thực, bèn cho đòi Triệu Qúat vào hỏi rằng :

    - Nhà ngươi có thể đánh được quân Tần không ?

    Triệu Qúat nói :

    - Nếu Tần sai Võ An quân làm tướng, tôi còn phải tốn công lo liệu, chứ như Vương Hạt thì không bỏ nói.

    Vua Triệu hỏi :

    - Sao lại nói thế ?

    Triệu Quát nói :

    - Võ An quân thường làm tướng quân Tần, trước đánh Hàn, Nguỵ ở Y Khuyết, chém hai mươi bốn vạn thủ cấp; sau lại đánh Nguỵ, lấy sáu mươi mốt thành lớn nhỏ; lại nam đánh Sở, lấy được Yên Dinh, định được Vu, Kiềm, rồi lại đánh Nguỵ, đuổi được Mang Mão, chém mười ba vạn thủ cấp; lại đánh Hàn, lấy năm thành chám năm vạn thủ cấp; lại chém tướng Triệu là Giả yến, đánh chìm hai vạn quân xuống sông, đánh đâu được đấy, uy danh lừng lẫy, quân lính đều khiếp sợ. Nếu tôi cùng hắn giao chiến, thì khó định được thua, cho nên còn phải tốn công lo liệu. Còn như Vương Hạt mới làm tướng Tần, nhân Liêm Pha nhất sợ, cho nên mới dám vào sâu. Nếu gặp hạ thần, thì sẽ như mùa thu gặp gió phải tan tác ngay.

    Vua Triệu bằng lòng lắm, liền cử Triệu Quát làm thượng tướng, ban cho vàng lụa, sai cầm cờ tiết đến thay Liêm Pha, lại cấp thêm cho hai mươi vạn tinh binh nữa.

    Triệu Qúat duyệt quân xong, chở vàng lụa về chào bà mẹ. Bà mẹ nói :

    - Cha mày khi sắp mất, có dặn mày chớ nên làm tướng nước Triệu, sao mày không từ chối đi ?

    Quát nói :

    - Không phải là con không muốn từ chối, hiềm nỗi trong triều không có ai bằng Quát này cả.

    Bà mẹ Quát liền dâng thư can vua Triệu rằng :

    - Quát chỉ biết đọc sách của cha, không biết thông biến, đó không phải cái tài làm tướng, xin nhà vua chớ sai đi.

    Vua Triệu cho đòi bà mẹ Qúat vào hỏi lại, bà thưa rằng :

    - Cha Qúat là Triệu Xa làm tướng, được ban thưởng gì đều đem cho hết quân lính; ngày thụ mệnh liền ngủ ngay ở trong quân, không hỏi đến việc nhà; cùng quân lính đồng cam cộng khổ, mỗi việc đều hỏi ý mọi người, không dám tự chuyên. Nay Qúat mới được làm tướng, đã cậy mình mà ra uy, quân lính không dám trông mặt; vàng lụa vua cho, đều mang về nhà, làm tướng há nên như thế ? Khi cha Quát sắp mất có dặn tôi rằng : "Nếu Quát làm tướng thì tất có hại cho nước Triệu." Lời dặn ấy, tôi vẫn ghi nhớ trong lòng, xin nhà vua chọn vị lương tướng khác, chớ nên dùng Quát.

    Vua Triệu nói :

    - Ý quả nhân đã quyết rồi !

    Bà mẹ Quát nói :

    - Đại vương không nghe lời thần thiếp, nếu quân thua thì xin chớ bắt tội lây đến cả nhà thần thiếp !

    Vua Triệu bằng lòng, Triệu Quát bèn dẫn quân đi.

    Lại nói người môn khách của Phạm Chuy sai đi, bấy giờ vẫn ở Hàm Đan, dò biết những lời Triệu Quát nói với vua Triệu, và vua Triệu đã cử Quát làm đại tướng thay Liêm Pha, bèn luôn đêm chạy về Hàm Dương báo tin. Vua Tần nói với Phạm Chuy rằng :

    - Nếu không phải là Võ An quân thì không làm xong việc này được.

    Lập tức lại cử Bạch Khởi làm thượng tướng. Vương Hạt làm phó, truyền cho trong quân phải giữ bí mật việc ấy, nếu ai nói hớ ra ngoài thì bị chém ngay.

    Lại nói Triệu Quát dẫn quân đến cửa Trường Bình, Liêm Pha xét nghiệm binh phù rồi đem số quân trao cho Quát, một mình dẫn một đội quân hơn trăm ngườiđi về Hàm Đan. Triệu Quát đổi hết các điều ước thúc của Liêm Pha, mà hợp các quân luỹ thành một đại binh. Phùng Đinh cố can nhưng Quát không nghe. Quát lại đem các tướng của mình thay cho các tướng cũ, truyền lệnh nếu quân Tần đến thì đều phải phấn dũng tranh đi trước, hễ đánh được thì phải lập tức đuổi theo, cốt khiến cho Tần không còn một tên quân nào trở về. Bạch Khởi đã vào trong quân Tần, nghe Triệu Quát thay đổi hết quân lệnh của Liêm Pha thì trước tiên sai ba nghìn quân ra khiêu chiến. Triệu Qúat đem vạn quân ra nghinh địch, quân Tần đại bại chạy về. Bạch Khởi lên trên cao đứng nhìn xem quân Triệu, bảo Vương Hạt rằng :

    - Tôi đã có cách đánh được nó rồi !

    Triệu Quát đánh được một trận, thì múa tay hoa chân, sai người đến dinh Tần hạ chiến thư. Bạch Khởi bảo Vương Hạt phê hôm sau quyết chiến, rồi lui quân mười dặm. Quát mừng rằng:

    - Quân Tần sợ rồi !

    Rồi mổ trâu cho quân lính ăn, truyền lệnh hôm sau đại chiến, định bắt sống Vương Hạt để cùng chư hầu làm câu chuyện buồn cười. Bạch Khởi đóng dinh xong rồi, họp cả chư tướng lại để nghe lệnh, sai Vương Bí, Vương Lăng đốc suất một vạn quân bày trận, lần lượt cùng Triệu Quát đánh nhau, chỉ cần thua không cần được, cốt dẫn quân Triệu đến đánh đồn Tần, đó tức là công. Lại sai Tư Mã Thác, Tư Mã Ngạnh mỗi người dẫn một vạn năm nghìn quân, theo đường tắt quanh đánh sau lưng quân Triệu, để tuyệt đường chở lương. Lại sai đại tướng Hồ Thương đóng đô nơi gần phía tả, chờ lúc quân Triệu mở đồn ra đuổi, quân Tần lập tức xông ra, cốt chặt quân Triệu làm hai đoạn. Lại sai đại tướng Mông Vụ, Vương Tiễn đều mang năm nghìn quân khinh kị, chực sẵn tiếp ứng. Bạch Khởi cùng Vương Hạt giữ vững đại dinh. Triệu Quát phân phó trong quân, canh tư thổi cơm, canh năm nai nịt, sáng rõ bày trận tiến lên. Đi chưa được năm dặm, thì gặp quân Tần, hai bên đối trận. Triệu Qúat sai tiên phong Phó Bảo ra đánh, tướng Tần là Vương Bí ứng chiến, chừng hơn hai mươi hiệp, Vương Bí thua chạy, Phó Bảo đuổi theo. Triệu Quát lại sai Vương Dung đem quân giúp sức, lại gặp tướng Tần là Vương Lăng, đánh qua vài hiệp. Vương Lăng lại thua chạy. Triệu Quát thấy quân Triệu được luôn, tự đem đại quân đuổi theo, Phùng Đinh lại can rằng :

    - Quân Tần hay lừa dối, họ thua nhưng không thể tin được, nguyên soái chớ nên đuổi theo.

    Triệu Qúat không nghe, đuổi theo hơn mười dặm, đến tận đồn Tần. Vương Bí, Vương Lăng quành dinh mà chạy. Đồn Tần không mở, Triệu Qúat truyền lệnh nhất tề đánh phá. Đánh luôn mấy ngày, quân Tần giữ vững không thể vào được. Triệu Quát sai người giục hậu quân dời dinh đều tiến, bỗng thấy tướng Triệu là Tô Kỵ phi ngựa đến báo rằng hậu doạnh đã bị tướng Tần là Hồ Thương dẫn quân xông ra ngăn chận không đi được. Triệu Quát cả giận nói rằng :

    - Hồ Thương vô lễ như thế, ta phải thân đi !

    Rồi sai người dò hành động của quân Tần, tin về báo rằng "phía tây quân mã rất đông, phía đông không có ai". Triệu Qúat hạ lệnh các quân theo đường phía đông mà đi, chưa được hai ba dặm, đại tướng Tần là Mông Vụ dẫn một đạo quân ở đường ngách xông ra, nói to lên rằng:

    - Triệu Qúat ! Mày trúng kế của Võ An quân ta rồi, còn chưa chịu đầu hàng à ?

    Triệu Quát cả giận giơ dáo chực đánh, tì tướng của Qúat là Vương Dung chạy ra nói rằng :

    - Không phải nhọc đến nguyên soái, để tôi lập công !

    Nói rồi ra đánh. Một đạo quân Vương Tiễn lại đến, quân Triệu chết hại rất nhiều, Triệu Quát liệu khó đánh được, bèn đánh chiêng thu quân, chọn chỗ có nước đóng dinh. Phùng Đinh lại can rằng :

    - Quân khí cần phải hăng hái. Quân ta dẫu thua nhưng nếu cố đánhcòn có thể thoát về bản doanh, hợp sức cự địch, còn như an dinh ở đây, thì mặt trước mặt sau đều bị khốn, sau này không thể lại ra được.

    Triệu Quát lại không nghe, sai quân đắp luỹ đài để cố giữ, một mặt phi tấu vua Triệu cầu viện, một mặt giục lấy lương thực hậu đội. Không ngờ đường chở lương đã bị Tư Mã Ngạnh dẫn quân chẹn giữ, đại quân Bạch Khởi chắn đằng trước, đại quân của Hồ Thương, Mông Vụ chẹn phía sau. Quân Tần mỗi ngày lại truyền đi cái tin Võ An quân làm tướng, chiêu Triệu Quát đầu hàng. Triệu Qúat bấy giờ mới biết Bạch Khởi thực ở trong quân, sợ quá chẳng còn hồn vía nào.

    Lại nói vua Tần được Võ An quân báo tiệp, biết quân Triệu Quát bị khốn ở Trường Bình, liền thân đến Hà Nội, bắt những tráng đinh ở dân gian tuổi từ mười lăm, đều phải tòng quân, chia đường cướp lấy lương thảo của người Triệu, ngăn tuyệt quân cứu. Triệu Quát bị Tần vây khốn bốn mươi sáu ngày, trong quân không lương, quân lính giết nhau để ăn. Triệu Qúat bèn đem quân tướng chia làm bốn đội. Phó Báo dẫn một đội theo phía đông, Tô Xạ dẫn một đội theo phía tây, Phùng Đinh dẫn một đội theo phía nam, Vương Dung theo phía bắc, đều đánh trống xông ra, nếu một đội đánh thủng được,thì Triệu Quát mang quân ba đội kia đều chạy. Không ngờ Võ An quân Bạch Khởi lại tuyển sẵn những quân bắn giỏi mai phục chung quanh luỹ quân Triệu, phàm gặp quân Triệu ở trong luỹ đi ra, bất cứ quân tướng đều bắn chết. Quân mã bốn đội xông ra bốn lần đều bị bắn riết, phải quay lại cả. Lại hơn một tháng, Triệu Qúat căm giận quá, chọn kỹ năm nghìn tinh binh, đều mặc giáp nặng, cưỡi ngựa khoẻ, Triệu Quát cầm kích đi trước, Phó Báo, Vương Dung theo riết ở phía sau, liền xông vòng vây để ra. Vương Tiễn, Mông Vụ đều đem quân xông đến. Triệu Quát cố đánh vài hiệp không sao lọt ra được, lại muốn quay về Trường Bình, nhưng ngựa quỵ chân ngã xuống đất, trúng tên mà chết, Tô Xạ dẫn Phùng Đinh cùng chạy, Phùng Đinh nói :

    - Tôi ba lần can mà Triệu Qúat không nghe, nay đến thế này, thực là trời bắt thế, còn trốn đi đâu !

    Nói xong, tự đâm cổ mà chết. Còn Tô Xạ chạy thoát đi sang đất Hồ. Bạch Khởi sai dựng cờ chiêu hàng, quân Triệu đều bỏ đồ binh, cởi áo giáp hô vạn tuế. Bạch Khởi sai người giơ cao đầu Triệu Quát, đi đến dinh Triệu chiêu hàng, trong dinh còn hơn hai mươi vạn quân, nghe chủ soái bị giết, không ai dám ra đánh cả, cùng đều xin đầu hàng, giáp trụ khí giới chồng chất như núi, các xe ngựa ở trong dinh đều về tay quân Tần cả. Bạch Khởi tâu với Vương Hạt rằng :

    - Trước đây quân Tần đã lấy được hai thành Gỉa Vương, Thương Đảng, dân ở đó không chịu theo Tần mà theo Triệu. Nay quân Triệu đầu hàng, trưóoc sau tổng cộng gần bốn mươi vạn người, nếu lỡ ra chúng nó lại sinh biến, thì phòng giữ làm sao được ?

    Rồi đem hàng tốt chia làm mười doanh, sai mươi viên tướng thống suất, hợp với hai mươi vạn quân Tần, đều cho trâu rượu, ăn uống và nói rằng ngày mai Võ An quân sẽ lựa chọn quân Triệu, người nào khoẻ mạnh đánh trận được, thì cấp cho khí giới và đem về nước Tần sai dụng, còn người già yếu hay nhát sợ đều cho về Triệu. Quân Triệu cả mừng. Đêm ấy, Võ An quân truyền mật lệnh cho mười viên tướng rằng : "Quân Tần đều dùng vải trắng phủ đầu, nếu đầu không có vải trắng, thì tức là quân Triệu, đều phải giết đi". Quân Tần theo lệnh, cùng ra tay một lúc. Hàng tốt nước Triệu vì không biết có lệnh ấy, lại không có khí giới, nên đều bó tay chịu chết; có những người trốn ra khỏi cửa dinh, lại bị Mông Vụ, Vương Tiễn dẫn quân đi tuần bắt được giết ngay. Bốn mươi vạn quân Triệu trong một đêm đều bị chém chết cả. Võ An quân thu nhặt những đầu lâu quân Triệu, chất đống ở trong luỹ Tần, gọi là núi Đầu Lâu. Tính ra trong trận Trương Bình, trước sau quân Tần hoặc chém hoặc bắt cộng bốn mươi nhăm vạn quân Triệu, kể cả những quân Triệu đầu hàng Vương Hạt trước, đều bị giết sạch cả, chỉ còn hai trăm bốn mươi người ít tuổi được thả về Hàm Đan để tuyên dương cái oai của nước Tần.​
     
  4. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,685
    Đông Chu Liệt Quốc
    Tác giả: Phùng Mộng Long
    Chương 99: Võ an quân có công bị chết oan lã bất vi lập kế buôn ngôi báu

    Dịch giả: Nguyễn Đỗ Mục.
    Nguồn: NXB Văn Học

    Lại nói vua Triệu lúc đầu tiếp được tin Triệu Quát báo tiệp, trong lòng cả mừng; rồi sau nghe tin quân Triệu bị khốn ở Trường Bình, đang tính việc phát binh đến cứu; bỗng lại được tin Triệu Qúat đã chết, hơn bốn mươi vạn quân Triệu đều đầu hàng nước Tần, bị Võ An quân một đêm giết hết, chỉ còn lại hai trăm bốn mươi người được tha về. Vua Triệu cả sợ, quần thần đều thất đảm kinh hồn. Trong nước kẻ khóc cha, người khóc con, anh khóc em, em khóc anh, ông khóc cháu, vợ khóc chồng, khắp chợ đầy đường, chỗ nào cũng có tiếng người kêu khóc. Chỉ có bà mẹ Triệu Qúat không khóc mà nói rằng :

    - Từ lúc Qúat được làm tướng, già này đã coi nó không phải là người sống nữa !

    Vua Triệu nghĩ bà mẹ Quát đã có lời nói từ trước, bèn không bắt tội, lại cho thóc lúa để yên ủi. Lại sai người tạ lỗi với Liêm Pha. Đang lúc kinh hoàng, lại có tin báo rằng quân Tần đánh hạ được Thượng Đảng, mười bảy thành đều đã hàng Tần, nay Võ An quân lại thân suất đại quân tiến lên, rao lên rằng muốn vây Hàm Đan. Vua Triệu hội quần thần có ai ngăn được quân Tần, quần thần không ai đáp. Bình Nguyên quân về nhà hỏi khắp tân khách, cũng chẳng ai đáp lại làm sao. Lúc ấy xảy có Tô Đại ở trong nhà Bình Nguyên quân. Đại nói :

    - Nếu tôi đến được Hàm Dương thì chắc ngăn được quân Tần không đánh Triệu.

    Bình Nguyên quân nói với vua Triệu, vua Triệu bèn cấp cho Tô Đại nhiều tiền bạc để đi sang Tần. Tô Đại vào yết kiến Ứng hầu Phạm Chuy. Chuy mời ngồi lên trên, hỏi rằng :

    - Tiên sinh vì cớ gì mà lại đây ?

    Tô Đại nói :

    - Tôi vì ngài mà lại đây.

    Chuy hỏi :

    - Tiên sinh có điều gì chỉ giáo ?

    Tô Đại nói :

    - Võ An quân đã giết Triệu Quát rồi phải không ?

    Chuy đáp :

    - Phải.

    Đại lại hỏi :

    - Nay lại vây Hàm Đan phải không ?

    Chuy lại đáp :

    - Phải.

    Đại hỏi :

    - Võ An quân dụng binh như thần, thân làm tướng Tần, đánh lấy được hơn bay mươi thành, chém đầu gần trăm vạn, dẫu công của Y Doãn, Lã Vọng ngày xưa, cũng chẳng hơn được; nay lại đem quân vây Hàm Đan, Triệu tất bị diệt; Triệu bị diệt thì Tần thành đế nghiệp. Tần thành đế nghiệp thì Võ An quân sẽ là công thần bậc nhất, như Y Doãn với nhà Thương. Lã Vọng với nhà Chu. Ngài vốn đã có quyền cao chức trọng, nhưng đến lúc ấy thì cũng không thể không ở bậc dưới ông ta được.

    Phạm Chuy kinh ngạc hỏi rằng :

    - Như vậy biết làm thế nào ?

    Tô Đại nói :

    - Chi bằng ngài cho Hàn, Triệu cắt đất để cầu hoà với Tần. Như vậy thì cắt đất là công việc của ngài, mà lại nhân đó cắt được binh quyền của Võ An quân. Địa vị của ngài sẽ vững hơn núi Thái Sơn vậy.

    Phạm Chuy cả mừng; hôm sau liền nói với vua Tần rằng :

    - Quân Tần ở ngoài lâu ngày đã khó nhọc lắm, nên cho nghĩ ngơi, chi bằng sai người dụ Hàn, Triệu, bắt cắt đất để cầu hoà.

    Vua Tần nói :

    - Tuỳ thừa tướng liệu định.

    Phạm Chuy lại đem vàng lụa tặng Tô Đại, sai đi thuyết Hàn, Triệu. Hai vua Hàn, Triệu đều sợ Tần, cho nên nghe kế của Đại. Hàn cắt một thành Viên Ung. Triệu cắt sáu thành, đều sai sứ sang Tần cầu hoà. Thoạt tiên, vua Tần hiền rằng Hàn chỉ dâng một thành thì ít quá. Sứ Hàn nói mười bảy huyện Thượng Đảng mà Tần đã lấy được đều của Hàn; vua Tần mới cười mà nhận cho, rồi triệu Võ An quân rút quân về. Bạch Khởi đánh luôn đều được, đang muốn tiến vây Hàm Đan, bỗng nghe có chiếu ban sư, thì biết rằng đó là mưu của Phạm Chuy, giận lắm. Từ đó Bạch Khởi cùng Phạm Chuy sinh ra hiềm khích. Bạch Khởi nói với mọi người rằng:

    - Từ trận thua ở Trường Bình, trong thành Hàm Đan, một đêm mười lần sợ; nêu thừa thắng tiến đánh, thì không đầy một tháng có thể lấy được. Tiếc thay Ứng hầu không biết thời thế, chủ trương việc rút quân về, làm mất cơ hội ấy !

    Vua Tần nghe nói, lấy làm hối lắm, nói rằng :

    - Bạch Khởi đã biết Hàm Đan có thể lấy được, sao không lấy sớm ?

    Bèn lại dùng Khởi làm tướng, muốn sai đánh Triệu, nhưng gặp lúc Khởi có bệnh không đi được, bèn sai đại tướng Vương Lăng đem mười vạn quân đánh Triệu, vây thành Hàm Đan. Vua Triệu sai Liêm Pha cự địch; Pha đặt quân phòng ngự rất nghiêm, lại đem gia tài mộ quân quyết tử, thường thường ban đêm cho trèo vào thành, đánh phá dinh Tần. Quân của Vương Lăng bị thua to. Bấy giờ Võ An quân bệnh đã khỏi, vua Tần muốn sai ra thay Vương Lăng. Võ An quân tâu rằng :

    - Thật ra thành Hàm Đan không phải dễ đánh đâu ! Trước kia, sau khi đại bại, trăm họ sợ hãi không yên, nếu nhân đó mà đánh, thì họ giữ không được vững, đánh không đủ sức, ta có thể đánh lấy ngay được. Nay đã hơn hai năm rồi, vết thương đã hàn, họ lại được Liêm Pha là tay lão tướng, không như Triệu Quát. Chư hầu thấy Tần đang hoà với Triệu mà lại đánh, thì cho Tần là không thể tin được, tất sẽ hợp tung mà đến cứu. Tôi chắc là Tần không thể được vậy !

    Vua Tần ép nài mãi, nhưng Bạch Khởi cố từ. Vua Tần lại sai Phạm Chuy đến khuyên bảo, Bạch Khởi căm giận Phạm Chuy trước kia ngăn trở sự thành công của mình, bèn xưng bệnh không tiếp.

    Vua Tần hỏi Phạm Chuy rằng :

    - Võ An quân thực có bệnh ư ?

    Phạm Chuy nói :

    - Ốm thực hay không thì chưa biết, nhưng không chịu làm tướng, thì đủ biết cái chí đã quyết rồi.

    Vua Tần giận nói rằng :

    - Bạch Khởi cho là nước Tần không có tướng tài nào khác, cứ phải cần đến hắn chăng ? Trận chiến thắng ở Trường Bình ngày trước, lúc đầu là Vương Hạt cầm quân, vậy Hạt có kém gì Khởi!

    Bèn thêm quân mười vạn, sai Vương Hạt đi thay Vương Lăng. Vương Lăng về nước bị bãi quan. Vương Hạt vây thành Hàm Đan trong năm tháng không thể đánh phá được. Võ An quân nghe chuyện nói với khách rằng :

    - Tôi đã nói là Hàm Đan đánh không dễ, mà vua không nghe lời tôi, nay thế này đây !

    Trong bọn khách có người quen Ứng hầu Phạm Chuy tiết lộ lời nói ấy. Chuy nói với vua Tần, thế nào cũng phải cử Võ An quân làm tướng. Võ An quân lại xưng ốm nặng. Vua Tần cả giận, thu hết chức tước và phong ấp của Võ An quân, giáng xuống làm lính, đày ra Âm Mật, bắt phải lập tức ra khỏi thành Hàm Dương. Võ An quân than rằng :

    - Phạm Lãi có nói : "Con thỏ khôn đã chết, con chó săn tất bị mổ." Ta vì Tần đánh hạ được hơn bảy mươi thành của chư hầu, cái thế tất phải bị mổ.

    Rồi đi ra cửa tây Hàm Dương, đến Đỗ Bưu tạm nghỉ để đợi hành lý. Phạm Chuy nói với vua Tần rằng :

    - Bạch Khởi ra đi, trong lòng tấm tức không phục, thốt ra nhiều lời oán giận, nói có bệnh, không phải là thật, sợ rằng sẽ đi sang nước khác để làm hại Tần !

    Vua Tần bèn sai sứ đưa cho Bạch Khởi một thanh gươm sắc, bắt phải tự tử. Bạch Khởi cầm thanh gươm ở tay, than rằng :

    - Ta có tội gì với trời mà đến nông nỗi này !

    Hồi lâu lại nói rằng :

    - À, ta thực đáng chết! Trận đánh ở Trường Bình, hơn bốn mươi vạn quân Triệu đã đầu hàng, ta đánh lừa chúng, trong một đêm giết chết hết cả, chúng có tội gì, vậy nay ta chết là phải lắm!

    Bèn tự đâm cổ chết. Người Tần nghĩ Bạch Khởi không có tội mà phải chết, đều đem lòng thương, có lập đền thờ. Về sau vào khoảng cuối đời nhà Đường, sấm sét đánh chết một con trâu, dưới bụng trâu có hai chữ "Bạch Khởi". Người ta nói Bạch Khởi vì giết người nhiều quá, nên mấy trăm năm sau vẫn còn phải chịu cái quả báo làm kiếp trâu bị sét đánh.

    Vua Tần đã giết Bạch Khởi lại phái năm vạn tinh binh, sai Trịnh An Bình làm tướng đi giúp Vương Hạt, bảo tất phải đánh hạ được Hàm Đan mới thôi. Vua Triệu nghe Tần đem quân đến đánh, sợ quá, sai sứ chia đường đi cầu cứu chư hầu. Bình Nguyên quân nói :

    - Nguỵ là chỗ thông gia với tôi, thế nào rồi cũng cho quân đến cứu. Còn Sở là nước to mà xa, cần phải đem thuyết hợp tung ra mà dụ mới được. Vậy tự tôi phải đi.

    Rồi hỏi các môn khách, muốn chọn lấy hai mươi người đủ tài văn vũ, để cùng đi. Trong hơn ba nghìn người, kẻ có văn thì không võ, kẻ có võ thì không văn, chọn đi chọn lại, chỉ được mười chín người, không đủ được số hai chục. Bình Nguyên quân than rằng :

    - Thắng này nuôi kẻ sĩ đã mấy năm nay, ngờ đâu tìm người đủ tài lại khó đến thế!

    Trong đám hạ khách có người chạy ra nói rằng :

    - Như tôi đây không biết có thể sung vào cho đủ số được không ?

    Bình Nguyên quân hỏi họ tên, người ấy thưa rằng :

    - Tôi họ Mao, tên Toại, người ở Đại Lương, làm khách ở nhà ngài đã ba năm nay.

    Bình Nguyên quân cười nói rằng :

    - Phàm ở đời kẻ sĩ có tài cũng ví như cái dùi ở trong một cái túi, mũi nhọn tất phải lộ ra ngay. Nay tiên sinh ở nhà Thắng đã ba năm, mà Thắng chưa được điều gì ở tiên sinh, thế là tiên sinh văn võ đều chẳng có môn gì giỏi cả.

    Mao Toại nói :

    -Tôi đến ngày hôm nay mới xin ngài cho được vào ở trong túi đấy! Nếu tôi được ở trong túi từ trước, thì đã đột nhiên đâm hết ra ngoài rồi, há chỉ lộ có cái mũi nhọn mà thôi ư ?

    Bình Nguyên quân nghe nói lấy làm lạ, bèn cho Mao Toại sung vào số hai mươi, rồi từ biệt vua Triệu đi sang Sở, vào yết kiến Xuân Thân quân Hoàng Yết. Hoàng Yết vốn có giao du với Bình Nguyên quân, bèn truyền tâu lên vua Sở. Sáng hôm sau vào triều, vua Sở cùng Bình Nguyên quân ngồi trên điện. Mao Toại cùng mười chín người đều đứng ở dưới. Bình Nguyên quân thong thả nói đến việc "hợp tung" chống Tần.

    Vua Sở nói :

    - Xướng ra ước "hợp tung" đầu tiên là Triệu, sau nghe lời Trương Nghi du thuyết, tung ước bèn giải; đầu tiên Hoài vương làm tung ước trưởng, thì đánh Tần không được; rồi đến Tề Mân vương lại làm tung ước trưởng thì chư hầu đều bỏ; đến nay các nước đều lấy việc hợp tung làm kiêng. Việc ấy như đống cát, dễ hợp mà dễ tan.

    Bình Nguyên quân nói :

    - Từ Tô Tần xướng ra nghị hợp tung, sáu nước kết làm anh em, trong mười lăm năm quân Tần không dám ra khỏi Hàm Cốc. Về sau Tề, Nguỵ bị công tôn Diễn lừa muốn cùng đánh Triệu. Hoài vương bị Trương Nghi lừa muốn cùng đánh Tề, cho nên tung ước mới tan dần. Nếu ba nước ấy cứ giữ chặt lời thề ở Hằng Thuỷ, không để cho Tần lừa, thì Tần làm gì được ? Tề Môn vương tiếng là hợp tung, thực muốn kiêm tính, cho nên chư hầu mới bỏ, nào có phải là hợp tung không hay ?

    Vua Sở nói :

    - Cái thế ngày nay, Tần mạnh mà các nước đều yếu, chỉ có thể nước nào lo giữ nước ấy, còn giúp nhau sao được ?

    Bình Nguyên quân nói :

    - Tần dẫu mạnh, nhưng chia sức mà đánh sáu nước thì không đủ; sáu nước dẫu yếu, nhưng hợp sức lại mà chống Tần thì có thừa. Nếu nước nào giữ nước ấy, không cứu nhau, thì một mạnh một yếu, được thua đã rõ, e rằng quân Tần sẽ cứ lần lượt mà đánh dần vậy.

    Vua Sở nói :

    - Quân Tần mới đánh một trận mà đã lấy được mười bảy thành Thượng Đảng, chôn hơn bốn mươi vạn quân Triệu. Hợp cả hai nước Hàn, Triệu, không thể địch được một Võ An quân, nay lại tiến bức Hàm Đan, nước Sở ở nơi xa xôi hẻo lánh thì làm thế nào được ?

    Bình Nguyên quân nói :

    - Vua nước tôi dùng lầm phải viên tướng bất tài, nên mới có trận thua ở Trường Bình. Nay hai mươi vạn quân Tần đóng ở dưới thành Hàm Đan, trước sau đã hơn một năm mà không làm gì được Triệu, vậy nếu có quân cứu viện, thì quân Tần sẽ phải tan ngay.

    Vua Sở nói :

    - Tần mới thông hiếu với Sở, nay ngài muốn quả nhân hợp tung cứu Triệu, Tần tất giận lây đến Sở, như vậy là Sở sẽ phải thay Triệu mà chịu oán.

    Bình Nguyên quân nói :

    - Tần mà thông hiếu với Sở, là muốn chuyện đánh Hàn, Triệu, Nguỵ. Ba nước ấy đã mất thì Sở còn đứng sao được ?

    Vua Sở vẫn có lòng sợ Tần, dùng dằng chưa quyết. Mao Toại đứng dưới thềm, xem bóng mặt trời đã đúng trưa, bèn cấp gươm, bước từng bậc mà lên điện, bảo Bình Nguyên quân rằng :

    - Việc hợp tung lọi hay hại, chỉ nói hai tiếng là xong. Hôm nay vào triều từ sáng sớm, nói đi nói lại đã nửa ngày mà chưa xong là cớ làm sao ?

    Vua Sở giận hỏi rằng :

    - Kẻ kia là người nào ?

    Bình Nguyên quân nói :

    - Đó là người khách của tôi tên là Mao Toại.

    Vua Sở nói :

    - Quả nhân cùng chủ ngươi bàn việc, sao ngươi lại được nói chen vào ?

    Nói rồi thét bảo xuống, nhưng Mao Toại lại đi lên mấy bước nữa, vỗ gươm mà nói rằng :

    - Hợp tung là việc lớn thiên hạ, ai nấy đều được bàn. Chủ tôi ngồi đấy, sao lại mắng tôi ?

    Vua Sở mặt hơi dịu, nói rằng :

    - Khách có điều gì muốn nói ?

    Mao Toại nói :

    - Đất Sở có hơn năm nghìn dặm; từ Vũ, Văn xưng vương đến nay vẫn hùng cứ trong thiên hạ, làm chủ các nước đồng minh. Người Tần bỗng đâu quật khởi, nhiều lần đánh được quân Sở. Hoài vương bị tù mà chết; Bạch Khởi là thằng trẻ con, chỉ đánh một vài trận, mà Sở mất hai thành Yên, Sính, bị bức phải thiên đô. Đó là cái thù trăm đời, đến đứa trẻ cũng còn biết xấu hổ. Vậy mà đại vương lại không nghĩ đến ru ? Cái nghị hợp tung ngày nay là vì Sở chứ không phải vì Triệu ?

    Vua Sở nghe nói liền "vâng vâng" luôn mấy tiếng. Mao Toại nói :

    - Thế ý đại vương đã quyết chưa ?

    Vua Sở nói :

    - Ý quả nhân đã quyết rồi !

    Mao Toại bèn gọi tả hữu bưng chậu huyết đến, quỳ dâng trước mặt vua Sở, nói rằng :

    - Đại vương làm tung ước trưởng, nên quệt trước, thứ đến chủ tôi, rồi thứ nữa đến Toại này!

    Thế là tung ước định xong. Mao Toại tay tả cầm chậu máu, tay hữu vẫy mười chín người đến bảo rằng :

    - Các ông nên cùng quệt máu ở dưới thềm.

    Vua Sở đã bằng lòng hợp tung liền sai Xuân Thân quân mang tám vạn quân sang cứu Triệu. Bình Nguyên quân trở về nước, nói rằng :

    - Ba tấc lưỡi của Mao tiên sinh, mạnh hơn trăm vạn quân. Thắng này xem xét người đã nhiều, chỉ riêng có Mao tiên sinh xuýt nữa thì Thắng này không biết đến. Từ nay Thắng này không dám xem tướng kẻ sĩ trong thiên hạ nữa.

    Từ đó đưa Mao Toại lên làm thượng khách.

    Bấy giờ vua Nguỵ cũng sai đại tướng là Tấn Bỉ đem mười vạn quân đi cứu Triệu, vua Tần nghe chư hầu đều đem quân đến cứu, bèn thân đến Hàm Đan đốc chiến, rồi sai người bảo vua Nguỵ rằng :

    - Tần sắp hạ Hàm Đan đến nơi, chư hầu nước nào dám cứu Triệu, Tần sẽ mang quân đến đánh nước ấy trước.

    Vua Nguỵ cả sợ, sai sứ đuổi theo kịp quân Tấn Bỉ, bảo chớ tiến nữa. Tấn Bỉ bèn đóng quân ở Nghiệp Hạ. Xuân Thân quân cũng đóng quân lại ở Vũ Quan, chỉ trông chờ mà không tiến.

    Lại nói vương tôn nước Tần tên là Dị Nhân, từ sau khi Tần, Triệu hội ở Thằng Tri, sang làm con tin ở Triệu. Dị Nhân là con thứ An Quốc quân. An Quốc quân có tên tự là Tử Hề, là thái tử của Chiêu Tương vương. An Quốc quân có hơn hai mươi người con trai, đều là con các nàng hầu, không phải con đích. Sở phi, gọi là Hoa Dương phu nhân là người được yêu nhất, nhưng lại chưa có con trai. Mẹ Dị Nhân là Hạ Cơ, không được yêu lại chết sớm, cho nên Dị Nhân làm con tin ở Triệu. Vua Triệu giận lây đến con tin, muốn giết Dị Nhân. Bình Nguyên quân can ngăn, vua Triệu bèn an trí Dị Nhân ở Tùng Đài, ra vào canh giữ, lại rút bớt lương đi. Dị Nhân suốt ngày uất ức không biết làm thế nào. Bấy giờ có người ở Dương Dịch, họ Lã, tên là Bất Vi, cha con đều làm lái buôn, vẫn đi lại các nước, mua rẻ bán đắt, nên có vốn to, khi đến Hàm Đan gặp Dịn Nhân ở giữa đường, thấy Dị Nhân mặt trắng, môi đỏ, dẫu trong lúc phong trần mà vẫn có vẻ tôn quí, bèn lấy làm lạ, hỏi người bên cạnh xem là ai. Người kia đáp đó là con trai An Quốc quân nước Tần sang Triệu làm con tin, vì quân Tần hay đến đánh Triệu, nên vua Triệu xuýt đem giết đi, nay dù khỏi chết, nhưng bị đày ở Tùng Đài, cấp dụng không đủ nên lại càng khổ lắm. Bất Vi nghe nói nghĩ thầm đó là một món hàng buôn có lợi to, bèn về hỏi cha rằng :

    - Cày ruộng lợi gấp mấy ?

    Người cha nói :

    - Lợi gấp mười.

    Lại hỏi :

    - Buôn châu ngọc lợi gấp mấy ?

    - Lợi gấp trăm.

    Lại hỏi :

    - Nếu giúp cho một người được lên làm vua, thống trị sơn hà, thì lợi gấp mấy ?

    Người cha cười nói rằng :

    - Làm sao giúp cho một người làm vua được ! Nếu giúp được thì lợi đến gấp nghìn gấp muôn, biết thế nào mà tính ?

    Lã Bất Vi liền đem trăm nén vàng kết giao với công tôn Kiên là người vua Triệu sai giám sát Dị Nhân, đi lại dần dần, rồi được tiếp kiến Dị Nhân, giả cách không biết là ai, hỏi lai lịch, công tôn Kiên nói thực cho biết. Một hôm công tôn Kiên đặt tiệc rượu mời Bất Vi. Bất Vi nói :

    - Trong tiệc chẳng có người khách nào khác, có vương tôn nước Tần ở đây sao chẳng mời đến cùng uống rượu cho vui. Công tôn Kiên nghe lời, liền cho mời Dị Nhân đến tiếp Bất Vi, cùng ngồi uống. Tiệc đến giữa chừng, công tôn Kiên đứng dậy đi ra nhà xí, Bất Vi hỏi thầm Dị Nhân rằng :

    - Vua Tần nay đã già, thái tử yêu nhất Hoa Dương phu nhân nhưng phu nhân lại không con; anh em điện hạ có hơn hai mươi người mà chưa có ai được yêu lắm, điện hạ sao không nhân lúc này xin về nước Tần, thờ Hoa Dương phu nhân, xin làm con, mai sau sẽ có hy vọng được làm thái tử.

    Dị Nhân ứa nước mắt nói rằng :

    - Tôi khi nào dám mong điều đó, nhưng mỗi khi nói đến nước cũ, lòng như dao cắt, chỉ giận chưa có kế gì thoát thân được mà thôi.

    Bất Vi nói :

    - Nhà tôi dẫu nghèo, xin đem nghìn vàng, vì điện hạ sang Tần nói với thái tử và phu nhân để cứu điện hạ về nước, ý điện hạ nghĩ thế nào ?

    Dị Nhân nói :

    - Nếu được như lời ngài nói, thì mai sau được phú quý xin cùng ngài hưởng chung.

    Nói vừa xong thì công tôn Kiên vào, hỏi rằng :

    - Lã quân nói chuyện gì thế ?

    Bất Vi nói :

    - Tôi hỏi thăm vương tôn về giá ngọc ở nước Tần, vương tôn từ chối nói là không biết.

    Công tôn Kiên không ngờ, lại sai rót rượu uống, đến lúc thật vui say mới tan.

    Từ đó Bất Vi thời thường đi lại với Dị Nhân, một mặt đưa cho Dị Nhân năm trăm lạng vàng, dặn nên mua chuộc những người tả hữu và tiếp đãi tân khách. Người nhà công tôn Kiên đã được Dị Nhân cho tiền, đều coi Dị Nhân như người một nhà, không còn nghi kỵ gì nữa. Lã Bất Vi lại đem năm trăm vàng mua các đồ quý, từ biệt công tôn Kiền đi sang Hàm Dương, dò biết Hoa Dương phu nhân có người chị gái cũng lấy chồng ở Tần, bèn trước hết mua chuộc người nhà, nhờ vào nói với bà chị rằng vương tôn Dị Nhân ở Triệu lúc nào cũng tưởng nhớ thái tử và phu nhân, có lễ đưa về kính biếu, nhờ Bất Vi chuyển giúp, còn chút lễ mọn này là riêng để kính dâng bà. Rồi đưa ra một cái tráp đựng nhiều món vàng ngọc nhờ dâng lên. Bà chị mừng quá, tự ra nhà ngoài để tiếp khách, bảo Lã Bất Vi rằng :

    - Vương tôn thật là có lòng tốt, nhưng cũng làm phiền quí khách phải đi xa! Ngày nay vương tôn ở Triệu, có còn nhớ đến nước cũ không ?

    Bất Vi nói :

    - Nhà tôi ở đối diện với công quán của vương tôn. Có việc gì vương tôn vẫn nói chuyện với tôi, nên tôi biết rõ tâm sự. Vương tôn ngày đêm lúc nào cũng tưởng nhớ thái tử và phu nhân, nói từ bé mồ côi mẹ, phu nhân tức là đích mẫu, muốn về nước phụng dưỡng để hết đạo hiếu.

    Bà chị hỏi :

    - Vương tôn bấy lâu có được bình yên không ?

    Bất Vi nói :

    - Vì Tần cứ đến đánh Triệu luôn, nên vua Triệu thường muốn đem vươngtôn ra chém, nay may được thần dân hợp sức bảo tấu, nên mới còn sống, vì thế nên lại càng nóng nảy mong về.

    Bà chị hỏi :

    - Thần dân Triệu vì cớ gì lại chịu bảo tấu cho vương tôn ?

    Bất Vi nói :

    - Vương tôn là người hiền hiếu, mỗi khi gặp sinh nhật của vua Tần, thái tử và phu nhân, và các ngày nguyên đán, sóc vọng đều tắm gội chay sạch, đốt hương trông về phía tây mà bái chúc, người Triệu không ai là không biết. Vả lại vương tôn hiếu học, trọng hiền, giao kết khắp bực hiền sĩ các nước. Thiên hạ đều khen là người hiền hiếu. Vì thế thần dân nước Triệu mới bảo tấu cho.

    Bất Vi nói xong, lại lấy mấy món đồ quí, giá đáng chừng năm trăm vàng, dâng lên nói rằng :

    - Vương tôn vì không thể về chầu hầu thái tử và phu nhân được, nên có lễ mọn này để tỏ lòng hiếu thuận, dám phiền vương thân chuyển đệ cho.

    Bà chị sai người nhà làm cơm rượu đãi Lã Bất Vi, rồi đi ngay vào nói chuyện với Hoa Dương phu nhân. Phu nhân thấy các đồ quí, cho là vương tôn thực có lòng yêu mình, trong lòng mừng quá. Bà chị về nói chuyện cho Bất Vi biết. Bất Vi giả cách hỏi rằng :

    - Phu nhân có mấy người con trai?

    Bà chị đáp là chẳng được người nào. Bất Vi nói :

    - Tôi nghe đem sắc đẹp thờ người, hễ sắc suy thì tình yêu cũng hết. Nay phu nhân được thái tử rất yêu mà không có con, thì nên nhân lúc này chọn trong các con chồng, người nào hiền hiếu lấy làm con mình, mai sau người con ấy được lên làm vua, thế lực phu nhân há chẳng càng được vững vàng lắm ru! Nếu không thì sau này sắc đẹp đã kém, lòng yêu chẳng còn, có hối cũng không kịp nữa. Nay Dị Nhân là người hiền hiếu lại hết lòng yêu quý phu nhân, nếu phu nhân cất nhắc lên làm đích tử, như vậy sẽ được tôn quí đời đời ở nước Tần này.

    Bà chị lại đem lời nói ấy vào nói với Hoa Dương phu nhân. Phu nhân cho lời Bất Vi nói là phải, nhân một đêm cùng An Quốc quân uống rượu đang vui, bỗng ứa nước mắt. Thái tử lấy làm lạ, hỏi cớ gì. Phu nhân nói :

    - Thiếp nay được sung vào hậu cung, chẳng may không con. Thiếp xem trong các con của thái tử chỉ có Dị Nhân là người có hiền đức, tân khách chư hầu đi lại, ai nấy đều khen. Nếu được Dị Nhân làm con kế tự thì thân thiếp sau này có chỗ cậy nhờ.

    Thái tử bằng lòng cho. Phu nhân nói :

    - Thái tử hôm nay ưng cho thiếp điều ấy, ngày mai lại nghe lời một cung nhân nào khác, rồi quên đi thì sao ?

    Thái tử nói :

    - Nếu phu nhân không tin, xin khắc thẻ làm chứng.

    Nói đoạn bèn lấy một cái thẻ khắc bốn chữ "Đích tử Dị Nhân" rồi đem chẻ đôi, mỗi người giữ một nửa để làm tin.

    Phu nhân nói :

    - Thái tử đương ở Triệu, làm thế nào mà đem về được ?

    Thái tử nói :

    - Để ta sẽ nhân dịp nào đó mà nói với vua cho.

    Bấy giờ vua Tần đang giận Triệu, thái tử nói việc ấy, nhưng vua Tần không nghe. Bất Vi biết em trai vương hậu là Dương Toàn quân đang được vua yêu, lại đút lót các người môn hạ cầu vào yết kiến Dương Toàn quân, nói rằng :

    - Tội ngài đến chết, ngài có biết không ?

    Dương Toàn quân cả sợ nói rằng :

    - Tôi có tội gì?

    Bất Vi nói :

    - Môn hạ của ngài ai cũng đều ở ngôi cao, bỗng lộc nhiều, hầu non vợ đẹp,mà môn hạ của thái tử thì không ai có quyền thế cả. Đại vương ngày nay tuổi đã già, một mai mất đi, thái tử lên nối ngôi, bọn môn hạ của thái tử tất oán ngài lắm, nguy cơ của ngài đã đến sau lưng rồi đó.

    Dương Toàn quân nói :

    - Bây giờ biết làm thế nào ?

    Bất Vi nói :

    - Tôi có kế này, có thể khiến ngài thọ được trăm tuổi, vững vàng như Thái Sơn, ngài có muốn nghe không ?

    Dương Toàn quân quì xuống hỏi kế.

    Bất Vi nói :

    - Đại vương tuổi đã già mà thái tử lại không có con đích, nay vương tôn Dị Nhân có tiếng là người hiền hiếu mà lại bị bỏ ở nước Triệu, ngày đêm mong mỏi được về, nếu ngài xin được vương hậu nói với vua Tần cho đón Dị Nhân về, khiến thái tử lập làm đích tử, như vậy Dị Nhân không nước mà có nước. Hoa Dương phu nhân không con mà có con, thái tử và vương tôn đều cảm ơn vương hậu đời đời, tước vị của ngài có thể giữ vững được.

    Dương Toàn quân sụp lạy xin theo như lời, rồi đem lời Bất Vi nói với vương hậu. Vương hậu nói với vua Tần.

    Vua Tần nói :

    - Đợi người Triệu xin hoà, ta sẽ đón Dị Nhân về nước.

    Thái tử cho triệu Bất Vi vào hỏi rằng :

    - Ta muốn đón Dị Nhân về nước, phụ vương chưa chuẩn cho, tiên sinh có diệu kế gì không ?

    Bất Vi dập đầu nói rằng :

    - Nếu thái tử quả định lập vương tôn làm kế tự, thì tiểu nhân chẳng dám tiếc gia sản nghìn vàng, đút lót cho các nhà quyền thế nước Triệu, tất có thể mang Dị Nhân về được.

    Thái tử và phu nhân đều cả mừng, đem hai trăm lạng vàng giao cho Lã Bất Vi, nhờ chuyển giao cho Dị Nhân để chi tiêu về việc kết khách. Vương hậu cũng lấy một trăm lạng vàng giao cho Bất Vi. Phu nhân lại sắm cho Dị Nhân một hòm quần áo và tặng riêng Bất Vi một trăm lạng vàng, phong sẵn cho Bất Vi làm thái phó của Dị Nhân, dặn nói cho Dị Nhân biết chẳng mấy ngày nữa sẽ gặp nhau, chớ nên lo nghĩ.

    Bất Vi từ biệt ra về. Đến Hàm Đan, trước hết nói cho cha biết người cha cả mừng. Hôm sau mang lễ vào yết kiến công tôn Kiên, rồi vào chào Dị Nhân, đem lời nói của vương hậu, thái tử và phu nhân nói hết cho nghe, lại đem năm trăm lạng vàng và hòm quần áo giao lại cho Dị Nhân. Dị Nhân cả mừng nói rằng :

    - Hòm quần áo tôi xin nhận, còn số vàng tiên sinh cứ cầm lấy, nếu có việc gì dùng đến xin tuỳ ý tiên sinh, cốt làm sao cứu được tôi về nước, tôi xin cảm ơn vô cùng.

    Lại nói Lã Bất Vi có lấy một người gái đẹp ở Hàm Đan tên là Triệu Cơ, giỏi đàn hát và múa. Biết là ả đã có mang được hai tháng. Bất Vi nghĩ rằng Dị Nhân về nước tất số phận được nối ngôi vua, nếu đem ả này dâng cho hắn, may mà sinh được con trai, đó tức là hòn máu của mình, đứa con trai ấy mà lên làm vua, thì thiên hạ của nhà họ Doanh sẽ về họ Lã, như vậy cái việc mình phá của nhà đi để làm đây mới không uổng. Kế ấy đã định rồi, bèn mời Dị Nhân và công tôn Kiên đến nhà uống rượu, bàn tiệc đủ các đồ ngon vật lạ, và có đàn hát làm vui. Rượu đến nửa chừng, Bất Vi nói :

    - Bỉ nhân mới lấy được đứa hầu non, có biết hát múa, muốn cho nó ra mời rượu, xin các ngài chớ hiềm là đường đột.

    Nói xong, sai hai con hầu vào gọi Triệu Cơ ra, Bất Vi nói :

    - Nàng nên vái chào hai vị quí nhân đây !

    Triệu Cơ thoăn thoắt gót sen, đứng trên thảm nhung cúi đầu hai lần. Dị Nhân và công tôn Kiên vội vàng đáp lễ lại. Bất Vi sai Triệu Cơ tay nâng chén vàng mời Dị Nhân, Dị Nhân ngửa mặt nhìn Triệu Cơ thấy rõ ràng là một vị giai nhân, mày ngài mắt phượng, da tuyết tóc mây, cái vẻ mỹ lệ yêu kiều không bút mực nào tả hết cho được. Triệu Cơ mời rượu xong, liền xóng tay áo đứng trên thảm nhung mà múa, chân tay mềm mại, điệu bộ dịu dàng, làm cho công tôn Kiên và Dị Nhân hoa mắt mê lòng, thần hồn điên đảo, cùng nhau khen ngợi mãi không thôi. Triệu Cơ múa xong. Bất Vi lại sai rót chén lớn dâng mời. Hai người đều uống một hơi hết ngay. Triệu Cơ mời rượu xong, trở vào trong nhà, chủ khách lại cùng nhau thù tạc rất vui. Công tôn Kiên say quá nằm lăn ra, Dị Nhân trong lòng nghĩ đến Triệu Cơ, mượn rượu giả say, nói với Bất Vi rằng :

    - Nghĩ như tôi một mình chơ vơ ở đất khách, quạnh hiu vắng vẻ, vậy muốn xin ngài cho tôi người nàng hầu ấy làm vợ, để được thoả lòng ước ao, không rõ thân giá bao nhiêu, xin ngài dạy cho, tôi xin kính nộp.

    Bất Vi giả cách giận mà nói rằng :

    - Tôi lấy lòng tốt mời điện hạ đến dự tiệc, đem thê thiếp ra mời để tỏ ý kính mến, nay điện hạ lại muốn cướp người yêu của tôi, còn ra nghĩa lý gì ?

    Dị Nhân hổ thẹn quá, liền quì xuống nói rằng :

    - Tôi vì ở nơi đất khách buồn bã, nghĩ lầm ra thế đó cũng là lời nói rồ dại trong khi say rượu, xin ngài rộng lòng tha thứ cho.

    Lã Bất Vi vội vàng đỡ dậy nói rằng :

    - Tôi mưu tính đường về cho điện hạ, cái gia sản nghìn vàng phá hết còn không tiếc, lẽ nào tôi lại tiếc một đứa con gái làm gì. Nhưng con bé ấy còn ít tuổi lại hay thẹn, sợ nó không nghe. Nếu nó bằng lòng tôi xin kính dâng điện hạ để làm kẻ sửa túi nâng khăn.

    Dị Nhân lạy hai lạy tạ ơn, rồi đợi công tôn Kiên tỉnh rượu cùng lên xe trở về. Đêm ấy Bất Vi bảo Triệu Cơ rằng :

    - Vương tôn nước Tần có lòng yêu nàng lắm, xin lấy nàng làm vợ, ý nàng thế nào ?

    Triệu Cơ nói :

    - Thiếp đã đem thân thờ chàng, vả lại đã có thai, nỡ nào chàng lại bỏ, bắt phải thờ người khác ?

    Bất Vi mật bảo rằng :

    - Nàng lấy tôi suốt đời, chẳng qua chỉ là vợ một anh lái buôn. Vị vương tôn ấy sau này sẽ có phận được làm vua Tần, nàng mà được yêu, tất làm vương hậu. May ra sinh con, tức là thái tử, thì tôi với nàng sẽ là cha mẹ vua Tần, đều được phú quí vô cùng. Vậy nàng nên nghĩ tình vợ chồng, nén lòng theo kế tôi, chớ nên tiết lộ.

    Triệu Cơ nói :

    - Việc chàng mưu tính là việc lớn, thiếp cũng xin theo, nhưng mối tình ân ái vợ chồng, lòng nào mà nỡ dứt cho đặng !

    Nói xong ứa nước mắt khóc.

    Bất Vi an ủi rằng :

    - Nếu nàng không quên chút tình cũ, thì mai sau chiếm được thiên hạ nhà Tần, ta vẫn làm vợ chồng không bao giờ rời nhau, há chẳng hay lắm ru!

    Hai người bèn chỉ trời mà thề với nhau rồi cùng đi ngủ, mối tình ân ái lại mặn nồng hơn những đêm xưa. Hôm sau Bất Vi đến công quán, bảo Dị Nhân rằng :

    - Đội ơn điện hạ không hiềm đứa tiểu thiếp quê mùa, dùng làm kẻ hầu khăn lược, tôi phải dỗ mãi nó mới nghe, hôm nay tốt này, xin đưa đến ngự sở để hầu hạ.

    Dị Nhân nói ;

    - Tấm lòng cao nghĩa của tiên sinh, tôi dù nát xương cũng không thể báo đền !

    Công tôn Kiên nói :

    - Đã có cái lương duyên ấy tôi xin đứng ra làm mối !

    Bèn sai người nhà làm tiệc mừng. Bất Vi từ tạ về, đến chiều dùng xe đưa Triệu Cơ đến cùng Dị Nhân thành thân.

    Dị Nhân lấy được Triệu Cơ như cá gặp nước, yêu mến lạ thường, được hơn một tháng, Triệu Cơ nói với Dị Nhân rằng :

    - Thiếp hầu được hầu điện hạ, trời cho nay đã có thai rồi.

    Dị Nhân không biết chuyện, ngỡ là giọt máu của mình, vui mừng khôn xiết. Triệu Cơ đã có mang hai tháng rồi mới lấy Dị Nhân, sau đó tám tháng thì vừa được mười tháng, đáng lẽ đến kỳ sinh nở thì phải, vậy mà vẫn không thấy chuyển động. Có lẽ trời sinh ra một vị chân mệnh đế vương, không giống người thường, nên mãi đến lúc đúng mười hai tháng mới sinh một đứa con trai. Khi sinh ra có ánh sáng đỏ rực nhà, trăm thứ chim bay đến lượn múa. Đứa bé mũi to, mắt dài, trán rộng, mỗi mắt có hai con ngươi, trong miệng đã có vài cái răng, khóc rất to, đi ngoài đường cũng nghe tiếng. Dị Nhân cả mừng nói rằng :

    - Ta nghe các chân chúa sinh ra, tất có điềm lạ. Thằng bé này cốt tướng khác thường, lại đẻ vào ngày mồng một tháng giêng, ngày sau tất cầm quyền ngự trị thiên hạ.

    Bèn dùng họ Triệu Cơ gọi là Triệu Chính. (Về sau Chính nối ngôi làm vua Tần, kiêm tính sáu nước, tức là Tần Thuỷ Hoàng). Lã Bất Vi nghe tin Triệu Cơ sinh con trai, trong lòng mừng thầm rằng mưu kế của mình đã có kết quả. Năm Triệu Chính đã lên ba tuổi, quân Tần lại vây đánh thành Hàm Đan rất gấp. Bất Vi bảo Dị Nhân rằng :

    - Vua Triệu nếu lại giận lây đến điện hạ, thì làm thế nào? Chi bằng điện hạ phải trốn về Tần mới có thể thoát được.

    Dị Nhân nói :

    - Việc này đều nhờ tiên sinh trù tính giúp.

    Lã Bất Vi bỏ ra sáu trăm cân vàng, lấy ba trăm đút lót các quân tướng giữ thành ở cửa nam, nói rằng :

    - Tôi từ Dương Dịch đem cả nhà đến đây buôn bán, không may gặp quân Tần kéo đến vây thành lâu ngày quá, tôi nhớ nhà lắm, nên đem hết vốn chia cả cho các ngài, chỉ xin rộng lòng thả cho cả nhà tôi ra khỏi thành để về Dương Dịch, thì tôi và toàn gia được đội ơn vô cùng.

    Các quân tướng giữ cửa thành bằng lòng cho, lại đem trăm cân vàng dâng công tôn Kiên, tỏ ý muốn trở về Dương Dịch, nhờ công tôn Kiên nói với tướng giữ cửa nam hộ. Nói lót đã êm cả rồi. Bất Vi bèn bảo Dị Nhân đem con Triệu Cơ mật gửi ở nhà người mẹ. Hôm ấy Bất Vi làm rượu mời công tôn Kiên, nói rằng :

    - Chỉ trong ba ngày nữa tôi sẽ ra khỏi thành, gọi là có chén rượu để từ biệt.

    Khi uống rượu, Bất Vi cố ép để cho công tôn Kiên uống thật say. Các người tả hữu và quân lính đều được đãi nhiều rượu thịt, ăn uống tha hồ no say rồi ai nấy đều đi nghĩ, đến nửa đêm, Dị Nhân cải trang, lần vào trong đám đầy tớ, theo cha con Bất Vi đi ra cửa nam. Tướng giữ thành không biết thực giả, mở khoá để cho cả bọn ra khỏi cửa thành.

    Đại doanh Vương Hạt vốn ở ngoài cửa tây. Vì cửa nam là đường lớn đi về Dương Dịch. Bất Vi đã nói là đi về làng, cho nên phải đi ra cửa nam. Ba người cùng bọn đầy tớ luôn ban đêm ra đi, ngoặt một vòng dài đi về hướng quân Tần. Đến lúc trời sáng, bị quân Tần đi tuần bắt được. Bất Vi chỉ vào Dị Nhân nói rằng :

    - Đây là vương tôn nước Tần, bấy lâu làm con tin ở Triệu, nay trốn ra khỏi Hàm Đan để về nước đó, các ngươi nên mau mau dẫn đường !

    Bọn lính tuần nhường ngựa cho ba người cưỡi, dẫn đến đại dinh Vương Hạt. Vương Hạt biết rõ lai lịch rồi cho mời vào, lấy mũ áo cho Dị Nhân thay, đặt tiệc khoản đãi. Vương Hạt nói :

    - Đại vương thân đến đây đốc chiến, hành cung ở cách đây không đầy mười dặm.

    Tiệc xong, Vương Hạt sai lấy xe ngựa đưa Dị Nhân đến hành cung. Vua Tần thấy Dị Nhân mừng quá, nói rằng :

    - Thái tử ngày đêm nhớ cháu, nay trời xui cháu ta được thoát khỏi miệng hùm, vậy cháu nên về Hàm Dương trước, để cho cha mẹ cháu mừng !

    Dị Nhân từ biệt vua Tần, cùng cha con Bất Vi lên xe về Hàm Dương.​
     
  5. Lôi Soái

    Lôi Soái And so the legend begin! Đại Boss

    Tham gia ngày:
    22/8/14
    Bài viết:
    98,235
    Được thích:
    359,685
    Đông Chu Liệt Quốc
    Tác giả: Phùng Mộng Long
    Chương 100: Lỗ trong liên quyết không chịu tôn tần tín lăng quân trộm binh phù cứu triệu

    Dịch giả: Nguyễn Đỗ Mục.
    Nguồn: NXB Văn Học

    Lã Bất Vi cùng Dị Nhân về đến Hàm dương, đã có người báo trước cho thái tử An Quốc biết. An Quốc quân bảo Hoa Dương phu nhân rằng:

    - Con ta đã về đến nơi!

    Rồi cùng phu nhân ngồi trong nhà giữa để đợi. Bất Vi bảo Dị Nhân rằng:

    - Hoa Dương phu nhân là con gái nước Sở, điện hạ đã làm con, nên dùng y phục người Sở vào chào để tỏ lòng quyến luyến.

    Dị nhân theo lời, thay áo xong, đi vào đông cung, trước lạy An Quốc quân, rồi lạy phu nhân, khóc mà nói rằng:

    - Đứa con bất hiếu này, lâu ngày cách mặt song thân, không được chầu hầu, cúi xin hai thân tha cho tội bất hiếu!

    Phu nhân thấy Dị Nhân đầu đội mũ phương nam, chân đi giày da báo, áo ngắn, đai da, lấy làm lạ hỏi:

    - Con ở Hàm đan, sao lại bắt chước cách ăn mặt của người Sở?

    Dị Nhân lạy nói rằng:

    - Đứa con bất hiếu này ngày đêm tưởng nhớ mẹ hiền, cho nên chế riêng quần áo nước Sở mà mặc để tỏ lòng nhớ thương.

    Phu nhân cả mừng nói rằng:

    - Thiếp là người Sở, xin lấy nó làm con.

    An Quốc quân nói:

    - Từ nay con nên đổi tên họ là Tử Sở.

    Dị Nhân lạy dạ, An Quốc quân hỏi Tử Sở làm sao trốn về được, Tử Sở đem việc vua Triệu mưu hại và việc Bất Vi phá cửa nhà để đút lót, kể hết một lượt. An Quốc quân liền cho mời Bất Vi vào, yên ủi rằng:

    - Không có tiên sinh, thì tôi mất đứa con hiền hiếu. Nay lấy hai trăm vạt ruộng bổng Đông cung và một tòa nhà, năm chục cân vàng, tạm để tiên sinh tiêu dùng, đợi phụ vương về nước sẽ gia tặng quan chức sau.

    Bất Vi tạ ơn lui ra, còn Tử Sở ở lại trong cung Hoa Dương phu nhân.

    Lại nói Công tôn Kiền đêm ấy mãi đến gần sáng mới tỉnh rượu, các người tả hữu đến báo là cả nhà vương tôn nước Tần không biết đi đâu, bèn sai người đi hỏi Lã Bất Vi thì Bất Vi cũng đi rồi. Công Tôn Kiền cả sợ nói rằng:

    - Bất Vi nói trong ba ngày nữa mới đi, làm sao nữa đêm đã đi ngay?

    Rồi đến cửa nam tra hỏi, tướng giữ cửa đáp rằng gia quyến Bất Vi ra khỏi thành đã lâu, và đó là họ dâng theo lệnh Kiền. Công tôn Kiền nói:

    - Có thấy vương tôn Dị Nhân không?

    Tướng giữ cửa nói:

    - Chỉ thấy cha con họ Lã và mấy người đầy tớ, chứ không thấy có Dị Nhân.

    Công tôn Kiền dậm chân than rằng:

    - Trong bọn đầy tớ ấy tất có Dị Nhân, thôi ta mắc mưu thằng lái buôn rồi!

    Lập tức dâng biểu lên vua Triệu, thú tội canh giữ không cẩn thận, để con tin nước Tần là Dị Nhân trốn mất, tội thực khôn tránh. Rồi cầm gươm đâm cổ mà chết.

    Vua Tần từ khi vương tôn Dị Nhân trốn về được, lại càng ra sức đánh Triệu. Vua Triệu sai sứ cầu Ngụy tiến binh. Khách tướng quân là Tân Viên Diễn hiến lế rằng:

    - Tần sở dĩ gấp vây Triệu là có cớ. Trước đây Tần cùng Mân vương nước Tề tranh nhau xưng đế rồi lại thôi; nay Mân vương đã chết, Tề càng yếu, chỉ còn một mình Tần là hùng cường, mà chưa xưng đế, thì chưa được hài lòng. Ngày nay cứ đem quân đánh lấn mãi không thôi, ý riêng vua Tần là chỉ muốn cầu được xưng đế mà thôi. Vậy ta nên nói với nước Triệu sai sứ đến xin vua Tần làm đế, vua Tần tất mừng mà bãi binh, đó là lấy hư danh mà tránh khỏi thực họa vậy.

    Vua Ngụy vốn sợ việc cứu Triệu, nên cho kế ấy là rất phải, sai ngay Tân Viên Diễn theo sứ Triệu đi sang Hàm đan, đem kế ấy nói với vua Triệu. Vua Triệu cùng quần thần bàn xem nên chăng thế nào, mỗi người một ý, mãi không quyết định được. Bình Nguyên quân trong lòng bối rối, cũng không quyết định ra thế nào. Bấy giờ, có người nước Tề là Lỗ Trọng Liên năm mười hai tuổi đã khuất phục được tay biện sĩ Điền Ba, người bấy giờ khen là “Thiên ký câu” 1. Điền Ba nói:

    - Người ấy là con thỏ bay, há chỉ là con ngựa đi được ngàn dặm thôi ư?

    Khi lớn lên, Lỗ Trọng Liên không thích làm quan, chỉ thích đi chơi xa, giải quyết những sự khó khăn, bối rối cho người. Bấy giờ Lỗ Trọng Liên cũng đang ở trong thành Hàm đan nước Triệu, nghe nói sứ Ngụy đến tôn Tần làm đế, thì giận lắm, bèn đến yết kiến Bình Nguyên quân, nói rằng:

    - Người ngoài đường nói ngày sắp mưu tôn Tần làm đế, việc ấy có không?

    Bình Nguyên quân nói:

    - Thắng này như con chim sợ cung, hồn phách đã lạc rồi, còn dám nói gì nữa. Việc ấy là do vua Ngụy sai tướng quân Tân Viên Diễn sang nói đó thôi.

    Lỗ Trọng Liên nói:

    - Ngài là một vị hiền công tử trong thiên hạ mà lại ủy thác sinh mệnh cho người khách nước Ngụy ư? Bây giờ Tân Viên Diễn ở đâu, tôi xin lấy lẽ phải trái nói với ông ta để ông ta về đi thôi.

    Bình Nguyên quân bèn nói với Tân Viên Diễn. Tân Viên Diễn vốn đã nghe tiếng Lỗ Trọng Liên, biết Lỗ trọng Liên là người hùng biện, sợ quấy rối cái kế của mình, bèn từ chối không muốn tiếp kiến. Bình Nuyên quân cố nài ép, Tân Viên Diễn bèn chịu mời Lỗ Trọng Liên cùng đến công quán, để hội kiến. Tân Viên Diễn nhìn Lỗ Trọng Liên, thấy thần thanh cốt sảng, có cái phong độ thần tiên, thì đem long kính trọng, nói rằng:

    - Tôi xem vẽ thanh cao của tiên sinh, chắc không phải muốn cầu xin Bình Nguyên quân điều gì. Vậy sao cứ ở mãi trong cái thành bị vây này mà không đi?

    Lỗ Trọng Liên nói:

    - Liên này không có xin gì Bình Nguyên quân cả, nhưng có điều muốn xin với tướng quân.

    Diễn nói:

    - Tiên sinh xin điều gì?

    Liên nói:

    - Xin giúp Triệu và chớ tôn Tần làm đế.

    Diễn nói:

    - Tiên sinh lấy gì giúp Triệu?

    Liên nói:

    - Tôi sẽ khiến nước Ngụy cùng nước Yên giúp sức, còn Tề, Sở thì đã giúp rồi.

    Diễn cười rồi nói rằng:

    - Yên thì tôi không biết, còn Ngụy thì tôi đây là người Đại lương, tiên sinh làm gì mà có thể bắt tôi giúp Triệu?

    Liên nói:

    - Ngụy chưa thấy cái hại Tần xưng đé thế nào, nếu thấy rõ cái hại, thì tất là phải giúp Triệu.

    Diễn nói:

    - Tần xưng đế thì hại thế nào?

    Liên nói:

    - Tần là một nước bỏ lễ nghĩa mà chuộng công lợi, cậy sức mạnh, quen lừa dối, tàn hại sinh linh, nay nó đang làm chủ hầu mà còn như thế, nếu nó lại xưng đế thì tất lại càng tàn nhẫn. Liên này thà nhảy xuống bể đông mà chết, chứ không chịu làm dân nước ấy. Vậy mà Ngụy lại cam tâm làm kẻ dưới nó ư?

    Diễn nói:

    - Nào phải Ngụy cam tâm làm kẻ dưới! Vì như mười tên đầy tớ mà theo một người, há phải trí lực không bằng chủ nhân đâu, chỉ là sợ đó thôi.

    Liên nói:

    - Ngụy lại coi mình như kẻ đầy tớ ư? Tôi sẽ khiến vua Tần mổ và ướp thịt vua Ngụy!

    Diễn phật ý, nói rằng:

    - Tiên sinh có cách gì khiến được vua Tần mổ và ướp thịt vua Ngụy?

    Liên nói:

    - Xưa kia, Quí hầu, Ngạc hầu, Văn vương là ba vị đại thần của vua Trụ; Quí hầu có người con gai đẹp đem dâng vua Trụ, người con gái không hiếu dâm, nên bị Trụ giận, giết đi và ướp thịt Quí hầu. Ngạc hầu can, Trụ lại mổ luôn cả Ngạc hầu, Văn vương nghe tin chỉ than ngầm mà cũng bị Trụ giam vào Dữu lý, xuýt mữa bị giết. Nào phải hai vị đại thần ấy trí lực không bằng vua Trụ đâu? Nhưng thiên tử đối xử với chư hầu, vốn là như thế. Tần đã xưng đế tất bắt Ngụy phải vào triều. Nếu Tần làm cai việc giết Quí hầu, Ngạc hầu, thì ai có thể cấm được?

    Tân Viên Diễn nghĩ ngợi chưa đáp ra sao.

    Liên lại nói:

    - Không những thế mà thôi, Tần mà xưng đế, tất lại thay đổi các đại thần của chư hầu, đuổi người ghét đi mà dựng người yêu lên, lại sẽ xem con gái và thiếp làm vợ các vua chư hầu, vua Ngụy chắc có được yên ổn mà ở ngôi không?

    Tân Viên Diễn bèn đứng vậy, vái hai vái mà nói rằng:

    - Tiên sinh thực là bực thiên hạ sĩ vậy. Diễn xin về tâu với quốc vương từ nay không dám lại nói đến việc tôn Tần nữa.

    Vua Tần nghe tin sứ Ngụy đến bàn việc tôn Tần thì mừng lắm, hoãn việc đánh thành để đợi xem; đến khi nghe cái nghị ấy không thành sứ Ngụy đã đi, bèn than rằng:

    - Trong cái thành bị vây này còn có người giỏi, không nên khinh thường.

    Bèn lui quân đóng ở Phần thủy, dặn Vương Hạt phải lưu tâm phòng giữ.

    Lại noi sau khi Tân Viên Diễn đi rồi, Bình Nguyên quân lại sai người đến Hạ nghiệp, cầu cứu với Tấn Bỉ, Bỉ lấy cớ là có mệnh vua mà từ chối. Bình Nguyên quân bèn gởi thư cho Tín Lăng quân Vô Kỵ, nói rằng:

    “Thắng này sở dĩ kết nghĩa hôn nhân với công tử, là nghĩ công tử có lòng cao nghĩa hay cứu giúp sự khốn ách cho người, nay thành Hàm đan sắp phải hàng Tần, mà quân cứu viện của Ngụy không đến, như vậy Thắng này còn trông cậy người than về nổi gì? Bà chị của công tử lo thành phá, ngày đêm thương khóc, công tử dù chẳng nghĩ đến Thắng thì chớ, nhưng lại không nghĩa đến chị ư?”

    Tín Lăng quân sau khi được bức thư ấy, nói luôn với vua Ngụy xin truyền cho Tấn Bỉ tiến binh. Vua Ngụy nói:

    - Nước Triệu không chịu tôn Tần làm đế, lại muốn nhờ sức người khác để lui Tần ư?

    Vua Ngụy quyết ý không cho, Tín Lăng quân lại sai tân khách biện sĩ, dung trăm cách nói khéo, vua Ngụy vẫn khăng khăng không nghe. Tín Lăng quân nói:

    - Cái nghĩa ta không thể phụ Bình Nguyên quân được, ta thà một mình sang Triệu cùng Bình Nguyên quân cùng chết!

    Rồi sắp hơn trăm cổ xe, ước với các tân khách muốn xông thẳng vào quân Tần, để chết theo Bình Nguyên quân. Tân khách xin đi theo hơn nghìn người. Khi đi qua Di môn, đến từ biệt Hầu sinh. Hầu sinh nói:

    - Công tử cố lên, tôi già rồi không thể đi theo được, xin trớ trách!

    Tín Lăng quân luôn luôn nhìn Hầu sinh. Hầu sinh không nói gì cả. Tín Lăng quân buồn bực mà đi, chừng được hơn mười dặm nghĩ thầm ta đãi Hầu sinh có thể nói là hết lễ, nay ta đi sang Tần là đi và chỗ chết, mà Hầu sinh tuyệt không nói được một câu hay nửa lời để mưu tính cho ta, lại không ngăn trở ta đi, như thế thật đáng lấy làm lạ quá! Nghĩ vậy rồi bảo tân khách hãy dừng lại, một mình quay xe trở lại yết kiến Hầu sinh. Tân khách đều nói:

    - Cái lão già gần chết ấy, đã tỏ ra là đồ vô dụng, công tử còn đến làm gì nữa?

    Tín Lăng quân không nghe. Đến nơi đã thấy Hầu sinh đứng ở ngoài cửa, cười mà nói rằng:

    - Doanh này chắc thế nào công tử cũng trở lại.

    Tín Lăng quân nói:

    - Sao tiên sinh lại biết là tôi tất trở lại?

    Hầu sinh nói:

    - Công tử đãi tôi hậu, nay công tử đi vào nơi nguy hiểm mà tôi không đi tiễn, tất là giận tôi, cho nên tôi biết là công tử tất trở lại.

    Tín Lăng quân vái hai vái nói rằng:

    - Lúc đầu Vô Kỵ này ngỡ là có điều lỗi với tiên sinh, mà bị ghét bỏ, cho nên phải trở lại để xin cho biết là vì cớ gì?

    Hầu sinh nói:

    - Công tử nuôi khách đã vài mươi năm nay, chưa nghe một người khách nào nghĩ ra một kế gì, mà chỉ biết cùng công tử xông vào quân Tần, khác gì đem thịt đến cho hổ đói, phỏng có ích gì không?

    Tín Lăng quân nói:

    - Vô Kỵ này cũng biết là vô ích, nhưng nghĩ cùng Bình Nguyên quân là chỗ than, không thể sống một mình, nay tiên sinh có kế gì giúp cho được không?

    Hầu sinh nói:

    - Mời công tử hãy vào nhà, để lão thần nghĩ kế đã.

    Bèn đuổi các người theo hầu ra ngoài rồi hỏi rằng:

    - Nghe nói nàng Như Cơ được vua Ngụy yêu lắm phải không?

    Tín Lăng quân nói:

    - Phải.

    Hầu sinh nói:

    - Doanh này lại nghe người cha nàng Như Cơ năm xưa bị người ta giết, Như Cơ nói với vua muốn báo thù cha, nhưng tìm kẻ thù ba năm mà không được. Về sau công tử có sai khách chém đầu kẻ ấy để dâng Như Cơ. Việc ấy có quả thế không?

    Tín Lăng quân nói:

    - Quả có việc ấy.

    Hầu sinh nói:

    - Như Cơ cảm cái ơn công tử, muốn vì công tử mà chết, không phải mới một ngày. Nay cái binh phù của Tấn Bỉ ở trong chỗ vua nằm, chỉ có Như Cơ có thể lấy trộm được. Công tử nếu chịu khó xin với Như Cơ, Như Cơ tất là nghe theo, công tử được cái binh phù ấy, có thể cướp được binh quyền của Tấn Bỉ, để cứu Triệu mà lui được quân Tần, đó là cái công của ngũ bá vậy.

    Tín Lăng quân nghe nói như người ngủ mê mới tỉnh, lạy hai lạy tạ ơn, rồi bảo tân khách hãy đợi cả ngoài thành, một mình quay xe về nhà, nhờ một người nội thị quen than, tên là Nhan An đem việc lấy trộm binh phù xin riêng với Như Cơ. Như Cơ nói:

    - Công tử đã xin đến, dù nguy hiểm thế nào thiếp cũng không dám từ!

    Đêm ấy vua ngụy uống rượu say, Như Cơ liền lấy trộm hổ phù giao cho Nhan An, chuyển đưa cho Tín Lăng quân. Tín Lăng quân được binh phù, lại đến hỏi Hầu sinh.

    Hầu sinh nói:

    - Làm đại tướng ở bên ngoài, có khi không tuân mệnh vua cũng dược. Công tử khi đã hợp binh phù rồi mà Tấn Bỉ không tin, còn muốn tâu lại với vua Ngụy một lần nữa, thì việc hỏng mất. Tôi có người khách là Chu Hợi, là tay lực sĩ, công tử nên đem hắn cùng đi. Tấn Bỉ nghe thì hay lắm, nếu không nghw thì sai Chu Hợi đánh chết đi!

    Tín Lăng quân bỗng chảy nước mắt khóc.

    Hầu sinh nói:

    - Công tử sợ chăng?

    Tín Lăng quân nói:

    - Tấn Bỉ là một lão tướng vốn không có tội rgì, nếu vì không nghe mà ta phải giết đi, tôi nghĩ mà thương tâm, chứ không có sợ gì cả!

    Nói rồi cùng Hầu sinh đi đến nhà Chu Hợi, nói rõ sự tình.

    Chu Hợi nói:

    - Tôi là một đứa hàng thịt hèn mạt, đội ơn công tử thời nhường hạ cố, sở dĩ không báo ơn lại, vì cho rằng cái lễ nhỏ chẳng làm gì. Nay công tử có việc khẩn cấp, chính là cái ngày Hợi này phải hiến thân.

    Hầu sinh nói:

    - Đáng lẽ tôi phải đi theo, nhưng vì tuổi già không thể đi xa được, xin lấy hồn tiễn công tử. Dứt lời liền đâm cổ chết trước xe.

    Tín Lăng quân thương xót Hầu sinh, hậu cấp cho gia quyến, rồi lập tức cùng Chu Hợi lên xe đi.

    Lại nói vua Ngụy mất binh phù ở trong chỗ nằm ngủ, sau ba ngày mới biết, lấy làm lạ quá, hỏi Như Cơ, Như Cơ chỉ nói là không biết. Vua Ngụy sai đi tìm khắp trong cung chẳng thấy đâu cả, sai Nhan An đem cung nga, nội thị xem những đứa nào hầu ở nội tẩm đánh tra từng đứa. Nhan An chỉ giả vờ tra hỏi qua loa. Lại qua một ngày nữa, vua ngụy mới sực nhớ ra công tử Vô Kỵ thường hết lời khuyên mình hạ lệnh cho Tấn Bỉ tiến binh, khách khứa ở nhà hắn, có nhiều kẻ giỏi nghề trộm cắp, việc này tất là hắn làm, chứ không còn ai nữa. Rồi lập tức cho triệu Tín Lăng quân thì người đi triệu về báo là bốn năm ngày trước, Tín Lăng quân đã cùng hơn nghìn tân khách và trăm cổ xe đi ra ngoài thành, nghe nói là đi cứu Triệu. Vua Ngụy giận quá, lập tức sai tướng là Vệ Khánh mang ba nghìn quân luôn đêm đuổi theo Tín Lăng quân.

    Lại nói trong thành Hàm đan mong mỏi quân cứu, mãi chẳng thấy quân nước nào đến cả. Dân chúng sức đã kiệt rồi, lao nhao bàn muốn ra hang. Vua Triệu lo quá. Có người trưởng trạm tên là Lý Đồng bảo Bình Nguyên quân rằng:

    - Dan chúng ngày ngày phải ở trên mặt thành canh giữ, mà ngài yên hưởng giàu sang, thì còn ai chịu vì ngài mà ra sức mữa. Nếu ngài có thể bắt từ phu nhân trở xuống, đem ghép vào các hàng ngũ, chia việc mà làm, trong nhà có bao nhiêu tiền lụa, đem hết cho các tướng sĩ, tướng sĩ đang ở trong cơn nguy khổ, dễ biết cảm ơn, tất lại càng ra sức chống cự quân Tần.

    Bình Nguyên quân nghe theo như lời, lại mộ được hơn ba nghìn quân cảm tử, sai Lý Đồng thống suất, dòng dây qua thành mà ra, nhân lúc đêm đến cướp dinh, giết được hơn nghìn quân Tần. Vương Hạt sợ quá, phải lui ra ngoài ba mươi dặm hạ trại. Bấy giờ người trong thành mới hơi được yen tâm. Lý Đồng mình bị trọng thương, về đến thành thì chết, Bình Nguyên quân thương khóc, sai chon cất tử tế.

    Lại nói Tín Lăng quân đi đến Nghiệp hạ, vào yết kiến Tấn Bỉ, nói rằng:

    - Đại vương nghĩ tướng quân dầu dãi ở bên ngoài đã lâu ngày, nên sai Vô Kỵ đến đây để chịu thay sự khó nhọc.

    Nói xong bảo Chu Hợi đem binh phù cho Tấn Bỉ xét nghiệm. Tấn Bỉ cầm binh phù ở tay, nghĩ thầm vua Ngụy đem mười vạn quân giao cho mình, mình dù hèn, nhưng chưa mắc tội phải thua trận, nay vua Ngụy chẳng có thư từ gì, mà công tử chỉ tay không mang cái binh phù đến đòi thay mình, việc này không thể vội tin được. Nghĩ vậy bèn bảo Tín Lăng quân rằng:

    - Công tử hãy tạm nghĩ vài ngày, đợi tôi đem quân ngũ lập thành sổ sách, bàn giao rõ ràng, có được không?

    Tí Lăng quân nói:

    - Thành Hàm đan tình thế rất nguy, phải lập tức đến cứu, lẽ nào lại còn đợi được.

    Tấn Bỉ nói:

    - Thực không dám nói dối, vì việc này là quân cơ đại sự, để tôi còn phải tâu xin đại vương, rồi mới dám ra quân.

    Tấn Bỉ nói chưa dứt lời, Chu Hợi thét lên rằng:

    - Nguyên súy không vâng lệnh vua là có ý làm phản!

    Tấn Bỉ vừa hỏi được một câu “Mày là đứa nào?” thì Chu Hợi đã lấy trong tay áo ra một cái vùi sắt nặng bốn mươi cân, nhằm đánh một cái vào đầu Tấn Bỉ, vỡ sọ, vọt óc ra, chết ngay lập tức. Tín Lăng quân cầm binh phù bảo chư tướng rằng:

    - Vua Ngụy có mệnh, sai tat hay Tấn Bỉ đem quân cứu Triệu. Tấn Bỉ không vâng mệnh, nay đã giết chết. Ba quân phải yên long nghe lệnh không được dao động!

    Trong din him lặng. Đến khi Vệ Khánh theo đến Nghiệp hạ, thì Tín Lăng quân đã giết chết Tấn Bỉ giữ lấy binh quyền rồi. Vệ Khánh biết là Tín Lăng quân đã quyết cứu Triệu, muốn từ ra về, Tín Lăng quân nói:

    - Nhà ngươi đã đến đây, chờ sau khi ta phá được quân Tần, hãy trở về tâu với đại vương!

    Vệ Khánh phải nghe lời, sai người về trước, mật báo với vua Ngụy, còn mình thì ở lại trong quân. Tín Lăng quân đại khao ba quân, lại hạ lệnh rằng cha con cùng ở trong quân thì cha về, an hem cùng ở trong quân thì anh về, con một không có an hem thì cho về nuôi cha mẹ, có tật bệnh thì được ở lại trong dinh chữa thuốc. Theo như lệnh ấy, số người cáo về chừng hai phần mười, còn được tám vạn tinh binh chỉnh tề bộ ngũ, định rõ quân pháp. Tín Lăng quân tự mình đem các tân khách đi trước sĩ tốt, tiến đánh dinh Tần. Vương Hạt không ngờ quân Ngụy chợt đến, thảng thốt chống đánh. Quân Ngụy hăng hái tiến lên. Bình Nguyên quân cũng mở cửa thành tiếp ứng, hai bên đại chiến, dậy đất vang trời. Vương Hạt tổn hại quân lính đến một nữa, chạy đến đại doanh Phần thủy. Vua Tần truyền lệnh giải vây mà đi. Trịnh An Bình đốc suất hai vạn quân dàn đóng ở cửa đông, bị quân Ngụy ngăn lối không về được, nghĩ mình vốn là người Ngụy, bèn ra hang quân Ngụy. Xuân Thân quân nghe quân Tần đã giải vây, cũng rút quân về. vua Hàn thừa cơ lấy lại thành Thượng đảng. Vua Triệu than hành đem trâu rượu ra khao quân, lạy tạ Tín Lăng quân và nói rằng:

    - Nước Triệu mất mà lại còn là nhờ ở sức công tử.

    Bình Nguyên quân cắp nỏ làm quân tiền khu cho Tín Lăng quân. Tín Lăng quân hơi có vẽ cậy công, Chu Hợi nói:

    - Người có ơn với công tử, công tử chớ nên quên; công tử có ơn với người, thì công tử phải quên đi. Công tử giả mệnh vua, cướp quân của Tấn Bỉ để cứu Triệu, đối với Triệu dẫu có công, nhưng đối với Ngụy lại là có tội, công tử lại tự lấy làm công ư?

    Tín Lăng quân cả thẹn nói rằng:

    - Vô Kỵ này kính xin vâng lời dạy.

    Khi Tín Lăng quân vào thàh Hàm đan, vua Triệu tự tay quét dọn cung thất để đón, giữ lễ chủ nhân rất là cung kính, rót rượu chúc mừng, ca tụng cái công cứu vớt nước Triệu, rồi đem đất Hoắc phong cho Vô Kỵ làm đất ăn lộc. Vô Kỵ nghĩ mình có tội với vua Ngụy, không dám về nước, bèn đem binh phù giao cho Vệ Khánh đốc quân về Ngụy, còn mình ở lại nước Triệu. Vua Triệu lại lấy ấp lớn phong cho Lỗ Trọng Liên, Lỗ Trọng Liên cố từ. Vua Triệu biếu nghìn cân vàng Liên cũng không nhận, nói rằng:

    - Được giàu sang mà chịu khuất với người, thà cam bần tiện mà được tự do!

    Tín Lăng quân và Bình Nguyên quân đều cố giữ kại, nhưng Lỗ Trọng Liên không nghe, rồi bỏ đi.

    Bấy giờ nước Triệu có người xử sĩ là Mao công, ẩn thân trong bọn đánh bạc; lại có Tiết công ẩn than trong nhà bán rượu. Tín Lăng quân vốn nghe tiếng, sai Chu Hợi đến hỏi thăm, hai người đều tránh mặt không tiếp. Bỗng một hôm Tín Lăng quân theo dõi hai người, biết Mao công ở nhà Tiết công, thì không dung xe ngựa, chỉ đem theo một mình Chu Hợi, vi phục 2, đi chân, giả làm người bán rượu, đi thẳng đến nơi, cùng hai người giáp mặt. Hai người đang cùng ngồi uống rượu. Tín Lăng quân đi thẳng vào, tự nói họ tên và tỏ ý hâm mộ bấy lâu. Hay người chạy tránh không kịp, đành phải tiếp kiến, rồi bốn người cùng uống rượu, hết sức vui say mới tan. Từ đó, Tín Lăng quân thường cung Tiết công, Mao công cùng chơi. Bình Nguyên quân nghe nói bảo phu nhân rằng:

    - Tôi nghe lệnh đệ là bậc hào kiệt, trong đám công tử không ai bằng; thế mà nay lại chơi bời với thằng đánh bạc và thằng bán rượu, không phải cùng bậc với mình, e có hại cho danh dự!

    Phu nhân đem lời ấy bảo Tín Lăng quân.

    Tín Lăng quân nói:

    - Tôi vẫn cho Bình Nguyên quân là một người hiền, nên cam phụ vua Ngụy, mang quân đến cứu. Nay xem ra Bình Nguyên quân giao tiếp tân khách, chỉ chuộng những người hào hoa, không cần hiền sĩ. Vô Kỵ này khi ở Ngụy, vẫn nghe Triệu có Mao công, Tiết công, tiếc không được giao du. Ngày nay được gặp mặt, dù nhún mình theo sau người ta, chưa chắc họ đã thèm chơi với mình, mà Bình Nguyên quân lại lấy đó làm xấu hổ, sao gọi là biết yêu kẻ sĩ được. Bình Nguyên quân không phải là kẻ hiền, ta không nên ở đây nữa.

    Ngay ngày hôm ấy, Tín Lăng quân bảo các tân khách sắp sửa hành trang đi sang nước khác. Bình Nguyên quân nghe tin và hỏi rõ nguồn cơn, tự trách mình không biết, thực mình kém. Tín Lăng quân lại ở lại nước Triệu.

    Lại nói vua Ngụy tiếp được mật báo của Vệ khánh, nói công tử Vô Kỵ lấy trộm binh phù, giết chết Tấn Bỉ, tự cầm quân đi cứu Triệu và Giữ Vệ Khánh ở trong quân không cho về nước. Ngụy vương giận quá, muốn bắt hết cả gia quyến Tín Lăng quân và giết hết những tân khách của Tín Lăng quân còn ở lại trong nước. Như Cơ bèn quì xin rằng:

    - Đó không phải là tội công tử, chính là tội tiện thiếp này, tội thiếp thực đáng chết.

    Vua Ngụy gầm thét cả giận hỏi rằng:

    - Kẻ lấy trộm binh phù lại chính là mày ư?

    Như Cơ nói:

    - Cha thiếp bị người giết chết. Đại vương làm vua một nước, không thể báo thù cho thiếp mà công tử báo được, thiếp cảm cái ân sâu ấy, giận không có dịp gì để báo đền. Nay thấy công tử vì cớ thương chị, ngày đêm lo buồn, tiện thiếp không nỡ, cho nên cả gan lấy trộm binh phù giao cho công tử để được thay Tấn Bỉ cầm quân đi cứu Triệu. Ngụy với Triệu cũng như người trong một nhà, hoạn nạn nên cứu giúp nhau. Đại vương quên cái nghĩa ngày xưa, mà công tử biết cứu nạn người cùng nhà. May mà đánh được quân Tần, giữ gìn được nước Triệu, uy danh của đại vương lừng lẫy khắp mọi nơi, thiếp đây dù phải phân thây làm muôn mảnh cũng được vui long. Nay nếu bắt hết gia quyến và giết hết tân khách của Tín Lăng quân đi, nếu Tín Lăng quân mà thua trận thì cam chịu tội, nhưng ngộ mà Tín Lăng quân thắng trận thì lúc ấy đại vương sẽ xử trí như thế nào?

    Vua Ngụy ngẫm nghĩ hồi lâu, hơi nguôi cơn giận, hỏi rằng:

    - Mày lấy trộm binh phù, nhưng tất phải có kẻ mang binh phù đi?

    Như Cơ nói:

    - Kẻ đem đi là Nhan An.

    Vua Ngụy sai tả hữu trói Nhan An giải đến, hỏi rằng:

    - Sao mày dám mang binh phù đưa cho Tín Lăng quân?

    Nhan An nói:

    - Kẻ nô tì này chẳng biết cái gì là binh phù cả.

    Như Cơ nhìn Nhan An nói rằng:

    - Hôm trước ta sai mày đem chiếc hộp hoa thêu ra cho Tín Lăng phu nhân, trong hộp đựng binh phù đấy!

    Nhan an hiểu ý liền khóc oà lên, nói rằng:

    - Phu nhân sai bảo gì, khi nào tôi dám không tuân, tôi thấy cái hộp gói bọc mấy lần rất kỹ, vẫn tưởng là hộp hoa, ai ngờ trong lại đựng cái ấy, thực phu nhân làm tôi chết oan!

    Như Cơ cũng khóc nói rằng:

    - Thiếp có tội xin một mìinh cam chịu, không muốn để lụy đến người khác!

    Vua Ngụy thét cở trói cho Nhan An, đem giam vào ngục, Như Cơ thì bị đày vào lãnh cung; một mặt sai dò tin Tín Lăng quân xem được thua thế nào rồi sẽ định đoạt sau. Được hơn hai tháng, Vệ Khánh đem quân về triều, dâng nộp binh phù tâu rằng:

    - Tín Lăng quân đại thắng quân Tần, không dám về nước, nên ở lại Triệu, gửi lời về tâu đại vương, ngày khác sẽ về nhận tội!

    Vua Ngụy hỏi tình hình giao binh. Vệ Khánh thuật hết một lượt. Quần thần đều la bái hô vạn tuế. Vua Ngụy cả mừng, liền truyền gọi Như Cơ ở lãnh cung ra, cho Nhan An ra khỏi ngục, đều được miễn tội. Như Cơ tạ ân xong tâu rằng:

    - Cứu Triệu thành công, khiến nước Tần sợ oai đại vương, vua Triệu phải mang ân đại vương, đều là công của Tín Lăng quân. Tín Lăng quân là trường thành của nước, là tôn khí của nhà, há nên bỏ ở nước ngoài, xin đại vương sai sứ triệu về nước, một là để tỏ tình yêu người thân thích, hai là tỏ nghĩa tôn người tài.

    Vua Ngụy nói:

    - Hắn được miễn tội đã đủ, lại còn dám kể công ư?

    Rồi truyền những bổng lộc ở ấp phong của Tín Lăng quân lại trao trả cho gia quyến chi dung, chứ không cho đón về nước.

    Lại nói vua Tần thua trận về nước, thái tử An Quốc quân đem vương tôn Tử Sở ra đón ở ngoài thành, đều tâu Lã Bất Vi là người giỏi, vua Tần phong làm khách khanh, cấp cho ấp ăn lộc nghìn nốc nhà. Vua Tần nghe Trịnh An Bình hàng Ngụy, thì cả giận, bắt giết cả họ. Trịnh An Bình là người của thừa tướng Phạm Chuy tiến cử. Theo phép nước Tần hễ ai tiến cử người không ra gì, thì cũng phải chịu tội như người được tiến cử. Nay Trịnh An Bình phản Tần hàng Ngụy, đã phải giết cả họ rồi, theo như phép trên, Phạm Chuy tất phải chịu cùng tội, Phạm Chuy bèn nằm trên cỏ khô để đợi tội.​
     
Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.

Thành viên đang xem bài viết (Users: 0, Guests: 0)